Chương 1

Cái chết đi cùng với họ, nhưng chỉ một người duy nhất trong thủy thủ đoàn  biết điều đó. Cũng chính vì nó mà hắn ta đã bước chân lên con tàu này, rình mò  để chờ cơ hội.
Gã đâu thèm quan tâm đến tất cả những vàng bạc, những bức tranh quý  hiếm, những đồ nữ trang, những thứ lụa tuyệt đẹp ngày nào đã trang điểm cho hằng sa số những người đàn bà Hồi giáo. Gã chỉ muốn với tay tới một vật duy  nhất!
Người đàn ông đó tự xưng là Malraux, nhưng đó không phải là tên thật của  gã. Tên thật này không một ai trên tàu được biết, và gã cũng sẽ không bao giờ nói cho nghe. Gã phải giữ mọi việc trong vòng bí mật tuyệt đối. Mà khi mọi  việc đã qua đi, người ta sẽ lại càng không dám thốt lên lời nào.
Hiện gã đàn ông vẫn còn nằm trên võng, trong căn phòng bên dưới boong  tàu. Xung quanh gã là một bầu không khí ngột ngạt, nồng nặc, đặc quánh đến cả những con ruồi béo phị cũng ngừng bay, tìm chỗ nghỉ. Chẳng ai biết chúng xuất  phát từ đâu, nhưng loài côn trùng quỷ quyệt đã tìm được đường đi riêng và bây  giờ đang hiện diện nơi đây như muôn vàn đốm nhỏ óng ánh.
Malraux nghĩ tới việc con tàu này tới một lúc nào đó sẽ sang với Tân Thế Giới, để toàn bộ của cải châu báu của dòng đạo Templer được đưa về nơi an toàn. Khác với tại châu Âu, dòng đạo Templer không bị những dòng đạo khác ở Mỹ truy đuổi và tàn sát. Ở lục địa già, cứ mỗi khi ló mặt ra là thành viên của  nhóm Templer đều biết điều duy nhất đang chờ họ là tra tấn, nhà giam và cái  chết.
Gã đâu có muốn đi cùng con tàu này tới tận Tân Thế Giới. Gã đã lên thuyền  tại Genua và họ đã vui vẻ đón nhận gã, bởi đa số thủy thủ đều e ngại cảnh cô  đơn trên con đường dài vượt đại dương. Những con đường phủ đầy những cơn  bão khủng khiếp, cái khát, cái nóng thiêu đốt dưới mặt trời đổ lửa, bệnh tật và  cái chết. Chỉ những người đàn ông đặc biệt dũng cảm hoặc những người đàn ông chẳng còn gì để mất mới tham gia những chuyến đi nguy hiểm như thế này. Bản thân Malraux không biết mình thuộc nhóm người nào. Vì thế mà gã đàn  ông đã tự tưởng tượng ra một nhóm người thứ ba và xếp hắn vào đó.
Đoạn đường từ Genua tới trạm giữa Marseile kéo dài vài ngày, bởi đầu tiên họ phải đi ngược chiều gió thổi từ hướng Tây hoặc Tây nam. Trong khoảng thời  gian này, nhất định gã phải đạt được mục đích của mình.
Họ đã đi dọc bờ biển này đến hai ngày rồi, nhưng không bao giờ vào gần bờ tới mức người trên bờ có thể nhìn thấy. Lang thang trong vùng nước này chẳng  phải là không nguy hiểm, đặc biệt đối với một con tàu có in hình cây thập tự Templer trên cánh buồm.
Lẽ ra phải quét vôi lên trên cây thập tự đó, nhưng lòng tự hào của những  người trên tàu không cho phép. Thay vào đó, họ dự định vào vịnh Marseile  trong đêm và một số người trong họ sẽ lên bờ ngay trong đêm đó để né tránh  bàn tay truy lùng của Giáo hoàng và các vị giám mục Thiên Chúa giáo cũng  như của cảnh sát ngoài đời. Tất cả những nhóm người đó đều rất muốn chiếm  kho báu của dòng đạo Templer, bởi tất cả đều tham lam và đều đang sắp phá  sản.
Chuyện đó chẳng khiến gã đàn ông mảy may quan tâm tới. Gã chỉ biết đến  một mục tiêu duy nhất. Gã cũng sẻ biến mất tại Marseile, sẽ trà trộn vào đám người trên bến cảng để rồi chìm xuống không để lại một vết tích, như một con  chuột lẫn vào trong hang sâu tăm tối.
