Chương 3

Chuông điện thoại reo.
Trực ban đi vào nhắc chiều nay họp. Giật mình, thiếu tá Nguyễn Lân vội vã bỏ tập hồ sơ lên bàn và đi như chạy vào phòng họp.
Thượng tá Trưởng phòng đích thân ra mở cửa nhìn Lân cười thân mật.
Bước vào, anh đã thấy các đội và 1 số trinh sát các quận đang ngồi xung quanh bàn họp, chờ sẵn.
Ấn vai anh ngồi xuống ghế, trưởng phòng nói:
- Chậm đấy nhé.
- Dạ - Nguyễn Lân cười biết lỗi, thầm nhắc mình không nên có những sơ suất như thế này vào lần sau.
Trưởng phòng ra hiệu cho mọi người cùng ngồi xoay quanh bàn làm việc im lặng, ông cho 1 trinh sát tắt đèn phòng, cho mở máy quay phim.
Thượng tá trưởng phòng nói:
- Thời gian gần đây, trên địa bàn Thành phố có xảy ra 1 vụ án án mạng mà theo tổng kết đánh giá của đơn vị báo về, có khả năng của cùng 1 nhóm đối tượng gây án. Nạn nhân đều là những thanh niên ĐTLA, trẻ, có tuổi từ 17 đến 25. Đến nay đã 3 vụ rồi.
Tiếng máy quay phim chạy rè rè. Trên tường đang xuất hiện hình ảnh được quay tại hiện trường của 3 vụ án. Họ, những nạn nhân đều là những thanh niên rất trẻ. Một điểm dễ thấy các nạn nhân trước khi chết đều bị tra tấn rất tàn bạo, những vết roi, cắt, kìm và tụ máu bầm trên thi thể cho thấy điều đó. Nét mặt nạn nhân đều tỏ rõ sự kinh hoàng đau đớn trước khi chết.
Đều là những trinh sát hình sự dày dạn tiếp xúc với sự sống chết, thế nhưng trong phòng nét mặt các trinh sát vẫn bị căng thẳng trước những cái chết quá ư tàn bạo man rợ như thế này.
Thiếu tá Nguyễn Lân che miệng ho húng hắng. Anh đang cố che dấu cảm xúc trào lên khi thấy nạn nhân là những thanh niên trẻ và đặc biệt nạn nhân cuối có khuôn mặt hao hao giống Hoàng, em trai út của mình. Ang bàng hoàng mất mấy giây không trấn tĩnh nổi. Minh Thanh - đội phó đội 3 ghé tai thì thào " Anh không sao đấy chứ? ". Lân lắc đầu cố trấn tĩnh bản thân mình, trong lòng anh dâng lên 1 cảm giác đau đớn khó nói.
Đèn bật sáng, Trưởng phòng đứng lên:
- Đây là vụ án đặc biệt nghiêm trọng về tính chất của nó mà đến nay nó đã xảy ra tất cả là 3 vụ. Tại các quận 1, 3, 5. Nó có 1 số điểm đáng lưu ý: nạn nhân hầu hết là các thanh niên trẻ, độ tuổi từ 17 đến 25, đều là những kẻ ĐTLA. Họ đều là con nhà đàng hoàng, thậm chí có nạn nhân gia đình khá giả, có học thức. Thủ phạm có thể là 1 nhóm, bởi thủ đoạn gây án giống nhau và bọn này có thể mắc 1 chứng bệnh tâm thần nào đó vì các đối tượng nó nhằm vào đều là giới ĐTLA. Các nạn nhân đều bị tra tấn rất tàn bạo trước khi bị giết chết. Vụ việc là vậy, dù cho các nạn nhân có là ai thì họ đều là công dân và chúng ta là cơ quan bảo vệ pháp luật, chúng ta phải có trách nhiệm bảo vệ họ. chúng ta không chấp nhận để ngoài vòng pháp luật những tên giết người man rợ như vậy. Dư luận khá xôn xao, ban Giám đốc có chỉ đạo bằng mọi cách phải phá vụ án này nhanh nhất. Mức độ rất nguy hiểm, gây dư luận, nên ban Giám đốc quyết định thành lập chuyên án N.86 do tôi làm trưởng ban và thành viên là các đội của phòng và hình sự 1 số quận có liên quan. Phòng ta là đơn vị chủ công và thếu tá Lân, phó trưởng phòng kiêm đội trưởng đội 3 sẽ là thườngbtrực ban chuyên án, có trách nhiệm phối họp với các đơn vị để phá vụ án này.
Mọi người ồ lên khi nghe Trưởng phòng giới thiệu chức danh mới của thiếu tá Nguyễn Lân là phó phòng. Bản thân thiếu tá cũng bị bất ngờ mặc dù biết rằng mình đang được đề bạt, nhưng anh không ngờ lại nhanh đến như vậy.
