Nguyễn Văn Của phỏng dịch
Chương 1
Tai nạn trên không

Hẳn mọi người còn nhớ cơn bão khủng khiếp xảy ra vào năm 1865. Trận cuồng phong đã hoành hành không ngớt từ ngày 18 đến ngày 26 tháng ba và sức tàn phá thật là ghê gớm: khắp châu Mỹ, châu Âu, châu Á, bao trùm cả một vùng rộng một ngàn tám trăm hải lý, kéo dài từ hướng đông bắc tới tận xích đạo.
Hậu quả do bão gây ra thật khủng khiếp. Tàu bè bị sóng đập nát, thành phố bị tàn phá, hàng ngàn người bị những trận lốc xoáy cuốn đi hoặc nhận chìm xuống lòng biển.
Khi trên đất liền và trên biển đang chịu đựng trận thiên tai này thì một thảm kịch không kém phần khủng khiếp cũng đã xảy ra trên không do bão tố gây nên.
Trong những ngày tháng ba năm 1865, trận cuồng phong đã cuốn phăng một quả khí cầu mà trên đó có năm người khách đang viễn du, nhồi nó lên tận đỉnh cột lốc như một quả bóng, rồi xoáy hút nó theo.
Trên giỏ treo của khí cầu có năm người. Ta có thể loáng thoáng nhận ra họ trong làn sương dày đặc quyện lẫn bụi nước đại dương.
Lúc này các nhà du hành đang ở trong giỏ treo của khí cầu không thể biết được họ đã vượt một chặng đường bao xa và khí cầu của họ bị cuốn đi đâu, họ không có một cột mốc nào để xác định vị trí cả. Mãi đến khi khí cầu vùn vụt lao xuống họ mới hay mình đang bay trên những lớp sóng biển hung dữ, và hiểu ra mình đang gặp nguy hiểm chết người.
Nhưng khi họ vứt hết những vật nặng trong giỏ treo của khí cầu như súng đạn, lương thực thì khí cầu lại vọt lên.
Ngày hôm sau, khi bão bắt đầu yên cũng là lúc vỏ khí cầu lại dài ra, co rúm lại và họ xuống liên tục. Rõ ràng là không thể nào giữ cho khí cầu thăng bằng trên cao được nữa, vì nó không còn đủ hơi gas. Thế là cái chết đang sẵn sàng tìm đến họ!
Bên dưới không phải là đất liền, mà là biển cả mênh mông, không có cù lao, không đảo nổi, không một dải đất để neo khí cầu.
Đến hai giờ chiều ngày 24, khí cầu chỉ còn cách mặt đại dương khoảng bốn năm bộ. Đúng lúc ấy một tiếng nói quả cảm vang lên:
- Vứt bỏ hết mọi thứ rồi chứ?
- Chưa! Còn lại vàng, mười ngàn đồng Franc cả thảy! – một giọng nói khác kiên quyết nói.
Ngay tức khắc, chiếc bao tải nặng đựng tiền rơi vụt xuống đại dương.
- Còn vật gì để quẳng đi được không?
- Hết rồi!
- Mọi người hãy bám lấy lưới. Chúng ta sẽ vứt cái giỏ treo xuống biển.
Thật vậy, chỉ còn cách cuối cùng và duy nhất ấy là có khả năng làm cho khí cầu nhẹ bớt mà thôi. Những sợi dây buộc nối vào vành đai lưới đã bị cắt đứt, và đến khi chiếc giỏ tách rời ra, khinh khí cầu bốc lên trên mực nước biển hai ngàn bộ.
Năm nhà du hành leo lên vành đai và bây giờ họ trụ trên các mắt lưới, tay bám chặt vào những sợi dây. Phía bên dưới, đại dương đang gầm thét. Đến bốn giờ chiều, khí cầu chỉ còn cách đại dương năm trăm bộ.
Bỗng con chó mà các nhà du hành mang theo sủa vang. Nó cũng đang ở bên dưới khí cầu, cạnh viên kỹ sư chủ nhân của nó.
- Con Top đã trông thấy cái gì rồi! – một người trong số du khách kêu lên.
Và liền ngay đó có tiếng reo vang:
- Đất liền! Đất liền!
Quả thật, trước mặt các du khách xuất hiện một bờ biển khá cao cách họ khoảng ba mươi hải lý. Muốn đến đó, khí cầu cần bay ít nhất một giờ, với điều kiện là gió không đổi hướng. Nếu hơi gas bị xì hết trước thời hạn đó thì sao?
Thật là một câu hỏi khủng khiếp! Các du khách bất hạnh đã cố phân biệt rõ mặt đất phía bên dưới. Họ không biết đó là đảo hay đất liền. Nhưng dù trước mặt họ là một hòn đảo hoang, thì cũng cần phải đến được đó bằng bất cứ giá nào.
Nửa giờ trôi qua, họ chỉ còn cách mặt đất không quá một hải lý, nhưng hơi gas trong khí cầu hầu như đã cạn kiệt, chỉ còn chút ít ở phần trên. Các du khách bíu chặt vào lưới và trọng lượng của họ quá tải đối với khí cầu.
Vỏ khí cầu bị gấp khúc, gió thổi trôi trên mặt nước như một cái thuyền buồm, chỉ còn cách bờ hai cabeltov nữa thôi. Nhưng bỗng bốn du khách bật lên tiếng kêu, và quả khí cầu bị mất hết sức nâng lại bất ngờ vọt lên cao khoảng một ngàn tám trăm bộ. Đến đây, nó lại sa vào một vùng không khí loãng và bị gió cuốn đi, không phải vào bờ, mà hầu như song song với bờ. Hai phút sau thì gió đổi hướng và quả cầu bị hất lên bờ cát.
Các du khách giúp nhau chui ra khỏi lớp lưới bao quanh họ. Quả khí cầu, sau khi thoát khỏi tình trạng quá tải, vụt bay lên khi gặp cơn gió đầu tiên, rồi biến mất trong bầu trời bao la. Trên giỏ treo của khí cầu trước đó có năm nhà du hành và một con chó, nhưng khi xuống mặt đất chỉ còn có bốn người.
Người thứ năm chắc đã bị sóng cuốn đi mất. Nhờ vậy mà trọng lượng của khí cầu nhẹ bớt khiến nó vọt lên lần cuối cùng và sau vài phút nó bay được vào bờ.
Những người bị tai nạn trên không vừa đặt chân xuống mặt đất, không thấy người thứ năm đâu, đều thốt lên:
- Có lẽ ông ấy tự nguyện rời khỏi khí cầu để cứu chúng ta đấy. Bây giờ thì ông ấy đang ở trên biển và định bơi vào bờ. Phải tìm ông ta!

