Dịch giả: Đoàn Doãn
CHƯƠNG 23

 Điềm báo không tốt lành nhưng đã quá chậm không lùi lại được nữa. Đến lượt Georges thúc giục chúng tôi, đoàn xe nối đuôi nhau trước cửa quán. Georges đi đầu đoàn xe, giữa là xe chúng tôi, thắng ba ngựa, chúng tôi lên xe, Ivan ngồi cùng với người đánh xe trên một chiếc băng thay ghế ngồi đã mất đi khi đổi dạng chiếc xe cũ. Một tiếng còi kéo dài và chúng tôi lên đường.
Đi cách ngôi làng khoảng mười hai cây số thì trời sáng rõ, trước mặt như có thể giơ tay ra sờ được là dãy núi Ourals mà chúng tôi phải vượt qua. Trước khi đi xa hơn, Georges ngắm lấy chiều  cao như một thuyền trưởng tàu biển phải làm và qua những hàng cây, đã nhận ra đoàn đi đúng đường. Chúng tôi tiếp tục tiến lên, chú ý giữ những khoảng cách xa nhau và chưa đầy một tiếng đồng hồ nữa chúng tôi đến được sườn núi phía tây.
Ở đây sườn quá dốc, băng tuyết chưa thật rắn chắc để mỗi xe có thể leo lên với tám con ngựa kéo. Georges quyết định mỗi lần chỉ hai xe đi lên, buộc tất cả ngựa trong đoàn xe kéo, khi hai xe ấy lên đến nơi, mấy con ngựa sẽ quay trở xuống kéo hai xe khác, cứ như thế cho đến khi mười chiếc xe họp thành đoàn lên chỗ chiếc xe thứ nhất. Hai con ngựa dành thắng theo kiểu cánh cung vào xe chúng tôi. Những người bạn đường đối xử với chúng tôi như anh em. Những việc đó được tiến hành mà chúng tôi không cần phải đưa chỉ dụ của Hoàng đế ra một lần nào.
Ở đây việc sắp đặt có đôi chút thay đổi. Xe của chúng tôi nhẹ hơn, được chuyển từ giữa đi lên đầu. Hai người đi trước cầm những ngọn giáo dài thăm dò đường. Georges cầm cương con ngựa đầu của chúng tôi, hai người đi sau, dùng búa sửa lại mặt băng sau xe, để lại dấu vết cho xe sau lần theo. Tôi đi giữa chiếc xe và vực thẳm, thích thú vì có dịp đi bộ, và chúng tôi bắt đầu leo lên, hai chiếc xe khác theo sau.
Sau một giờ rưỡi không có sự cố gì chúng tôi lên đến một mảng cao nguyên chung quanh có cây to. Chỗ này tạm nghỉ rất thuận lợi. Tám chiếc xe khác phải kéo lên từng hai chiếc một như hai chiếc đi đầu tiên. Vậy là phải mất tám tiếng đồng hồ chưa kể thời gian để cho những con ngựa quay trở xuống. Khó hy vọng tập hợp được tất cả trước khi trời tối.
Những lái xe, trừ hai người ở phía dưới giữ hành lý, tất cả cùng chúng tôi nghiên cứu thực địa, mọi người đều nhận thấy đã đi đúng đường. Chỉ phải theo những vết xe, họ quay trở xuống, bốn người ở lại với Georges, Ivan và tôi để cất tạm một căn lều.
Louise ngồi trong xe, bọc người trong áo khăn lông, không sợ gì lạnh. CÔ bình tĩnh chờ đợi chúng tôi dùng búa đẵn những cây chung quanh, chỉ chừa lại bốn cây làm bốn cọc lều. Sau một giờ, vừa để làm cho nóng người, nhờ sự khéo léo của các kiến trúc sư bất ngờ, mấy người đã dựng xong một chỗ trú chân. chúng tôi đào tuyết bên trong cho đến lớp đất, lấy tuyết trám phía ngoài căn nhà rồi đốt lửa lên, khói thoát ra ở lỗ hổng khoét trên mái lều. Louise xuống xe vào ngồi trước bếp lửa; con gà thứ hai đã được vặt lông buộc chân treo vào một sợi dây, xoay đều các mặt. Toán xe thứ hai đã lên tới nơi.
Đến năm giờ chiều, tất cả các chiếc xe đậu thành hàng trên cồn đất, ngựa được tháo ra cho ăn thân bắp. Mọi người xúm vào nấu một món súp trong chiếc nồi to, xát mỡ vào bánh mì và với chai rượu chúng tôi để lại, họ cùng ăn tối.
Ăn xong chúng tôi tự sắp xếp nằm sao hay vậy. Những người đánh xe muốn dành lều cho chúng tôi và họ sẽ ngủ ngoài trời với đám ngựa nhưng chúng tôi dứt khóat từ chối,  buộc họ phải vào nằm trong lều họ đã dựng lên, thống nhất với nhau một người thức gác với khẩu các bin của tôi để đề phòng chó sói và gấu, từng giờ một sẽ đổi gác. Ivan và tôi cùng năn nỉ để được thức gác nhưng bị từ chối.
Cho đến lúc đó tình hình khá dễ chịu, ngủ không lạnh lắm nhờ quần áo lông bà Bá tước cung cấp rộng rãi cho chúng tôi. Đang lúc ngủ ngon nhất thì tiếng súng làm chúng tôi thức giấc.
Tôi nhảy ngay dậy, tay cầm khẩu súng ngắn cùng Ivan lao ra cửa. Những người đánh xe chỉ ngẩng đầu hỏi xem có việc gì, thậm chí một hay người không hề thức giấc.