Một cơn đau thắt chạy ngang ngực, Nguyễn Lân đứng dậy ấp úng.
- Báo cáo đồng chí Trưởng phòng, đồng chí có thể cho riêng cá nhân tôi xin được rút ra khỏi vụ án này. Phân công đồng chí khác được không ạ?
- Tại sao?
Trưởng phòng nhìn khuôn mặt nhợt nhạt vã mồ hôi của anh, ngạc nhiên, lo lắng:
- Đồng chí bị bệnh à?
- Không.... tôi.... - Thiếu tá ấp úng bất lực muốn tìm 1 lời giải thích nhưng sao nói không được. Trưởng phòng nhìn anh ân cần và lắc đầu.
- Nếu đồng chí bị bệnh xin rút thì tôi đồng ý. Lãnh đạo phòng sẽ phân công đồnh chí khác, còn không thì... đây là nhiệm vụ. Bởi vụ án này nằm trong phạm vi địa bàn, công việc của đô,i đồng chí đangbphụ trách.
Thiếu tá Nguyễn Lân hiểu điều ấy, anh đứng im lặng cúi đầu trước cái nhìn dò hỏi của mọi người.
Cắn môi suy nghĩ cuối cùng anh ngẩng đầu ngập ngừng.
- Tôi... báo cao đồng chí tôi xin nhận nhiêm vụ.
- Tốt lắm - Trưởng phòng hài lòng - Hôm nay tôi thông báo kế hoạch như vậy. Lát nữa đồng chí Lân nhận hồ sơ vụ án này về và họp lên kế hoạch báo cáo tôi. Cần bổ sung thêm 1 số trinh sát của các đội tham gia vụ án này. Tôi sẽ chỉ đạo chung, tuy nhiên mọi công việc cụ thể đồng chí Lân sẽ là người chịu trách nhiệm chính và điều động các lực lượng tham gia. Phải nhanh chóng phá án, đấy là mệnh lệnh.
- Rõ.
Mọi người lục tục đứng lên tiến đến bắt tay chúc mừng thiếu tá Lân lao xao. Rửa ghế thôi, vài người vui đùa.
Trưởng phòng kéo Nguyễn Lân ngồi lại. Chỉ còn 2 người trong phòng, ông đẩy ly trà đến trước mặt Lân và trách:
- Dạo này mình thấy cậu có vẻ xuống sắc quá, Huệ nó vẫn chưa về à?
Nguyễn Lân khẽ lắc đầu.
- Có cần tôi đến giải thích cho cô ấy hiểu không?
- Không cần anh ạ.
- Không cần? Vợ chồng cậu lạ thật, ly thân hay ly dị? Cả 1 năm nay rồi còn gì nữa, 2 đứa bé con dạo này thế nào rồi?
- Vẫn bình thường. Em cũng đã thuyết phục mấy lần rồi nhưng Huệ vẫn không chịu hiểu, thôi thì tùy cô ấy.
Nguyễn Lân thở dài buồn rầu. Trưởng phòng nhìn anh không hài lòng.
Bầu không khí trong phòng thật nặng nề.
Nguyễn Lân nhìn trưởng phòng cảm kích và cám ơn sự quan tâm của ông, vị lãnh đạo lắc mái tóc hoa râm của mình, ông đẩy tới trước Lân 1 tờ quyết định bổ nhiệm chức vụ mới của anh và chuyển sang đề tài khác:
- Phòng tổ chức thông báo, theo đề nghị của ban giám đốc, Bộ đã có quyết định bổ nhiệm cậu lên phó phòng. Đây là quyết định, nhưng đang có khả năng chuyển cậu về làm Phó công an quận 3. Mình và cấp ủy xin để cậu ở lại làm phó phòng, nhưng nghe nói vì công an quận 3 rất cần người, phó quận phụ trách cảnh sát đang làm thủ tục hưu. Cậu nghĩ sao?
- Dạ, em sao cũng được, nhưng em thích ở lại phòng này hơn, Làm đây quen rồi.
- Ban chỉ huy phòng cũng muốn cậu ở lại, mình chỉ còn vài năm nữa là hưu, được người như cậu quý lắm. Nhưng còn tùy tổ chức, để mình báo cáo lại với ban Gíam đốc. À vụ Thạc sĩ Bàng sao rồi?
- Dạ đây là báo cáo tóm tắt của đội. Đang chờ kết quả khám nghiệm hiện trường. Em cũng đã cho trinh sát nắm tình hình rồi. Nhưng vụ việc này có dấu hiệu phức tạp vì có liên quan đến bên An ninh quân đội, họ hẹn với mình sáng mai sẽ sang bàn việc làm cụ thể.
- Ừ, cố lên. Dạo này án nhiều đấy. Nhưng vẫn phải tập trung vào N.86. Về quyết định bổ nhiệm chính thức của cậu, mình sẽ thông báo vào ngày mai, và cậu vẫn tạm kiêm đội trưởng đội 3 một thời gian rồi sẽ bàn người thay thế.
