Dịch giả Lê Chu Cầu
Chương 41- 44

41
Suốt đêm cậu không ngủ được. Hai giờ trước khi mặt trời mọc cậu đánh thức một anh chàng ngủ trong lều, yêu cầu anh ta chỉ cho cậu chỗ ở của Fatima. Hai người cùng đi đến lều của cô. Để trả ơn, cậu cho anh chàng tiền đủ mua một con cừu. Rồi cậu nhờ anh chàng vào đánh thức cô, nói rằng cậu chờ ở ngoài. Anh chàng Arập đáp ứng lời yêu cầu và được trả thêm tiền cho một con cừu nữa.
“Bây giờ bạn đi được rồi, để chúng tôi nói chuyện riêng”, cậu nói.
Anh chàng Arập quay về lều ngủ tiếp, lấy làm hãnh diện đã giúp được cho cố vấn của ốc đảo và sung sướng vì được tiền mua cừu. Fatima ra khỏi lều. Hai người đi giữa những hàng cây chà là. Cậu biết như thế này là phạm vào phong tục ốc đảo nhưng lúc này cậu chẳng quan tâm nữa.
“Anh sắp lên đường”, cậu nói. “Anh muốn em biết rằng anh sẽ trở lại. Anh yêu em, vì …”
“Anh đừng nói thêm nữa”, Fatima ngắt lời. “Người ta yêu vì yêu. Cần gì phải có lí do”.
Nhưng cậu vẫn nói tiếp: “Anh đã có một giấc mơ, sau đó anh gặp được một vị vua già, rồi anh bán hàng pha lê và vượt sa mạc. Các bộ lạc đánh nhau nên anh mới đến giếng nước để hỏi về một nhà luyện kim đan. Anh yêu em vì cả vũ trụ đã góp sức để anh đến tận đây và gặp được em”.
Họ ôm nhau. Đó là lần đầu tiên.
“Nhất định anh sẽ trở về”, cậu lặp lại.
“Trước đây em luôn nhìn sa mạc mà lòng mong ngóng. Giờ đây em sẽ vẫn ngắm nhìn sa mạc mà lòng đầy hi vọng. Một ngày nọ bố em đã ra đi nhưng rồi ông đã trở về với mẹ em, và từ đó bao giờ ông cũng trở về”.
Rồi hai người không nói gì nữa. Họ đi dưới những gốc chà là thêm một lúc nữa rồi cậu đưa cô về lại lều.
“Anh sẽ trở về, y như bố em luôn trở về với mẹ em vậy”.
Cậu thấy mắt Fatima ứa lệ.
“Em khóc kìa”
“Em sinh ra ở sa mạc”, cô che mặt đáp, “nhưng em cũng là đàn bà chứ”.
Fatima biến vào trong lều. Mặt trời rồi sẽ mọc và khi một ngày mới bắt đầu cô sẽ làm những việc cô vẫn làm từ nhiều năm nay. Tuy vật tất cả đã thay đổi rồi. Cậu sẽ không có mặt ở ốc đảo và ốc đảo cũng không còn giống như vài ngày trước. Nó hết là nơi có năm vạn cây chà là và ba trăm giếng chào đón những kẻ hành hương sau một chuyến viễn du. Với cô, từ nay ốc đảo sẽ trở thành hiu quạnh. Từ này sa mạc sẽ trở thành quan trọng hơn ốc đảo. Cô sẽ ngắm nhìn nó và đoán xem cậu đi theo ngôi sao nào trên đường tìm kho báu. Cô sẽ gửi những nụ hôn của mình cho gió, hi vọng rằng nó sẽ mơn man gương mặt cậu và kể cậu nghe rằng cô vẫn sống, vẫn chờ cậu như một người đàn bà chờ người chồng can đảm ra đi tìm kiếm kho tàng. Từ hôm nay sa mạc sẽ chỉ mang một ý nghĩa: hi vọng cậu sẽ trở về.