Georges vừa bắn một con gấu, con vật mò mẫm lại gần căn lều vài chục bước chân rồi như muốn xem rõ có gì bên trong, nó đứng dựng trên hai chân sau, lợi dụng tư thế ấy Georges bắn một phát rồi bình tĩnh nạp đạn lại trong lúc tôi đến gần bên ông. Tôi hỏi ông có băn trúng nó không. Ông trả lời chắc chắn là trúng.
Lúc những người nhổm dậy biết có con gấu thì họ muốn đuổi theo con vật, nhưng con vật đã bị thương, để lại vết máu trên tuyết, chỉ có Georges mới có quyền đuổi theo. David, con trai ông, khoảng hai mươi lăm, hai mươi sáu tuổi được phép đuổi theo. Tôi gọi anh ta lại đưa khẩu súng nhưng anh ta ra hiệu đã có con dao và chiếc búa là đủ.
Tôi nhìn theo khoảng năm mươi bước, thấy anh bước xuống vực, vừa đi vừa cúi xuống để không mất vết máu trên tuyết trong bóng tối. Những người đánh xe quay vào lều, Georges tiếp tục phiên gác, tôi không ngủ lại được, cùng ngồi với ông. Một lúc sau ở phía con trai Georges mất hút, có tiếng gầm, người cha cũng nghe thấy vì ông bấu chặt vào cánh tay tôi và không nói gì. Mấy giây tiếp theo lại có tiếng gầm, tôi cảm thấy những ngón tay sắt của Georges càng xiết mạnh. Năm phút im lặng, dài bằng năm thế kỷ, đối với ông bố phấp phỏng, rồi năm phút nữa và có tiếng người dội lại. Georges thở phào, thả tay tôi và ngoảnh lại:
Ngày mai chúng ta sẽ có bữa ăn tốt hơn hôm nay; con gấu chết rồi.
Ồ, lạy Chúa! – một tiếng nói hiền dịu cất lên phía sau lưng chúng tôi – Georges, tại sao ông để con trai một mình đuổi theo con thú như thế mà hầu như không có vũ khí trong tay?
Thưa bà – Georges nói với một nụ cười tự hào – chúng tôi biết rõ loài gấu. Trong đời tôi đã giết chết năm mươi con mà chỉ bị sây sát vài chỗ không đáng nói. Làm sao con trai tôi lại có thể bị tai nạn hơn tôi được?
Thế nhưng – tôi nói – không phải lúc nào ông cũng bình tĩnh như thế này, chứng cứ là ông suýt làm gãy tay tôi.
À – ông bảo – qua tiếng gầm của con gấu, tôi biết nó đang vật lộn với con trai tôi. Cũng yếu đuối đấy, thưa ngài, nhưng người bố vẫn là người bố.
Lúc đó chàng trai trở lại ngay chỗ anh mất hút và đi hay về, anh đều lần theo vết máu. Như muốn tỏ ra không yếu đuối nữa, Georges không ra đón David mà chỉ có một mình tôi đi.
Anh mang về bốn chiếc chân gấu vốn là phần được ưa chuộng và dành cho chúng tôi. Phần còn lại anh không mang về được, con gấu nặng ít nhất năm trăm ký lô.
Nghe tin ấy, những người nằm ngủ đều thức dậy hết, hăng hái đi khiêng con gấu. David cởi chiếc áo lông cừu để lộ vai, con gấu đã tát anh một cú rất mạnh làm lòi cả xương. Anh mất máu rất ít và vón cục lại ngay. Louise muốn lấy nước nóng rửa vết thương và băng lại nhưng anh lắc đầu nói đã khô rồi. Anh lấy mẩu mỡ xát vào vai choàng lại tấm da cừu. Cha anh ra ngoài, cử sáu người đánh xe đi khiêng con gấu.
Phiên gác của Georges kết thúc, ông đến ngồi gần con trai. Chàng trai kể lại cho ông già nghe các chi tiết về trận đánh. Nghe chuyện, đôi mắt Georges đỏ như than hồng. Louise tặng người bị thương số khăn áo lông trùm người nhưng David từ chối, kể chuyện xong anh tựa đầu vào vai cha và ngủ.
Chúng tôi cũng rất mệt, chẳng mấy chốc ngủ thiếp đi, năm giờ sáng mới thức dậy và không có sự cố nào làm gián đoạn giấc ngủ cả.
Chúng tôi đang thất vọng và với bốn cây giáo cắm xuống đất cùng tấm vải trùm xe, chúng tôi làm một loại lều tạm thì thấy con trai Georges cùng hai xe ngựa chở củi phi nhanh đến. Những con người tốt bụng ấy đã nghĩ đến chúng tôi, chở chất đốt lên trước. Lúc làm lều xong, chúng tôi bới tuyết, David đào một lỗ sâu một bộ, nhóm củi đốt đầy lửa lỗ than hồng, bỏ hai chiếc chân gấu lên trên, vùi than lên trên như nướng khoai tây rồi bỏ thêm vào lò nướng dã chiến ấy một bó củi, sau hai giờ chỉ còn là một đống than.
Vừa chủân bị bữa ăn, người đầu bếp vừa chạy ra cửa lều xem thời tiết. Bầu trời đầy mây, không gian trầm lặng, chứng tỏ đêm tới sẽ có thay đổi, mà mọi thay đổi trong hoàn cảnh của chúng tôi hiện nay đều không tốt. Vì thế khi toán xe thứ hai lên tới nơi, những người đánh xe họp bàn, nhìn trời, xem hướng gió để phán đoán tình hình. Kết quả chắc không hay lắm vì họ đi vào, buồn chán ngồi quanh bếp lửa. Không muốn tỏ ra lo lắng trước mặt Louise, tôi cử Ivan đi hỏi tình hình. Một lúc sau Ivan trở lại nói thời tiết trở sang đợt tuyết rơi, họ sợ ngày hôm sau ngoài bão tuyết và lở núi, thật khó đi được đúng đường. Mà đường xuống núi lại có nhiều vực sâu, đi chệch một tí có thể chết người. Đúng điều nguy hiểm tôi đã lo ngại.