Tiếng mưa lào rào trên mái nhà. Tiếng gió rít lên kéo theo những cành xoài run bần bật tựa như tiếng ai kêu thất thanh. Thiếu tá Nguyễn Lân ngồi trong im lặng nhìn những hạt mưa rơi.
Điếu thuốc cháy bỏng tay làm anh giật mình buông rơi, bối rối nhìn xung quanh. Cả cuộc đời là cảnh sát hình sự vào sống ra chết nhiều lần, từng phá những vụ án xuyên Bắc - Nam, đối đầu với những tên cướp khét tiếng và không ít lần tiếng đạn rít qua đầu, thế nhưng chưa bao giờ anh lại cảm thấy khó chịu như lần này. Cũng vì yêu nghề mà hạnh phúc gia đình anh gần như tan vỡ, cũng vì nghề mà đời anh có những lúc ân hận vì chưa làm tròn trách nhiệm với gia đình, cũng vì.. Thế nhưng trong vụ án này anh rất không muốn nhận vì những khó khăn riêng không thể nói được, nó liên quan đến sự kiện đau lòng của gia đình anh cách đây mấy năm mà lân không muốn nhắc đến. Phải, nó là những nổi niềm khó bày tỏ.
Đồng tính luyến ái, pê đê, gay... Nguyễn Lân căm thù những tiếng đó, nhưng nay anh phải trực tiếp nhận 1 vụ án liên quan đến nó, có ai hiểu cho anh không. Kể ra với cương vị mình, Lân có thể chuyển vụ việc cho bộ phận khác làm, nhưng lương tâm và trách nhiệm không cho anh làm điều đó. Nguyễn Lân hiểu mình.
Thiếu tá đưa đôi bàn tay chai sần to bè của mình lên trước mặt, ngắm nhìn những đường chỉ ngoằn ngoèo nhớ lại lời nói của bà nội khi còn sống. Cuộc đời của con sẽ khổ, khổ mãi nếu con không biết sửa đổi tâm tánh, đấy là số phận. Hồi đó anh ta cười to khi nghe bà nói vậy, thế nhưng sau này, mỗi khi gặp những khó khăn trắc trở trong cuộc sống, anh thường hay giật mình và len lén đưa bàn tay ra nhìn, lời bà năm nào vẫn thường văng vẳng như gió thoảng bên tai.
Bà ơi, 1 tiếng kêu bất ngờ không nén được của anh bật ra làm anh ngơ ngẩn.
Cơn mưa đã dịu, bầu trời đang trong xanh dần, nắng lại ửng hồng.
Đã 40 năm trôi qua, nhưng đến giờ thân thế của tôi vẫn là một sự mờ mịt, bao lung. Khi lớn lên tôi mới biết, và hỏi mọi người nhưng chẳng có ai có thể trả lời được trừ bố, nhưng vô ích, ông không bao giờ muốn bàn về vấn đề này, không ai cạy được răng ông. Sau này thậm chí có lần tôi đã năn nỉ khóc lóc nhưng ông cũng không hề động lòng. Có một lần nhìn vẻ mặt thảm não quá của tôi,ông chỉ nói vắn tắt, quan trọng con là con của bố là được rồi.
Tôi luôn mang trong người một cảm giác của kẻ côi cút từ bé. Ông nội thường xoa đầu tôi thương cảm, người thở dài và cũng biết không nói gì với thằng cháu mình. Cảm nhận được nỗi khát khao tình cha mẹ,sự thiếu vắng trong tôi, nên người cố gắng bằng mọi cách để bù đắp cho tôi. Hôm nay viết đến dòng chữ này,tôi vẫn còn như đang thấy người đến bên mình với chòm râu bạc và nụ cười đôn hậu đang vuốt ve mái tóc của tôi bằng đôi bàn tay mềm ấm áp của người.
Tôi lớn lên lặng lẽ như cây cỏ.
Cha mẹ công tác ở Hà Nội, họ rất ít khi về thăm tôi. Hồi nhỏ,tôi rất mong đợi cha mẹ về thăm và nhiều lúc tôi tủi thân thường khóc một mình khi thấy những đứa bạn như mình đều có cha mẹ bên cạnh, đầm ấm thương yêu. Còn tôi cha mẹ cứ biền biệt xa tít tắp nơi chân trời nào đó. Tại sao họ lại không cho tôi được ở bên họ, lớn lên chút nữa tôi mới hiểu.
