Chương 2

Hai người từ biệt nhau vào một chiều cuối thu hôm ấy, tự nhiên nàng cảm thấy buồn da diết. Từ lúc vĩnh biệt cõi dương gian, rồi gặp gỡ linh hồn người đàn ông lạ, được ông ta chia xẻ những khắc khoải, những suy tư giữa sống và chết, nàng cảm thấy lòng đã nguôi ngoai và không ngờ mình mau thích nghi với hoàn cảnh hiện tại mau chóng đến thế.
Đã bước sang mùa Đông, trời có vẻ lạnh, khá lạnh, nàng cũng như bao hồn ma khác, không còn cái cảm giác nóng lạnh, thời tiết không ảnh hưởng đến thế giới của linh hồn, nhưng nàng vẫn cảm được cái lạnh đang bao trùm cảnh vật. Nàng nhìn thấy những cành phong đang run rẩy giữa một trời giá rét, lá trên cành đã rụng hết, chỉ còn trơ lại những nhánh cây khô. Mỗi lần cơn gió bấc thổi tới, cả thân cây như quằn quại cố chống chỏi với cái lạnh của gió đông, nàng nghe như có tiếng rên trong từng thớ gỗ.
Thì ra, cái khổ không phải chỉ dành cho con người hay muông thú, mà ngay cả cây cỏ cũng có nỗi khổ của nó, khi có một sự sống đang hiện diện trong từng phiến lá, từng dòng nhựa đang luân lưu đến tận cùng gốc rễ. Người có nỗi đau của người, cây có nỗi đau của cây, nói chung khi có sự sống hiện diện mọi vật đều cảm nhận được cái sướng cái khổ như nhau.
Nàng cảm thấy lòng thật êm đềm khi đã khám phá ra bao điều mới lạ của con người, của cây cỏ từ cõi mù sương. Nếu không thối đi như hạt lúa được vùi xuống đất để mọc lên cây mạ non, hay nếu nàng không chết đi thì mãi mãi nàng vẫn lơ ngơ trong cái mớ bòng bong của vật chất. Nàng không ngờ giờ đây mọi thứ trên đời chỉ là phù du, là hạt bụi vô nghĩa dưới gót chân của thời gian, vậy mà có biết bao người đã sống chết vì nó. Nghĩ cũng buồn cười, người ta phung phí tất cả sức khỏe, tuổi xuân để đi tìm vật chất, xong lại dùng tiền bạc để mua lại sức khoẻ và tuổi xuân, mà nào có mua được. Đây là một lầm lẫn lớn, một cái vòng luẩn quẩn mà con người có nhìn thấy nhưng vẫn không tránh được.
Đang miên man với những suy tư về cõi mù sương, thoắt nhiên nàng thấy có một hồn ma đã lướt tới bên nàng. Hồn kia lên tiếng, rất tự nhiên như đã quen nhau từ lâu:
"Cái ông tử tế kia đi rồi à?"
Nàng vừa lạ lùng, vừa khó chịu vì sự tò mò của hồn ma, đấy là một người đàn bà. Rồi nàng bỗng dưng mỉm cười, hóa ra đàn bà ở thế giới nào cũng hay tò mò như nhau. Nàng trả lời với một vẻ không vui:
"Bà cũng biết ông ấy?"
Người đàn bà cười, giọng có vẻ châm biếm:
"Biết chứ! Ở đây tự nhiên mình biết hết những gì mình muốn biết, có gì là lạ đâu. Vậy là ông ấy đi trước tôi, ông ấy đi được là tự ông ấy giải thoát cho mình, khi rũ được tất cả là mình đi... "
Nàng ngạc nhiên, pha một chút tò mò:
"Như vậy chết chưa phải là hết sao?"
Người đàn bà cười rộ lên, giọng cay đắng:
"Hết sao được mà hết, thoát được cái xác thôi, còn phần hồn có cái khổ riêng của nó. Thoát được hay không là ở tâm, miệng nói thoát mà lòng chưa thoát thì vẫn là không thoát. Tôi có phải thần thánh gì mà trút được cái hận ấy, cứ nghĩ đến lão ta... "
Nàng ngơ ngác hỏi:
"Lão nào? Cái ông tử tế ấy à?"