42
“Đừng nghĩ tới những gì đã bỏ lại phía sau”, nhà luyện kim đan nói khi họ cưỡi ngựa đi trên sa mạc. “Mọi sự đã được ghi khắc vào tâm linh vũ trụ và sẽ tồn tại vĩnh viễn”.
“Con người mơ được trở về hơn là ra đi”, cậu nói và đã thấy quen lại với sự yên ắng của sa mạc.
“Nếu những gì ta tìm thấy là thật, là vàng ròng thì chúng sẽ không bao giờ hư hao và bất cứ lúc nào ta quay về thì chúng vẫn còn nguyên vẹn đó; còn nếu chúng chỉ là thoáng qua như ánh sao băng thì khi trở về ta sẽ chẳng tìm thấy gì nữa cả. Nhưng dẫu sao cậu cũng đã sống được cái phút thoáng qua ấy và bấy nhiêu đã là quí rồi”.
Ông dùng thuật ngữ của giới giả kim nhưng cậu hiểu ông muốn ám chỉ Fatima. Song không nghĩ đến những gì cậu đã bỏ lại phía sau thì thật là khó. Cảnh vật đơn điệu của sa mạc khiến cậu nghĩ vẩn vơ. Cậu như thể vẫn còn thấy trước mắt rừng chà là, giếng nươc và khuôn mặt người con gái mình yêu, anh chàng người Anh bên lò thí nghiệm và người phu lạc đà với những tư tưởng cao siêu bậc thầy mà không tự biết.
“Có thể nhà luyện kim đan chưa từng yêu bao giờ”, cậu nghĩ.
Ông cưỡi ngựa chạy phía trước, con chim ưng đậu trên vai. Con chim hiểu rõ ngôn ngữ của sa mạc nên mỗi khi họ dừng chân thì nó đều bay đi tìm mồi để săn. Ngày đầu nó tha về một con thỏ, hôm sau hai con chim. Đêm đến họ chỉ trùm chăn chứ không đốt lửa. Đêm sa mạc lạnh và trăng càng khuyết thì càng tối. Suốt một tuần lễ liền họ ít trò chuyện, chỉ trao đổi về những cách phòng xa cần thiết để tránh lạc vào trận địa giữa các bộ tộc. Cuộc xung đột vẫn còn tiếp diễn; hẳn là cách chỗ họ không xa vì thỉnh thoảng gió tanh mùi máu. Và gió nhắc nhở cậu nhớ đến ngôn ngữ của dấu hiệu, luôn luôn chỉ ra cho cậu những gì mắt cậu không thấy được. Vào ngày thứ bảy, nhà luyện kim đan quyết định dừng lại nghỉ sớm hơn thường lệ. Con chim ưng lại bay đi săn; ông đưa bình nước mời cậu.
“Cậu sắp đến đích rồi đó”, nhà luyện kim đan nói. “Tôi chúc mừng cậu đã đi theo con đường tiền định của mình”.
“Trên đường đi ông chẳng chỉ bảo cháu điều gì cả. Cháu cứ nghĩ rằng ông sẽ dạy cho cháu những điều ông biết. Cách đây không lâu cháu cùng đi trên sa mạc với một người có nhiều sách về thuật luyện kim đan, nhưng cháu chẳng học được gì từ những quyển sách ấy”.
“Chỉ có một cách học thôi”, nhà luyện kim đan đáp. “Đó là thông qua hành động. Tất cả những gì cần biết cậu đã học được trên đường đi rồi. Nhưng còn thiếu một điều”.
Cậu muốn biết đó là điều gì nhưng ông mãi nhìn đăm đăm về phía chân trời, tìm bóng dáng con chim ưng.
“Tại sao người ta gọi ông là nhà luyện kim đan?”
“Vì đó là nghề của ta”
“Khi những nhà luyện kim đan khác thử luyện vàng mà không thành công thì họ sai ở chỗ nào?”