Mỗi lần cha mẹ về thăm, đối với tôi là cả một ngày hội, tôi sung sướng quẩn quanh bên họ, thế nhưng cha bao giờ cũng giữ một khoảng cách, lạnh lùng với tôi, còn mẹ thì không giấu được sự căm ghét, khinh bỉ khi tôi sán lại gần. Chưa bao giờ tôi được cầm lấy bàn tay trắng trẻo, nõn nà,thơm ngát của mẹ, bà luôn gườm gườm nhìn tôi. Đôi lúc tôi có cảm giác nếu như được phép thì bà sẵn sàng xé tôi ra thành từng mảnh nhỏ. Nỗi cảm nhậnn về cha mẹ lớn dần trong tôi và sau này tôi không còn mong đợi họ nữa, cho đến một ngày kia tôi hiểu rằng mình là con của cha và mẹ chỉ là mẹ kế. Tôi chấp nhận thực tại. Con nuôi hay con ruột đâu có gì khác nhau, đã là con thì còn nào chẳng là con. Nếu họ chấp nhận nuôi thì tại sao lại căm ghét tôi?.
Lần duy nhât tôi nghe Ông nội nói với cha về tôi, họ không biết tôi nghe lóm được " Anh là một thằng hèn, anh gây nên tội lỗi, anh để lại một sinh linh trên đời này và anh quẳng nó cho chúng tôi nuôi. Tôi thương nó vì dù sao nó cũng là con cháu họ Phạm, tôi chỉ ngạc nhiên vì đấy là con của anh nhưng anh đối xử với nó quá tàn nhẫn. Đấy không phải là tình người, anh biết không, con thú cũng không vậy, anh cố tình làm như vậy để làm gì? Anh sợ một người đàn bà hiện là vợ anh, anh muốn có công danh sự nghiệp, nên phải trong sạch...hừ, làm cán bộ mà vậy à? Chữ nghĩa bao nhiêu năm tôi dạy anh, anh bỏ đâu hết rồi? "
Cha sầm sập bước ra khỏi nhà như một cơn giông bão, đi vụt qua tôi, bất chợt ông đứng sững lại, thẫn thờ nhìn tôi. Ông run run đưa tay vuốt mái tóc loe hoe vàng của tôi, hình như cha khóc. Và sau đó ông vội vã đi. Đấy là lần đầu tiên tôi thấy cha tỏ tình thương với mình, và mấy năm sau đó cha không về quê thăm tôi và ông, chỉ gửi tiền về cho ông bà.
Gia đình ông tôi là 1 gia đình nho giáo nề nếp, với những tôn ti trật tự được bảo tồn từ nhiều năm mà ông là 1 cây cột vững chắc để con cháu bám vào leo lên. Nhà ông ở, là nhà thờ của cả họ và là nơi quây quần để con cháu tìm đến bày giải, xin ý kiến, cũng như quây quần bên nhau trong tình cảm cộng đồng, họ hàng xóm làng. Và nhà ông cũng là nơi hội họp của hợp tác xã. Đảng ủy và các ban ngành ở xã vì nó rộng, nhưng chủ yếu vì mọi người kính trọng ông. Họ đến bên ông để san sẻ với ông những ưu tư, khó khăn, cũng như thắng lợi của những năm sau kháng chiến chống Pháp và trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thực tế, lớp cán bộ xã, huyện
sau này phần đông đều là con cháu ông, con cháu của họ Phạm...
Ông cao lớn, tướng đi thẳng người, đầu bao giờ cũng ngẩng cao và mắt nhìn thẳng.
Ông có giọng nói sang sảng, cử chỉ dứt khoát mạnh mẽ. Đời ông ghét nhất thói xu nịnh, luồn cúi. Sau vụ sai oan năm ấy, ông có ưu tư 1 thời gian rất dài nhưng rồi cũng nguôi ngoai theo thời gian. Trong họ, trong làng ông là tộc trưởng của họ Phạm, nên được tôn kính nhất, gần ông hình như ai cũng cảm nhận được hơi ấm tình thương của ông lan tỏa và mọi người rất trọng nể vì ông là người trọng lẽ phải và công bằng. Có lẽ người duy nhất được hưởng trọn vẹn tình thương của ông, được quyền sà vào lòng ông bất cứ lúc nào, là tôi. Hồi nhỏ chúng tôi, những đứa cháu của ông đã từng cãi nhau chí choé, thậm chí là đánh nhau vì đứa nào cũng muốn chứng minh là ông thương mình hơn, nhưng chúng nó đều phải công nhận một cách ghen tị là tôi được ông thương nhất.
Tôi lớn lên trong tình thương và sự bao dung của ông phủ xuống đời tôi đến tận bây giờ.
Ngoài giờ đi học ở trường về, ông còn thường tranh thủ dạy thêm cho tôi Tam Tự kinh, chữ lễ, nghĩa, nhân, dạy cho tôi viết chữ Nho. Minh Tâm bửu giám là cuốn sách gối đầu của tôi, từng chữ, từng nét ông vạch vệt phấn trắng và kiên nhẫn giải thích cho tôi hiểu từng nghĩa, từng ý, từng lời. Hình như ông đang cố truyền vào trong tâm hồn tôi, những suy nghĩ của ông. Có lúc cao hứng 2 ông cháu cùng ngâm nga 1 đoạn Kiều của Nguyễn Du. Có những vấn đề ông giảng giải cao siêu quá, tôi không hiểu, và trong khi ông ngồi giảng giải thì tôi đã chập chờn híp mắt gục đầu lên gối ông ngủ ngoa lành. Và ông vẫn cứ nói, nói cho chính ông nghe, còn tôi khi tỉnh thì đã thấy mình nằm trên giường.