Bà ta lắc đầu cười chua chát:
"Không. Là nói cái ông chồng tôi ấy chứ! Cô chết còn có kẻ thương, người nhớ, còn tôi ấy à, chán bỏ mẹ, may là họ cũng phải chôn mình, để đấy thối không ai ngửi được. Ôi dào! Cũng bát cơm quả trứng, cũng thầy chùa tụng kinh gõ mõ, tôi chả tiếc gì cái đời tôi hết nhưng... hận thì vẫn hận."
Tự nhiên nàng không khỏi so sánh hai hồn ma mà nàng gặp gỡ, thực là một trời một vực. Ông ta hòa nhã trí thức bao nhiêu thì bà này lại cay đắng hằn học bấy nhiêu, con người nào ít nhiều gì cũng trải qua cái cay đắng của "thế thái nhân tình", nhưng cách suy nghĩ quả có khác. Người đàn bà ngồi thụp xuống ngắm nghía tấm ảnh của nàng trên tấm mộ bia, có khắc những hàng chữ nổi bằng đồng rất đẹp:
"Nom xinh đáo để, hèn gì ông chồng cô cứ tiếc ngẩn ngơ. Chả bù cho ông chồng tôi..."
Nàng cảm thấy thương hại cho người bạn mới, dịu dàng bảo bà ta:
"Xấu đẹp gì cũng thế mà thôi, cứ đào tất cả lên thì người nào cũng như người nấy. Không biết bà nghĩ sao? Chứ bây giờ tôi đã nhìn thấy sự bình đẳng giữa con người với nhau, đã được Thượng Đế đối đãi thật công bình khi nằm xuống. Cái giá trị là phần tinh thần, những gì tốt đẹp ta đã làm trên cõi trần, chắc chắn có liên quan đến linh hồn của ta trong kiếp này phải không bà?"
Người đàn bà gật đầu, giọng bớt phần gay gắt:
"Đã hẳn là như thế, cả cái khổ đau về tinh thần, lúc nhắm mắt lìa đời mà chưa dứt bỏ được, nó vẫn đeo đẳng linh hồn về bên kia thế giới. Chính vì lẽ đó mà có người ra đi trong sự êm dịu, có người thì lại u trược nặng nề. Ông kia hay là cô, đã sớm tìm ra được chân lý đó nên linh hồn cứ nhẹ như bóng mây, tháo gỡ được mà bay đi thanh thản, còn tôi sao cứ âm ỉ mãi không quên đi được. Nếu tháo gỡ được thì linh hồn tôi đã thanh thản mà bay lơ lửng theo ánh sáng của vùng hào quang phía trên kia."
Nàng nhìn theo ngón tay của bà ta, quả có thấy một luồng ánh sáng kỳ lạ, diễm ảo như một khối kim cương, có rất nhiều chấm sáng lao xao. Tự nhiên nàng nghĩ đến hồn người đàn ông đã bay về hướng ấy, và cái suy luận về thiên đàng và hỏa ngục gần như đã có một đáp số. Đơn giản là tự mình tháo gỡ cho mình, hễ tháo được những ràng buộc nặng nề của tội lỗi từ kiếp trước, hồn cứ thế nhẹ nhàng lơ lửng bay lên. Nhưng thật khó để mà tháo khi cái nhân mình làm giờ đây như những cái rễ của sự đau khổ, cứ bám chặt lấy làm linh hồn khó bề tẩu thoát.
Điều này dễ hiểu thế mà bấy lâu nay người ta cứ vẽ vời ra bao hình ảnh khủng khiếp về hỏa ngục, nó nằm ở trong tâm chứ xa xôi gì mà phải đi tìm mãi, tìm hoài nguyên lý của thiên đàng, địa ngục, cái Ác và Thiện nằm kề bên nhau, như hình ảnh hai ông Ác và Thiện trấn giữ trước mỗi ngôi Chùa, chỉ là những hình ảnh gần gũi, dễ hiểu nhất để dẫn giải người ta hiểu con đường mình phải đi. Nàng cũng hiểu khi còn sống ở trần gian, hỏa ngục cũng đã đè trĩu trong tâm tư những con người độc ác.