Mặt biển tương đối yên lặng. Gã vừa thực hiện xong ca gác của mình. Ca  gác tới sẽ chỉ bắt đầu khi màn đêm buông xuống nhưng sẽ có lượng người canh  chừng gấp đôi. Thế nên dù có màn bao bọc của bóng đêm, đi tìm vật thể mà gã mong muốn vào thời điểm đó sẽ nguy hiểm hơn. Gã quyết định thực hiện kế hoạch dưới ánh sáng ban ngày.
Rất nhiều thủy thủ trên tàu không biết những gì đang được chứa trong những  hòm rương trông rất đỗi bình thường đó. Người ta nói với họ rằng đó là thực  phẩm và họ tin ngay lập tức.
Nhưng Malraux thì không.
Tỉnh như sáo, gã nằm thức trên võng trong khi những thủy thủ khác đều ngủ say. Gã nghe tiếng họ ngáy và cảm thấy ghê tởm. Đáng tiếc, gã phải chờ. Gã  biết có một khoảng thời gian kể cả những người lính đang canh cũng sẽ giảm  tập trung và ngủ nhiều hơn là gác.
Con tàu khẽ chòng chành. Những chuyển động truyền vào võng. Tiếng gỗ cọt kẹt, con tàu đang rên lên, cứ như thế nó đang khổ sở khủng khiếp vì chuyến  đi này. Nếu cơn bão nổi lên thì không biết nó còn rên siết tới mức nào nữa?
Malraux nhìn trân trân lên trần phòng, làm như trên đó có treo một tấm  gương cho hắn soi. Quả thật, hắn đang nghĩ tới ngoại hình của mình. Những ai  gặp hắn thường tỏ vẻ coi thường khi thấy hắn quá nhỏ bé. Họ đâu có để ý đến  cấu tạo cơ thể hắn. Gã có rất nhiều cơ bắp, rất khỏe mạnh và trong một vài tháng trời sống tại xứ Osamanen, gã đã học được nghệ thuật đấu vật. Một khi đã  tóm được ai vào trong vòng tay, hắn có thể giữ nguyên người này ở tư thế đó  thật lâu cho tới khi anh ta chết vì ngộp thở. Hắn đã thử nghiệm điều đó rất nhiều  lần, rồi bình tĩnh bỏ đi, để lại những thân hình mất hết sức sống.
Đó là một thời gian tràn đầy bạo lực, chỉ có những kẻ nhanh hơn và mạnh  hơn mới sống sót.
Những người khác vẫn đang ngủ.
Họ ú ớ, họ ngáy, một số người nói lảm nhảm trong mơ. Những người khác lại rên rỉ, một số vật vã và một số làm tất cả những điều đó. Cái mùi tỏa ra từ người họ thật ghê tởm. Nó bốc lên mùi mồ hôi, mùi đàn ông, mùi ghét bẩn và Malraux cũng biết trên con tàu này có quá đủ mọi loại côn trùng để truyền bệnh  từ người này sang người khác.
Hắn chờ thêm một vài phút nữa, rồi gạt cái võng sang bên. Việc đứng dậy  thật ra không khó, nhưng những người thủy thủ nằm quá sát nhau nên nếu  không chú ý, hắm sẽ đạp phải họ khi nhảy từ trên võng xuống.
Hắn cẩn thận từng bước một. Linh cảm cho hắn biết bây giờ là lúc hắn có thể ra tay. Không chờ đợi nữa, bởi đột ngột hắn có cảm giác như con tàu này là con  tàu bị nguyền rủa. Nếu hắn không lầm, thì hắn thậm chí vừa thoáng nhìn thấy  một con chuột béo phì – cái thứ rác rưởi báo trước thảm họa.
Những kẻ thù đã biết người thuộc dòng đạo Templer muốn bỏ trốn và đã tụ tập những con tàu của mình lại. Cũng đã không ít người bỏ thân nơi đáy đại  dương.
Malraux chạm chân được xuống đất. Đầu tiên, hắn nhướng đầu ngón chân  cái, rồi hắn đặt cả bàn chân. Hắn đi một đôi giầy rất nhẹ bằng da và vải. Hắn có  thể chuyển động mà không gây ra một âm thanh nào. Tất cả những món đồ lặt  vặt quanh đây chẳng bõ cho hắn mang theo, đằng nào hắn cũng chỉ lôi chúng  lên thuyền cho mục đích ngụy trang. Toàn đồ chẳng mấy giá trị. Thoáng nhẩm  lại, gã đàn ông tin chắc hắn hành động đúng và thời điểm này là lúc ra tay thực  hiện kế hoạch. Chỉ chờ thêm vài tiếng đồng hồ nữa thôi, có thể mọi việc đã trở thành quá muộn.