Dù lo lắng những người bạn đường của chúng tôi vẫn nghĩ đến cái đói: vừa ngồi quanh đống lửa, họ bắt đầu cắt mỏng thịt gấu đặt lên trên than hồng. Còn chúng tôi người ta dành cho món ăn ngon hơn; những chân gấu nướng. Khi người làm bếp thấy chân gấu đã chín, anh cẩn thận cời than và lấy ra từng chiếc một.
Lần này nữa tôi xin thú nhận có cảm giác không thú vị lắm, đôi chân lớn quá cỡ, hình dạng thiếu hấp dẫn. Sau khi để lên khúc gỗ thông mà các bạn đường đã cưa cho chúng tôi làm bàn, với con dao, người đầu bếp bắt đầu gỡ lớp da cứng bọc bên ngoài.
Khi chuẩn bị xong, món ăn suýt làm tôi mất hứng thú nhưng do hương vị kích thích lại làm tôi muốn ăn, lột hết lớp da, đôi chân gấu trông như đôi tay của người khổng lồ. Ngập ngừng một lúc, hấp dẫn vì hương vị, không thích vì hình dạng, nhưng cũng muốn nếm thử món ăn rất được ca ngợi này. Nhìn lại Ivan thấy rõ ông ta đang thèm thuồng, tôi ra hiệu cho ông nếm đi, không đợi bảo đến hai lần, ông cắt ăn một trong hai chiếc. Hiển nhiên thấy ông thật thoả mãn, tôi cũng làm như ông, và ngay từ miếng đầu, buộc phải công nhận ông có lý.
Còn Louise không bị tác động gì về lời mời mọc cũng như về tấm gương chúng tôi nêu ra, cô ăn bánh mì với một ít thịt heo quay và không muốn uống rượu. Cô giải khát bằng tuyết.
Trời mỗi lúc mỗi tối và bóng đêm càng dày đặc hơn, chỉ rõ thời tiết càng xấu. Những con ngựa cụm sát vào nhau theo sự lo sợ của bản năng. Thỉnh thoảng có những đợt gió mạnh đã có thể bốc mái lều lên nếu các bạn đường không cẩn thận dựa vào vách đá lớn. Chúng tôi vẫn thu xếp để ngủ trong điều kiện có thể. Chiếc lều không đảm bảo cho một người đàn bà, Louise vào trong xe, tôi đóng cửa bằng tấm da gấu giết được hôm trước rồi trở về lều. Những người đánh xe nhường chỗ cho chúng tôi, họ cho rằng mình ngủ trong xe là rất tốt. Chỉ có con trai Georges, theo lệnh cha, và vì vết thương còn đau, ở lại làm người bạn cùng phòng với chúng tôi. Georges coi thường thói uỷ mị, ngủ ngay trên đất, bọc người trong những tấm da cừu của ông và gối đầu trên một tảng đá. Một người đánh xe khác, như hôm trước, gác trước cửa lều.
Sau khi thăm mọi việc được sắp xếp xong, tôi trở về lều, thấy giữa đường có một đống cành cây lớn người ta đã nhóm lửa. Đống lửa thứ hai này không để sưởi ấm ai cả mà để đuổi những con sói hấp dẫn vì mùi thịt nướng đến lởn vởn quanh chúng tôi. Người gác đêm có nhiệm vụ coi cả hai đống lửa trên đường đi và trong lều.
Chúng tôi bọc người trong quần áo ấm, không yên lòng thì ít nhất cũng cam chịu chờ đợi hai kẻ thù là chó sói và tuyết. Không cần chờ lâu, chưa đầy nửa giờ tuyết bắt đầu rơi và nghe thấy tiếng chó sói hú từ xa. Nhưng vì quá mệt và không nghe thấy tiếng chó hú lại gần, hai mươi phút sau tôi ngủ thiếp đi.
Không biết đã ngủ được bao lâu, tôi giật mình thức dậy vì có một khối gì rất nặng rớt đè lên người, giật mình tỉnh dậy, giơ tay ra nhưng gặp trở ngại, muốn kêu lên nhi tôi hỏi lại xem.
Alexis mỉm cười nghi ngờ.
Chúng ta sẽ đề nghị lên Hoàng đế.
Vâng, rồi ba tháng nữa mới có  trả lời…Trong lúc đó…Ông không biết ở trên đất nước này như thế nào đâu! Lạy Chúa!
trong mắt Bá tước tràn đầy nỗi thất vọng làm tôi sợ.
Thê thì – tôi cười nói tiếp – nếu cần tôi sẽ ở đây với ông trong ba tháng ấy, chúng ta sẽ nói chuyện với nhau về cô ấy và ông sẽ kiên trì. Vả lại chưa biết Tỉnh trưởng phải động lòng hay cứ nhắm mắt lại.
Alexis nhìn tôi, cũng cười:
Ở đây – ông nói – Không trônng mong gì những điều ấy. tất cả đều lạnh như mặt đất. Nếu đã có lệnh thì sẽ được thi hành và tôi sẽ không được gặp cô ấy.
Lúc ấy ông Đội trưởng bước vào.
Thưa ông! – Alexis kêu lên và chạy tới – một người đàn bà dũng cảm, hy sinh tuyệt vời rời bỏ Saint-Peterbourg để đến đây với tôi, vượt qua hàng nghìn hiểm nguy, cô ấy đã ở đây và người này bảo tôi rằng tôi không được gặp…Anh ta nhầm chăng?
Không, thưa ông – Đội trưởng lạnh lùng trả lời – ông biết rõ tù nhân không được tiếp xúc với người đàn bà nào hết.