“Tại vì họ chỉ chủ tâm tìm vàng thôi”, người bạn đồng hành của cậu đáp. “Họ tìm kho báu vốn nằm ở cuối con đường tiền định nhưng lại không chịu đi trọn con đường đó”.
“Cháu còn phải học thêm điều gì nữa?”, cậu hỏi
Nhưng ông vẫn tiếp tục nhìn về phía chân trời. Rồi con chim ưng quay về với mồi nó vừa săn được. Họ đào một cái hố, đốt lửa trong ấy để khỏi bị trông thấy.
“Ta là nhà luyện kim đan chỉ bởi vì ta là nhà luyện kim đan, thế thôi”, ông nói trong khi chuẩn bị bữa ăn. “Ta học môn này từ ông của ta, ông lại học từ ông thân và cứ thế cho đến thời tạo thiên lập địa. Vào thời đó “Đại công trình” có thể viết được vừa một phiến ngọc lục bảo. Nhưng rồi con người không thèm chú ý vào những điều đơn giản mà lại lo viết luận văn, chú giải và triết lý. Rồi họ cho rằng đã đi đúng đường hơn người khác. Nhưng đến nay phiến ngọc lục bảo vẫn còn nguyên giá trị”.
“Trên phiến ngọc ấy viết gì?” Cậu muốn biết.
Nhà luyện kim đan bèn vẽ lên cát lối chừng năm phút. Nhìn ông vẽ cậu nghĩ đến nhà vua già và bãi chợ nơi hai người gặp nhau; cậu có cảm tưởng như từ đó đến nay đã nhiều năm qua rồi.
“Trên phiến ngọc viết những điều đó đấy”, nhà luyện kim đan nói khi đã vẽ xong.
Cậu thử đọc nhưng thất vọng.
“Đây là loại mật ngữ mà cháu đã thấy trong các sách của anh chàng người Anh”.
“Không phải đâu”, nhà luyện kim đan đáp. “Nó cũng giống như đường bay của hai con chim bồ cắt, không thể dùng lí trí để hiểu được. Phiến ngọc lục bảo dẫn đường thẳng tới tâm linh vũ trụ. “Những bậc trí giả đã nhận biết rằng thế giới này chỉ là phiên bản của thiên đường. Sự hiện hữu của thế giới này chỉ là bằng cớ bảo đảm rằng có một thế giới toàn mỹ. Thượng Đế tạo dựng ra muôn loài để con người thông qua thế giới vật chất mà nghiệm được những định luật của thế giới tâm linh. Khi ta nói thông qua hành động là hàm ý như thế đấy”.
“Cháu có cần phải hiểu phiến ngọc đó không?” Cậu hỏi
“Có thể cần. Nếu như cậu làm việc trong phòng thí nghiệm của nhà luyện kim đan thì đó sẽ là cơ hội tốt để tìm ra cách hay nhất hiểu được phiến ngọc. Nhưng hiện cậu đang ở trên sa mạc. Hãy trầm tư suy nghĩ, rồi sa mạc sẽ chỉ cho cậu hiểu thế giới. Nói cho đúng thì mọi thứ trên mặt đất đều chỉ cho cậu được. Cậu không cần phải hiểu hết mọi điều về sa mạc mà chỉ cần nghiền ngẫm về một hạt cát thôi và cậu sẽ thấy trong đó mọi sự mầu nhiệm của công trình tạo hóa”
“Làm cách nào để cháu có thể thâm nhập vào thế giới của sa mạc?”