°

° °

Những người bị trận cuồng phong quẳng lên bờ biển xa xăm nào đó không phải là những nhà du hành chuyên nghiệp hay những người yêu thích du ngoạn trên không. Họ bị bắt làm tù binh trong cuộc nội chiến ở Mỹ và tinh thần dũng cảm chân chính đã thôi thúc họ chạy trốn kẻ thù trong những hoàn c>- Cụ thể là gì, anh bạn của tôi?

- Ngài hãy cho phép tôi bơi ra tàu bọn cướp để xem quân số của đoàn thuỷ thủ.
- Nhưng, Ayrton! – viên kỹ sư phản đối – điều đó có nghĩa là anh phải liều mình đấy.
- Thế tại sao lại không, thưa ngài Smith?
- Tại vì anh hành động như vậy là còn cao hơn “làm tròn nghĩa vụ của mình” nữa.
- Thì tôi cũng cần phải làm nhiều hơn nghĩa vụ của mình nữa chứ! – Ayrton trả lời.
- Anh muốn đi ra tàu bằng thuyền à? – Gédéon Spilett hỏi.
- Không, tôi muốn bơi. Người dễ lách qua những nơi mà thuyền không qua được.
- Nhưng tôi nhắc lại là sẽ nguy hiểm cho tính mạng anh đấy. – viên kỹ sư nhận xét – Và anh biết phải bơi hơn một hải lí đó chứ?
- Thì chuyện ấy cũng đâu có sao. – Ayrton nói – Tôi xin ngài cho phép, coi đó như một ân huệ, thừa ngài Smith. Đối với tôi, có thể đây là khả năng duy nhất để lấy lại cho mình lòng tự trọng.
- Thôi được, anh hãy đi đi, Ayrton! – viên kỹ sư nói. Ông hiểu rằng sự từ chối của ông sẽ làm cho kẻ tội phạm đã trở thành người lương thiện đau khổ vô cùng.
- Tôi sẽ đi cùng với anh! – bỗng Pencroff đề nghị.
Chiếc thuyền nhanh chóng cập vào đảo nhỏ, Pencroff nấp vào giữa các vách đá đợi bạn trở về. Trong khi đó Ayrton nhẹ nhàng, thận trọng bơi về phía chiếc tàu. Nửa giờ sau, anh ta tóm được dây cột buồm và leo lên tàu an toàn. Gặp chỗ phơi quần áo của thuỷ thủ anh xỏ luôn một cái và lựa tư thế thuận tiện anh chăm chú theo dõi.
Bọn trên tàu chưa ngủ. Ayrton nghe rõ tiếng chúng hát, hò, cười cợt ầm ĩ. Bỗng mấy lời ngắt quãng lẫn với những tiếng chửi tục đã thu hút sự chú ý của Ayrton.
- Cánh ta kiếm được chiếc tàu thật là tuyệt.
- Ừ, nó chạy không đến nỗi tồi. Gọi nó là tàu “Nhanh” cũng chẳng phải quá đáng!
- Thách cả hạm đội Norfolk đuổi coi!
- Thuyền trưởng Bob Harvey muôn năm!
Ayrton nhớ lại chẳng khó gì cái tên Bob Harvey. Chính hắn đã từng là kẻ đồng loã với anh ta từ hồi ở Australia. Đó là một tên liều lĩnh, bạt mạng. Bọn Harvey đã chiếm đoạt con tàu này ở vùng đảo gần biển Norfolk cùng với toàn bộ hàng hoá, vũ khí, đạn dược, dụng cụ, đồ dùng chuẩn bị chở đến một trong những đảo thuộc Sandwich. Đoàn thuỷ thủ hiện nay của hắn đều là những tên tù khổ sai người Anh vượt ngục ở Norfolk.