Thế nhưng, Hoàng thân Troubetskoï được phép mà tôi thì không. Có phải vì ông ấy là Hoàng thân không?
Không, nhưng vì bà ấy là vợ ông ta.
Và nếu Louise là vợ tôi, người ta không chống lại việc tôi gặp cô ấy chứ?
Không hề, thưa ông.
Ồ! – Bá tước kêu lên như trút được gánh nặng.
Sau một lúc ông nói với viên Đội trưởng:
Thưa ông, mong ông cho phép linh mục đến nói chuyện với tôi.
Ông ấy sẽ được thông báo ngay – Đội trưởng nói.
Còn ông, bạn thân mến – Bá tước nắm chặt cánh tay tôi tiếp tục đề nghị - sau khi là người bạn đường và là người bảo vệ Louise, ông là người làm chứng và đại diện cho cha cô ấy được chứ?
Tôi quàng tay vào cổ ông, vừa hôn vừa khóc, không nói lên được lời nào.
Nhờ ông đi tìm Louise – ông lại nói – bảo cô ấy ngày mai chúng ta sẽ gặp nhau.
Ngày hôm sau, vào lúc mười giờ sáng, Louise do tôi và ông Tỉnh trưởng hướng dẫn, Bá tước Alexis, theo sau là Hoàng thân Troubetskoï và tất cả những người lưu đày khác, mọi người bước qua một cửa ra vào của nhà thờ Koslovo, vào quỳ im lặng trước bàn thờ rồi nói với nhau những lời đầu tiên.
Đấy là tiếng "có" trịnh trọng gắn chặt họ vào với nhau vĩnh viễn.
Hoàng đế gởi cho ông Tỉnh trưởng một bức thư đặc biệt do Ivan chuyển giao mà chúng tôi không biết, ra lệnh Bá tước chỉ được gặp Louise với danh nghĩa vợ mình.
Bá tước, như ta đã thấy, đã đi trước ý muốn của Hoàng đế.
 
°
Trở lại Saint-Peterbourg, tôi nhận được những bức thư gọi tôi nhất thiết phải về Pháp.
Đang là tháng hai, đường biển không đi được nhưng người ta đã tổ chức hoàn hảo xe trượt tuyết, tôi không hề ngần ngại đi theo con đường này.
Tôi quyết định rời thành phố của Pierre Đại đế cũng dễ dàng vì đi vắng không xin phép nghỉ nhưng Hoàng đế có lòng độ lượng không thay thế tôi trong đơn vị, tôi đã mất vì cuộc âm mưu một phần học trò và tuy họ phạm tội tôi cũng không ngăn được sự nuối tiếc họ.
Vậy là tôi theo con đường đã đi khi tôi đến đây mười tám tháng trước, lại qua Moscou cổ và một phần Ba Lan, nhưng lần này trên một tấm thảm tuyết mênh mông.
Vừa vào đất nước của Hoàng đế Phổ, ló đầu ra ngoài xe tôi rất ngạc nhiên nhìn thấy một người đàn ông khoảng năm mươi tuổi, cao, mảnh dẻ, khô khan, mặc áo gi lê và quần đen, đi giày nhẹ đế mỏng có khoá, đội mũ nhẹ cao thành, mang một chiếc túi bên tay trái, cầm một chiếc vĩ cầm bên tay phải. Bộ quần áo có vẻ thật lạ và chỗ này thật khác thường đối với việc dạo chơi trên tuyết lạnh dưới hai mươi lăm độ. Vả lại thấy người lạ mặt giơ tay ra hiệu, tôi dừng lại chờ. Vừa thấy tôi dừng xe, ông sải bước dài tới nhưng vẫn không vội vàng, vẻ trịnh trọng duyên dáng. Khi ông càng tới gần, tôi nghĩ đã nhận ra con người này, đến bên cạnh thì tôi không còn nghi ngờ gì nữa. Đấy là người đồng hương tôi đã gặp trên con đường lớn khi vào Saint-Peterbourg, cũng trang bị như thế nhưng trong hoàn cảnh khác hẳn. Cách xe tôi hai bước chân, ông dừng lại lấy tư thế, đưa chiếc vĩ vào dây đàn, ba ngón tay nắm chặt lấy mũ:
Thưa ông – ông ta vừa nói vừa chào theo thể thức của một vũ công – chẳng phải thiếu kín đáo,tôi có thể hỏi ông tôi đang ở phần đất nào trên thế giới đây?
Thưa ông – tôi trả lời – ông đang ở quá Niémen một ít, cách Koenisberg khoảng ba mươi dặm, bên trái ông là Friedland và bên phải là biển Baltique.
A! A! – người đối thoại với tôi thốt lên, rõ ràng hài lòng về câu trả lời có vẻ văn minh của tôi.
Nhưng thưa ông, đến lượt tôi cũng chẳng phải thiếu kín đáo, ông có thể cho tôi biết làm sao ông lại trang bị như thế, đi bộ, tất lụa đen, mũ cao thành, vĩ cầm mang vai, cách dân cư đến ba mươi dặm và trong cái rét như thế này\
Vâng, đặc biệt đấy, đúng không? Nguyên do thế này. Ông đảm bảo tôi đã ở ngoài địa phận vương quốc Nga hoàng rồi đấy chứ?
Ông đang ở trên đất của vua Fréderic-Guilliame.
Thế này! Phải nói với ông tôi không may đã dạy khiêu vũ cho những chàng trai khốn khổ có tội âm mưu chống Hoàng đế. Để hướng dẫn nghệ thuật của mình, tôi thường xuyên đến nhà người này, người khác, họ nhờ tôi chuyển cho nhau những bức thư giê't người. Thưa ông, xin thề danh dự, tôi trao tay những bức thư ấy, ngây thơ như đấy chỉ là giấy mời đi ăn tối hoặc đi dạo chơi. Cuộc âm mưu nổ ra, chắc ông đã biết.
