Phần 25
Chín ngày trong một đời người

Bao triều vua phế đi rồi.
Người yêu nước chẳng mất ngôi bao giờ
Nguyễn Duy.
Cách!..
Tiếng bập khô khô khốc vang lên sau tiếng "rầm" của cánh cửa sắt xà lim sập mạnh... Thế là tôi đã được ở trong nhà tù, một cái nhà tù đích thực theo nghĩa đen mà cách đây ít phút tôi chưa hình dung được nó một cách cụ thể. Thậm chí tôi cũng chưa nghĩ tới nó cách đây hơn hai năm khi tôi làm bài thơ " Gửi anh công an an ninh chính trị!" Khi dám dấn thân đi vào con đường thế sự đầy gai góc thì cứ coi ngày này là điều tất yếu.
Lúc đó là khoảng 17 giờ ngày 25-4-2001, cái ngày định mệnh ở cái tuổi xấp xỉ cổ lai hy của tôi. Vừa bất hạnh và cũng vừa "vinh dự" được ở trong cái nhà tù nổi danh của thành phố Hải Phòng được xây dựng từ thời mồ ma "đế quốc Pháp", và được bàn giao lại cho chế độ XHCN tiếp tục quản lý sử dụng, nằm trên con đường mang tên ông Tổng bí thư đầu tiên của ĐCSĐD kèm theo câu xú ngôn nổi tiếng từng làm ghê rợn của một thời:
"TRÍ-PHÚ-ĐỊA-HÀO, đào tận gốc, trốc tận rễ" mà cung bậc âm hưởng của nó lên cao hay xuống thấp đã tưởng rằng chỉ còn "vang bóng một thời" mà vẫn còn tác oai, tác quái đến hôm nay.
Để minh chứng cho lời hù doạ có hiệu lực của ông, cái đập vào mắt đầu tiên của tôi là ở góc tối của buồng tù có một cái cùm chân bằng những thanh sắt đen xì cực to đang giương mắt nhìn tôi như đe doạ. Quả thật đã từng trải qua bọn "trâu điên, ó đỏ" nguỵ và những làn đạn lửa tử thần khi xung phong mà khi thấy "con quái vật cùm đen xì" tự nhiên cảm thầy chờn chợn, ghê ghê vừa sợ hãi, vừa căm giận. Tự nhiên bên tai tôi văng vẳng câu nói của ai đó: "La méchanceté boit elle même la plus grande parti de son poison".. ("Sự tàn bạo tự nó uống một phần lớn thuốc độc của nó!").

° ° °

Trên chiếc taxi vận tải nhỏ bon bon hướng Hà Nội-Hải Phòng có 2 người: Tôi và thằng cháu, con cô em ruột tôi lái xe chở bột đá xuất đi ý cho một doanh nghiệp ở Hải Phòng.
Tuýt...tuýt....tuýt...
Tiếng còi giật giọng chói tai trước mũi xe cắt ngang cơn lơ mơ của tôi và sau đó vang lên tiếng loa pin cầm tay oang oang: "Chú ý! Được nhân dân phát hiện và báo trên ô tô có mang hàng cấm, phải dừng lại để kiểm tra".
Nhờ tiếng loa mà tôi tỉnh hẳn giấc lơ mơ và tự nhủ thầm: "Thôi thế là mình bị rồi".... Lúc đó là khoảng gần 13 giờ ngày 24-4-2001. Tôi bị bắt tại trạm giao thông Quán Toan cách Hải Phòng chừng 10 cây số.
Chẳng hiểu từ lúc nào, 2 xe U-oát và nhiều xe máy cùng hơn một chục CA vừa mặc cảnh phục, vừa mặc thường phục đã vây quanh xe ô tô của tôi. Một CA nhảy lên buồng lái ép tôi ngồi sát vào trong và ra lệnh cho cháu tôi lái theo 1 cái U-oát dẫn đường, còn các xe khác bám theo sau. Cũng chẳng rõ vài ba trăm mét hay một cây số gì đó thì đoàn xe dừng lại trước một căn nhà mà tôi chắc là Trạm giao thông Quán Toan. Nói là dân Hải Phòng qua lại nhiều lần trên Đường 5, quả thật tôi chưa hề biết cụ thể Trạm Quán Toan là "khắc tinh" của các anh hùng xa lộ.
Họ ra lệnh cho tôi mang hành lý vào Trạm. Tôi khoác cái ba lô du lịch nhỏ chỉ có một bộ quần áo dự phòng và khăn mặt cùng bàn chải đánh răng. Còn cái túi nilông xách tay trong đó đựng một số sách và tài liệu của bạn bè Hà Nội gửi đọc cho "vui" và cho biết những cuộc đời ẩn sau những cuộc đời, trọng lượng khoảng trên dưới 1 kg, tôi để lại xe không mang theo vì mấy ông CA an ninh đâu có phải "tay mơ" mà để lọt tang chứng. Vây xung quanh tôi, một ông già nhỏ thó tới mười mấy anh CA cao to, lực lưỡng.
Trạm là một căn phòng lớn như một căn phòng tiếp khách của một cơ quan, có một cái bàn to dài xung quanh đầy đủ ghế tựa. Không phải là qua cơn "hoạn nạn" thì tha hồ "bốc phét", nhưng quả là lúc ấy lòng tôi bình thản chẳng phải vì tôi can đảm gì mà là tôi chủ quan suy nghĩ mình có tội gì mà bắt. Tôi toan ngồi xuống nghỉ cái đã rồi muốn ra sao thì ra. Nhưng không được... họ giục tôi đứng lên và tự mở ba lô các đồ linh tinh để họ khám. Tiếp theo họ ra lệnh tôi phải cửi thắt lưng và lột cái áo len ngắn tay để họ kiểm tra. Tôi phản ứng gay gắt: "Các anh có từng đấy người mà định làm nhục người già như tôi sao? Muốn khám cởi quần áo thì cũng phải có nơi khám riêng đàng hoàng chứ".
"Bác cứ bình tĩnh, đây chỉ là thủ tục bắt đầu thôi". Lời thốt ra từ một anh CA to, cao, đẹp trai với bộ mặt đằng đằng nghiêm nghị. Sau đó họ mang cái túi nilon tài liệu vào và hỏi: "Túi này có phải của bác không? Tôi gật đầu và họ ra hiệu cho tôi tự lấy các tài liệu ra để lên bàn. Khi lục lấy tài liệu ra tôi liếc mắt thì ngoài một người ghi biên bản còn có cả camera đang chĩa vào mặt tôi. Thì ra họ đã chuẩn bị chu đáo đón lùng tôi mà nào tôi có biết. Trong số CA đã thấy thì tôi thấy xuất hiện thêm một nhân vật mới, một người mặc bộ comlê màu nâu nhạt đã hơi cũ. Ông ta trạc hơn sáu mươi tuổi theo bộ mặt và mái tóc đã bạc. Trông ông có dáng một ông giáo già về hưu, hiền lành gây một cảm giác nhẹ nhõm trong tôi. Nhưng vì thấy ông chắp tay sau lưng, đi đi lại lại ngoài hành lang, trầm ngâm không nói một câu, tuy thỉnh thoảng có trao đổi một vài câu gì đó có vẻ chỉ đạo. Vậy là "cốp" rồi, tôi nghĩ vậy và bắt đầu cảnh giác với ông ta dù tôi biết mình cảnh giác cũng bằng thừa, vì tôi đã sa vào cái lưới của ông rồi. Đột nhiên rất nhanh tôi nghĩ đến chuyện ngụ ngôn của hai mẹ con nhà Chuột. Chuột con lần đầu tiên đi quanh sân quan sát những người sống quanh nó. Khi nó về khoe với mẹ:" Mẹ ơi! Con sợ quá, con gặp một ông cao to ghê gớm, đầu ông đội một cái mũ đỏ chót, có bộ lông óng ánh và đôi chân có vẩy cùng với một cái cựa rất dài và nhọn. Khi ông quạt cánh gió thổi vù vù và hét lên "cúc cù cu" váng cả tai. Con sợ quá chạy chối chết. Rồi sao nữa... mẹ chuột hỏi. Sau đó con thấy một ông già hiền lành có bộ lông vằn vàng mượt mắt lim dim đang nằm sưởi nắng. Chuột mẹ khuyên con ra sao tôi không dám dài lời kể tiếp. Nhưng mai ngày mà đối thoại hay bị hỏi cung trước ông già CA hiền lành này thì từ câu chuyện ngụ ngôn trên hẳn cũng răn dạy đựoc tôi một điều gì. Nhưng sau này khi tiếp xúc nói chuyện với ông, tôi mới thấy tôi nhầm.