Có lần chú tôi là phó bí thư huyện về thăm, nghe thấy đã càu nhàu " bây giờ người ta xem nó là phong kiến, bố dạy nó để làm gì? ". Ông cười chẳng trả lời, đến ngày hôm nay tôi có 1 bề dày kiến thức về văn hóa phương Đông, tất cả bắt nguồn từ những kiến thức của ông dạy ngày đó. Và tôi biết ơn ông.
Tuy là con trai nhưng tôi là 1 đứa trẻ yếu ớt, đa cảm, ít nói, hay buồn và hay khóc 1 mình. Chỉ 1 câu của Nguyễn Du nói về Thúy Kiều cũng đã đủ làm cho tôi sụt sùi rơi nước mắt cả buổi, tôi cảm nhận được số phận của cuộc tình Thúy Kiều - Kim Trọng, tôi thích Từ Hải, tôi ghét Hồ Tôn Hiến... Ông thấy vậy thường thở dài xoa đầu tôi "đời con rồi sẽ khổ đấy, những ai quá đa cảm cũng không hay lắm đâu, con ạ!".
Tôi rất ít đi chơi với bọn trẻ trong làng vì thấy không hợp. Ngoài thời gian học, tôi thường tha thẩn 1 mình trong khu vườn rộng của nhà thờ họ Phạm, tư lự ngồi 1 mình ôm sách đọc, nghĩ vẩn vơ, nên ai cũng nói tôi là 1 ông "cụ non", có vẻ già trước tuổi.
Những trò chơi đánh khăng, chọi bi, thả diều, chăn trâu, bơi sông... hoàn toàn xa lạ với tôi và tôi cũng không thích. Mặc dù ông bà, các cô, các chú không cấm, nhưng tôi rất ít đi chơi với bọn trẻ trong làng. Tôi không thích những đứa trẻ lấm lem, tanh tưởi, có lẽ người duy nhất để lại những dấu ấn sâu đậm nhất trong những năm tháng tuổi thơ của tôi, đó là Hải.
Gia đình Hải rất nghèo và đông con. Đến cả chục đứa trẻ lau nhau, sàn sạt như nhau. Hồi ấy chưa có sinh đẻ có kế hoạch như bây giờ, bố Hải thường cười hơ hơ khi ai hỏi về đàn con đông đúc của mình " Đẻ nhiều để lấy quân đi đánh Mỹ ". Họ tất cả sống chen chúc trong mái tranh nghèo kế bên vườn nhà tôi, và suốt ngày tôi nghe thấy gia đình ấy đánh chửi nhau không ngớt. Ông chồng thì quần quật ngoài đồng cả ngày, còn bà vợ thì trời chưa rạng đã lật đật bật chạy chợ. Xã xếp gia đình Hải vào diện văn hóa kém, chậm tiến, tiểu thương. Khi cán bộ xã đến thông báo, mẹ Hải bĩu môi dài giọng " ôi dào, tôi cần gì cái văn hóa tốt của các anh, có nuôi nổi đàn con tôi không? ", anh cán bộ tảng lờ không trả lời. Đến giờ tôi cũng không nhớ Hải là con thứ mấy trong gia đình, nhưng chỉ biết nó là 1 thằng bé đen nhẻm, cưo8`i chỉ thấy 2 hàm răng trắng bóng, người lúc nào cũng khét mùi rơm rạ. Nó học với tôi từ cấp I, nhưng mới vào cấp II thì nhanh chóng bỏ học vì phải chăn trâu, làm ruộng và nhiều công việc khác của 1 thằng bé nhà nông nghèo.
Vào những vụ giáp hạt, làng thường bị đói, và những gia đình đông đúc như nhà Hải là nạn nhân đầu tiên.