Tôi gật đầu ra hiệu có.
Không hiểu vì sao người ta biết vai trò của tôi đến mức, thưa ông, tôi phải vào tù! Trường hợp nghiêm trọng vì bị coi là đồng loã, không tố cáo. Sự thực là tôi chẳng biết gì hết nên ông hiểu cho, tôi không tố cáo được. Điều ấy cũng thấy rõ đúng không?
Tôi gật đầu tỏ vẻ hoàn toàn tán thành ý kiến của ông.
Thế là thưa ông, trong lúc chờ đợi bị treo cổ, người ta đưa tôi vào một chiếc xe đóng kín, cũng rất tốt nhưng mỗi ngày chỉ ra ngoài hai lần cho những việc cần thiết như ăn trưa, ăn tối.
Tôi gật đầu ra hiệu rất hiểu.
Tóm lại, thưa ông, cách đây mười lăm phút chiếc xe bỏ lại tôi trên cánh đồng này rồi phi nước đại. Vâng, rồi phi nước đại, không nói gì với tôi, thật thiếu lễ độ nhưng cũng không đòi hỏi tiền lót tay, là điều khá tế nhị. Cuối cùng tôi nghĩ mình đang ở Tobolsk, quá dãy Ourals. Ông biết Tobolsk không?
Tôi gật đầu tỏ rõ trình độ kiến thức của tôi cũng đạt đến mức ấy.
Do vậy tôi chỉ còn xin lỗi đã quấy rầy ông và muốn hỏi ông nên sử dụng phương tiện giao thông ở đất nước này như thế nào?
Ông đi về hướng nào, thưa ông?
Thưa ông tôi muốn trở về Pháp. Người ta có để lại tiền cho tôi, tôi nói điều này vì ông không có vẻ gì là một kẻ trấn lột. Người ta có để lại tiền cho tôi và do tôi chỉ có một khoản tài sản nhỏ, gần một nghìn hai trăm livres lợi tức,thưa ông, nên không đi ngao du thiên hạ được, nhưng nếu tiết kiệm thì cũng đủ sống. Vậy là tôi muốn trở về Pháp để bình yên sử dụng một nghìn hai trăm livres của tôi, xa lánh mói thăng trầm của đời người và trốn tránh con mắt của các chính quyền. Để trở về tổ quốc, tôi muốn hỏi ông những phương tiện giao thông nào ít…ít tốn kém nhất?
Theo tôi, ông bạn thân mến – tôi đổi giọng nói và bắt đầu thương hại con người này, tuy vẫn giữ nụ cười và tư thế của một vũ công nhưng đã run rẩy cả người – nếu ông muốn, tôi có một phương tiện giao thông rất đơn giản và dễ dàng.
Cách nào vậy?
Tôi cũng trở về Pháp, tổ quốc tôi. Ông hãy lên xe tôi, đến Paris tôi để ông xuống đại lộ Bonne-Nouvelle như tôi đã để ông xuống khách sạn Londres khi tôi tới Saint-Peterbourg.
Sao? Đi cùng ông ư, ông Grisier thân mến?
Vâng, hân hạnh được phục vụ ông, nhưng đừng để mất thì giờ. Ông đang vội, tôi cũng thế. Đây là một nửa áo khăn lông thú của tôi, ông ủ vào cho ấm.
Thực tình tôi đã bắt đầu thấy lạnh. A!..
Ông để chiếc vĩ cầm xuống, có đủ chỗ đấy.
Không, cám ơn. Nếu ông cho phép tôi mang nó trong tay.
Tuỳ ông. Anh đánh xe ngựa, lên đường thôi.
Và chúng tôi lại phi nước đại
Chín ngày sau, tôi để ông bạn đi đường xuống trước mặt đường qua rạp Opéra. Từ đấy không bao giờ tôi gặp lại ông nữa.
Về phần tôi, do không có tính thích làm giàu, tôi tiếp tục việc dạy. Chúa ban phúc cho nghệ thuật của tôi, rất nhiều học trò nhưng không người nào bị giết trong cuộc đấu. Đấy là hạnh phúc lớn nhất mà một thầy dạy đánh kiếm có thể mong muốn.
 
HẾT

Xem Tiếp: ----

Truyện Người thầy dậy đánh kiếm Mở đầu CHƯƠNG 1 CHƯƠNG 2 CHƯƠNG 3 CHƯƠNG 4 CHƯƠNG 5 CHƯƠNG 6 CHƯƠNG 7 CHƯƠNG 8 /div>Đợt nghỉ này tuy ngắn nhưng rất tốt cho mọi người, người và vật sẵn sàng lên đường với một nghị lực mới. Nhưng trong lúc dừng lại, một lớp tuyết dày bám trên trục bánh xe làm cho nó không quay được, phải dùng búa bổ để lăn bánh được bình thường. Việc này mất đến nửa giờ, khi chúng tôi lên đường thì đã gần trưa.
Chúng tôi đi được ba tiếng đồng hồ không có chuyện gì xảy ra, nghĩa là từ lúc ra đi lần đầu đã vượt được bảy dặm. Bỗng nghe có tiếng răng rắc tiếp theo như một tiếng chuông rền vọng lại, đồng thời chúng tôi cảm thấy một cuộn gió thổi qua và không khí tối sầm lại vì bụi tuyết bay mù mịt. Georges dừng xe ngay lại kêu lên "Tuyết lở!". Và ai cũng câm lặng, đứng yên chờ đợi. Sau một lúc, tiếng ồn chấm dứt, trời lại trong sáng, và đợt gió mạnh như vòi rồng tiếp tục, quét tuyết và lật đổ hai cây thông giao nhau trên một mỏm đá phía dưới chúng tôi năm trăm bước chân. Tất cả những người đánh xe reo lên vui mừng, nếu chúng tôi bước thêm năm trăm mét nữa, đã bị cơn lốc cuốn đi hoặc vùi mình dưới tuyết lở. Thật vậy, cách chỗ chúng tôi năm trăm mét, con đường ngập trong tuyết.