Tiếp tục việc kiểm tra "tang vật". Gồm: quyển "Nền Kinh Tế Trí Thức" rất dày, một quyển viết về "Giáo sư Dương Quảng Hàm" của Nhà xuất bản ĐH Quốc gia Hà Nội, một quyển "Hồi ức tháng Năm" của nhà cách mạng lão thành Phí Văn Bái do Nhà xuất bản Thanh niên. Ba quyển trên là của anh Lê Hồng Hà tặng tôi. Ba lá thư gửi Bộ chính trị của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, của nguyên Uỷ viên BCT Nguyễn Đức Tâm và của 3 ông tướng viết chung: Thượng tướng Phùng Thế Tài, Thượng tướng Hoàng Minh Thảo, Trung tướng Lê Tự Đồng và một số các bài viết của Tiến sĩ Viện sĩ Nguyễn Thanh Giang, của nguyên Viện trưởng Viện Marx-Lénie Hoàng Minh Chính và một vài bài viết khác tôi chưa kịp đọc. Đến thăm các bạn, các anh ấy cho thì cứ đút bừa vào túi để về Hải Phòng đọc sau. Riêng có quyển "Tổ quôc ăn năn" của Nguyễn Gia Kiểng thì tôi chịu không nhớ là của ai cho. Và cũng chỉ có quyển này mà CA truy hỏi tôi nhiều hơn cả. Họ bắt tôi tự ghi ngày tháng năm hôm bị bắt, ký tên và ghi rõ họ và tên dưới chữ ký từng tài liệu. Nếu là quyển thì phải ký tờ đầu tiên và tờ cuối cùng. Nếu là tài liệu chỉ có hai, ba trang thì cũng phải ghi vào trang đầu và ký vào trang cuối. Tôi viết và ký liên tục đến mỏi tay. Tôi có thói quen ký tên rồi mới ghi ngày tháng năm, cho nên khi tôi vừa mới ghi tên thì đã có tiếng dục nói gay gắt của một CA "đằng đằng sát khí": "Bác phải ghi rõ ngày tháng năm vào". Tôi bực mình mỉa mai: "Ông yên tâm đi, cả một đống tài liệu này chưa làm tôi ngại thì trốn vài chữ ngày tháng năm để làm gì". Một bầu không khí căng thẳng xung quanh tôi. Tôi nghĩ: "Không hiểu khi CA bắt được một tên trùm buôn ma tuý thì cũng căng thẳng đến thế này là cùng chứ gì?"... Mọi thủ tục đã hoàn tất bước đầu và chuẩn bị giải tôi về Hải Phòng. Trước khi đi tôi yêu cầu họ một điều: "Nếu những gì xẩy ra ngày hôm nay mà các ông cho tôi là phạm tội thì tôi xin chịu trách nhiệm hoàn toàn là do tôi. Còn thằng cháu tôi, cháu hoàn toàn không hề biết việc bác nó làm, nên tôi xin các ông trả tự do cho cháu để cháu đi giao hàng cho chủ". Lời đề nghị của tôi được họ chấp nhận, sau khi khám xét lật từng ngóc ngách của xe, họ áp giải cháu tôi tới nơi giao hàng và 18 giờ họ trả tự do cho cháu tôi về Hà Nội. Họ áp giải tôi ra xe U-oát. Trước khi mở cửa xe cho tôi lên, chú lái xe CA nói vui với tôi một câu: "Chả mấy khi "bá" đi xe của CA, vậy cũng đi để cho biết". Tôi cũng đáp đùa vui một câu: "Đúng vậy. Cũng cần biết đệm xe của CA có êm không?". Có một điều thấy cũng cần nói ngay là tôi chuẩn bị sẵn sàng đón nhận cái còng số 8 bập vào nhưng điều đó đã không xẩy ra.
Đoàn xe bon bon về Hải Phòng. Qua cơn mưa nhẹ, bầu trời Hải Phòng như bừng sáng hơn. Vẫn những xe cộ, dòng người hối hả ngược xuôi, nhịp sống của tự do loang loáng hiện qua mắt, bỗng dưng tôi tự cường điệu hoàn cảnh của mình lên một chút và lẩm bẩm:
"Chết vì Tổ quốc.
Chết vì vinh quang
Lòng ta sung sướng
Trí ta nhẹ nhàng".
Bốn câu thơ của nhà thơ yêu nước vĩ đại Nguyễn Thái Học chợt đến với tôi để tự động viên, để che bớt sự sợ hãi, sự hèn nhát căn bệnh cố hữu nấp trong sâu thẳm của con người sau khi chia tay với khói lửa chiến tranh đã 26 năm trời lại xuất hiện. Sống nín nhịn, sống cam chịu đã thành thói quen mài nhẵn con người tôi gần hết cả một đời người, mà mới "u, ơ" một vài suy nghĩ vượt ra ngoài khuôn phép thì lại đã dính vào vòng lao lý. Đang mung lung suy nghĩ bỗng một thoáng rùng mình, lần đầu tiên kể từ khi bị bắt tôi nghĩ đến vợ và các con tôi. Chả có gì để chứng minh thần giao cách cảm là có thực, nhưng sau này được trả tự do tôi mới được biết cái giờ phút kỳ diệu đó là lúc nước mất của vợ tôi, của các con tôi khóc vì sợ hãi khi nhà tôi bị lục soát tanh bành.
Xe đi trên đường Điện Biên rồi rẽ trái, tôi chợt hiểu tôi được đưa về số 14 Lê Quýnh mà đến hôm nay tôi cũng chưa biết tên thật đúng của cái cơ quan CA đó.
Xe đỗ trên một cái sân rộng có kẻ đường biên của một bãi cầu lông. Trước mặt tôi là ngôi nhà chính 2 tầng khang trang. Tôi được giải xuống một phòng ở dãy nhà ngang một tầng. Người hướng dẫn tôi vào và nhiệt tình xách giúp tôi cái xô nhưạ to có đựng rượu nếp cái ngâm trứng gà của cô em ruột cho là Trung tá VL, một anh CA đặc biệt có đôi mắt như luôn xói vào tâm can người đối diện và trên môi như luôn thường trực một nụ cười mỉm mà không rõ anh có cười thực hay không. Phòng có kê một cái giường một, trải chiếu hoa sạch sẽ. Một cái tủ bằng tôn kẽm trắng to để tài liệu và một bộ bàn ghế làm việc kiểu cơ quan thường thấy.
Tôi vừa đặt chiếc ba lô xuống giường thì một anh CA khác đi vào cầm hai cái bánh mỳ kẹp patê. Nếu tôi nhớ không nhầm thì đó là trung tá P (sau này tôi mới biết chức vụ vì khi anh là người bắt tôi anh mặc thường phục). Vừa đưa một cái bánh mỳ cho Trung tá VL anh vừa nói với VL đồng thời cũng liếc mắt sang tôi như để nói với cả hai người: "Này cậu cầm lấy ăn đi. Bác ạ. Từ sáng đến giờ chúng tôi đã được ăn uống gì đâu". Trung tá VL cấm lấy cái bánh mỳ nhưng một thoáng lúng túng vì anh chợt nhận thấy tôi là một kẻ cũng cần phải được ăn nên anh nhường cái bánh mỳ cho tôi và mời tôi. Tôi lịch sự từ chối vì nhu cầu ăn của một ông già như tôi có thể nhịn qua bữa là thường, huống chi ở tình huống này còn bụng dạ đâu mà ăn. Tôi xin phép ra sân để các anh ăn cho tự nhiên. Ăn xong VL yêu cầu tôi vào tiếp tục làm việc, có nghĩa là bắt đầu cuộc hỏi cung sơ bộ. Xấp giấy trắng kẻ học sinh và cái bút bi trước mặt anh bắt đầu hỏi và tự ghi chép. Bỗng nhiên anh có một cử chỉ hết sức bất ngờ và gây một thoáng xúc động trong tôi. Anh tự chỉ tay vào mặt anh và nói: "Bác Quận ạ. Bác trông mặt cháu có phải là bộ mặt của kẻ bất lương không? Mấy năm nay tôi chỉ nghe tên bác hôm nay mới được biết mặt. Tôi hiểu bác và mong bác cũng hiểu tôi để chúng ta tiến hành công việc cho được thuận lợi". Và trong 10 ngày được anh hỏi cung liên tục, anh đã nói đúng. Anh tên thật là VL một CA họ Vũ lương thiện hỏi cung một tù nhân cũng họ Vũ, cũng dám tự nhận mình là một người lương thiện. Lúc "bác cháu" lúc "bác tôi" các đại từ nhân xưng giữa tôi và VL hơi lộn xộn. Nhưng khi chính thức làm việc, VL gọi tôi là anh và xưng tôi. Trước mắt tôi lúc này một VL sởi lởi được thay thế bằng một Trung tá CA VL khó đăm đăm và nghiêm nghị.
Hỏi: Anh cho biết họ tên, tuổi, chỗ ở?
Đáp: Tôi là Vũ Cao Quận, 69 tuổi ở số 1C - Ngõ 246B - Đường Đà Nẵng - Phường Câù Tre - Hải Phòng.
Hỏi: Anh có nhận tội là đã mang theo những tài liệu cấm, chống Đảng không?
Đáp: Tôi nhận là có mang theo một số sách, tài liệu, nhưng nội dung của các quyển sách đó lại do một số Nhà xuất bản được phép in ấn. Còn các tài liệu thì toàn là các bài viết gửi Bộ Chính trị góp ý kiến về Đại hội IX của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, của nguyên Uỷ viên BCT Nguyễn Đức Tâm, của 3 ông tướng: Thượng tướng Phùng Thế Tài, Hoàng Minh Thảo và Trung tướng Lê Tự Đồng, của Tiến sĩ Viện sĩ Nguyễn Thanh Giang và một số các bài viết khác mà tôi cũng chưa kịp xem. Những bài tôi đã đọc qua chẳng thấy nội dung có gì chống Đảng, và đáng cấm cả. Còn nếu theo các ông đó là những tài liệu cấm thì đài, báo chí công bố cho toàn dân biết để mà tránh chứ, theo lôgic hợp lẽ với lẽ đời, hợp với luật pháp thì các ông phải điều quân đi truy bắt các ông viết các tài liệu trên chứ. Bắt người viết chứ sao bắt người đọc... tôi toan nói tiếp thì bị cắt ngang...
Hỏi: Làm sao mà anh quen và có mối liên hệ với các ông: Trần Độ, Hoàng Minh Chính, Lê Hồng Hà và Nguyễn Thanh Giang...?
Đáp: Trình bày thì dài nhưng tôi xin nói ngắn gọn. Tình đời, tình người thôi... Khi ông Độ là tướng tôi mới là anh tiểu đội trưởng, không có mối liên hệ nào trực tiếp cả. Cách đây có dễ hơn 40 năm, tôi có được nghe, được đọc một số bài viết về thanh niên của ông Độ. Ông Độ hiểu thanh niên công nông đồng thời ông cũng hiểu những tâm tư của bọn thanh niên tiểu tư sản và tầng lớp trên chúng tôi tự nhiên nẩy sinh trong tôi lòng kính trọng vu vơ thôi, vì địa vị xã hội của ông so với tôi lúc đó xa cách quá. Tôi đến với ông khi ông bị "thất sủng" và đau yếu, một người lính già đến với một chủ tướng già. Giản đơn có vậy thôi, chứ không phải thấy người sang bắt quàng làm họ. Còn quen với các ông khác chẳng qua cũng là tất yếu, tình bạn của sự nổi dậy của tư duy.