Khoảng một giờ sau, khi quá nửa bọn cướp đã ngủ, Ayrton không do dự đột nhập lên boong tàu lúc ấy đèn đã tắt và trời tối như bưng. Anh thận trọng luồn lách giữa bọn cướp, anh đi khắp tàu và xác định được rằng tàu “Nhanh” có bốn khẩu đại bác hiện đại, sử dụng rất thuận tiện và có sức công phá mạnh. Bây giờ Ayrton có thể trở về với một lương tâm trong sáng nhờ hoàn thành công việc trinh sát. Nhưng, một ý nghĩ dũng cảm bỗng thoáng qua đầu Ayrton – anh đã nói với viên kỹ sư rằng anh sẽ làm tròn nghĩa vụ, đúng hơn anh sẽ làm nhiều hơn mức nghĩa vụ đòi hỏi. Phải, anh sẽ hi sinh cuộc đời mình, nhưng hòn đảo và những người ngụ cư phải được cứu thoát.
Ayrton không lưỡng lự nữa. Anh tìm đến kho thuốc súng thường được bố trí ở đuôi tàu chẳng khó khăn gì. Trên một chiếc tàu cướp biển nhất định phải có lượng thuốc súng dự trữ và chỉ cần một tia lửa là đủ làm cho nó nổ tung trong nháy mắt.
Ayrton thận trọng đi xuống căn phòng nối liền với boong tàu, nơi mà bọn cướp biển say rượu nằm li bì. Gần cột buồm chính có ngọn đèn sáng, còn chung quanh là giá để gác các loại vũ khí.
Ayrton lấy một khẩu súng lục, biết chắc chắn là nó đã được nạp đạn. Bây giờ anh có thể thực hiện được kế hoạch huỷ diệt chiếc tàu, và lặng lẽ bò tới đuôi tàu, ở đó, ngay bên phải buồng lái là kho thuốc súng.
Chỉ còn việc phá cửa ra vào, và Ayrton đã cố nhẹ tay không gây lên tiếng động, nhưng hoàn thành việc đó đâu phải dễ dàng, bởi vì anh còn phải bẻ chiếc khoá treo. Tuy nhiên, với đôi tay hùng mạnh của Ayrton chiếc kháo cũng phải khuất phục, và cánh cửa bật mở.
Đúng lúc ấy, một cánh tay nặng nề hạ xuống vai Ayrton.
- Anh làm gì ở đây, hả anh bạn tử tế? – một giọng nói thô bạo phát ra ngay bên tai Ayrton, và một người to lớn cầm cây đèn pin rọi thẳng vào mặt anh.
Bất giác Ayrton lùi lại trước ánh đèn loé sáng. Anh nhận ra đó là tên đồng bọn của mình ngày trước, hắn chính là Bob Harvey. Nhưng Harvey không nhận ra anh, vì hắn tưởng anh đã chết từ lâu rồi.
- Mày làm gì ở đây? – Bob Harvey nhắc lại, túm lấy lưng quần Ayrton.
Ayrton không trả lời, hất mạnh tên đầu sỏ ra. Ayrton lao về phía câu thang dẫn lên boong tàu. Lúc chạy qua chiếc đèn Ayrton dùng báng súng đập vỡ nó đi, boong tàu lại chìm ngập trong bóng đêm, giúp cho việc chạy trốn của anh đỡ khó khăn hơn rất nhiều.
Sau đó, Ayrton nhảy qua mạn tàu và lao xuống biển. Anh bơi chưa được chục mét, một trận mưa đạn đã trút xuống anh, làn nước réo sôi sùng sục.
Pencroff, Cyrus Smith, nhà báo, Harbert và Nab đã trải qua biết bao xúc động khi nghe những tiếng súng vẳng đến tai họ! Họ chụp vũ khí, lao ra bờ, sẵn sàng tinh thần đẩy lùi quân thù.
Họ không hề có chút ảo tưởng nào, Ayrton rõ ràng đã bị sa vào tay bọn cướp và, lẽ dĩ nhiên, đã vĩnh biệt cuộc đời rồi. Có thể là bọn cướp biển đã quyết định lợi dụng ban đêm và sắp sửa đổ bộ lên bờ.
Cuối cùng, vào lúc mười hai giờ rưỡi đêm, con thuyền đã cập bến, trên đó có hai người ngồi. Những người ngụ cư dang rộng vòng tay ôm chặt Ayrton đang bị thương nhẹ ở vai, và Pencroff vẫn sống và nguyên vẹn.