Nói đúng ra không phải một cảnh tượng bất ngờ vì khi bắt đầu nhận thấy vòi rồng, Georges nói với tôi ông sợ nó ảnh hưởng tới chúng tôi trên đường đi. Lớp tuyết ấy còn nhẹ và dễ vụn, chúng tôi cố đi xuyên qua, thúc ngựa tiến vào nhưng ngựa lùi lại như xông vào một bức tường. Chúng tôi lấy ngọn giáo đâm buộc chúng tiến lên nhưng chúng dựng người lên rồi đôi chân trước thả xuống bức màn tuyết ấy. Tuyết vào cả mắt, mũi làm chúng hung hăng lùi lại. Cố vượt qua cũng vô ích, phải chặn tuyết lại làm thành một lỗ hổng.
Ba người đánh xe leo lên chỗ cao nhất của chiếc xe và người thứ tư leo lên vai họ, cố khống chế lũ ngựa trở lại. Khối tuyết có thể dày đến hai chục bộ, tai hoạ không lớn như người ta tưởng lúc đầu, tất cả chúng tôi phải bỏ công sức ra
trong hai, ba giờ làm việc.
Bầu trời thật âm u, mới bốn giờ chiều đã tối rất nhanh, không có thì giờ dựng lều, cũng không có cây đốt lửa. Chúng tôi phải dừng lại, sắp xếp xe thành hình vòng cung, trong đó cho ngựa và chiếc xe của chúng tôi vào giữa. Như vậy để đề phòng chó sói, không có lửa chúng sẽ tiến lại gần. Vừa sắp xếp xong thì trời tối hẳn.
Không cách gì nấu ăn được, những người vận tải ăn một miếng thịt gấu sống, có vẻ cũng ngon lành như khi ăn thịt nướng chín. Tôi dù đói cũng không ăn được loại thịt sống ấy, đành ăn bánh cùng Louise và đưa cho họ chai rượu cuối cùng nhưng Georges từ chối, nói để dành lại cho anh em làm việc.
Louise vốn tỉnh trí, nhắc tôi có hai chiếc đèn của chiếc xe trạm mà tôi lấy mang theo. Tôi tìm ra, thấy vẫn còn đủ nến.
Mọi người reo lên vui mừng. Không phải một loại bếp lửa có thể đuổi được các loại thú săn mồi nhưng nhờ ánh sáng chúng tôi có thể thấy chúng tiến lại gần. Hai chiếc đèn buộc vào hai đầu cây sào cắm sâu xuống tuyết, châm nến lên chúng tôi vui mừng thấy ánh sáng tuy mờ nhạt cũng chiếu được một khoảng năm mươi bước chân chung quanh chúng tôi.
Có mười người tất cả, hai đứng gác trên xe, tám người kia chọc thủng khối tuyết đọng phía trước. Từ hai giờ chiều trời đã bắt đầu lạnh, tuyết bắt đầu cứng lại, không đào được một lối ra. Tôi cùng làm việc với họ, nghĩ rằng hoạt động liên tục có thể đỡ lạnh hơn.
Trong ba bốn giờ liền chúng tôi làm việc khá bình tĩnh. Chai rượu của tôi tuy Georges phân phối dè sẻn, đã có tác dụng rất tốt. Vào lúc mười một giờ đêm nghe có tiếng hú kéo dài và rất gần,và nghe có tiếng Georges đang phiên gác gọi. chúng tôi bỏ dở công việc mới được ba phần tư, chạy lại trèo lên những chiếc xe. Hơn mười hai con chó sói đã quanh quẩn hơn một tiếng đồng hồ ở đấy. Vì có ánh sáng đèn nên chúng không dám lại gần, lượn lờ giữa biên giới ánh sáng và bóng tối, cuối cùng một con đến thật gần, nghe tiếng hú của nó Georges hiểu rằng nó sẽ tiến sát hơn nữa nên gọi chúng tôi.
Lúc đầu tôi quả thật không yên tâm khi trông thấy những con vật to lớn, ít nhất cũng lớn gấp đôi những con sói ở châu Âu, phải kiểm tra lại khẩu các bin cầm ở tay và những khẩu súng ngắn ở thắt lưng đã được nạp đạn. tất cả sẽ hoạt động tốt, nhưng mặc dù lạnh, tôi vẫn cảm thấy mồ hôi toát ra trên mặt.
Tám chiếc xe làm thành hàng rào vòng cung ở chính giữa có bầy ngựa và Louise trên xe chúng tôi, một phía dựa vào vách núi thẳng đứng hơn tám mươi bộ, phía kia là khối tuyết lở làm thành tường lũy sau lưng chúng tôi. Còn hàng xe như những lỗ châu mai của một thành phố bị vây hãm, mỗi người trang bị giáo, búa, dao; Ivan và tôi nắm chắc khẩu các bin và một đôi súng ngắn.
Chúng tôi đứng như thế nửa giờ như thể hai bên lượng sức mình. Những con sói thỉnh thoảng đâm ra ngoài vùng ánh sáng một cách liều mạng nhưng còn e ngại. Cung cách ấy có vẻ vụng về làm  chúng tôi quen dần với sự nguy hiểm. Về phần tôi như có cơn sốt tiếp theo với nỗi sợ ban đầu, nóng lòng  về tình hình ở trong mối nguy hiểm nhưng chưa đánh nhau. Cuối cùng một con sói tiến ra rất gần. Tôi hỏi Georges có nên bắn cho nó một phát để ngăn chặn sự táo bạo này. Ông nói:
Được, nếu ông chắc chắn bắn nó chết ngay. Những con sói bạn sẽ xông vào ăn thịt nó như những con chó trong một chuồng. Cũng đúng là – ông lẩm bẩm – khi đã có mùi máu, chúng như những con quỷ.