Đang nói dở thì một CA từ bên ngoài đi vào không nói, không rằng quẳng một băng Video vào trước mặt tôi. Hành động nghiệp vụ này hơi non một chút nên họ chẳng tìm thấy một phản ứng gì thay đổi trên nét mặt tôi. Tôi vẫn bình thản ngồi lặng lẽ để chờ câu hỏi tiếp nhưng lòng thầm nghĩ: "Thế là các chú em đã đến khám nhà tôi rồi". Các băng Video đó là của anh Trần Độ tặng tôi quay cảnh các anh: Trần Độ, Nguyễn Văn Đào (nguyên bí thư Thành uỷ Hà Nội), Trần Khuê, Trần Dũng Tiến, Đại tá Thế Kỷ, Đại tá Võ Hạ, trung tá Vũ Đức Tĩnh, Vũ Cao Quận được vợ chồng Viện sĩ, tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang và Tuyết Mai (con gái nhà báo lão thành cách mạng Thôi Hữu) mời đi viếng mộ Nhà báo lão thành cách mạng Thôi Hữu ở Thái Nguyên. Mãi về sau này lắm lúc tôi tự hỏi: Các CA nghiệp vụ có tự cảm thấy xấu hổ khi mình vi phạm pháp luật đi thu những thứ không thuộc về chứng cứ phạm pháp. Những người trong băng Video đều là những công dân tự do đi thăm viếng liệt sĩ và họ thu cả ảnh tôi chụp chung với vợ chồng Trần Trọng Hải và Anbina Trebontasova cùng cháu Ella Trần Hải Yến trong dịp ra thăm và tặng tiền cho vợ chồng cô gái Nga bán bia ở Cẩm Phả. Họ tịch thu cả chiếc máy chữ nhỏ của tôi.
Rồi giờ nghỉ cũng đã tới, sau khi ký vào biên bản hỏi đáp Trung ta VL thu xếp nhường giường ngủ ở phòng làm việc của anh. Khoảng 18 giờ vợ tôi mang cặp lồng phở đến cho tôi và được VL đưa vào tận phòng cho tôi. Tôi tuyên bố: "Tôi tuyệt thực sẽ không ăn cho đến khi nào tôi được gặp vợ tôi". Và tôi bỏ đi nằm, khoảng 30 phút sau, anh VL vào gặp tôi và nói: "Bác phải ăn đi, chả lẽ bác lại để tôi lập biên bản không ăn thì thật buồn cười quá". Tôi nói: "Lập biên bản là quyền của các ông, còn nếu tôi không được gặp vợ tôi thì tôi đã sẵn sàng chuẩn bị cho cái chết của tôi rồi. Tôi sẽ tuyệt thực đến chết vì tôi chẳng còn gì để mất cả". Lại khoảng 1 giờ 30 phút sau (tức là khoảng 20 giờ) anh VL lại vào phòng dục tôi ăn. Tôi kiên quyết không ăn. Thấy vậy anh đấu dịu: "Thôi bác ăn đi. Sau khi bác ăn xong tôi sẽ để bác gái vào gặp bác". Tôi cảnh giác hỏi lại: "Anh bảo đảm chứ". VL đáp có vẻ hơi bực: "Chẳng lẽ tôi lại nói dối bác sao...?".
Dù suốt từ sáng tôi mới uống một tách cà phê mầu ở Hà Nội với Đắc Kính cho tới bây giờ tôi cũng không hề thấy đói. Bởi lẽ sau biến cố bệnh tật hôm 27 tết âm lịch, tôi bị liệt nửa người phải đi bệnh viện quân đội 203 cấp cứu nên đầu tôi luôn bị như say sóng và nhu cầu ăn tôi có thể nhịn vài ba ngày cũng được. Để có sức "chiến đấu" cho ngày mai tôi chỉ ăn hết nửa xuất phở, chủ yếu là ăn hết số thịt bò để tăng thêm sức chịu đựng.
Giữ đúng lời hứa, sau khi tôi ăn xong Trung tá Vũ Lương cho phép vợ tôi vào gặp tôi. Khi vợ tôi bước vào phòng, tôi vội quệt nước mắt trong bóng tối và lòng thấy thanh thản lạ thường.
Chỉ có biết được mình sắp bước vào cuộc đời giam giữ, lao tù mới thấy việc được gặp vợ là quý giá biết chừng nào. Tội nghiệp vợ tôi, khi thấy chồng mới mặc chiếc áo cưới hôm trước thì hôm sau đã phải khoác áo tang trắng trong đám ma của bố chồng. Ở với chồng chưa kịp bén hơi nhau thì lại tiễn đưa chồng vào Nam chiến đấu. Cuộc chiến tranh chống Mỹ ngày càng ác liệt, người vợ trẻ tiễn chồng ra mặt trận hẳn biết rằng cái ngày trở về là không hẹn trước.
- Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi... Liệu có mấy người chinh chiến trở về. Đằng đẵng chờ chồng, gánh nặng đè lên vai với đồng lương kế toán ít ỏi nuôi mẹ đẻ lẫn mẹ chồng. Hoà bình trở lại cũng chưa được một ngày sung sướng thì hôm nay... chồng chưa đỡ đần được bao nhiêu thì lại mang gánh nặng vì chồng. Với bản lĩnh vững vàng vợ tôi không hề khóc lóc, vẫn bình tĩnh kể sơ qua việc nhà tôi bị lục soát một cách vô cớ. Các con lo lắng và thương bố lắm. Về phần tôi cũng chưa hình dung những gì sẽ xẩy ra tiếp theo với số phận tôi, nhưng trong suốt chiều dài về lịch sử đàn áp của đất nước này như: Vụ H 122, CCRĐ, "Nhân văn giai phẩm", "Nhóm chống Đảng".... thì tôi lại trở lại với bản năng của người lính: Cảnh giác và sẵn sàng ứng phó với hoàn cảnh xấu nhất. Thật là trớ trêu, gần hết cả cuộc đời cầm súng chiến đấu từ lúc tóc còn xanh đến khi đầu bạc luôn luôn sẵn sàng chiến đấu và cảnh giác với mọi kẻ thù thì hôm nay... cũng lại cảnh giác và sẵn sàng ứng phó với cái trước mặt: chẳng bạn, chẳng ta cũng chẳng phải thù.
Đêm ấy (24-4-2001) sau những thao thức rồi tôi cũng thiếp đi sau một ngày căng thẳng. Khoảng 5 giờ 30 sáng tôi bị đánh thức bởi tiếng mở khoá buồng tạm giữ và tiếng oang oang của viên CA trực: "Dậy đi ông. Sáng rồi. Rất chu đáo anh chỉ cho tôi chỗ rửa mặt và các nhu cầu vệ sinh khác. Chỉ ít phút sau tôi biết anh là Trung tá Th với vóc dáng to đậm, ngăm ngăm, khuôn mặt mang dáng dấp của một nông dân, với vẻ hồn nhiên, chất phác và thái độ ân cần, vồn vã. Tất nhiên đây chỉ là một nhận xét bên ngoài của tôi... chợt chuyện ngụ ngôn về mẹ con nhà Chuột lại hiện trong tôi. Cách đây hai hôm trước khi bị bắt, một ông bạn tôi đã từng có chức vụ cỡ thứ, vụ trưởng của ngành CA bảo tôi: "Ông chớ có tin bọn CA". Tôi nói vui hỏi lại: "Thế thì chính tôi tin ông sao được. Vì ông cũng cỡ tổ sư của ngành CA đó sao?". Nhưng riêng với Trung tá Th đã gây cho tôi một cảm giác nhẹ nhõm khi tiếp xúc. Và cũng Trung tá Th là người cùng Trung tá VL là người hỏi cung tôi nhiều nhất trong 9 ngày bị giam giữ.
8 giờ sáng ngày 25-4-2001, ngày làm việc thứ hai của CA với tôi. Người hỏi cung tôi là thiếu tá VNC cùng trung tá VL. Hình như VNC có quân hàm thấp hơn nhưng chức vụ lại cao hơn VL. Sau khi bố trí đặt micro trước mặt tôi và thợ camera đã sẵn sàng chĩa máy thẳng vào mặt tôi, VNC nói: "Chúng ta bắt đầu làm việc, trước khi làm việc anh có ý kiến gì không?".
Đáp: "Thứ nhất tôi lấy quyền của một công dân, tôi xin được xem lệnh bắt tôi. Thứ hai nêu tôi có tội, tôi yêu cầu được xét xử trước toà án. Thứ ba là khi nói với các ông về nỗi thống khổ của nhân dân, của đồng đội tôi, tôi hay dễ xúc cảm, tôi mong các ông đừng xuyên tạc những giọt nước mắt xúc động của tôi thành biểu lộ của sự ăn năn hối lỗi trước cơ quan CA như kiểu Như Phong làm trên báo AN NINH Thế giới để bôi xấu, để vu khống một số nhà trí thức và nhân sĩ".
Tôi có cảm tưởng họ chẳng hề có lệnh bắt tôi, nhưng đòi hỏi của tôi đối với họ chẳng có ý nghĩa gì, vì chỉ khoảng 5 phút sau họ đã mang tới cho tôi xem lệnh bắt giữ tôi có đủ chữ ký của Viện kiểm sát nhân dân thành phố. Có nghĩa là họ có hàng mớ lệnh ký lưu không của VKS, còn khi họ định bắt ai thì cứ việc bắt chứ không cần qua thủ tục bắt giữ, khám xét công dân của pháp luật.
VNC: "Tôi xin trả lời yêu cầu thứ hai của ông là ông yên tâm nêú ông phạm tội thì chúng tôi sẽ đưa ông ra toà xét xử.
Tiếp theo, sự hỏi cung tôi cũng chẳng có một quy trình trật tự nào, theo kiểu tiện đâu hỏi đó hay đó là thủ pháp của CA thì tôi cũng không rõ.
VNC: "Tôi đã đọc những bài viết của anh. Anh có nhiều ngoa ngôn lắm".
Đáp: "Xin ông cho dẫn chứng".
VNC: Trong một đoạn bài viết của ông có câu: "Vợ tôi khóc không phải vì cái lý tưởng quái đản này mà vì sợ tôi theo chân anh vào nhà đá". (Câu này trích trong thư riêng của tôi gửi cho Thanh Giang, thư hoàn toàn riêng tư giữa tôi và Thanh Giang. Thanh Giang đưa cho một ông bạn đọc. Rồi chả hiểu từ lúc nào lá thư được vi tính cho nhiều người đọc). Vậy theo ông cái cụm từ "lý tưởng quái đản" đó, ông định nói lên điều gì?