°

° °

Đêm ấy trôi qua không có biến cố gì. Hòn đảo vẫn êm đềm, tưởng chừng như chiếc tàu cướp biển đã nhổ neo ra khơi.

Nhưng sáng hôm sau, sự việc hoàn toàn ngược lại, qua làn sương ban mai, những người i.
- Đúng! Đó là phần còn lại của một quả thuỷ lôi.
- Thuỷ lôi! – những người ngụ cư đồng thanh thốt lên.
- Thế ai đã đặt quả thuỷ lôi ấy? – Pencroff hỏi.
- Tôi chỉ có thể khẳng định một điều là không phải tôi! – Cyrus Smith trả lời – Nhưng sự thật đã rành rành, có ai đó đã đặt quả thuỷ lôi và tự các bạn hình dung được sức công phá của nó.

°

° °

Thế là mọi biến cố được giải thích bởi tiếng nổ của quả thuỷ lôi, Cyrus Smith không thể lầm được. Trong thời kì nội chiến ở Mỹ, ông đã nhiều lần chứng kiến tác dụng của loại vũ khí phá hoại kinh khủng này.

Phải, mọi chuyện đều trở nên rõ ràng, trừ một tình huống. Ở đâu xuất hiện quả thuỷ lôi ấy?
- Các bạn! – Cyrus Smith lên tiếng – Bây giờ khỏi phải nghi ngờ gì nữa, trên đảo có một người bí ẩn nào đó, có thể, cũng như chúng ta, người ấy là nạn nhân của một vụ đắm tàu. Tôi nói điều ấy cốt để cho Ayrton làm quen với những sự kiện huyền bí xảy ra ở đây trong hai năm qua. Ân nhân bí ẩn ấy đã từng nhiều lần cứu giúp chúng ta. Nhưng nhân vật ấy là ai thì tôi không làm sao biết được. Vì những lí do gì ông ta hành động và tại sao ông ta lại tránh chúng ta, điều ấy tôi cũng không thể hiểu nổi. Ayrton chịu ơn người đó với mức độ cũng ngang như tất cả chúng ta. Ân nhân ấy đã cứu tôi thoát khỏi những đợt sóng biển sau khi quả khí cầu bị tai nạn hất tôi xuống biển, cũng lại chính ông ta đã viết lá thư, bỏ vào chai thả xuống eo biển và bằng cách ấy báo cho chúng ta biết tình trạng nguy khốn của Ayrton. Tôi nói thêm rằng, chính ông ta đã kịp thời thả lên mũi Tìm thấy chiếc hòm đựng tất cả những dụng cụ mà chúng ta đặc biệt cần thiết; chính ông ta đã đốt lửa trên đỉnh núi để các bạn có thể về đến đảo, chính ông ta đã bắn con lợn rừng, và viên đạn chì từ súng của ông ấy bắn ra chúng ta đã tìm thấy trên mình con vật bị chúng ta giết; chính ông ta đã đặt quả thuỷ lôi trong eo biển để phá chiếc tàu của bọn hải tặc. Tóm lại, chúng ta chịu ơn con người bí ẩn ấy về tất cả những nghĩa cử cao thượng và ân huệ không giải thích nổi và không sao hiểu được.
- Cyrus thân mến, ngài hoàn toàn có lí! – Gédéon Spilett đáp lời – Vâng, ngài đã nói rất có lí rằng ở đâu đây trên đảo này có một người bí ẩn có sức mạnh hầu như siêu nhân và bấy lâu nay đã giúp ích chúng ta… Có thể là ông ấy bí mật theo dõi chúng ta qua cái giếng của Lâu đài Đá hoa cương và nhờ đó biết được mọi kế hoạch của chúng ta.
Những người có mặt không thể không đồng ý với ý kiến của nhà báo.