Căn phòng hẹp, đầy những người ngủ và rất u tối, mặc dù có hai ngọn đèn cháy ở khoảng tường trước mặt.
Gã đàn ông bò trên cả tứ chi. Cách ra cửa tốt nhất là chịu khó chui xuống  bên dưới những chiếc võng. Chúng treo trên đầu hắn như những tấm lưới nặng  nề. Gã đàn ông nghe âm thanh của những người đang ngủ. Nhiều cái võng đã  oằn xuống dưới sức nặng của người nằm, đến độ quệt cả vào tóc gã.
Con đường dẫn vào phòng chứa đồ được hai người lính canh chừng. Họ có  vũ khí, thế nhưng Malraux không sợ. Xử lý hai người này là chuyện dễ dàng.  Hắn lại có lợi thế là đã quen biết họ trong mấy ngày qua.
Con tàu chòng chành chầm chậm bước theo những đợt sóng dài. Gã đàn ông  có mái tóc đen và bộ ria lởm chởm lẹ làng chuyển động theo nhịp sóng. Không  khí thật ngột ngạt. Cả gương mặt và toàn bộ cơ thể hắn bây giờ phủ một lớp mồ hôi rất dày. Gã cũng bốc mùi chẳng khác gì những người đàn ông đang ngủ kia.
Gã bò về phía cửa.
Tới bên ngưỡng cửa, gã đàn ông đứng lên, chạy đến bên một cửa sổ nhỏ,  ném một cái nhìn về hướng Bắc – hướng đó là bờ biển nước Pháp.
Gã chưa nhìn thấy nó, nhưng gã có thể linh cảm ra nó, bởi có những đường  viền mờ mờ đang hiện lên dưới ánh mặt trời gay gắt. Gã sẽ dễ dàng vượt qua  được khoảng cách này, nó hoàn toàn chẳng thành vấn đề đối với người bơi giỏi  như gã. Ngoài ra, hướng sóng cũng đang đổ về biển và đang có một cơn gió nhè  nhẹ thổi tới từ hướng Nam. Những kẻ khéo léo như gã có thể để cho sóng mang  mình lên, và thậm chí còn nghỉ ngơi trong khi bơi.
Mọi việc diễn ra trôi chảy. Khi cẩn thận mở cánh cửa ra, hắn chẳng nhìn thấy  người lính gác nào. Cửa gỗ có kêu lên cọt kẹt đó, nhưng chắc đám đàn ông đã  quá mệt trong một ca gác quá dài.
Hắn lẻn ra ngoài.
Ngay lập tức, hắn cảm nhận được một luồn gió thổi thẳng vào mặt. Nó thoáng và lạnh hơn, gây cảm giác dễ chịu, nhưng vẫn chưa đủ mạnh để xua khô  lớp mồ hôi dày trên mặt hắn.
Từ bên trên, ánh nắng len lỏi qua những kẻ hở trên những tấm ván, rọi vào không gian trong bụng chiếc tàu buồm và vẽ lên trên mặt đất bẩn thỉu những  hình ngoằn ngoèo sáng màu, nơi có vô vàn hạt bụi nhỏ đang nhảy múa.
Gã đàn ông biết gã phải đi về đâu. Những ngăn kho lớn nằm ở giữa và đuôi  con tàu. Nơi gã muốn tới là một phòng nhỏ nằm ở dãy kho đầu.
Con tàu đã được tạo dựng rất tiện lợi. Ở giữa có một lối đi chia phía dưới  boong tàu ra làm hai nửa. Bên phải và bên trái là những dãy nhà kho chất đầy  hàng.
Trước khi ra tới được lối đi ở giữa đó, gã đàn ông phải mở thêm một cánh  cửa khác. Cánh cửa này gắn vào một vách ngăn ngang và đằng sau cánh cửa có hai người lính gác đang ngồi.
Gã biết rõ như vậy. Gã đã chuẩn bị thông tin từ trước. Tình hình hôm nay  chắc chắn cũng sẽ như thế.
Malraux cất bước đi. Lẹ làng khéo léo như một tên ăn trộm. Hắn không  mang vũ khí, nhưng đôi bàn tay với những ngón tay ngắn khỏe không ngừng  chuyển động. Không được để cho chúng trở thành đờ đẫn, dại khờ! Những  người dân ở xứ Osmanen đã dạy cho hắn một số mánh khóe, có thể dùng tay  trần bóp chết người.