Đáp: Thưa ông, từ lý tưởng chỉ là một danh từ chung, nó chẳng chỉ rõ một vấn đề cụ thể nào. Nó chỉ có ý nghĩa cụ thể khi nó gắn liền với một mục đích nào đó. Ví như: Lý tưởng vì lợi nhuận, vì danh lợi, vì đồng tiền. Còn tôi nói chữ "lý tưởng quái đản" đó theo nghĩa của riêng tôi. Tôi đang ở trong một tổ chức, cùng theo một ý tưởng, một mục đích tốt đẹp, một lý tưởng cao cả. Đang là đồng chí, đồng đội của nhau, chỉ vì tự ái vì nột câu nói hoặc một ứng xử hoặc một phản ánh trung thực dễ bị lãnh đạo bực mình nhưng cũng chỉ có tính chất giữa cá nhân với cá nhân. Thế mà cậy có chút quyền lực cấp phường vu cáo đẩy đồng chí mình về phía đối kháng. Tìm mấy kẻ cò mồi, chân gỗ dưới quyền moi móc chuyện cũ đã qua bốn năm năm "dám đề nghị đổi tên nước, đổi tên Đảng, đổi cờ Đảng". Và trắng trợn đến bẩn thỉu vu cho là "hay bàn chuyện đa nguyên, đa Đảng". Cho nên tôi dùng cụm từ "lý tưởng quái đản" là để chỉ một cái mục đích đẹp đẽ, một "lý tưởng cao cả" lại sản sinh ra lũ quái đản này.
Nhân đây nói ngoài lề về chuyện đề nghị “đổi tên nước, đổi tên Đảng, đổi cờ Đảng” của tôi. Khoảng năm 1995 hay 1996, nhân cuộc hội nghị mở rộng của Đảng bộ Phường tới các bí thư, phó bí thư học tập, thảo luận NQ Đại hội VIII, nhân danh cá nhân đảng viên tôi đề nghị lên Đảng bộ cấp trên và xin bảo lưu ý kiến của mình gồm 3 điều:
- Thứ nhất: Xin đề nghị đổi tên Đảng Cộng Sản Việt Nam trở về tên Đảng Lao Động Việt Nam thân thương vì suốt mấy chục năm nhân dân VN đã chiến đấu và chiến thắng khi chiếc xe tăng húc đổ cổng dinh Độc lập của Nguỵ quyền Sài Gòn, giang sơn thống nhất thu về một mối là dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao Động Việt Nam quang vinh. Cái tên Đảng Lao Động Việt Nam rất thân thương ăn sâu, bám rễ trong lòng nhân dân rồi, trong lòng người lao động rồi.
- Thứ hai: Xin trả lại tên nước "Việt Nam Dân chủ Cộng hoà" vì cái tên thiêng liêng đó do Bác Hồ vĩ đại là người khai sinh, đặt tên cho Nước. Ngày nào chưa thực sự có CNXH thì ngày đó tên Nước vẫn phải là Việt nam Dân chủ Cộng hoà.
- Thứ ba: Giang sơn Việt Nam là hương hoả của tổ tiên ông cha để lại cho con Hồng cháu Lạc, của cả dân tộc, của những thân phận nhỏ bé như: Chị bán rau, anh xe thồ đến các thân phận cao quý như các nhà khoa học, trí thức, các văn nghệ sĩ chứ không phải là của riêng giai cấp Công Nông. Cương lĩnh chính trị của Đảng cũng xác nhận là ĐCSVN là Đảng của toàn dân tộc. Vậy nếu Đảng muốn là Đảng được toàn dân tôn vinh thì trên lá cờ của Đảng phải là biểu trưng của toàn dân tộc, của bốn ngàn năm lịch sử, chứ không thể là mô hình búa liềm của riêng công nông. Và mẫu cờ búa liềm cũng là mẫu cờ ngoại lai của Liên Xô, một đất nước mang lá cờ này đã sụp đổ thảm hại.
Khi hội nghị lấy biểu quyết về 3 vấn đề của tôi thì chỉ có một mình tôi thui thủi giơ tay. Tôi liếc nhìn những ngưòi vừa là đồng chí, vừa là đồng ngũ CCB của tôi, mới cách đây ít hôm khi nhâm nhi bia bọt với nhau đa số gần như tuyệt đối của "tiểu hội nghị bia bọt" đó là đều luyến tiếc cái thời VN dân chủ cộng hoà, cái thời Đảng Lao Động Việt Nam, đều im lặng.
Thế mới biết:
Trước uy quyền, líu giọng đến lặng câm
Thân ngang dọc đành âm thầm uốn lưỡi...
Nhưng lúc ấy chẳng cấp nào "buộc tội" tôi cả. Cho đến năm 1999, tôi làm "giấy xin ra Đảng" một phần vì niềm tin, phần khác tôi không đồng tình với cách đối xử với tướng Trần Độ. Thế là họ "cộng" cái tội từ những năm 1995 vào biến người Đảng viên xin ra Đảng thành bị khai trừ khỏi Đảng.
Hỏi: Anh nghĩ gì về những người như: Trần Độ, Hoàng Minh Chính, Lê Hồng Hà, Thanh Giang, Phạm Quế Dương... và đánh giá về họ?
Đáp: Hãy để lịch sử đánh giá và phán xét về họ. Còn riêng đối với tôi thì về tuổi tác có người vào bậc cha chú. Về hiểu biết cuộc đời, về trí thức họ bậc thầy của tôi. Về công lao đối với Tổ quốc, họ đều là những bậc công thần xin đừng ai quên điều này. Còn về nhân cách, tôi kính trọng họ.
Trong buổi sáng hỏi cung đó có thể có nhiều điều nữa mà tôi không nhớ hết mà chỉ nhớ một số ý hỏi đáp chính. Buổi chiều vợ tôi được mời đến để chứng kiến việc mở niêm phong những gì đã thu giữ ở nhà tôi trong một cái hộp các tông lớn. Bởi vì buổi chiều hôm trước khi thu giữ tài liệu nghiên cứu lý luận, thư tín và các sách báo tài liệu khác của tôi không thể ghi vào biên bản thu giữ chi tiết được nên CA đã cho tất cả vào hộp các tông niêm phong lại có chữ ký của vợ tôi. Sau khi vợ tôi ký nhận là việc niêm phong còn nguyên vẹn rồi ra về. Xung quanh một cái bàn rất dài kiểu bàn họp hộp các tông được phá niêm phong, tài liệu, sách báo, thư tín, sổ tay kể cả những tấm ảnh chụp với bạn bè được trải ra. Cả buổi chiều hôm đó tôi phải ký và viết đến mỏi tay để xác nhận của tôi. Nhưng rồi cũng không xong, lại phải đóng niêm phong số tài liệu còn lại để ngày mai ký tiếp. Lúc đó là 16 giờ 30 ngày 25-4-2001. Mọi người ra về chỉ còn lại VNC và VL ở lại làm việc tiếp với tôi. Tôi đề nghị với thiếu tá VNC: "Thưa ông, 24 tiếng tạm giữ tôi đã hết. Nếu còn bị giữ tiếp thì xin ông cho xem lệnh mới của VKS thành phố".
Dù biết rằng lời đề nghị đó cũng chỉ bằng thừa, vì chỉ một loáng Trung tá VL đã có lệnh tạm giam 3 ngày của VKS. Tôi ký vào 3 bản đó thì họ đề nghị tôi chuẩn bị đồ đoàn để chuyển đến trại giam trung tâm. Tôi vơ vội cái màn bọc vào cái chăn len vợ tôi mới gửi tối qua rồi ra xe.
Chờ tôi ở cổng là chiếc xe con chở tù chuyên dụng loại nhỏ. Khi tôi lom khom chui vào xe thì đã thấy một bạn tù là một thanh niên chừng 25, 26 tuổi gì đó. Xe chạy trên đường phố quen thuộc mà mới mấy hôm trước tôi cùng bạn bè chơi bóng bàn xong ra ngồi nhâm nhi bia bọt, nói chuyện trên trời, dưới biển đâu có nghĩ tới thân chim lồng, cá chậu thế này. Mải nghĩ mới chừng dăm phút xe đã tới cổng trại giam. Đáng lẽ xe đi thẳng vào trong sân trại nhưng vì vướng mấy bà bàn hàng gồng gánh nên xe đỗ ở ngoài đường. Một thoáng xấu hổ khi chui ra khỏi xe. Ôi. Cái thân trai đã từng "gươm đàn nửa gánh, một thời dọc ngang" mà giờ đây trong cái thân hình còm cõi của một ông già vai đeo một quai ba lô, một tay ôm bọc chăn màn gói vội lôi thôi lếch thếch, mặt mũi hốc hác bước vào lúc này nhỉ?... bọn bạn bè cũ và cả mấy ông già bạn bè mới cũng khó tưởng tượng nổi là Vũ Cao Quận thảm hại thế này. Nếu bạn nào vẽ được tranh biếm hoạ thì cũng được bữa cười nôn ruột, cười ra nước mắt. Khoảng 17 giờ ngày 25-4-2001 tôi công dân Vũ Cao Quận chính thức bị nhà cầm quyền nước CHXHCNVN bắt bỏ tù, một nhà tù thực sự 100%. Còn ngôn từ tạm giam hay tạm giữ chỉ là câu chữ của giấy tờ. Đến hôm nay dù chỉ là những dòng hồi ký, tôi cực lực phản đối việc bắt giữ vì hiến và vi pháp này.