“Hãy lắng nghe trái tim mình. Nó biết hết mọi điều vì nó từ tâm linh vũ trụ mà ra và một ngày kia sẽ trở về đó”
43
Họ lại lặng lẽ tiếp tục đi trong sa mạc hai ngày nữa. Nhà luyện kim đan càng lúc càng thận trọng hơn vì họ đang đến gần vùng giao tranh ác liệt nhất. Trong khi đi đường cậu thử lắng nghe tiếng nói của trái tim mình. Quả tim cậu không phải lúc nào cũng ngoan ngoãn: trước kia nó quen được đi hoài đi mãi, bây giờ nó chỉ muốn mau đến đích. Có lúc trái tim cậu kể lể hàng giờ liền về nỗi nhớ nhung của nó; lúc khác nó lại xúc động trước cảnh mặt trời mọc trên sa mạc đến nỗi làm cậu phải khóc thầm. Tim cậu đập nhanh khi nó kể về kho báu, đập chậm hẳn khi cậu mơ màng lặng nhìn chân trời vô tận trên sa mạc. Nhưng nó không bao giờ câm nín, kể cả khi cậu và nhà luyện kim đan không nói với nhau một lời nào.
“Tại sao ta phải lắng nghe trái tim mình nhỉ?” Cậu hỏi khi hai người dừng lại nghỉ đêm
“Bởi vì trái tim cậu ở đâu thì kho báu cậu tìm cũng ở đó”
“Nhưng mà tim cháu rạo rực”, cậu đáp. “Nó mơ, nó xúc động và nó say mê một cô gái sa mạc. Nó đòi hỏi cháu đủ chuyện, khiến nhiều đêm cháu không ngủ được khi nghĩ đến nàng”.
“Tốt lắm. Như thế là tim cậu đang sống hết mình. Hãy lắng nghe những gì nó nói”
Ba ngày tiếp theo hai người gặp một số chiến binh có vũ trang và thấy một số khác đàng xa phía chân trời. Tim cậu bắt đầu nói về nỗi lo sợ. Nó kể chuyện nghe được từ tâm linh vũ trụ về những người đi tìm mà không hề thấy kho báu. Đôi khi nó khiến cậu hoảng sợ khi nghĩ rằng có thể mình không tìm thấy kho tàng hoặc sẽ chết trong sa mạc. Lúc khác cái trái tim kia lại bảo cậu rằng nó hài lòng lắm vì nó đã tìm thấy tình yêu và nhiều đồng tiền vàng rồi.
“Trái tim cháu giở chứng rồi”, cậu nói với nhà luyện kim đan khi họ dừng lại cho ngựa nghỉ. “Nó không muốn cháu đi tiếp nữa”.
“Điều đó đúng thôi”, ông đáp. “Đó là bằng cớ cho thấy rằng trái tim cậu rất sống động. Đương nhiên ai mà chẳng sợ khi đem tất cả gì mình có được ra đổi lấy một giấc mơ”.
“Thế thì tại sao cháu phải lắng nghe nó chứ?”
“Vì cậu chẳng bao giờ bắt nó im lặng được nữa. Ngay cả khi cậu làm như không thèm nghe nó nói thì nó vẫn luôn luôn ở trong con người cậu, nhắc đi nhắc lại những điều cậu nghĩ về cuộc đời và thế giới”.
“Ngay cả khi nó lừa cháu hay sao?”
“Bị lừa bịp cũng giống như bị một cú đánh bất ngờ thôi. Nhưng nếu cậu hiểu rõ trái tim mình thì sẽ không xảy ra điều gì bất trắc đâu, vì cậu biết rõ nó mơ ước gì và biết phải ứng xử thế nào. Không ai trốn tránh được trái tim mình; thành ra nên lắng nghe nó nói là hay hơn cả. Như thế cậu sẽ không bao giờ bị đánh bất ngờ”.
Cậu tiếp tục lắng nghe trái tim mình trên đường qua sa mạc, hiểu dần những mẹo vặt của nó và chấp nhận nó là như thế. Cậu thôi không lo sợ nữa, cũng không còn muốn quay về ốc đảo, vì một xế trưa nọ tim cậu bảo rằng nó mãn nguyện rồi.