Bầu không khí u ám trong bụng con tàu như một làn khói cô đặc. Một bầu  không khí không bao giờ thật sự yên lặng. Mặc dù hắn không nghe thấy tiếng  bước chân người, nhưng tiếng sóng vỗ không ngừng vào vách gỗ tạo nên một  nền âm thanh luôn hiện hữu. Cả những ván gỗ thật ra cũng luôn phát âm thanh  và chuyển động. Chúng rên rỉ như những tù nhân. Đứng ở đây, gã không nghe thấy tiếng reo ù ù của cánh buồm, tiếng thổi phần phật của vải, vốn được một số người coi là bí hiểm. Chỉ thỉnh thoảng gã mới nhận ra âm thanh trầm đục của những bước chân chạy trên boong. Thỉnh thoảng hắn lại nghe tiếng ra lệnh vẳng  nhẹ từ bên trên xuống, hoặc một tiếng thét, một câu chửi rủa. Thế thôi.
Có cái gì vút qua mặt hắn như một bàn tay hết sức dịu dàng. Đó là đám lưới  nhện đang phủ lòng thòng từ trên trần phòng xuống. Nhện ở đây không lo chết  đói. Thỉnh thoảng lại có những con ruồi béo phì sa vào lưới.
Đến bên buồng gác, Malraux dừng chân. Hắn biết hắn chỉ có một mình, mặc  dù vậy hắn vẫn cẩn thận nhìn quanh. Gã đàn ông không phát hiện ra ai. Gã cũng  không nghe thấy âm thanh nào khả nghi. Trong một góc phòng có những cây  bạch lạp đang cháy. Chúng chảy ra, trông như những khúc xương da trắng đã bị vứt đi.
Đằng sau vách ngăn ngang là hai người lính gác. Đó không phải là thủy thủ,  mà là những người lính được thuê về đây. Họ không quan tâm tới chuyện các  giáo phái và họ chỉ chấp nhận tiền lương bằng vàng. Trong phòng họ ngồi bây  giờ không tối hẳn, bởi ánh sáng đang lọt vào qua những khe hở nhỏ trên những  vách gỗ. Mặc dù vậy, căn phòng vẫn gây ấn tượng rất u ám, như đang có vô vàn  những bóng đêm nhảy múa trên nền phòng.
Malraux gõ cửa.
Gã không gõ chậm hay gõ khẽ. Gã đập thật mạnh cả nắm đấm vào cánh cửa  gỗ, đòi hỏi, yêu cầu, để hai người lính trong kia biết có người đang muốn vào  trong.
Đầu tiên, không có phản ứng. Thế rồi hắn nghe thấy một tiếng động. Thanh  chắn bằng gỗ ở phía trong được kéo sang bên. Cánh cửa mở. Nó vừa mở vừa  kêu lên một tiếng kêu tởm lợm khiến Malraux nổi da gà. Quầng sáng của một  ngọn đèn dầu chiếu vào hắn, người lính gác đang giơ cao cây đèn, giơ thẳng lên  trên đầu khiến những bóng đèn phủ lên mặt anh ta.
Malraux không nhìn thấy mặt người lính gác bởi nó đã chìm xuống trong cái  hỗn hợp giữa bóng đen và ánh đèn. Nhưng hắn nghe được giọng anh ta.
- Anh muốn gì?
- Tôi phải nói chuyện với các anh.
- Thế thì nói đi.
- Không phải ở đây. Đừng để cho ai nghe thấy tiếng chúng ta. Chúng ta… ta  phải nói chuyện riêng.
- Tại sao?
Người lái tàu cử tôi xuống. Anh ấy… anh ấy có một thông điệp gửi riêng cho  hai anh. Mọi việc đã được thống nhất với thuyền trưởng. Vàng, rất nhiều vàng.  Kể cả những đồ nữ trang quý giá.
Người đàn ông chần chừ. Malraux nghe thấy tiếng anh thở. Cả hai khái niệm  “vàng và đồ nữ trang” luôn dễ dàng khiến cho những tên lính đánh thuê dỏng tai lên. Họ không biết những cái hòm kia đang chứa những gì. Họ chỉ nhận nhiệm  vụ canh giữ chúng, tất cả những chuyện khác họ không quan tâm tới.
- Vào đi!