Người đàn bà có lẽ là người không có hạnh phúc khi còn sống, cho nên giọng nói bà ta lúc nào cũng cay đắng:
"Tôi biết cô đang so sánh cái ông tử tế kia với tôi, nhưng giá mà tôi trút được cái đau khổ đi thì tôi cũng như ông ta vậy. Chính vì lý do đó người ta mới hay nói ma dữ, ma hiền, ma đẹp, ma xấu, như cô đây có là ma thì cũng khối người mê đấy. Tuy vậy tôi chỉ xấu cái miệng, lòng dạ lại không đến nỗi nào, chưa hại ai bao giờ. Ở đời khối đứa nói lời ngon ngọt, nhưng lòng dạ lại như dao đâm người. Chỉ vì đời không tử tế mà tôi không làm sao nói năng cho tử tế được cả."
Nàng rụt rè hỏi bà ta:
"Bà đã bao giờ về thăm nhà chưa? Có khi bà chết rồi, ông đâm hối hận rồi cũng buồn rầu đau khổ vậy."
Bà ta bĩu môi, cười lanh lảnh nghe rợn cả tóc gáy, tiếng cười sắc đến nỗi có thể làm vỡ cả lớp sương váng trên mặt nước:
"Hối hận? Đừng nói hai chữ hối hận với con người ấy. Tôi không bao giờ nghĩ đến chuyện trở về căn nhà xưa để nhìn mặt hắn lấy một lần. Lạy trời cho tôi quên, quên tất cả là tôi sẽ tự siêu thoát."
Nàng ngại ngần hỏi:
"Có lẽ chúng ta phải cần có sự cầu nguyện thật nhiều của người còn sống, may ra linh hồn mới chóng được siêu thoát."
Người đàn bà cười "hộc" lên một cách quái đản, ngó nàng riễu cợt:
"Sao ngây thơ thế hở "giời"? Như thế thì những đứa làm ác mà lại giàu, chúng có tiền mua sự cầu nguyện, cứ phơi phới lên Thiên Đàng, còn như tôi không ai cầu nguyện cho, dễ chừng cả đời nơi địa ngục. Kinh kệ cũng giống như âm nhạc trong một cuộn phim mà mình là nhân vật chính, âm nhạc được lồng vào trong phim để giúp cho nhân vật diễn xuất trọn vẹn hơn, cảm xúc dào dạt hơn, nhưng cái chính là ở nhân vật trong phim đấy chứ!"
Nàng bật cười, hóa ra bà ta cũng đáo để đấy chứ, không dốt nát tý nào, so sánh giữa hai linh hồn nàng gặp gỡ, cái giá trị uyên bác ở người đàn ông với cái kinh nghiệm từng trải nơi người đàn bà đã thua gì nhau. Bà ta cười thích thú:
"Tôi nghĩ Thượng Đế đâu có ngây thơ đến độ để người ta hối lộ, buôn thần bán thánh, tạo nên con người mà nó lại dám qua mặt mình thì cứ đem vặt cổ chúng cho xong. Tất cả là ở trong tâm ta, thiên đàng địa ngục nó nằm cả ở chỗ này này cô bạn ạ."
Bà ta đấm tay bình bịch vào chỗ trái tim, đúng ra thì phải vỗ vào đầu, vì tri thức nằm cả ở trong khối óc. Nàng lại buồn cười cho sự ngớ ngẩn của mình, thân xác gồm có đầu, mình, tay chân, tim óc, phèo phổi làm gì còn nữa. Linh hồn là một khối không màu sắc, lơ lửng như mây, ẩn hiện vô phương nắm bắt. Nó có thể bất ngờ nhập vào một thân xác nào đó để nhờ nói lên những thông tin giữa bên này và bên kia, nó có thể nương theo một cánh bướm chập chờn bay đến với người thân để báo trước một điều may hay rủi. Càng đi sâu vào thế giới của linh hồn, nàng càng cảm thấy thích thú khi khám phá ra những điều kỳ bí mà con người ở cõi dương gian phải rùng mình, rởn gáy.