Hôm ấy, tôi đang ngồi lơ đãng nhìn con vành khuyên hót, uể oải ăn mấy củ khoai lang mật trong rổ mà bà để dành, thì nghe thấy loạt soạt, giật mình nhìn thấy mấy đứa trẻ bên nhà đã vạch hàng rào nhìn sang rổ khoai của tôi 1 cách thèm thuồng. Tôi biết, đấy là những đứa em của Hải, chúng nó đói, những ngày này thỉnh thoảng bà tôi thường thường hay xúc ít thóc đem sang cho. Một đứa thập thò bò tới nhìn tôi, nó ấp úng nói " em đói ", tôi im lặng đẩy rổ khoai lại và chúng nó vồ lấy, tranh dành nhau. Bất ngờ Hải xuất hiện, nó đỏ bừng mặt nhìn tôi và túm lấy tóc 1 đứa đấm túi bụi " Ai cho chúng mày làm vậy? " Vẻ mặt giận dữ của nó đến bây giờ tôi vẫn nhớ, nó ngượng. Thằng bé em nó chẳng buồn kêu khóc mà vẫn ngấu nghiến ăn, Hải bỏ em xuống bất lực nhìn tôi. Chúng tôi biết nhau vì học cùng trường, lớp, nhưng không chơi với nhau. Tuy là hàng xóm, sáng sớm và chiều tà nó vẫn thường giong trâu qua nhà, nhưng tôi cũng chưa bao giờ nói chuyện với Hải, còn nó thì hình như ngại. Nhìn Hải đứng im, tôi chợt nhận ra nó cũng đang đói vì cứ nuốt nước bọt ừng ực nhìn lũ em ăn khoai và cố dấu không cho tôi thấy. Tôi bỏ vào nhà bê ra nguyên cả nồi khoai của bà nội để trong bếp ra, lũ trẻ reo lên sung sướng, tôi cầm 1 củ đưa cho nó, Hải ngập ngừng và cuối cùng cầm lấy ăn vội vàng. Tiếng động làm bà tôi lò dò đi ra, nhìn cảnh tượng ấy bà chép miệng lắc đầu.
Từ đấy tôi và Hải quen nhau. Thế giới tuổi thơ của Hải thật sinh động, hấp dẫn. Mặc dù mang tiếng ở quê, nhưng tôi biết rất ít các sinh hoạt nhà nông. Tôi sống yên ấm trong sự bao bọc của ông bà và các cô chú, chưa hề phải lo lắng và làm bất cứ việc gì, mà giả như có làm ông bà cũng không cho, việc duy nhất phải làm là học. Ngày ngày tôi chỉ biết ngồi sau lưng chú trên chiếc xe đạp đi đến trường học và sau đó tự đi bộ 1 mạch về trên con đường làng quen thuộc, không la cà ghé bất cứ nơi nào. Cả họ đều gọi tôi là cậu Tú. Do vậy, thôn quê đối với tôi gần như cũng xa. Qua Hải tôi mới biết được cái thú chăn trâu, thả diều và lò dò theo nó đi chơi. Lũ trẻ trong làng không thích tôi và cho tôi là đồ công tử, chúng xa lánh tôi và khi thấy tôi đến là cô lập, chọc ghẹo tôi, tôi tủi thân và khóc. Hải, thằng bạn nghèo của tôi đã bảo vệ tôi, nó đánh nhau quyết liệt với bọn trẻ, sau đó chúng tôi thường bỏ đi chơi riêng với nhau. Gần bên Hải tôi luôn có 1 cảm giác bình an vì được che chở.
Tôi bắt đầu biết thế nào cảm giác được nằm ấm áp trên lưng trâu và ngửi cái mùi khai khái khai nồng, ngửa cổ nhìn cánh diều bay trong tiếng sáo vi vu. Nhấm nháp những cọng rơm khen khét, biết đến thú lội ruộng. Vào mùa, tôi đi theo Hải và biết thế nào là sự hồi hộp, sợ hãi đứng trên bờ ruộng để canh chừng cho nó bò sang ruộng của Hợp tác xã để đào trộm khoai. Củ khoai sống 2 đứa tranh nhau ăn ngon đến nấc nghẹn. Tôi sợ lắm, sợ là nếu có ai bắt gặp về báo cho ông thì chết, thương thì thương nhưng tôi biết ông không bao giờ tha thứ cho 1 thằng cháu ăn trộm, dù chỉ 1 củ khoai. Nhưng tại Hải năn nỉ quá, chưa kể chỉ nghe nó diễn tả cái thú ăn khoai sống mới đào lên ngon như thế nào là tôi đã nuốt nước bọt ừng ực, và quả nhiên nó nói không sai. Và trái ngô non bẻ trộm, ăn có mùi sữa ngầy ngậy mà ngày nay dù đến khắp 4 phương trời tôi cũng không thể tìm được cảm giác ấy.
Có lần tôi lò dò đang lội ruộng theo Hải thì thấy nhợt nhạt bên chân, 1 con đỉa trâu to tướng bám vào lưng ống quyển chân. Tôi thét lên sợ hãi, đỉa là nỗi ám ảnh của tôi, thế nhưng Hải lại cười khanh khách chọc ghẹo, không chịu bắt con đỉa cho tôi. Tôi cuống quýt vung vẩy và quá sợ hãi, tôi ngất đi. Khi tỉnh tôi thấy những giọt nước mắt nóng bỏng của Hải rơi trên má, 1 cảnh tượng suốt đời tôi không quên. Hải tưởng tôi chết và khi thấy tôi tỉnh, nó phát rồ lên vì sung sướng và tụt quần quấn phất phơ trên đầu nhảy lò cò xung quanh tôi.