“Dù đôi lúc tôi có phàn nàn”, nó nói, “thì cũng chỉ bởi vì tôi là trái tim người, mà tim người đều thế cả. Người ta sợ theo đuổi một giấc mơ vĩ đại vì cảm thấy không xứng đáng được hưởng hoặc sẽ không thể nào đạt nổi. Chỉ cần nghĩ rằng những người thân yêu nhất của mình sẽ ra đi vĩnh viễn, rằng những khoảnh khắc lẽ ra tươi đẹp mà rốt cuộc lại chẳng tươi đẹp tí nào, rằng có những kho tàng lẽ ra tìm được mà lại mãi mãi chôn vùi trong cát, là chúng tôi – trái tim con người - đủ kinh hoàng rồi. Khi những điều này xảy ra thật thì chúng tôi đau khổ lắm.”
“Trái tim cháu sợ sẽ phải đau khổ”, cậu đã nói với nhà luyện kim đan như thế vào một đêm hai người nhìn lên bầu trời không trăng.
“Hãy bảo nó rằng sợ phải đau khổ còn đau đớn hơn là chính sự đau khổ, và chưa từng có trái tim nào phải chịu đau khổ khi tìm cách thực hiện giấc mơ, vì mỗi phút giây tìm kiếm là một khoảnh khắc gặp gỡ Thượng Đế và sự vĩnh hằng”.
“Mỗi phút giây tìm kiếm là một khoảnh khắc gặp gỡ Thượng Đế”, cậu nói với trái tim mình. “Khi ta thành tâm đi tìm kho tàng thì mỗi một ngày đều chan hòa niềm vui, vì mỗi một giờ qua đi đều sẽ đem ta gần lại kho tàng hơn. Khi thành tâm đi tìm kho tàng, ta phát hiện trên đường nhiều điều mà ta sẽ không bao giờ thấy được nếu ta không đủ can đảm thử làm những việc xem ra một kẻ chăn cừu không thể làm nổi”.
Thế là trái tim cậu thanh thản được suốt buổi xế trưa. Đêm ấy cậu ngủ ngon giấc và khi thức dậy trái tim kể cho cậu về tâm linh vũ trụ, rằng kẻ nào hạnh phúc cũng đều có Thượng Đế trong lòng và có thể tìm thấy hạnh phúc trong từng hạt cát sa mạc như nhà luyện kim đan đã nói, vì hạt cát là một khoảnh khắc của sự sáng chế mà vũ trụ cần hàng triệu năm để tạo ra nó.
“Ai ai trên trái đất cũng đều có một kho báu chờ đợi mình”, trái tim nói. “Chúng tôi, trái tim loài người, ít khi nói về những kho báu này vì người ta không còn muốn đi tìm chúng nữa. Chúng tôi chỉ nói về chúng tôi với trẻ con thôi. Rồi chúng tôi để cuộc đời đi theo số mệnh. Song tiếc thay rất ít người đi theo con đường tiền định, con đường dẫn đến vận mệnh của họ, dẫn đến hạnh phúc. Phần lớn người ta nhìn thế giới như một nơi đầy đe dọa, chính vì thế mà thế giới trở thành nơi đe dọa thật. “Bởi thế mà chúng tôi, trái tim người, càng ngày càng nói khẽ hơn. Chúng tôi không im hẳn nhưng mong rằng người ta không nghe thấy, vì chúng tôi không muốn người ta phải đau khổ do không nghe lời trái tim mình”.
“Tại sao trái tim người không giục giã họ theo đuổi ước mơ?” Cậu hỏi nhà luyện kim đan.
“Vì như thế thì trái tim sẽ đau khổ vô cùng mà chúng lại không muốn đau khổ”
Từ đó cậu hiểu trái tim mình. Cậu yêu cầu nó đừng bao giờ ngừng trò chuyện với mình và khi nào cậu đi chệch khỏi ước mơ thì nó phải co thắt lại để cảnh báo cậu. Cậu thề sẽ nghe theo mỗi khi được cảnh báo. Đêm hôm ấy cậu kể hết những điều này cho người luyện kim đan nghe. Ông hiểu trái tim cậu đã hướng về tâm linh vũ trụ.