... Qua cổng chính đến một cái sân nhỏ, có lẽ là phòng giam của tù nữ vì tôi thấy mấy cô khoảng 35, 40 tuổi gì đó đang lao động quét dọn, vừa làm vừa chuyện trò, vẫn vô tư, vui vẻ. Nhìn cảnh lạc quan của mấy nữ tù nhân, tuy lạ lẫm bỡ ngỡ nhưng tôi tự thấy hình như họ truyền niềm tin một điều gì tốt đẹp ở cái nơi khốn khổ này cho tôi. Rồi qua một sân lớn có căng lưới bóng chuyền họ dẫn tôi vào một căn phòng hình lục lăng thì phải, vì có nhiều cửa sắt dẫn đến các khu nhà giam. Giữa sàn có kê một cái bàn làm việc dài và ghế băng. Ngồi ở đó có khoảng 5, 6 CA quản giáo cấp Đại uý hay Thiếu tá gì đó, ở cạnh tường tôi đã thấy có một hai tù nhân đã ngồi ở ghế đó, tôi toan ngồi vào nhưng một CA giọng lạnh tanh: "Này, ngồi xuống đất". Tôi vừa căm phẫn, vừa cam phận của một người tù tôi ngồi bệt xuống đất. Ngồi cạnh tôi là một cháu thanh niên mặt mũi sáng sủa. Cháu chủ động hỏi tôi: "Bác bị bắt về tội gì?" Tôi trả lời: "Chính tôi cũng chưa hiểu tôi bị bắt vế tội gì!". Có thể cháu tưởng tôi là một ông già lẩm cẩm nên không hỏi nữa. Chợt một câu nói tưởng như bâng quơ, nhưng đây là một lời dằn mặt hay nhắc khéo của một tù "tự giác" có vẻ là tổ trưởng gì đó nói: "Mẹ kiếp. Vào đến đây mà cứ làm như... lại còn đội mũ...". Tôi chợt nhớ đến "cái mũ vải" lão ông của đời thường tôi đang đội. Nghĩ bụng, ai vào tù bao giờ mà biết vào tù phải bỏ mũ. Tôi vo viên cái mũ đút vào túi quần. Chưa yên, trong khi chờ bàn giao tôi cho trại giam, mấy cặp mắt quản giáo trừng trừng nhìn tôi như nhìn một con vật lạ. Quả có thế, những lão già có tuổi gần 70 như tôi sa chân vào đây không nhiều. Một CA có bộ mặt to béo đỏ hồng như tây hỏi dật giọng: "Này. Dắt gái hay ma tuý hả?" Tôi nhẫn nhục không trả lời. Nhưng lại một tiếng vu vơ khác, lần này từ miệng một Thiếu tá CA mang phù hiệu quân y (chắc là bác sĩ): "Già rồi mà còn chống Đảng". Có lẽ bị sự kìm nén về "môi trường" và thái độ khinh bạc, tôi phản ứng ngay: "Này. Anh biết gì về tôi mà chống Đảng với không chống Đảng". Một giọng đáp lại ngay: "Im cái mồm, vào đây đừng có lý sự.", ở chốn tù đầy này lời nói đầy quyền lực ấy là một chân lý, trước "dùi cui" đừng có lý sự. Tôi "tiếp thu" và câm miệng ngay.
Bàn giao xong, họ ra lệnh khám xét tư trang. Trên nền đất bẩn thỉu, họ bắt tôi lôi quần áo từ ba lô ra và cả chăn màn, họ sai cái cậu tù có vẻ tổ trưởng tới lộn tùng phèo đồ đoàn của tôi. Họ thu lại cái bàn chải, hộp sữa bột vợ tôi mới gửi có vỏ bằng sắt. May mà có cái kinh và mấy trăm ngàn nhờ VL chuyển giúp cho vợ tôi. Nhưng chưa xong... tay Thiếu tá bác sĩ gọi tôi lại gần bàn đo huyết áp cho tôi. Khi tôi vén tay áo thì lộ ra cái đồng hồ nữ tí síu của con gái tôi, họ nói: "Ồ. Lại hãy còn định dấu đồng hồ hả". Nghĩ bụng thân còn chẳng tiếc, tiếc gì cái đồng hồ. Đã bao giờ vào tù đâu mà biết đồng hồ tí síu mà cũng bị thu, ừ nộp thì nộp. Họ lập biên bản thu giữ cái đồng hồ, nhưng hôm được trả tự do tôi cũng chẳng đòi lại. (khoảng 6 tháng sau, khi trung tá P biết việc này anh đã nhiệt tình lên tận trại giam nhận lại đồng hồ trao cho tôi). Mọi thủ tục đã xong, một Đại uý to béo như tây hất hàm ra lệnh cho tôi theo anh ta. Qua hai lần cửa sắt, tôi đến khu buồng giam mà hôm sau tôi mới biết tên nó. Đó là khu G. Tôi được dẫn vào phòng G1 được đề biển bên ngoài là "Phòng tạm giam". Qua cánh cửa sắt vào phòng tạm giam là một cái sân nhỏ chừng 10m2 có xây một bể nước chứa khoảng gần khối nước và một cái chạn để thức ăn và bát đũa cho tù nhân. Khi cửa buồng giam được mở, tôi bước vào đã thấy có hai bạn tù đã ở trong đó. Họ thu dọn và chỉ chỗ nằm cho tôi. Đây là một căn phòng có diện tích khoảng 12m2, chỗ ở là 9m2 còn lại là nhà vệ sinh và chỗ tắm. Nhưng trước khi tả về chi tiết căn phòng thì cái cùm chân bằng sắt đen xì nằm ở góc phòng làm tôi vừa ghê sợ lẫn ghê tởm vì nếu không "may mắn" được ở trong nhà tù của chế độ XHCN tốt đẹp và nhân đạo thì sao thấy được sự hiện hữu của nó ở đây. Vì có giàu trí tưởng tượng thì cũng tưởng nó phải ở những căn hầm xà lim cầm cố hoặc những chuồng cọp của Mỹ-Nguỵ ở mãi tận ngoài Côn Đảo tít mù khơi. Và nhất là nó có mặt ngay ở cái phòng tạm giam này thì sự vô nhân đạo, vi hiến, vi pháp luật nhân lên gấp trăm lần.
Sau khi xếp cái ba lô lên giá, tôi trải chiếc chăn len thay cho chiếu chuẩn bị chỗ ngủ xong tôi mới quay sang làm quen với 2 ông bạn tù và quan sát buồng giam kỹ hơn. Tr.T là giám đốc một công ty TNHH sản xuất bao bì, 65 tuổi với án 15 năm tù vì làm thất thoát hơn 2 tỷ đồng, ông đã ngồi tù được 5 năm rồi, có nghĩa là ông ngồi tù vào cái tuổi 60, cái tuổi: Lục thập nhi nhĩ thuận. Cái tuổi điều gì nghĩ cũng thuận tai, bon chen làm gì để đến nỗi thế này. Người thứ hai là M, một chủ hãng Karoke có hạng ở KA, 59 tuổi với án 10 năm tù mới thụ án được 8 tháng và chuẩn bị đi trại xa. Tr T là người sởi lởi hay nói chuyện chủ yếu là dốc bầu tâm sự. Tôi không quan tâm đến tội trạng của ông nhưng ông là người tốt đối với tôi, dù tôi chả là gì đối với ông nhưng những ngày sau ông là người săn sóc lo miếng ăn cho dễ ăn đối với tôi trong hoàn cảnh đạm bạc của nhà tù. M trầm lặng, ít lời như luôn cảnh giác một điều gì.
Chỗ nằm của tù nhân, thay cho giường 2 tầng là tầng trệt là sàn cao hơn đường đi chừng 10 cm. Tầng 2 là sàn đúc bê tông cách tầng trệt 1 mét. Cả hai mặt sàn nằm đều lát đá hoa. Nhà vệ sinh và chỗ tắm ốp gạch men trắng. Hố vệ sinh tự hoại, nói chung buồng G1 kể cả cái sân nhỏ là một căn nhà nhỏ lý tưởng cho một cặp vợ chồng trẻ nghèo ở đời thường. Tất nhiên là không có cái sàn bê tông tầng 2. Căn buồng ngủ rất sạch sẽ, liền kề là nhà vệ sinh cũng rất sạch sẽ. Không mạng nhện, không thạch sùng, không muỗi, kiến, cho nên đồ tiếp tế cho tù nhân như: Thịt kho, gà luộc, ngan rán... ăn không hết bảo quản để trên giá ba lô có quạt trần quạt 24/24 không kém gì để ở tủ lạnh. Cũng cần nói thêm là không có chuột và gián, nếu ở nhà như nhà tôi thì sự sạch sẽ còn thua căn buồng tù tôi đang ở. Trên góc cao gần sát trần có cái giá để một cái tivi 14 inch Sanyơ. Ti vi được mở từ 18 giờ đến 22 giờ 30. Chủ nhật mở cả ngày. Sở dĩ tôi kể tỷ mỷ sự tốt đẹp, nhân đạp của một buồng tù XHCN như một bát cơm gạo trắng rất ngon tương phản với con gián chết nằm chềnh ềnh trên bát cơm là cái cùm chân ở góc tường trệt. Chưa lúc nào tôi cảm nhận thấy hết cái hay, cái thâm thuý về thuyết "cái gậy và củ cà rốt" len lỏi vào tận chốn ngục trung này.
Vì họ chuyển tôi từ phòng tạm giữ ở số 14 Lê Quýnh lên trại tạm giam trung tâm (từng có tên cũ là trại giam Trần Phú) nên khi vợ tôi lên đưa cơm thì tôi đã bị chuyển đi rồi. Do đó chiều hôm đó tôi không có xuất ăn. Dù rằng trước đó hai bữa tôi chỉ ăn qua loa chút phở và cháo, nhưng ở tuổi tôi, tôi có thể nhịn thêm bữa trưa mai cũng được. Trong khi hai ông bạn tù đang mê mải xem ti vi tôi lặng lẽ mắc màn đi nằm thì Tr T kêu lên: "Ôi. Suýt quên. Nhân có ông Quận mới đến không có cơm chiều, hôm nay ngoài cơm có bữa chè tù. Tr T lôi từ tầng trệt lên một cái xô nhựa đỏ có nắp đậy và một cái cặp lồng nhựa cũng màu đỏ, vừa đặt lên sàn ngủ ông vừa nói như vừa giải thích cho bạn tù mới: ở nhà tù mỗi tháng được ăn hai bữa chè, hai bữa thịt, hai bữa cá. Hôm nay chè nhiều nên tôi múc một xô và một cặp lồng, các ông ăn tự nhiên, bỏ thì phí lắm. Khi mở nắp xô và cặp lồng, tôi có cảm tưởng phải mười đến mười hai người mới ăn hết chỗ chè đó. Ông múc ra hai cái bát nhựa mỏng, bé tí như bát cho các cháu mẫu giáo ăn vì trong tù không được dùng bất cứ thứ gì cứng. Ông mời tôi và M ăn. Tôi ở nhà vốn khoảnh ăn chè, nhất là chè "bà cốt" tôi lại càng không ăn nên toan cảm ơn và từ chối thì ông lại nói: "Ông ăn đi một tí mà lấy sức".. Nể lời ông, tôi cầm bát múc ăn. Ông nhường tôi cái bát và thìa của ông cho tôi, còn ông ăn bằng cái muôi nhựa to và ăn luôn vào cặp lồng.