Tình bạn ngây thơ của tôi là thế.
Tôi cứ sống vậy cho đến khi lên cấp III thì được bố mẹ đón ra Hà nội ở.
Mọi việc bắt đầu từ việc tôi học rất giỏi và đã từng được cử tham gia vào đội chuyên toán của huyện và tỉnh. Ông rất lo lắng cho tương lai của tôi, theo ông với khả năng của tôi thì Hà nội mới là nơi tôi có thể tiếp tục học lên cao nữa. Và ông cho chú tôi lên Hà nội mời bố tôi về. Hai cha con có 1 buổi nói chuyện căng thẳng, rồi bố đi và không nói gì với tôi. Chiều hôm đó ông bảo bà giết con gà trống thiến làm bữa cơm cúng tổ tiên, trong khi ăn đột nhiên tôi nghe ông thông báo tôi sẽ về Hà nội ở với bố mẹ, tôi òa khóc tức tưởi " không cháu không muốn đi đâu hết, cháu muốn ở với ông ". Nghe tôi khóc và nói, bà nội tôi cũng quẹt nước mắt nhưng không dám khóc vì sợ ông. Ông dỗ dành " cháu dại lắm, về với bố mẹ được ăn học đàng hoàng, có tương lai, ở mãi chốn quê mùa này làm gì. Thành tài rồi lại về với ông ". Miếng thịt gà trong miệng tôi nhạt thếch, tôi bỏ ăn vào trong buồng sụt sùi. Tuy nhiên tất cả không lay được quyết định của ông, sáng mai xe của cơ quan bố sẽ về đón tôi đi Hà nội.
Ngày ra đi, tôi đã khóc hết nước mắt dù đã là thằng con trai đang lớn sổ giọng.Tôi không thấy Hải tiễn, em nó cho biết tối qua Hải ngủ ngoài đồng không về nên không biết, đến khi ra xe, thấy nó hớt hãi chạy từ ngoài đồng về và dúi vào tay tôi món quà đồng quê của nó, 1 con châu chấu được đan bằng rơm. Nó thẩn thờ nhìn tôi đôi mắt buồn rười rượi, biết bao giờ mới được gặp lại nhau, chúng tôi hứa sẽ viết thư. Xe chạy nhanh, hình bóng của ông bà, cô chú và thằng bạn nghèo lùi dần xa tít tắt. Tôi lại muốn khóc và nghe tiếng cười của chú tài xế lái xe cơ quan bố "con trai gì mít ướt thế".
Ôi những kỷ niệm ấu thơ cháy bỏng trong tâm hồn tôi đến tận bây giờ. Tôi nghĩ lại với bao luyến tiếc, thèm thuồng và mong được sống lại dù chỉ 1 ngày.
Hà Nội, đối với tôi là những tháng ngày thật là buồn bã. Tôi có 2 đứa em trai lạnh nhạt và 1 bà mẹ kế thù ghét mình ra mặt, 1 ông bố làm lớn suốt ngày cắm cúi vào công việc họp hành của mình. Tôi nhận thấy từ ngày có mình, bầu không khí gia đình bố mẹ lúc nào cũng căng thẳng. Mẹ kế và 2 thằng em thường tìm cớ trút lên đầu tôi những nổi giận vu vơ, hành hạ tôi nếu có thể được. Là 1 thằng bé nhà quê lần đầu tiên sống tại thành phố và lại tronh 1 gia đình quyền quí, tôi run rẩy suốt ngày và họ không ngớt chế diễu tôi. Không hiểu bố có biết nổi khổ của tôi không, hay ông biết mà tảng lờ. Phải chăng tôi chính là gánh nặng của đời ông mà ông muốn trút bỏ nhưng không được, nhiều lúc tôi tự hỏi chính mình như vậy.
Mẹ kế hay mẹ, tôi chẳng biết nên gọi bà như thế nào cho đúng. Đứng trước mặt bà tôi luôn phải vòng tay lễ phép thưa bà là mẹ và tôi thực lòng mong muốn có 1 tiếng gọi mẹ khát khao đến cháy lòng, nhưng không có, tôi cũng không bao giờ dám gọi bà bằng dì ghẻ, đơn giản bà sẽ giết tôi ngay vì cho rằng bị xúc phạm.
Đến ngày hôm nay viết những dòng chữ này, tôi lại nhớ đến bà bằng tấm lòng bao dung, thanh thản. Thôi thì mọi chuyện đã qua rồi, thế nhưng mỗi khi nhớ đến bà, bà vẫn luôn tạo cho tôi những ám ảnh ghê người. Là con gái út vị thủ trưởng của bố tôi, bà lấy bố tôi như 1 sự nhún nhường hạ mình, bởi 1 tiểu thư Hà Nội khuê các, lá ngọc cành vàng, con 1 ông lớn như mẹ mà chấp nhận lấy 1 anh bộ đội nghèo, lại quê mùa thì không phải gia ơn thì là gì? Có lần buột miệng cao hứng bà nói với tôi như vậy. Nhìn bà, tôi luôn có cảm giác mẹ như 1 kịch sĩ vĩ đại vì lúc nào bà cũng như đang sống trên sân khấu. Tôi tự hỏi tại sao bà không là 1 nghệ sĩ kịch, hay cả cuộc đời bà đã là 1 vở kịch lớn rồi.