Tôi đã sử dụng thành thạo nên gần như chắc chắn về phát súng của mình – tôi bảo.
Vậy ông bắn đi, dù sao cũng phải kết thúc bằng cách này hay cách khác.
Ông nói chưa dứt thì phát súng đã được bắn ra và con sói oằn người trên tuyết.
Cùng lúc ấy, như Georges đã nói, năm sáu con sói khác như những chiếc bóng lao vào vùng sáng, ngoạm lấy con chết lôi vào bóng tối.
Tuy sói ở ngoài tầm nhìn thấy, những tiếng hú càng nhiều, chứng tỏ bày sói đã tăng số lượng. Đấy là một loại gọi đàn đến ăn; có bao nhiêu con trong vòng hai dặm đều tập trung hết trước mặt chúng tôi. Những tiếng hú chấm dứt.
Ông có nghe tiếng ngựa chúng ta không? – Georges hỏi.
Chúng làm gì thế?
Chúng dẫm chân và hí lên. Có nghĩa là chúng ta phải sẵn sàng.
Nhưng tôi tưởng sói chạy đi rồi, không nghe chúng gầm gừ nữa.
Không, chúng ăn xong rồi và đang liếm môi. Này, chúng đến đấy! Các anh em, hãy chú ý!
Thực vậy, từ tám đến mười con sói, trong bóng tối như những con lừa, đột ngột vào trong vòng ánh sáng bao quanh chúng tôi, rồi không ngần ngừ, không hú, lao thẳng vào chúng tôi và thay vì chui xuống dưới, táo tợn nhảy lên trên xe tấn công trực diện chúng tôi. Cuộc tấn công ấy nhanh như ý nghĩ, tôi vừa nhận thấy thì chúng đã nhảy xổ vào. Tuy vậy hoặc tình cờ hoặc vì chúng biết súng từ đâu bắn ra, không con nào nhảy lên xe tôi, nên tôi có thể phán đoán trận đánh tốt hơn là bị tấn công thẳng.
Bên phải tôi, chiếc xe do Georges bảo vệ bị ba con sói tấn công. Một con vừa tầm ông già đâm giáo xuyên mình, con kia bị tôi bắn các bin giết chết, còn một con, thấy Georges giơ búa đánh, tôi không lo ngại nữa, ngoảnh sang nhìn chiếc xe bên trái có David.
Ở đây tuy có hai con nhảy lên nhưng David còn bị thương bên vai trái. Anh đâm giáo trúng một con, nhưng hình như không trúng huyệt, con sói quay lại cắn gẫy cán giáo. David chỉ có trong tay một đoạn gỗ. Cùng lúc ấy con sói kia men theo dây buộc tiến lại phía David. Tôi nhảy ngay từ xe này sang xe kia và trong lúc David đang rút giáo, tôi dùng súng ngắn bắn vỡ đầu con sói, con trước đó ngã lăn ra tuyết, giận dữ gầm ghè và cắn đoạn giáo đã đâm vào mình sâu đến sáu, tám đốt ngón tay, không nhổ ra được. Cũng thời gian ấy Ivan giải quyết ở phía mình, tôi nghe một tiếng súng các bin, hai tiếng súng ngắn, biết rằng đối thủ đã lãnh đủ. Sau một lúc, bốn con sói lại đi qua ánh sáng nhưng lần này để chạy trốn, và điều lạ, hai hoặc ba con sói chúng tôi tưởng đã chết hoặc bị thương nặng, chồm dậy lết đi, để lại một vệt máu đàng sau. đi theo đồng bọn biến mất. Tổng kết lại chỉ có xác ba con sói còn lại ở chiến trường.
Tôi quay lại phía Georges phía dưới chiếc xe chỗ hai con sói đang nằm; con bị ông đâm bằng giáo và con bị tôi bắn chết.
Lắp đạn nhanh lên! – Ông nói – Tôi biết rõ cung cách của bọn này. Lắp đạn đi. Chúng ta chưa giải quyết xong dễ dàng thế này đâu.
Sao? - Tôi làm ngay và hỏi – Ông nghĩ chưa đuổi chúng đi hết được sao?
Ông nghe đấy, chúng đang gọi nhau. Xem kìa. Xem kìa…- ông vừa nói vừa đưa tay chỉ về phía chân trời.
Đúng thế, những tiếng hú xa đáp lại tiếng hú gần, rõ ràng ông già dẫn đường nói đúng. Trận tấn công vừa rồi chỉ là công việc của tiền tiêu.
Tôi quay lại thấy hai ánh mắt ánh lên như hai bó đuốc của một con sói đang  đứng trên chỏm khối tuyết nhìn vào trại của chúng tôi. Tôi nhắm bắn, viên đạn phát ra trong lúc nó xông vào đàn ngựa, bám vào cổ họng một con. Hai ba người xuống khỏi xe nhưng giọng Georges vang lênó:
Chỉ có một con sói, cần một người thôi, tất cả những người khác giữ vị trí…Còn ông – ông ngoảnh lại phía tôi – lắp đạn nhanh lên và bắn cho chắc tay.
Hai người lại lên xe và người thứ ba cầm con dao dài, bò sát bụng giữa hai chân ngựa đang lồng lộn giẫm chân và lao như điên vào giữa những chiếc xe bao quanh. Một lát sau lưỡi dao ánh lên rồi mất, con sói thả ngựa dựng đứng người trên chân sau, rồi dưới đất có một khối không rõ hình thù đang lăn lộn, không phân biệt được người và sói, có cái gì đó thật ghê sợ. Rồi người đứng lên, chúng tôi reo lên vui mừng vì quá hồi hộp.