Người đàn bà có vẻ thuộc loại "ruột để ngoài da", cho nên vì thế vừa gặp nàng bà ta đã không ngưng được câu chuyện ngày xưa:
" Tôi lấy chồng năm hai mươi tuổi. Thuở ấy con gái mà lấy chồng muộn người ta bảo mình vô duyên. Gia đình nghèo, mẹ chết sớm, bố lấy vợ khác chả ngó ngàng gì tới con cả, thôi lấy chồng quách đi cho yên phận. Này cô ạ, cô có tin rằng người ta có số không? như cô đây cả đời được nâng niu, chắc cũng nhờ kiếp trước khéo ăn ở sao đó, chứ tôi cái số khốn nạn thì có "tránh vỏ dưa cũng đạp vỏ dừa", điều ấy chắc chắn như năm với năm là mười vậy. Cuộc đời tôi nó cứ đi từ cái khổ này đến cái khổ khác, không làm sao cưỡng nổi."
Nàng ngạc nhiên hỏi bà ta:
"Bà không tìm hiểu trước khi lấy chồng à? Tôi tưởng người ta phải yêu nhau mới ở với nhau được chứ?"
Người đàn bà cười "khục" lên, nếu một kẻ yếu bóng vía nghe được chắc cũng phải nổi da gà:
"Yêu à? Yêu là gì nhỉ? Là hai người lấy nhau, ăn ở với nhau, đẻ ra một bầy con, hành hạ nhau bằng thích, như vậy có phải là yêu? Tôi cũng có yêu ông ta đấy chứ, nhưng lấy nhau rồi tôi mới biết yêu đồng nghiã với sự nô lệ, nghĩa là quần quật hầu hạ, chiều chuộng từ người trên kẻ dưới, làm sao cho người ta hài lòng thế là đầy đủ nghĩa của chữ yêu. Không thì người ta nói xỏ nói xiên, chửi bới, đá vào đít mình rồi lại ngủ với mình, rồi lại đi tìm người khác cho mình khổ, để làm gì nhỉ, để yêu... há, há...."
Bà ta ré lên cười như một người khùng điên, nàng cảm thấy sợ hãi trước vẻ kỳ cục của hồn ma phụ nữ lạ. Chỉ một lát thôi, bà ta sụt sịt khóc, nàng thật sự ái ngại cho sự hoảng loạn và đau khổ của linh hồn người đàn bà kia. Bà ta vừa khóc vừa lu loa kể:
"Cô đừng tưởng tôi không biết yêu và không thèm khát tình yêu, cũng vì thất vọng cho cái tình quái gở ấy mà lúc nào tôi cũng như kẻ điên khùng. Ngày còn trẻ, tôi cũng có cái mảnh tình ngây thơ, cũng say trăng, cũng thơ thẩn với mây với gió. Chỉ vì chồng tôi mà linh hồn tôi nên nông nỗi này, cô có muốn nghe tôi kể câu truyện "Khi con cừu biến thành sư tử" không?"
Nàng lại cảm thấy vui vui, người bạn mới dễ thương theo kiểu cởi mở của bà ta, tuy không thâm trầm triết lý như ông bạn cũ, nhưnng lối "tả chân" đầy đủ về cuộc đời nghe cũng hay hay.
" Gia đình tôi như thế đấy. cho nên tôi mới mong thoát ra để tìm một chút êm dịu cho cuộc đời. Tôi gặp chồng tôi qua sự giới thiệu của bạn bè, anh ta có sức thu hút của một tên đàn ông nghệ sĩ, hồi xưa cũng dịu dàng tử tế như cái nhà ông kia. Đàn ông lạ lắm, có khi họ rất tử tế với người ngoài, mà chẳng tử tế với vợ chút nào cả, bởi vậy người ta cứ cho muôn tội bởi người đàn bà. Lấy anh ta rồi tôi mới biết đấy là một người đàn ông ích kỷ, chỉ nghĩ đến anh ta và gia đình anh ta mà thôi, tôi mắc nợ cả cái nhà ấy. Hắn yêu hắn và dùng mình làm công cụ để đẹp lòng mọi người, còn mình thì cay đắng nhịn nhục để sống cho hết nợ. Vậy mà cũng đẻ cho nhau mấy mặt con, không biết sao không tôn trọng nhau mà vẫn có thể ăn ở với nhau được nhỉ?"