“Cháu phải làm gì bây giờ?” Cậu hỏi
“Đi tiếp về hướng Kim Tự Tháp”, ông đáp. “Và tiếp tục lưu ý đến các dấu hiệu. Tim cậu đã sẵn sàng chỉ cho cậu chỗ chôn kho báu rồi đấy”
“Có phải đó là điều cháu cần biết nữa không?”
“Không”, ông đáp. “Điều cậu cần biết nữa là như thế này: trước khi cậu đạt được ước mơ thì tâm linh vũ trụ sẽ thử thách mọi điều cậu học được trên đường đi. Tâm linh vũ trụ làm thế không phải vì ác ý mà vì muốn khi đạt được ước mơ chúng ta đồng thời cũng nắm vững những bài học đã lĩnh hội khi đi theo ước mơ. Đó chính là thời điểm mà đa số bỏ cuộc, nói theo ngôn ngữ sa mạc là “chết khát vào đúng cây chà là xuất hiện ở chân trời”. Mọi cuộc tìm tòi đều khởi đầu như câu “thánh nhân đãi kẻ khù khờ” và kết thúc với sự thử thách gay go kẻ chiến thắng”.
Cậu nhớ đến một câu châm ngôn của đất nước mình, nói rằng giờ tối nhất trong đêm lại chính là ngạy trước lúc rạng đông.
44
Ngày hôm sau có dấu hiệu báo nguy đầu tiên. Ba chiến binh tiến lại gần hỏi hai người làm gì ở đấy.
“Tôi đem chim ưng đi săn”, nhà luyện kim đan đáp.
“Chúng tôi phải khám xem hai người có vũ trang không”, một chiến binh nói.
Nhà luyện kim đan chậm rãi xuống ngựa. Cậu cũng xuống theo
“Anh đem theo nhiều tiền thế này để làm gì?”, một người lính hỏi cậu trong lúc khám cái bị
“Tôi cần tiền để đi đến Kim Tự Tháp”, cậu đáp.
Người chiến binh khám nhà luyện kim đan tìm thấy một bình pha lê nhỏ đựng một chất lỏng và một quả trứng bằng thủy tinh màu vàng, nhỉnh hơn quả trứng gà.
“Cái gì thế này?” Hắn hỏi
“Đó là viên Đá tạo vàng và Thuốc trường sinh. Công trình của các nhà luyện kim đan đấy. Ai uống thuốc này thì sẽ không bao giờ ốm đau nữa và một mảnh vụn của viên đá có thể biến mọi thứ kim loại thành vàng”. Các chiến binh Arập cười ngất vì thấy câu trả lời quá khôi hài; nhà luyện kim đan cũng cười theo. Rồi họ cho phép hai người được giữ tất cả hành lí tiếp tục cuộc hành trình.
“Ông điên à?” Cậu hỏi nhà luyện kim đan sau khi đi được một quãng.
“Sao ông lại trả lời thế?”
“Để chỉ cho cậu một bài học đơn giản ở đời”, ông đáp. “Đó là: kho tàng sờ sờ ngay trước mắt mà ta không hề biết. Vì sao? Vì con người không tin rằng có kho tàng thật”.