Miếng ăn được hưởng cái "ân huệ" đầu tiên của nhà tù là miếng chè tù tôi đang nhai và nuốt trong mồm. Định nghĩa cho đúng từ "chè" là món cháo gạo tẻ nấu thật nhuyễn với đường vàn có thoang thoảng mùi gừng. Tuy không muốn ăn và bụng cũng khống thấy đói nhưng thật thú vị càng ăn càng thấy ngon nên khi ông múc cho bát thứ hai tôi cũng ăn hết. Tóm lại ngon thì ngon, ba chúng tôi cũng chỉ ăn hết chừng hai phần mười số chè. Tr T cẩn thận đậy nặp xô lại cất xuống tầng trệt nói là để mai nếu không bị thiu thì vẫn ăn tốt. Tôi chợt nhớ tới "Đêm Giữa Ban Ngày" hoặc "Chuyện Kể Năm 2000" phải sống trong cái vai kịch bi thảm ấy thì con người sẽ ăn được bất cứ thứ gì miễn là sống, ăn những của thiu thối vất trong nước gạo của nhà tù. Mà cũng khó tưởng tượng nổi là con ngưòi biến thành con thú từ lúc nào mà chỉ dùng hai hàm răng mà ăn ngấu nghiến hết mười quả dứa còn cả vỏ. Chỉ nguyên nói về miếng ăn thì tôi "một tù nhân" ngây ngô, ngốc ngếch này chắc phải học hỏi các bậc đàn anh tù tội còn dài dài như: Trần Thư, Vũ Thư Hiên, Phùng Văn Mỹ, Bùi Ngọc Tấn... hoặc các bậc sư tổ về tù tội như: Thiếu tướng Đặng Kim Giang, Vụ trưởng Vũ Đình Huỳnh, Viện trưởng Viện Mac-Lênin Hoàng Minh Chính... để chuẩn bị tinh thần cho chuỗi ngày tù không định sắp tới.
Tuy nhiên suy nghĩ cũng chỉ là suy nghĩ, vì thời kỳ "trung cổ Việt Nam" của hai bạo chúa họ Lê cũng qua rồi và bước tời thời kỳ hy vọng đất nước Việt Nam sẽ tươi sáng hơn, sẽ tự do dân chủ hơn, sẽ nhân hậu thương dân hơn dưới sự trị quốc, an dân của "minh quân" Nông Đức Mạnh mới lên ngôi cách đây 3 ngày. Lòng thanh thản tôi ngủ thiếp đi lúc nào không biết nữa.
Khoảng 8 giờ sáng, tiếng lách cách mở khoá các buồng tù vang lên rộn rã. Các tù "tự giác" được tự do đi lại mở khoá các buồng giam, gánh cơm nước uống phân chia cho các buồng. Cả ba chúng tôi đã thức dậy từ lúc 6 giờ, cả trại tưởng chừng như còn im lìm trong giấc ngủ. Nhưng không... các buồng giam như nhau đều đã dậy tự lúc 5, 6 giờ, không tiếp tục ngủ thì nằm tán gẫu cho đến giờ mở khoá. Tôi là lính mới ra xách nước từ bể nước chứa vào cái thùng nhựa màu xanh lá cây chừng 100 lít để đánh răng, rửa mặt và bể nhỏ chứa nước cho nhà vệ sinh. M quét sân rải đầy những hoa bàng li ti, sau đó anh ta múc nước ùm ùm để tắm. Qua cơn mưa đêm trời se se lạnh, tôi nhìn M tắm mà rùng mình. Tr T đi đổ rác và lấy cơm nước. Ngoài cơm còn có một âu cháo sáng và một bát nhựa to đựng rau muống luộc. Không thấy có thức ăn, có lẽ tù nhân sống dựa vào đồ ăn của người nhà tiếp tế là chính.
Tr T đã kiếm được cho tôi một cái bát nhựa và cái thìa cùng một cái bàn chải đánh răng tuy cũ nhưng còn khá tốt. Bàn chải răng trong tù đều bị bẻ cụt cán. Nghĩ đánh răng bằng một cái bàn chải răng đã cũ, nhất là bàn chải của một người tù khác, tự nhiên thấy ghê ghê nhưng để Tr T vui tôi dùng nó đánh răng luôn. Sau đó Tr T dục tôi ăn cháo kẻo đi "cung" không kịp ăn. Đúng vậy, tôi vừa mới húp được hai thìa cháo thì có tiếng gọi chõ vào: G1 đi cung, ở đây tù nhân đã thành án cả rồi nên chỉ có tôi. Tr T nói vọng ra: Chờ một chút để ông ấy ăn nốt bát cháo xong đã.
- Mẹ kiếp, vào tù rồi mà còn đủng đỉnh. Một tù "tự giác" từ ngoài nói chõ vào. Đang ăn dở, tôi đổ bát cháo xuống cống rồi đi ra. Vẫn viên Đại uý CA to như tây, mặt đỏ lạnh lùng hất hàm ra hiệu cho tôi đi theo. VL đã chờ tôi ở cái buồng lục lăng hôm trước và dẫn tôi tới một căn phòng làm việc có biển đề: Phòng hỏi cung người nước ngoài. Phỏng nhỏ chừng 12 m2 có kê một cái bàn gỗ nhỏ cùng vài cái ghế tựa bằng nhựa. Cạnh đó là một tủ đựng hồ sơ thường thấy và có một cái rèm vải che ngăn căn phòng với cái giường ngủ bên trong.
Vì còn phải chờ nhân viên Camera nên VL pha trà mời tôi uống và chuyện vãn vài câu. Vẫn nụ cười mỉm khó hiểu, VL hỏi tôi: "Đêm qua bác có ngủ được không?". Tôi đáp: "Xin cảm ơn ông, tôi ngủ cũng đường được".
Nhưng rồi Trung tá Th tới ôm theo cái hộp các tông niêm phong tài liệu mà tôi chưa kịp ký hết. Thế là cả buổi sáng hôm đó tôi chỉ có việc ký xác nhận tài liệu đã thu giữ tại nhà tôi. Khoảng gần 12 giờ tôi mới ký hết, tôi nhớ mang máng là khoảng hơn "bốn trăm tài liệu". Cũng cần phải nói rõ hơn "bốn trăm tài liệu" này.
Nghĩ cũng hay, cả một bộ máy cầm quyền đồ sộ với hàng triệu lưỡi lê bảo vệ mà sợ đủ thứ, sợ cả cái không đáng sợ. Có đến gần bốn trăm "đầu tài liệu" là những bài viết từ một đến hai trang nói toàn những điều vô hại như: Về dùng ngoại cảm tìm mộ của nguyên bí thư TU Đảng Nguyễn Thọ Chân, của nguyên phó thủ tướng giáo sư Trần Phương, của Trung tướng nguyên phó chủ tịch QH, nguyên uỷ viên TU Đảng Trần Độ. Những bài tản văn khôi hai của Giả Bình Ao, bài nói về Thiền và những bài vô thưởng, vô phạt... kể cả bài diễn văn hay nhất thế kỷ của một luật sư Mỹ nói về một con chó cùng cuốn số tay thơ của tôi, vài bài thơ gửi cho "Cô gái Nga An-BiNa" bán bia hơi ở Cẩm Phả cùng tấm ảnh tôi chụp chung với vợ chồng cô cũng bị tịch thu, nghĩa là thu "tất tần tất, tuốt tuồn tuột" dù những trang giấy ấy, những tấm ảnh bè bạn ấy chẳng có tội tình gì hoặc là chứng cứ của vụ án.
Còn những tài liệu bị coi như những tài liệu "xâú" thì toàn là những bài viết đầy trí tuệ của: Hoàng Hữu Nhân, Nguyễn Văn Đào, Trần Độ, Phan Đình Diệu, Hoàng Minh Chính, Lê Hồng Hà, Phạm Quế Dương, Nguyễn Thanh Giang, Phạm Ngọc Uyển, Dương Thu Hương, Trần Khuê, và Nguyễn thị Thanh Xuân, Trần Bá, Lê Chí Quang, Nguyễn Vũ Bình. Trần Dũng Tiến... kể cả bài viết của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, nguyên UV BCT Nguyễn Đức Tâm, của 3 ông tướng: Thượng tướng Phùng Thế Tài, Hoàng Minh Thảo, và trung tướng Lê Tự Đồng... Đúng như La Rochefou Cauld đã nói: "Những kẻ trí tuệ tầm thường hay lên án những gì vượt quá tầm hiểu biết của họ".
Thậm chí cái máy chữ, một vật dùng tầm thường của thế giới văn minh thay cho một cái bút bi cũng bị tịch thu. Thế rồi từ đó loan truyền đi là thu giữ quả tang của Vũ Cao Quận hàng chục kilô tài liệu, truyền đơn trên đường 5 và hàng mấy bao tải tài liệu tàng trữ tại gia đình. Những người tử tế thì bán tín, bán nghi. Còn những "kẻ quáng gà, nghe hơi nồi chõ" thì tung tin vịt nghe mà phát khiếp.
Buổi chiều ngày 26-4-2001 mới chính thức bước vào các buổi hỏi cung thực sự do Thiếu tá VNC cùng Trung tá VL và P Th trực tiếp làm việc. Lại hỏi và lại đáp.
Hỏi: Anh có nhận là những tài liệu có nội dung xấu chúng tôi thu được của anh và khám xét thu được tại nhà anh có phải là của anh không?
Đáp: Vâng, tôi nhận là những tài liệu đó là của tôi, nhưng gọi là tài liệu có nội dung xấu thì hoàn toàn không đúng.
Hỏi: Sao lại không đúng? Những tài liệu đó hoàn toàn mang những nội dung xấu chống Đảng, chống Nhà nước...
Và họ đem theo quyển luật (cho đến bây giờ tôi cũng chẳng biết tên đầu đề của quyển sách luật đó) và đọc cho tôi nghe và kết luận đại khái là tôi phạm tội: Lưu trữ, tàng trữ các tài liệu có nội dung xấu chống Đảng, chống Nhà nước XHCN... phạm vào điều 88 của Bộ luật, có thể bị phạt tù từ 8 đến 15 năm.
Đáp: Những việc làm của tôi là hoàn toàn đúng với tinh thần và nội dung của điều 69 của Hiến pháp năm 1992: Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin, có quyền hội họp, lập hội, biểu tình... và điều 19 về Công ước Quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị (Convention internationale des droits civils et politiques) mà Chính phủ VN đã tham gia ký kết ngày 24-9-1982 với nội dung: "Mọi người đều có quyền giữ quan điểm của mình mà không bị ai can thiệp vào. Mỗi người đều có quyên tự do ngôn luận: quyền này bao gồm cả quyền tự do tìm kiếm, thu nhận và truyền đạt mọi tin tức, ý tưởng, không phân biệt ranh giới hoặc bằng lời nói, hoặc bằng bản viết, bản tin...". Để phân biệt đúng, sai tôi cần được đưa các tài liệu ra trước toà án xét xử. Và chỉ khi nào có sự phán quyết của toà án thì lúc ấy tôi mới thực sự là có tội hay không có tội.