- Hoàn toàn đúng! – Cyrus Smith tiếp lời – không ai trong chúng ta nghi ngờ về sự tồn tại của một cư dân bí ẩn trên đảo. Tôi thừa nhận rằng ông ta có những phương tiện mà tạm thời con người chưa biết tới. Đây, lại thêm một điều bí ẩn nữa. Tiếp tục tôn trọng sự ẩn danh của con người độ lượng ấy, hay làm tất cả những gì có thể làm được để tìm ông ta. Tôi muốn biết ý kiến của các bạn về vấn đề này.
- Theo con, thưa ông chủ! – Nab thốt lên – Chúng ta có tìm hay không tìm con người ấy – điều đó không quan trọng. Khi cần tự bản thân ông ta sẽ lộ diện, chúng ta chẳng cần tìm ông ta làm gì.
- Nói rất hay, Nab! – Pencroff khen.
- Tôi hoàn toàn đồng ý với Nab! – Gédéon Spilett bắt đầu – Nhưng đó là cái cớ chưa đủ xác đáng để từ bỏ cuộc tìm kiếm. Chúng ta có tìm thấy hay không tìm thấy thì ít nhất chúng ta phải làm tròn nghĩa vụ của mình đối với ông ta.
- Còn cháu, chú bạn nhỏ, cháu có ý kiến gì không? – viên kỹ sư hỏi Harbert.
- Ôi! – Harbert kêu lên, mắt sáng rực – Cháu muốn được tạ ơn ông ấy đầu tiên là đã cứu ngài, thưa ngài Cyrus, còn sau đó thì cứu tất cả chúng ta!
- Nghĩ khá đấy, em trai bé bỏng ạ! – Pencroff đáp lại – Mọi người biết đó, tôi không có thói tò mò quá đáng, nhưng dẫu sao cũng sẵn sàng chịu mất một con mắt để được nhìn thấy con người kì diệu ấy.
- Còn ý kiến của anh thế nào, Ayrton? – viên kỹ sư hỏi.
- Thưa ngài Smith, tôi không biết nói gì nữa. Ngài đã quyết định điều gì thì mọi việc đều sẽ đúng và tốt cả. Nếu như ngài muốn tôi tham gia vào các cuộc tìm kiếm thì tôi sẽ không chậm trễ đi theo ngài.
- Rất cảm ơn anh, Ayrton. – Cyrus Smith trả lời – nhưng tôi lại muốn nhận được ở anh một câu trả lời thẳng thắn hơn. Anh là một người bạn, anh có đầy đủ quyền hạn như chúng tôi. Vì vậy, anh hãy nói cho chúng tôi biết anh nghĩ gì về việc này?
- Thưa ngài Smith, tôi cho rằng chúng ta có trách nhiệm làm tất cả những gì có thể làm để tìm ra ân nhân bí ẩn của chúng ta. – Ayrton trả lời – Có thể ông ấy đang bị giày vò trong cô đơn. Có thể ông ấy đang đau khổ. Có thể, với sự giúp đỡ của chúng ta, ông ấy sẽ bắt đầu cuộc sống mới. Chính ngài vừa nói rằng tôi là người mắc nợ ông ấy. Đúng là ông ấy, tất nhiên là ông ấy chứ không phải ai khác, đã đến thăm đảo Tabor, phát hiện thấy có một người bất hạnh đang đau khổ và đã báo cho các ngài biết cần phải cứu con người ấy. Nghĩa là, nhờ ơn của ông ấy mà tôi tìm lại được hình hài và diện mạo con người. Tôi sẽ không bao giờ quên được điều đó.
- Thôi được rồi, vậy là đã quyết định xong. – Cyrus Smith nói – Chúng ta sẽ bắt đầu những cuộc tìm kiếm càng nhanh càng tốt. Chúng ta khảo sát toàn bộ đảo, xem xét từng xó xỉnh. Chúng ta lục hết mọi chỗ khuất kín và mong người bạn chưa quen biết ấy tha thứ cho chúng ta về sự khiếm nhã này.