Nàng mỉm cười thú vị. Bà ta lại sắp dở cái giọng điên khùng, hóa ra lúc sống mà đang ở trong trạng thái nào, thì lúc chết hồn vẫn loanh quanh trong trạng thái đó, bởi vì thân xác đã nằm xuống mà tri thức vẫn tồn tại. Như nàng, lúc nằm xuống vẫn tràn ngập niềm vui và tình êm ái với chồng con, do đó nàng mới buồn áo não như thế. Nếu không gặp gỡ hồn người đàn ông lạ, ông ta đã giải tỏa cho nàng những vướng vít giả tạm của trần gian. Thấy nàng im lặng, người đàn bà đột ngột triết lý như một học giả:
"Nó là nợ đấy cô ạ, bao nhiêu lần mình muốn chạy trốn nó mà vẫn không thoát ra được. Sau này thì cứ sống vì con, cứ chửi nhau, dằn vặt nhau, rồi lại ăn ở với nhau, khi hết nợ là mình đi, nhưng nỗi buồn thì nó vẫn đeo đẳng theo ta về bên kia thế giới. Hồi ấy tôi còn trẻ, sức chịu đựng còn nhiều, dù bị hành hạ bởi cả cái nhà chồng họ hàng lắm điều lắm tiếng, cứ chìu hết bấy nhiêu người mình cũng đủ ốm mà chết. Ấy là nói lúc mình còn trẻ, chứ càng ngày càng lớn tuổi, đời chả ra thế nào thì cần gì phải bám vào cái thứ tình khốn khổ ấy. Người ta cứ bảo phụ nữ phải thế này thế nọ, hạnh phúc tự đấy mà ra. Láo khoét, dễ thường tôi đã chả từng là con cừu non mềm mại, dễ thương lúc bước vào đời đấy ư? Con giun xéo lắm cũng quằn, khi mình cứ cố gắng nín nhịn để bảo tồn cái hình ảnh đẹp đẽ cuả người phụ nữ, người ta lại cứ thế đẩy mình vào tường không cho nhúc nhích, cục cựa. Ông chồng tôi thừa thắng xông lên, lại được yểm trợ bởi cái gia đình cũng ích kỷ như hắn... "
Giọng bà ta bất chợt rít lên:
"Tôi nghĩ họ cũng phải trả giá cho những việc làm sai trái của họ, trước mắt là đám con cháu của họ cũng đã trả lễ cho những cái ác mà họ gây nên, như thế mới gọi là "quả báo nhãn tiền" chứ."
Nàng lên tiếng an ủi:
"Ít ra thì tự mắt bà cũng đã chứng kiến cái quả báo nhãn tiền ấy rồi, thôi thế bà cũng được an ủi rằng trời luôn luôn có mắt."
Bà ta tiếp tục câu chuyện:
"Buồn cười lắm cô ạ. Một lần tôi đang đứng trong bếp, tay cầm con dao chặt thịt thì ông chồng tôi, hắn vẫn không bỏ cái lối chà đạp nhân phẩm người khác. Hắn hằn học tôi không biết lấy lòng cô em chồng lắm tiền mà thiếu lòng nhân, hắn đay nghiến cha mẹ tôi kém phúc đức nên mới đẻ ra tôi, nào là nhà tôi thế này, nhà hắn thế nọ. Trời đất cha mẹ ơi! Sao mãi tới lúc ấy tôi mới có đủ nghị lực và can đảm để bảo cho hắn biết là hắn không có quyền chà đạp tôi, gia đình tôi. Cô ạ, buồn cười quá cô ạ..."