David – người vừa đánh nhau với sói vừa nói vừa lay rũ người – Đến đây giúp tôi kéo xác chết này đi, không thì chẳng có cách gì giữ yên được mấy con ngựa.
David xuống xe, kéo con sói đến xe của bố anh, cùng với một người khác nâng cao lên. Georges nắm lấy chân sau của nó như nắm chân thỏ, kéo về phía mình và vứt ra khỏi vòng cung nơi hai, ba con đang nằm ở đấy, rồi quay lại người đánh xe đang ngồi dưới đất, trong lúc David lại trèo lên xe.
Này, Nicolas! – ông nói – Không lên vị trí à?
Không, già Georges, - anh ta nói – tôi nghĩ mình bị thương.
Eugène – Louise gọi tôi – Eugène, đến giúp tôi băng bó cho anh này, anh ta mất khá nhiều máu.
Tôi đưa khẩu các bin cho Georges, nhảy xuống xe chạy lại người bị thương.
Đúng thật, anh bị mất đi một mảng hàm và một vết thương lớn ở cổ. Tôi lấy một nắm tuyết đắp vào vết thương, không biết làm thế đúng hay sai. Nạn nhân lạnh quá kêu lên, bất tỉnh. Tôi tưởng anh ta chết.
Lại đây với chúng tôi, thưa ngài, lại đây! – Georges kêu lên – Những con sói đang lao tới!
Tôi để người bị thương cho Louise chăm sóc và leo lên xe.
Lần này tôi không theo dõi được chi tiết nào vì mải mê công việc của mình. Chúng tôi bị ít nhất hai mươi con sói tấn công. Tôi liên tiếp bắn hai khẩu súng ngắn và nắm lấy cây búa Georges đưa cho. Súng hết đạn tôi giắt vào thắt lưng và sử dụng vật được trang bị ấy.
Cuộc chiến kéo dài mười lăm phút, thật khốc liệt. Cuối cùng hàng ngũ chúng tôi reo lên chiến thắng, tôi phát huy một cố gắng cuối cùng. Một con sói bám vào dây buộc trên xe bò đến, tôi đánh một cú ghê gớm vào đầu, tuy búa trượt trên xương sọ, nó bị thương nặng ở vai, rơi ngã xuống phía sau.
Cũng như lần đầu, chúng tôi trông thấy lũ sói vừa bỏ chạy vừa kêu lên, qua vùng có ánh sáng rồi biến vào trong bóng tối. Lần này thì không trở lại nữa.
Mỗi người chúng tôi im lặng và ủ ê nhìn quanh mình, ba anh em đi đường bị thương ít nhiều, bảy, tám con sói nằm rải rác, rõ ràng nếu không tìm cách chiếu sáng chỗ này, hẳn chúng tôi đã bị sói sâu xé.
Mối nguy hiểm vừa qua càng làm chúng tôi cảm thấy nhất thiết phải xuống ngay vùng đồng bằng. Ai dự đoán được những tai nạn mới khác trong đêm tới nếu ở lại trên núi?
Chúng tôi đặt những người bị thương gác trên các xe sau khi băng bó cho họ vì tuy nghe tiếng hú của sói xa dần, chắc chúng đã đi khỏi nhưng vẫn phải đề phòng. Sau đó chúng tôi xúm vào đào tuyết.
Sáng ra khối tuyết đã bị đập vỡ từng phần. Georges ra lệnh thắng xe. Bốn người làm việc này còn bốn người khác lột da chó sói vì thời kỳ ấy bộ lông chó sói cũng rất có giá trị. Lúc sắp đi người ta thấy con ngựa bị chó sói cắn bị thương nặng không tiếp tục cuộc hành trình được. Người chủ con ngựa ấy mượn tôi khẩu súng ngắn, dẫn nó ra một góc và bắn vỡ đầu.
Làm xong việc ấy chúng tôi im lặng và buồn bã lên đường. Nicolas vẫn trong tình trạng gần như thất vọng và Louise đã cho đưa anh lên xe của cô, những người khác nằm trong xe họ còn chúng tôi đi bộ theo xe.
Sau ba, bốn giờ đi đường, xe suýt lao xuống vực vài chục lần, chúng tôi đến một cánh rừng nhỏ. Anh em đánh xe vui mừng nhận ra chỉ còn ba bốn giờ đi đường nữa chúng tôi sẽ đến ngôi làng đầu tiên ở phía bên sườn châu Á của rặng núi Ourals. Chúng tôi dừng lại nghỉ ngơi.
Ai cũng bắt tay vào làm việc, kể cả những người bị thương, trong mười phút ngựa được tháo ra, ba hoặc bốn cây thông bị ha, một đống lửa lớn bùng lên. Lần này nữa thịt gấu được dùng làm thực phẩm nướng chín, mọi người cùng ăn, kể cả Louise.
Sau đó ai cũng vội vàng ra khỏi dãy núi đáng nguyền rủa, lên đường ngay sau khi người ngựa ăn xong. Qua một giờ rưỡi đi đường, khỏi đường vòng một ngọn đồi, chúng tôi thấy nhiều cột khói như từ dưới đất bay lên: đấy là ngôi làng mong mỏi đến mà ai cũng nghĩ là sẽ không bao giờ đến được. Chúng tôi vào làng lúc bốn giờ chiều.
Chỉ có một quán hàng tồi tàn mà trong mọi trường hợp khác tôi sẽ không muốn sử dụng làm chuồng chó tuy lúc ấy đối với chúng tôi nó như một lâu đài.
Hôm sau khi chia tay, chúng tôi để lại cho Georges năm trăm rúp, đề nghị chia cho ông và các bạn đường.
--!!tach_noi_dung!!--


Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 12 tháng 5 năm 2007

--!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!--