Họ lại tiếp tục đi. Mỗi một ngày qua là một ngày trái tim cậu thanh thản hơn. Nó không đòi được biết về quá khứ hoặc tương lai nữa, mà thỏa mãn với việc để hết tâm trí ngắm nhìn sa mạc và cùng với cậu cà kê về tâm linh vũ trụ. Cậu với trái tim trở thành bạn thân và không bên nào nỡ lừa dối bên nào nữa. Mỗi khi trái tim trò chuyện với cậu là để kích thích, thêm sức cho cậu vì những ngày dài thầm lặng trong sa mạc khiến cậu mệt mỏi. Nó cho cậu biết về chỗ mạnh của cậu: đã dũng cảm xa rời bầy cừu để đi theo vận mệnh và làm việc hết mình ở cửa hàng pha lê. Nó còn cho cậu biết thêm những chuyện mà cậu chưa hề quan tâm: về những lần cậu thoát hiểm mà không biết. Trái tim cậu bảo rằng có một lần nó đã giấu khẩu súng cậu lén lấy của ông bố vì e cậu có thể tự gây thương tật. Nó nhắc cậu nhớ lại cái ngày cậu bị bệnh, ói mửa ngay giữa đồng trống rồi ngủ thiếp đi. Cách đó không xa hai tên cướp đường chờ sẵn, định bụng hễ cậu tới là chúng sẽ cướp bầy cừu rồi giết cậu. Nhưng chờ mãi không thấy cậu tới chúng bèn bỏ đi vì nghĩ rằng cậu đã chọn đường khác rồi.
“Lúc nào trái tim cũng giúp mình sao?” Cậu hỏi nhà luyện kim đan
“Chỉ những trái tim của những người muốn đi theo vận mệnh của mình thôi. Nhưng chúng cũng giúp đỡ trẻ em, người già và cả người say nữa”.
“Thế nghĩa là cháu sẽ không bao giờ gặp nguy hiểm sao?”
“Thế chỉ có nghĩa là trái tim làm tất cả những gì nó có thể làm được thôi”, nhà luyện kim đan đáp
Một buổi xế trưa họ đi ngang khu lều trại của một bộ tộc tham chiến. Ở mỗi góc trại đều có những người lính vũ trang choàng áo màu trắng trông rất đẹp. Họ ngồi hút Nargileh và bàn tán về chiến trận. Chẳng ai buồn để ý đến cậu và nhà luyện kim đan cả.
“Chẳng có gì nguy hiểm”, cậu nói sau khi họ đã đi qua khu lều được một quãng.
Nhà luyện kim đan nổi giận: “Hãy tin tưởng ở trái tim mình nhưng đừng bao giờ quên rằng mình hiện đang ở sa mạc. Khi xảy ra đánh nhau thì ngay cả tâm linh vũ trụ cũng còn nghe tiếng thét trên trận địa và không ai tránh được hết những hậu quả của mọi chuyện xảy ra dưới bầu trời này”
“Tất cả đều là một”, cậu nghĩ.
Rồi, như thể sa mạc muốn chứng minh rằng nhà luyện kim đan nói đúng, hai kị sĩ xuất hiện phía sau họ.
“Mấy người không thể đi tiếp được nữa”, một kị sĩ nói. “Mấy người đang ở trong vùng có giao tranh”.
“Tôi không đi xa đâu”, nhà luyện kim đan đáp, nhìn thẳng vào mắt các kị sĩ.
Họ lặng thinh một lúc rồi đồng ý để hai người đi tiếp. Cậu hào hứng theo dõi cuộc đối thoại.
“Ông chế ngự được họ chỉ bằng cái nhìn!” Cậu thán phục
“Đôi mắt cho thấy sức mạnh của tâm hồn”, ông đáp
“Đúng vậy”, cậu thầm nghĩ.
Cậu vừa nhận thấy ở khu lều kia một trong số những người vũ trang nhìn chòng chọc theo họ. Vì khoảng cách quá xa nên cậu không nhìn được rõ mặt hắn song cậu chắc chắn hắn đang nhìn họ. Sau khi đã vượt qua rặng núi trải dài theo chân trời nhà luyện kim đan mới nói rằng chỉ còn hai ngày nữa thôi là đến Kim Tự Tháp.