Bà ta cứ rú lên cười, cười rũ rượi đến nỗi nàng cũng phải bật cười theo:
"Tôi giơ phắt con dao lên xấn vào hắn, lúc giận dữ tôi như con sư tử, hắn bất ngờ bị phản công tìm đường chạy, may là hắn cũng biết sợ chứ không tôi đã chém cho hắn một dao rồi muốn ra sao thì ra. Hắn sợ lủi ra ngoài, sợ cơn điên khùng của con cừu tự nhiên biến thành sư tử, hôm ấy mà tôi chém chết hắn thì có phải đời lại gánh thêm một nỗi oan gia. Sau đó thì chẳng còn gì, tình nghĩa tình yêu tình gì cũng hết. Tôi được yên thân mặc cho hắn muốn vung vãi tình yêu cho ai cũng được, đã đến nước ấy thì còn ghen tuông làm gì cho mệt."
"Mấy đứa con bà thì sao?" nàng hỏi.
Người đàn bà thở dài:
"Toàn con gái, hình như chúng sinh ra để trả cái nợ cho ông già chúng. Nếu sau này chúng có một chục thằng chồng thì cũng đừng ai ngạc nhiên, đời cha ăn mặn thì đời con khát nước. Tuy cái tình đối với chồng như thế đã đành, nhưng đối với con thì không buông xuôi như vậy được, chẳng qua nó lại là món nợ mà mình trả chưa xong, người đời họ bảo: "Chồng là nợ, vợ là oan gia, con là cái dây thắt cổ", phải vậy không cô?"
Nghe bà ta nói nàng không khỏi bật cười, đúng là một tay văn chương chữ nghĩa nhưng cách suy nghĩ vẫn chỉ theo chiều hướng đau khổ, chứ riêng nàng tình vợ chồng quả là chút duyên lành trời cho, nhưng chỉ được tới đấy là hết duyên lẫn nợ. Nàng bùi ngùi nhớ đến gia đình, những đứa con ngoan lớn lên sẽ thay mẹ săn sóc cha chúng nó, và biết đâu ở một kiếp nào đó họ sẽ trở lại với nhau, trong mối duyên lành mà Thượng Đế sẽ ban cho họ. Nàng thấy tâm tư mình an ổn hơn người đàn bà kia, thầm cảm ơn người đàn ông tử tế đã tháo gỡ cho nàng những đau khổ khi phải lìa xa những hình ảnh thân yêu của quá khứ. Nàng cũng có ý nghĩ rằng, sẽ truyền đạt sự hiểu biết ấy cho người bạn mới, để bà ta cũng dần dà nguôi ngoai những đau khổ, một người có lòng bác ái như nàng, thì dẫu chết vẫn muốn chia xẻ với người khác những gì nàng có. Do đấy, nàng thấy linh hồn mình thấp thoáng muốn bay về một nơi nào đó, có lẽ là cái vùng ánh sáng lạ kỳ, diễm ảo lơ lửng phía trên kia. Cả hai cùng đắm chìm trong Cõi Mù Sương, người đàn bà cười chán khóc chán, bỗng đột nhiên vui vẻ trở lại:
"Nói thế thì nói, chứ nghĩ đến làm người một lần nữa tôi lại thấy lạnh cả hồn. Này thôi, chúng mình đi chơi đi, sang thăm cái con bé tự tử bên kia hồ xem hôm nay nó như thế nào rồi. Rõ mà chán, ấy là nó chưa rõ bộ mặt thật của đời nên còn phí nước mắt mà khóc than, mà dại dột hủy hoại mạng sống cuả mình, cứ sống mà dung dăng dung dẻ với người khác xem có sướng không nào. Chưa kể từ đây hồn còn bị dằn vặt trong đau khổ, gọi là còn đời đời trong địa ngục ở cái tội muốn cướp cả quyền của Thượng Đế."
Nàng im lặng, không muốn bình phẩm ai, vì đó là bản tính hiền lành của nàng khi còn sống. Cả hai cùng đứng lên, hai cái hồn ma lướt đi trong gió đêm lạnh giá. Giờ này, khi cõi dương gian đang say ngủ, khi vầng trăng khuya lạnh lẽo vằng vặc treo trên bầu trời cao vời vợi, có những hồn ma lang thang vật vờ bên rặng liễu rủ ven hồ. Chỉ còn tiếng gió hú, tiếng chim khuya khắc khoải gọi nhau...