Hỏi: Như vậy nên anh cũng tham gia viết nhiều bài có nội dung xấu và tán phát để kẻ địch ở nước ngoaì cũng lợi dụng để nói xấu ta?
Đáp: Đúng tôi có viết một tác phẩm "Gửi Lại Trước Khi Về Cõi". Nói là tác phẩm cho nó oai, chứ tôi là một người lính chưa cầm bút viết bao giờ. Tôi chỉ viết sự suy nghĩ của tôi rồi in thành sách gửi bạn bè đọc cho vui thôi. Còn tôi chả có liên quan gì với nước ngoài cả.
Một trong 3 người chìa ra trước mặt tôi một tờ báo nước ngoài đã qua photocopi có đăng bài viết của tôi có nội dung: "Những suy nghĩ hướng về đại hội Đảng CSVN" và nói: "Đây là một bằng chứng về một trong những bài viết của anh dăng trên một tờ báo nước ngoài".
Đáp: Đúng đây là bài viết của tôi và nơi gửi là Văn phòng Bộ Chính trị.
Hỏi: Thế thì anh trả lời chúng tôi vì sao nó lại được đăng trên tờ báo nước ngoài?
Đáp: Tôi không hề có dây mơ, rễ má với báo chí nước ngoài.
Hỏi: Vậy anh còn gửi đi cho những ai?
Đáp: Có chứ, tôi gửi cho nhiều bạn bè để cùng chia sẻ sự suy nghĩ cùng với tôi. Thiết nghĩ việc này là hết sức bình thường. Còn vì sao nó lại có mặt ở nước ngoài thì chính tôi cũng đang tự hỏi tôi...
Ngoài sân tiếng hò la vui vẻ của mấy anh lính trẻ bảo vệ trại giam, lúc đó đã là 4 giờ 30 chiều. Quả bóng chuyền bay qua lại, thậm chí có những cú đập bóng bay thẳng vào chỗ tôi ngồi. Nhưng việc hỏi cung vẫn chưa chấm dứt, trong căn phòng nhỏ vẫn hỏi, vẫn đáp. Rồi giờ nghỉ cũng đã tới. Làm nốt cái thủ tục không thể thiếu sau mỗi buổi hỏi cung là nghe đọc lại biên bản và ký nhận. Trung tá VL mang tôi tới phòng trực của quản giáo và bàn giao. Viên đại uý trực khác với bộ mặt hiền lảnh ra hiệu cho tôi đi về buồng giam. Khi đi qua sân anh nói nhỏ với giọng vui vẻ, thân mật: Bố già ơi. Làm chính trị làm gì cho khổ thân già. Thôi mong bố cố gắng ra khỏi đây cho sớm về sống với "bà bu" ở nhà, sống vui vẻ cùng con cháu. Đây là tiếng nói thành thực của một con người đối với một con người, của một người lớp trẻ thương hại một ông già ở chốn lao tù. Giọng của anh ta không phải là giọng "chiến tranh tâm lý" vả lại anh ta chỉ là một quản giáo, câu nói của anh ta không thuộc về câu nói "nghiệp vụ". Tôi chỉ kịp cảm ơn về lời nói tốt đẹp của anh ta ở chốn bốn bề vây hãm này thì cánh cổng sắt đã sập và khoá lại.
Tr T và M đã ngồi chờ tôi về ăn cơm chiều bên cái mâm trải bằng một tờ báo có bày biện thức ăn khá thịnh soạn: một đĩa nhựa để lẫn thịt gà luộc và thịt ngan rán, một bát nhựa thịt lợn ba chỉ kho, một gói ruốc trong túi ni lon và một lọ nhựa muối vừng. Ngoài ra còn một âu canh nhựa bốc khói, đó là một món canh mà ở đời thường khó có. Tr T tươi cười giới thiệu: "Để giúp ông dễ ăn, tôi nhặt mấy chục sợi rau muống luộc ban sáng, lên xin "thầy" (ý chỉ quản giáo) ít nước sôi thả vào gói mì ăn liền và gia giảm chút mì chính..." Tôi chỉ còn biết nói: "Cám ơn các bác quá, sao các bác không ăn cơm trước mà đợi tôi làm gì cho nguội cơm". Vốn trầm lặng và ít nói, lúc đó M mới đủng đỉnh: "Có 3 anh em chờ nhau một chút, ăn trước sao đành".
Thế là 3 chúng tôi sì sụp ăn ăn, húp húp. Tự nhiên nước mắt tôi ứa ra... Ôi, cũng có những miếng ăn "quá khẩu thành tàn" mà sao miếng ăn của tôi giữa những người bạn tù sao mà thiêng liêng thế, sao mà dữ dội thế. Cuộc sống trong tù vốn đạm bạc, thiếu thốn họ có chút ít đồ tiếp tế của gia đình đem đãi tôi cũng chỉ là bạn tù như họ, không phải họ hàng thân thích, cũng chẳng phải bạn bè. Một miếng ăn vô tư, một miếng ăn không cần trả nghĩa, mà khốn nạn thân tôi cũng chỉ là người tù như họ, tôi lấy gì mà trả nghĩa...
Ăn cơm xong, chuyện vãn một chút thì trời đã chuyển tối dần. Tr T kiếm được chút nước sôi pha một bát nhựa trà Thái Nguyên, ngồi nhâm nhi mỗi người một cái bánh trứng.
Cuộc sống trong tù thật là sang.
Chiếc ti vi ở góc phòng bắt đầu hoạt động. Tr T và M theo dõi Tivi, còn tôi chuẩn bị mắc màn đi nằm. Khi mới móc được đầu dây màn, tôi mới chợt nhớ Tr T và M không có màn và không mắc màn. Tự nhiên tôi thấy xấu hổ quá, tôi vô tâm quá. Cũng may buồng tù rất sạch, quạt trần mở suốt ngày đêm nên không có muỗi. Nhưng giả thử nếu có nhiều muỗi đi nữa, tôi nỡ nằm màn để muỗi đốt hai người bạn tôi sao. Tôi cuộn màn lại và lặng lẽ nằm xuống với bao ý nghĩ miên man. Tôi hoàn toàn không lo gì thân tôi nữa, nhưng chắc giờ đây vợ tôi và các con tôi ở ngoài kia lo lắng cho tôi biết chừng nào.
Sau này khi được trả tự do tôi mới biết những người bạn già tuyệt vời và thông minh của tôi. Thanh Giang đã dự đoán trước những gì CA sẽ hỏi tôi, anh đã gọi điện thoại cho vợ tôi và dặn: "Chị sẽ đến khai báo với CA là tất cả những tài liệu của Vũ Cao Quận có là do Thanh Giang đưa và những bài viết của Cao Quận đăng ở báo nước ngoài là do Thanh Giang đưa ra. Nếu cần CA đến hỏi thì Thanh Giang sẽ trả lời".
Suy nghĩ một lúc rồi tôi thiếp đi. Nửa đêm chợt tỉnh giấc vì thấy lạnh. Thì ra trời bắt đầu, tiếng giọt mưa gõ trên nóc nhà giam. Nằm nghe tiếng mưa rơi tôi thức luôn đến sáng. Cạnh tôi, Tr T và M vẫn ngáy nhẹ, đều đều. Cũng may cả 3 chúng tôi không anh nào biết "kéo xe bò" cả. Nằm mãi rồi cũng sáng. Sáng ở trong tù muộn hơn ngoài đời chừng 2 tiếng, vì như thường lệ 8 giờ sáng mới bắt đầu mở cửa các phòng giam.
Hôm nay đã là sáng 27-4-2001. Lại dọn vệ sinh, lại ăn cháo sáng rồi lại đi cung. VL đã đón tôi ở phòng trực và dẫn tôi vào phòng hỏi cung hôm trước. Thiếu tá VNC đã có mặt ở đó chờ tôi. Anh pha trà mời tôi uống. Trong khi chờ đợi nhân viên quay camera đến, chúng tôi có dăm ba phút chuyện vãn với nhau. VNC hỏi thăm tình hình sức khoẻ của tôi, hỏi qua loa về hoàn cảnh gia đình tôi, một không khí thân tình, bình dị ít ai nghĩ là chỉ giây lát nữa thôi lại là một cuộc đấu trí giữa người đại diện cho bộ máy chuyên chính với tù nhân. Cũng nên nói lại một chút là tối 27-12 Canh Thìn, tôi bị cảm liệt nửa người phải đi cấp cứu ở bệnh viện 203 QĐ. Sau khi ra viện, hậu quả để lại di chứng một chân tôi luôn tê dại và đầu óc lúc nào cũng váng vất, chóng mặt nên theo đơn thuốc bác sĩ tôi thường xuyên phải uống nhiều thứ thuốc như: Tanacal, Duxin, Rotunda... Mấy ngày nay không có thuốc uống, đầu óc lắm lúc quay cuồng như say sóng và đùi trái đi lại nặng như đeo chì, những dẻ sườn lồng ngực trái tê dại như ép sát vào phổi làm tôi khó thở. - Này lão già Quận. Trước cái thế "trứng chọi đá" có ngã trên đài thì cũng ngã cho xứng đáng, tứ túc bất hoạt thì phải giữ cái óc cho tỉnh táo. Mày có thể nhận tất cả tội lỗi về mày nhưng không được phép làm liên luỵ đến bạn bè. Tôi tự nhủ thầm...
Máy camera đã căn thẳng vào mặt tôi xong và micro cũng đã đặt trước mặt tôi. Ngồi trước mặt tôi là thiếu tá NC, hai bên là trung tá VL và Ng Th.
Hỏi: Hôm nay chúng tôi tiếp tục hỏi anh, mong anh khai báo thành thật và có thái độ hợp tác với chúng tôi.
Đáp: Thưa các ông, tôi đã sẵn sang.
Hỏi: Hôm qua tôi đọc bài viết gần đây nhất của anh, sao anh ngoa ngôn thế? Anh phủ nhận CNXH. Anh viết: 25 năm trước đây XHCN vẫn là con trâu đi trước cái cày. Hai mươi nhăm năm sau vẫn cái cày đi sau con trâu. Anh không thấy thế là ngoa ngôn hay sao?