Người lính gác thứ hai lên tiếng. Anh ta ngồi bên một chiếc ghế thấp, ở phía bên kia quầng sáng nên Malraux không nhìn ra anh ta.
- Có chuyện gì? – Anh ta hỏi.
- Anh này mang thông tin lại.
- Của ai?
- Của người lái thuyền. – Malraux nói nhanh. – Chuyện này dính dáng đến  rất nhiều vàng, có lẽ nên cân nhắc.
Giờ thì người lính gác thứ hai cũng đứng dậy. Nỗi tham lam lóe sáng trên con mắt. Cả hai người đã bỏ mũ xuống, tấm khiên che ngực cũng vậy. Không  khí trong lòng thuyền quá nóng, họ đã cởi chúng ta cho thoải mái.
- Nói cho tôi nghe đi. – Tên lính có vẻ háo hức.
Malraux vẫn còn chờ đợi. Họ có hai người. Gã phải tìm cách phân tán tư tưởng họ. Mà họ lại đang mang vũ khí. Những lưỡi giáo của họ ánh lên trong  ánh sáng của lưỡi lửa bập bùng từ đĩa dầu.
Gã đàn ông thè lưỡi liếm môi, xin một ngụm nước.
- Chúng tôi không có. – Một tên nói.
- Có chứ, tôi biết là…
- Cho nó đi! – Người đàn ông đã mở cửa ban nãy vụt nói.
- Tùy anh.
Người đàn ông thứ hai bước vào phần trong của căn phòng tăm tối. Chỉ còn  một người ở lại.
Malraux mỉm cười. Người đàn ông đó đứng bên cạnh gã, mũi giáo đang chỉa  xuống đất. Kẻ lẻn vào chờ thời điểm thích hợp. Khi nghe thấy tiếng nước chảy,  hắn biết là bây giờ nước từ trong một thùng rất lớn đang được chia sang thùng  nhỏ.
Gã ra đòn nhanh hơn chớp.
Người lính gác hoàn toàn bất ngờ khi một khuỷu tay cứng như đá thúc mạnh  vào giữa thân thể anh. Anh gục xuống, cảm giác khó chịu trào lên, khiến anh  không kịp kêu ngay lập tức. Anh ngã người về phía trước.
Malraux chỉ chờ có vậy. Gã đấm hai lần vào gáy người đàn ông.
Người lính gác xỉu xuống. Malraux đã giành lấy cái giáo trong tay anh.
Gã đàn ông lại mỉm cười lạnh lùng đi về phía trước, đến gần bóng tối.
Tiếng bước chân vang lên. Người lính gác thứ hai quay trở lại. Chắc chắn  anh ta đang cầm một bình đầy nước. Anh ta không mang vũ khí, và không biết  là Malraux đang chờ cho tới lúc nhìn thấy hình dáng anh hiện ra trong quầng  tối.
Gã lấy đà, và phóng cây giáo nặng.
Người lính gác hoàn toàn bị bất ngờ. Malraux không nhìn được rõ chi tiết.  Gã chỉ nhìn thấy dáng người đó còn giật sang bên trái rồi sang bên phải một  thoáng trong bóng tối, cái bình đựng nước đập xuống dưới đất. Thế rồi cả thân hình người đàn ông cũng đập xuống. Kêu lên một tiếng trầm đục, thân người đó  giáng xuống nền phòng rồi không động đậy nữa.
Malraux hài lòng. Gã đã chuẩn bị rất tốt và bây giờ gã biết rất chính xác, gã có thể tìm phòng đựng đồ vật ở chỗ nào. Những cánh cửa thậm chí không được  đảm bảo bằng khóa hay dây xích. Hắn chỉ cần dùng một thân gỗ nặng và đẩy  chúng sang bên.
Sau khi đã làm việc đó xong, gã quay trở lại, lấy cây đèn dầu. Gã không  quan tâm đến xác chết, mà cũng chẳng thèm ném một cái nhìn xuống thân  người đang ngất.
Người đàn ông không động đậy.
Malraux đoán chắc, bây giờ gã sẽ không bị ai cản trở. Gã đang rất hồi hộp. Đôi môi gã run rẩy, hai đầu gối như đang mềm ra khi bước vào căn phòng chứa  châu báu, đặt cây đèn sang một bên, lấy một hơi thật sâu và đưa mắt nhìn  quanh.
Nó có ở đây không?
Có!
Cái hòm đó ở ngay bên cạnh hắn. Gã đàn ông thì thào:
- Giờ thì ta sẽ ra tay…