°

° °

Trước khi bắt đầu cuộc hành trình khảo sát đảo, những người ngụ cư quyết định bỏ ra mười ngày làm nốt một số công việc trên cao nguyên Tầm nhìn.

Song, Ayrton phải trở lại khu chăn nuôi, bởi vì gia súc cần được trông nom và săn sóc. Họ quy ước với nhau là anh ta sẽ ở đó vài ngày và trở về Lâu đài Đá hoa cương sau khi cho gia súc thật nhiều thức ăn.
Thế là Ayrton ra đi lúc sáng sớmi, hi vọng nhìn thấy một con tàu.
Nhưng rõ ràng là trời vẫn muốn trừng phạt đầy đủ kẻ bất hạnh, bởi vì hắn đã bắt đầu nhận thấy rằng hắn đang biến thành người man rợ. Cuối cùng, kẻ bị trục xuất đã đánh mất hết mọi tư cách con người, trở thành một sinh vật như các ông đã tìm thấy hắn!
Cyrus Smith và các bạn của ông đã đứng lặng nghe hết lời tự thú ấy. Khó mà diễn tả được lời tự thú đó làm cho họ xúc động như thế nào! Họ đã thấy nỗi xót xa đau khổ, tuyệt vọng ấy chan chứa sự chân thành biết bao!
- Ayrton – Cyrus Smith nói một cách trang nghiêm – anh đã là một tên tội phạm thâm căn cố đế nhưng tôi tin rằng đức chúa trời đã tha thứ cho anh mọi tội lỗi! Và để chứng tỏ sự độ lượng của mình. Người đã cho anh trở lại với thế giới loài người. Anh đã được xá tội, Ayrton! Anh hãy nói xem, anh có muốn trở thành bạn bè của chúng tôi không?
Ayrton giật bắn người.
- Chúng ta hãy bắt tay nhau! – viên kỹ sư nói.
Ayrton lao đến Cyrus Smith, bắt chặt tay ông, và từ đôi mắt của anh ta trào ra những dòng lệ nóng hổi.
- Bây giờ anh đồng ý sống cùng chúng tôi chứ? – Cyrus Smith hỏi.
- Thưa ngài Smith, - Ayrton trả lời – tốt hơn là hãy cho tôi sống một mình ở khu chăn nuôi ít lâu.
- Tùy anh, Ayrton! – Cyrus Smith trả lời.
Ayrton đã định đi ra, nhưng viên kỹ sư giữ anh ta lại.
- Khoan đã! Anh bạn của tôi! – ông nói – Anh đã quyết định sống cảnh cô đơn, vậy sao anh lại viết thư bỏ xuống biển báo cho chúng tôi biết dấu tích của anh?
- Thư nào? – Ayrton ngạc nhiên, rõ ràng không hiểu chuyện gì cả.
Và Ayrton cúi chào mọi người và đi ra.

