Phần I

Đọc câu “Lửa hồng Nhật Tảo…”
Nhớ nhà thơ yêu nước Huỳnh Mẫn Đạt
 
I.Huỳnh Mẫn Đạt - nhà thơ Việt Nam (1807 - 1883)
Quê ông ở làng Tân Hội, huyện Tân Long, tỉnh Gia Định ( nay thuộc TP. HCM ); có sách cho rằng ông là người ở Rạch Giá - Kiên Giang.
Ông đỗ Cử nhân khoa Tân Mão (1831), làm quan dưới thời Tự Đức: Án Sát Định Tường; Tuần phủ Hà Tiên, Tuần phủ Châu Đốc…
 
Ông không những là một vị quan thanh liêm, hết lòng vì dân vì nước mà ông còn là người nổi tiếng giỏi thơ Nôm ở đất Đồng Nai; là bạn tâm giao của Bùi Hữu Nghĩa (nhà thơ yêu nước 1807 – 1872. Vỡ tuồng Kim Thạch kỳ duyên của nhà thơ họ Bùi này, có phần đóng góp của ông)
Năm 1861 giặc Pháp tấn công Định Tường, Huỳnh Mẫn Đạt cùng binh sĩ ra sức giữ thành mà không nổi. Ông đành lánh về Kiên Giang và sống ở đó đến cuối đời.
 
II.Nhiều sách văn học viết vào thời kỳ này đều có chung nhận xét là:
 
Huỳnh Mẫn Đạt là một trong những cây bút “chiến đấu” trong hàng ngũ những nhà thơ yêu nước ở Nam Bộ thời kỳ đầu kháng Pháp của dân tộc. Ông góp phần vào cuộc bút chiến giữa Phan Văn Trị và Tôn Thọ Tường (Tôn Thọ Tường là tay sai cho Pháp, nhưng tự cho mình là người thức thời, là người trung thành với Triều đình nhà Nguyễn; tự ví mình như “Tôn phu nhân quy Thục”, “Từ Thứ quy Tào” ở trong thơ. Tường đã bị Phan Văn Trị, Huỳnh Mẫn Đạt cùng một số nhà thơ yêu nước khác họa thơ đập lại ).
 
Những bài thơ như: “Điếu Nguyễn Trung Trực”, “Cây dừa”, “Chó già”, “Lão kỹ quy y”,... Nói lên lòng chung thủy của ông đối với đất nước; sự ngưỡng mộ với những anh hùng liệt sĩ chống Pháp và sự căm ghét, khinh bỉ bọn tay sai của bọn thực dân xâm lược. Hiện nay ở Văn Xương Các ( miếu Văn Thánh ) Vĩnh Long còn có bài vị thờ ông.
(trích tư liệu: “ Thơ văn yêu nước 1858 - 1990 “ - NXB. VH, HN.1976 )
III.Kể một giai thoại để minh họa một nhân cách đáng quí:
 
Trong bài viết Những kẻ sĩ hòa mình & đứng về phía bình dân, nhà văn Sơn Nam tường thuật:
 
Lúc nhà nước Pháp thâu thủ phủ Nam Kỳ, ngài (Huỳnh Mẫn Đạt) an phận dưỡng nhàn, không mang tiếng chi cả, hình trạng khôi ngô ốm yếu, tánh nết hiền lành, hay làm thi quốc âm, tao nhã thiệp liệp lắm.
 
Ông Tôn Thọ Tường kính ngài là bực phụ chấp. có một ngày kia ngài lên Sài Gòn chơi, gặp lúc trời chiều, ngài đội cái nón ngựa, đứng coi Lang Sa thổi kèn tại Bồn kèn, gặp xe ông Tường đi, ngài lánh mặt bên gốc cây.
 
Không cho ông Tường thấy, ông Tường liếc mắt thấy ngài. Liền ngừng xe nhảy xuống mừngrỡ nghinh tiếp, trách ngài sao không ghé chơi; ngài tánh hay ngâm thơ nôm, liền ngâm một bài hát cú rằng:
Cừu mã năm ba dạo cặp kè
Duyên sao giải cấu khéo đè ne.
Đã cam bít mặt cùng trời đất,
Đâu dám nghiêng mày với ngựa xe.
Hớn hở trẻ dong đường dặm liễu.
Lơ thơ già núp cội cây hoè.
Sự đời thấy vậy thời hay vậy.
Thà ẩn non cao chẳng biết nghe.
“Ông Tường biết ý ngài rồi, liền ngâm trả lại một bài thi rằng:
Tình cờ xảy gặp bạn tiền liêu
Thơ phú ngâm nga hứng gió chiều.
Thế cuộc đổi đời càng lắm lắm.
Thiên cơ mầu nhiệm hãy nhiều nhiều
Nước non dường ấy, tình chứng ấy,
Xe ngựa bao nhiêu, bụi bấy nhiêu.
Hăm hở nhạc Tây hơi trổi mạnh
Nghe qua ngùi nhớ giọng tiêu thiều.
 
VI. Giới thiệu một số tác phẩm của ông:
 
1/Giới thiệu vài bài thơ nôm:
 
Chó Già
Tuy rằng muông cẩu có ân ba,
Răng rụng lâu năm nó phải già.
Bởi đuổi hươu Tần nên mỏi gối,
Vì lo khỉ Sở mới dun da.
Không ai trấn Bắc ngăn bầy cáo,
Ít kẻ ngừa Tây giữ đứa tà.
Mạnh mẽ như xưa còn hớn hở,
Bây giờ yếu đuối hết xông pha.
 
(Hươu Tần: đời Tần Nhị Thế, chính sự mục nát, giặc nổi lên tứ tung.Có người bảo: “ Nhà Tần để sổng con hươu, ai đuổi bắt được thì người ấy được thiên hạ.Khỉ Sở: Lưu Bang chế giễu Hạng Võ là con khỉ đội mão)
 
Trâu Già
Một nhắm xương, một nhắm da,
Bao nhiêu cái ách đã từng qua.
Đuôi cùn biếng vẫy Điền Đơn hỏa,
Tai điếc chi nghe Nịnh Thích ca.
Sớm dạo nội sằn đi khấp khởi,
Tối về tử lý thở hê  ha.
Bôi chuông nhớ thuở qua đường hạ,
Ân đội Tề vương bắt lại tha.
II
Kể từ hội sửu đã sanh ra,
Tai điếc chi nghe Nịnh Thích ca.
Mấy chốn kỳ thần ra sức cả,
Đòi nơi bái xã rán thân già.
Rửa tai Vĩnh thủy nhường ngôi báu,
Cởi ách Đào lâm biếng gác xa.
Tề-chúa bôi chuông còn chẳng nỡ,
Có đâu khó nhọc với nông-gia
 
Cây dừa
 
Ba xuân đào lý phải duyên ưa,
Cây trái liền năm chẳng kịp dừa
Đuôi phượng vẻ vang che nắng gió,
Mình rồng chan chứa gọi mây mưa
Dãi dầu giúp kẻ khi xơi tối,
Giúp nước vui người buổi khát trưa.
Rường cột miếu đường không xứng mặt,
Chống ngăn bờ cõi cũng bưa bưa.
 
( Bưa bưa: tiếng địa phương, có nghĩa: vừa vừa, không phải giỏi)