Mẹ kế có giọng nói lanh lảnh, cao vút. Thỉnh thoảng bà bực bội điều gì đó, thì giọng bà lại rít lên mà cho đến bây giờ mỗi khi tôi nghe tiếng 2 thanh sắt cạ vào nhau là lại rùng mình nhớ đến tiếng nói của bà. Mắt bà sáng long lanh, với hàng mi đen thẳm có đuôi sắc lẻm. Mỗi lần bà nhìn tôi, ánh mắt bà như muốn lột trần truồng tôi ra 1 cách không thương tiếc, gại gại như lưỡi dao bén xẻ tôi từng thành lát mỏng. Bà ngắm nghía quan sát tôi như 1 nhà bác học đang quan sát 1 con sâu, vừa thích thú, vừa ghê tởm. Đôi mắt bà long như mắt phượng, đấy cũng là đôi mắt quý, hiếm người nào có được như mẹ.
Mẹ kế luôn tạo cho tôi thấy bà là 1 con người bí hiểm, mang đến cho tôi 1 sự ám ảnh sợ hãi trong suốt những năm tháng sống cùng bà. Từ hình ảnh của bà làm cho tôi suy luận ra tất cả những người đàn bà khác đều như vậy, họ cũng có 1 cái gì như mẹ kế, sâu thăm thẳm, đen tối, đầy nghi ngại. Va từ đa6'y, mỗi khi nghĩ đến đàn bà là tôi nghĩ đến mẹ và cảm thấy sợ hãi. Phải chăng chứng sợ đàn bà của tôi bắt đầu từ mẹ kế?
Tôi cô đơn, không thấy cô đơn thêm. Trong căn buồng nhỏ trên gác hai, tôi rút sâu vào trong đó như cố thủ cho riêng mình. Sống âm thầm né tránh mọi người, làm tất cả những việc gì mẹ giao cho còn lại là lao đầu vào học, học và tôi học rất giỏi. Hình như đấy là niềm hãnh diện riêng của bố, nhưng ông không lộ ra mặt, nhìn ánh mắt của ông tôi hiểu. Và nhìn ánh mắt mẹ tôi cũng hiểu bà ta căm ghét tôi dường nào về chuyện này, trong khi 2 thằng con trai ngu dốt của bà thì suốt ngày chỉ biết lêu lỏng, bài bạc và dựa vào uy thế của cha và ông ngoại để dọa dẫm mọi người.
Tôi thi Đại học thừa điểm để được đi nước ngoài. Tôi được đi học ở Đức theo 1 học bổng vào những năm cuối thập niên 70, sau chiến thắng 30/4/75.
Tôi ra sân bay 1 mình trong 1 chiều đông mưa phùn Hà Nội lạnh lẽo. Không ai đưa tiễn vì mẹ lấy cớ mệt, 2 đứa em tôi đã biến đi chơi từ sáng. Nhìn những bậc cha mẹ khác tíu tít bên con, tôi thấy tủi thân, cay cay nơi khóe mắt và lúc đấy có 1 bàn tay bóp nhẹ vào vai, tôi giật mình. Bố, vâng giờ phút cuối bố đột nhiên xuất hiện. Nhìn tôi chăm chú bố nói nhẹ nhàng " hãy cố gắng học hành con nhé " một lời động viên chờ đợi của bố làm tôi bàng hoàng hạnh phúc, tôi muốn nói nhưng chưa kịp thì bố đã nói tiếp " làm đàn ông phải cứng rắn lên " rồi sau đó bố bỏ đi nga, hình như ông cũng xúc động và cố kìm nén. Nhìn bố đi vội vã, nhanh chóng chìm vào biển người, tôi thấy mình hạnh phúc vô cùng.
Có tiếng loa thông báo chuyến bay và tôi ùa vào dòng người. Khi quay lại nhìn lần cuối tôi ngẩn ngơ khi thấy bố, té ra ông vẫn chưa về và đang đứng từ phía xa đăm đăm nhìn tôi. Tôi ngập ngừng giơ tay chào bố và thấy ông mỉm cười chào.
Bố ơi đến tận bây giờ con vẫn còn nhớ tới nụ cười ấy.
(xin chú thích thêm: những đoạn kể về thời quá khứ của nhân vật tôi trong truyện là của Thạc sĩ Bàng, nạn nhân đã chết từ chương 1 của truyện)