°

° °

- Cyrus thân mến! – Gédéon Spilett nói. Không thể nào có chuyện Ayrton lại quên bức thư tự tay mình viết rồi cho vào chai và thả xuống biển.

- Do đó, Spilett thân mến, người bỏ chai xuống biển không phải là anh ta.
- Có nghĩa là, ngài giả thiết…
- Tôi không giả thiết gì cả, tôi không biết gì cả, - Cyrus Smith phản đối, cắt ngang lời nhà báo –Tôi chỉ đơn giản liệt kê trường hợp này vào tất cả những điều bí ẩn mà cho tới nay tôi không giải thích nổi.
Đã sang tháng giêng, năm 1867. Như mọi năm những người ngụ cư bận nhiều việc. Một hôm, Harbert và Gédéon Spilett đi thăm khu chăn nuôi và biết rằng Ayrton đã đến sống trong căn nhà làm cho anh ta ở khu chăn nuôi. Anh ta quan tâm chăm sóc một đàn súc vật lớn và bớt cho những người ngụ cư phải mất nhiều công sức như trước đây là cứ hai, ba ngày lại ra khu chăn nuôi một lần. Tuy nhiên, để giúp Ayrton bôi xoá mặc cảm tội lỗi và tránh nỗi buồn khi thấy mình bị bỏ rơi, họ vẫn thường xuyên ra thăm người bạn mới của mình.
Hơn nữa, viên kỹ sư còn lo có chuyện bất trắc xảy ra ở khu chăn nuôi nên đã quyết định tạo một đường dây liên lạc trực tiếp giữa khu chăn nuôi và Lâu đài Đá hoa cương.
Ngày 10 tháng giêng, viên kỹ sư đã trình bày cho các bạn nghe về dự định của mình.
- Ngài định đặt đường dây thông tin chăng, thưa ngài Smith? – Pencroff hỏi.
- Đúng vậy!
- Bằng điện ạ? – Harbert cười phá lên.
- Bằng điện! – Cyrus Smith khẳng định – Chúng ta có đầy đủ những thứ cần thiết để làm pin và ắcquy, làm dây dẫn bằng sắt thì khó hơn, nhưng tôi nghĩ chúng ta sẽ thực hiện được việc này bằng cách chuốt các sợi sắt nhỏ.
Cuối cùng, họ cũng đã chế tạo được những dây sắt dài từ 40 đến 50 bộ, đem nối lại họ được một sợi dây sắt dài năm dặm, vừa đúng khoảng cách từ Lâu đài đến khu chăn nuôi.
Sau khi có đủ vật liệu cần thiết rồi, Cyrus Smith lo làm ắcquy. Ông làm bộ ắcquy điện một chiều, giống như ắcquy mà năm 1820 Becquerel đã chế tạo, bởi vì nó chỉ có kẽm mà thôi.
Sự sáng chế độc đáo và đơn giản đã giúp Cyrus Smith làm được hai bộ ắcquy, một bộ đặt ở Lâu đài Đá hoa cương, bộ kia đặt ở khu chăn nuôi, để tiện cho việc liên lạc bằng điện báo. Mọi việc được hoàn thành dứt điểm vào ngày 12 tháng hai. Hôm ấy, Cyrus Smith đã cắm điện và hỏi Ayrton xem công việc của anh ta có được tốt đẹp cả không, chỉ vài giây sau, ông đã nhận được câu trả lời của Ayrton là tất cả đều thuận lợi.