“Nếu chúng ta sắp phải chia tay đến nơi thì ông hãy dạy cháu thuật luyện kim đan đi”, cậu nói
“Cậu đã nắm vững thuật ấy rồi mà. Đó là: nhập vào tâm linh vũ trụ và phát hiện kho báu dành riêng cho mình”
“Cháu không nói đến chuyện ấy; chuyện luyện chì thành vàng cơ”
Nhà luyện kim đan chợt lặng im như sa mạc và chỉ trả lời cậu sau khi họ dừng lại để dùng bữa
“Mọi sự trong vũ trụ đều tiến hóa”, ông nói. “Với bậc hiền giả thì vàng là thứ kim loại tiến hóa đến mức cao nhất. Đừng hỏi tại sao vì ta không biết thuật. Ta chỉ biết truyền thống luôn luôn đúng. Chỉ vì người ta không hiểu lời bậc hiền giả. Cho nên vàng, thay vì là biểu tượng của tiến hóa, trở thành nguyên nhân gây ra xung đột”.
“Sự vật tự biểu lộ bằng nhiều thứ ngôn ngữ”, cậu ngắt lời ông. “Chẳng hạn có một lúc đối với cháu tiếng lạc đà kêu không là gì khác hơn tiếng lạc đà kêu cả, rồi thì nó trở thành dấu hiệu của sự nguy hiểm, sau đó lại chỉ là tiếng kêu như trước”.
Cậu không nói tiếp nữa; có lẽ nhà luyện kim đan đã biết cả rồi.
“Ta biết những nhà luyện kim đan chân chính”, ông nói tiếp. “Họ tự giam mình trong phòng thí nghiệm, cố gắng để tiến hóa, giống như vàng. Họ tìm ra được loại “Đá tạo vàng” vì họ hiểu rằng khi một vật tiến hóa thì mọi vật quanh nó cũng tiến hóa theo. Người khác tìm ra “Đá tạo vàng” do tình cờ; họ vốn có tài sẵn và tâm hồn họ lĩnh hội nhanh hơn kẻ khác. Số người này hiếm chứ không nhiều đâu. Rồi có những kẻ chỉ quan tâm đến vàng thôi. Họ chẳng bao giờ tìm ra được điều bí mật cả vì họ quên rằng chì, đồng, sắt cũng phải đi trọn con đường tiền định của chúng. Thanh ra ai mà can thiệp vào vận mệnh của sự vật khác sẽ không bao giờ phát hiện được chính vận mệnh của mình”.
Những lời này vang lên như một lời nguyền.
Ông cúi nhặt một vỏ sò trên mặt cát: “Sa mạc này xưa kia là biển”
“Cháu cũng nhận thấy thế”, cậu đáp.
Nhà luyện kim đan bảo cậu úp vỏ sò vào tai. Hồi nhỏ cậu đã từng nhiều lần làm như thế và được nghe tiếng của biển.
“Biển sống trong vỏ sò này vì số phận của nó là như vậy. Nó sẽ không bao giờ rời khỏi vỏ sò cho đến khi sa mạc được phủ đầy nước”.
Họ lên ngựa, đi về hướng Kim Tự Tháp Ai Cập. Khi trái tim cậu lên tiếng báo nguy thì mặt trời đang lặn. Họ đang đứng giữa những đồi cát khổng lồ. Cậu nhìn nhà luyện kim đan xem ông có cảm thấy điều gì không, song xem ra ông không hề biết có hiểm nguy. Năm phút sau cậu thấy có hai kị sĩ đợi họ phía trước, bóng màu sẫm in trên nền trời. Cậu chưa kịp nói gì với nhà luyện kim đan thì từ hai kị sĩ giờ đã thành mười, rồi thành trăm, rồi thì trùng điệp khắp đồi cát. Các chiến binh này khoác áo màu xanh, chít vòng màu đen quanh khăn xếp. Khăn che mặt cũng màu xanh, chỉ để hở đôi mắt. Tuy xa nhưng vẫn thấy được mắt họ toát ra sức mạnh và chết chóc.