°

° °

Tối 25 tháng tư, khi tất cả những người ngụ cư tập trung trên cao nguyên Tầm nhìn, Cyrus Smith đã nói với họ như sau:

- Các bạn thân yêu của tôi! Tôi thấy có trách nhiệm chỉ cho các bạn một số hiện tượng kì lạ, và tôi muốn được biết ý kiến của các bạn về những hiện tượng ấy. Tôi cho rằng những hiện tượng ấy là siêu nhiên.
- Siêu nhiên! – chàng thuỷ thủ thốt lên.
- Có thể gọi nơi chúng ta đang sống là hòn đảo bí ẩn. – viên kỹ sư nói – Có thể là các bạn sẽ giải thích được điều mà tôi và Spilett bấy lâu nay không hiểu nổi?
- Vậy thưa ngài Cyrus, ngài hãy kể đi, ở đây có chuyện gì thế? – chàng thuỷ thủ yêu cầu.
Cyrus tiếp tục:
- Tôi đã suýt bị chìm dưới biển cách bờ một phần tư hải lí, mà không biết vì sao lại lên được tới hang. Lại nữa làm sao con Top lại có thể tìm ra được chỗ các bạn, lúc ấy đang ở cách hang của tôi những năm dặm!
- Bản năng giúp nó… – Harbert nói.
- Bản năng gì ở đây, – nhà báo cắt ngang lời chú bé – đêm ấy trời mưa to, gió lớn, mà con Top đến Hang ngụ cư lại khô ráo, sạch sẽ.
- Hơn nữa, – Cyrus Smith tiếp tục – các bạn có thể hiểu được không, viên đạn chì trong mình con heo rừng mới kì lạ làm sao. Bằng cách gì mà biển lại quẳng lên bờ cho chúng ta cái hòm với đầy đủ các thứ cần thiết, mặc dù chúng ta đã không thấy dấu vết của một tai nạn đắm tàu. Và làm thế nào cái chai đựng lá thư nọ lại có thể rơi vào tay chúng ta đúng hôm đầu tiấy nhau.
Cyrus Smith, Gédéon Spilett, Nab va Harbert, chẳng nói chẳng rằng trèo lên giỏ treo của khí cầu, còn Pencroff thì lần lượt tháo từng bao tải ra theo sự hướng dẫn của viên kỹ sư. Chỉ sau mấy giây đồng hồ, người thuỷ thủ ấy đã nhập chúng vào với những người bạn của mình.
Bây giờ quả khí cầu chỉ bị một sợi dây cáp níu giữ nữa thôi, và Cyrus Smith sắp điều khiển nó bay lên.
Bỗng lúc ấy có một con chó nhảy vào giỏ treo của khí cầu. Đấy là con Top của viên kỹ sư. Nó đã giằng đứt xích và chạy theo chủ. Sợ con chó sẽ làm tăng thêm trọng tải vô ích, Cyrus Smith định đuổi nó xuống.
- Không sao! Ta mang cả chó theo! – Pencroff nói và quẳng bớt hai cái bao trong thúng ra.
Sau đó anh ta tháo cáp và quả khí cầu vụt bay lên hướng chênh chếch tránh đụng vào hai cột ống khói.
Trận bão đã hoành hành với mức độ dữ dội nhất. Ban đêm, chẳng thể nào nghĩ đến chuyện hạ xuống đã đành, nhưng ngay cả ban ngày thì cũng không thấy gì hết, vì màn sương bao phủ dày đặc. Mãi sang ngày thứ năm, qua một luồng ánh sáng rọi xuyên những lớp mây đen bên dưới khí cầu, đang bị gió xô đẩy với một tốc độ kinh khủng, những người chạy trốn mới nhìn thấy biển.
Trong số năm người, ngày 20 tháng ba ngồi trên khí cầu để trốn đi thì có bốn người vào ngày 24 tháng ba đã bị bão quẳng lên vùng bờ biển hoang vắng, cách Richmond sáu ngàn dặm, còn một người mất tích. Đó là kỹ sư Smith. Những người sống sót lo tìm cách cứu ông – người đã trở thành thủ lĩnh của họ một cách tự nhiên.