À thì ra họ đang nói tới bài viết: "Sự ngộ nhận và những lý sự khiên cưỡng về CNXH" bài mới viết gần đây nhất của tôi, mà cũng vì bài này mà lương y NgĐK bị mất oan cái mũ bảo hiểm xe máy tại Hải Phòng.
Đáp: Thưa ông, những luận điểm của Lênin về CNXH khác rất xa về cái XHCN hiện đang có ở VN. CNXH chỉ thực hiện ở một nước có một nền công nghiệp cực kỳ phát triển dưới sự lãnh đạo của giai cấp vô sản. Cứ nhìn vào tiêu chí ấy thì VN làm gì có XHCN mà tôi phủ nhận. Sao tôi lại phủ nhận một mô hình xã hội mà nó không hề có thật. Tôi xin nhắc lại cái công thức toán học về CNXH của Lê nin...
Nói đến đây VL ngắt lời: "Thôi anh không được vòng vo nhiều lời. Hiến pháp nước ta đã ghi nhận nước Việt Nam là một nước XHCN, anh trả lời thẳng vào vấn đề là tại sao anh phủ nhận?..."
Đáp: Thưa ông, nếu đây là cuộc hỏi cung, bắt buộc tôi phải công nhận nhà nước Việt Nam là một nhà nước XHCN thì chả còn gì để nói cả, tôi hoàn toàn công nhận như ông trung tá nói, nước ta là một nước XHCN. Nhưng chả lẽ một nước vào loại lạc hậu đói nghèo nhất thế giới lại gọi là CNXH sao?
Nghe thế, NC bảo: "Cứ để cho anh ấy nói". Và hỏi tiếp.
Hỏi: Anh không thấy một thực tế là nước ta thay đổi rất nhiều, tiến bộ rất nhiều trên các lĩnh vực, anh phải thấy hướng phấn đấu đi lên XHCN của nước ta chứ?
Đáp: Nếu được phép nói thì thưa các ông, có hoạ là kẻ mất trí mới không thấy được sự thay đổi của đất nước đang thay da, đổi thịt. Nhưng là CNXH thì không. Tôi xin được nhắc lại công thức CNXH của Lê nin: Chính quyền Xô viết + Trật tự đường sắt Phổ + Kỹ thuật và tổ chức tờ-rớt của Mỹ + Nền giáo dục quốc dân Mỹ = CNXH.
Cứ theo công thức của Lê nin thì VN đã tiến nhiều, có nhiều bước tiến vượt bực nhưng gọi là CNXH thì chưa. Còn nói hướng đi lên thì tôi xin mạo muội có một ví dụ: Có một vị chức sắc nọ có cậu quý tử mới học lớp 4 nhưng cứ thích mọi người gọi cậu ấy là thằng "tiến sĩ", vì ông ấy sẽ chăm lo đầu tư cho nó học hết trung học, hết đại học rồi thành tiến sĩ. Vậy thì rồi mươi, mười lăm năm sau nó có thành "tiến sĩ" thì ta gọi nó là ông "tiến sĩ" cũng chưa muộn. Còn phấn đấu đến xã hội XHCN, theo mấy ông Trung Quốc dự đoán phải vài trăm năm nữa mới có XHCN, mà cuộc đời thì "thương hải, tang điền" chúng ta đâu còn sống được đến ngày đó mà hưởng XHCN. Thôi thì cứ phấn đấu như Bác Hồ dặn: "Hoà bình - Thống nhất- Độc lập - Dân chủ và giàu mạnh" thì đúng thực chất cái xã hội Việt Nam chúng ta hiện nay. Nếu các ông cho phép tôi nói thêm một điển tích Trung Hoa: Thời chiến quốc, cái ông Sở Trang Vương gì gì đó cưỡi cái xe do ngựa kéo, mà đi đâu cũng bắt mọi người phải gọi là con hươu. Ai không gọi thì chém đầu. Kết cục vài năm sau mất nước.
Hỏi đi và đáp lại, cuối cùng gì thì gì tôi cũng ký vào biên bản nhận "tội" tàng trữ, tán phát các tài liệu xấu.
Khi đứng lên ra về, đầu óc tôi choáng vàng nhưng tôi cố gượng đĩnh đạc theo quản giáo về phòng giam. Ăn cơm trưa xong, hai ông bàn tù lăn ra ngủ. Còn tôi không ngủ được, tôi lặng lẽ tuột xuống tầng dưới ngồi thẫn thờ ngắm nhìn cái cùm chân. Tôi tẩn mẩn lấy que đo thử cổ chân cẳng gà của tôi ướm vào khoen cùm thì vừa khít. Thế nghĩa là nếu chẳng may bị cùm thì khó có kẻ nào cổ chân lại bé hơn cổ chân tôi, làm tôi chạnh nhớ đến cái cùm mà Vũ Thư Hiên, người con trai của vị lão thành cách mạng Vũ Đình Huỳnh đã từng bị cùm chân chỉ trong một hai ngày là chân sưng tấy, bị cọ sát lở loét khi được tha chỉ còn có thể bò lết về chỗ nằm vì không đi được.
Nhân dòng viết này, tôi xin quỳ xuống cầu xin những người cầm quyền của một chủ nghĩa nhân đạo hãy vì Chúa mà mở rộng lòng từ bi, sự trừng phạt tàn bạo có giới hạn để cho người tù còn có một cõi hoàn lương để người tù có chốn đi về. Tôi tha thiết cầu xin ông Tổng bí thư hạ lệnh cho nới rộng khoen cùm dù chỉ một phân cũng để lại một tấm lòng nhân đức cao dày cho kẻ trọng tội hay kẻ tử tù nơi ngục tối.
Đến 2 giờ chiều tiếng mở khoá khua lách cách. Tôi lại lên đường đi cung. Lại hỏi và lại đáp.
Hỏi: Mục đích chuyến đi Hà Nội lần này của anh? Anh đã đến gặp những ai? Và đã nhận những tài liệu gì? Của những ai đưa? (họ lại lặp lại nhiều lần trong những lần hỏi cung trước).
Đáp: Tôi hiểu ý hỏi của các ông. Là một người dân bình thường thì việc đi từ Hải Phòng lên Hà Nội là thường tình, có công việc thì đi. Chứ nói là có mục đích gì thì e rằng to tát quá. Tôi là con thứ nhưng đang làm nhiệm vụ con trưởng thay anh em quy tập mộ bố mẹ và các anh chị em tôi đã mất về một chỗ. Việc xây cất mộ đã gần xong, tôi lên báo cáo với ông anh trưởng và cô em gái tôi. Tôi thì nghèo nên mỗi lần lên Hà Nội đều tính toán, một công đôi việc, kết hợp việc nhà rồi tiện thể đi thăm bạn bè. Và chuyến đi lại đúng vào dịp Đại hội IX của ĐCSVN, tôi thích tò mò nghe chuyện "bếp núc" của ĐH hơn là những gì đăng ở trên báo. Tôi đã thăm bác Trần Độ, bác Hoàng Minh Chính, bác Lê Hồng Hà, bác Phạm Quế Dương và Nguyễn Thanh Giang. Đã gọi là chuyện "bếp núc" của ĐH thì là những chuyện tầm phào, nghe để biết vậy chứ thân phận thứ dân loại 2 như tôi lo làm gì nổi chuyện của thiên đình. Cũng xin nhắc lại tôi là một công dân bình thường có phải là một tổ chức, đoàn thể gì mà đi nhận tài liệu. Mỗi người có cho tôi một vài bài viết của họ mà không tờ báo nào đăng. Mà tôi lại thích đọc những bài mà các tờ báo chính thống không thích đăng và không dám đăng. Vả lại những bài viết đó đều có tên tuổi, địa chỉ, sô phôn đàng hoàng. Nào là của bác Trần Độ, Hoàng Minh Chính, Thanh Giang... lại nữa của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, nguyên uỷ viên BCT Nguyễn Đức Tâm, của 3 ông tướng: Phùng Thế Tài, Hoàng Minh Thảo và Lê Tự Đồng... nói toàn những chuyện tầy trời cả.
Hỏi: Thế còn bài viết của Bùi Tin, quyển Tổ quốc ăn năn của Nguyễn Gia Kiểng, bài đòi Tổ chức Hội nghị Diên Hồng của người nào đưa cho anh?
Đáp: Tôi đến thăm nhiêù anh một lúc nên ai đưa tôi không thế nào nhớ được.
Hỏi: Anh phải khai báo thành khẩn, phải nói rõ người nào đưa cho anh để sau này chúng tôi còn xem xét chiếu cố tội lỗi anh phạm phải?
Nghe nói đến hai chữ "tội lỗi" và "chiếu cố", tôi hơi mất bình tĩnh dù rằng mấy ngày qua tôi luôn tự nhủ phải luôn bình tĩnh "dĩ bất biến, ứng vạn biến", tôi đáp trả có chút gay gắt.
Đáp: Thưa các ông, cái gì nhận tôi nhận rồi. Tôi lưu trữ các tài liệu, những bài viết của những người chân chính. Tôi có truyền cho mọi bạn bè cùng đọc để biết rõ hơn về cuộc đời này mà các ông gán cho tôi là tội tàng trữ tài liệu xấu, tán phát. Tôi đã nhận cả rồi, tội cần được truy tố trước toà án. Chỉ có trước toà án thì mới phân rõ đúng, sai, mới phân rõ có tội hay không có tội. Còn bài viết của Bùi Tín, quyển Tổ quốc ăn năn của Nguyễn Gia Kiểng, tôi hoàn toàn không nhớ ai đã đưa cho tôi. Nay các ông bắt được tôi mang nó, tôi xin chịu trách nhiệm về tôi.
Hỏi: Nếu anh không khai thật thì tôi nói cho anh rõ. Nguyễn Gia Kiểng là một phần tử xấu, là bạn với Phạm Quế Dương, mà Quế Dương lại là công tác viên của tờ Thông Luận, một tờ báo phản động của nước ngoài. Vậy những tài liệu trên chỉ có Phạm Quế Dương giao cho anh thôi.
Đáp: Đấy là ông nói chứ không phải tôi nói. Trần Độ, Hoàng Minh Chính, Thanh Giang, Phạm Quế Dương... còn dám nói, dám viết những chuyện còn "tầy trời" hơn nhiều, tôi biết rõ là ông nào giao cho tôi mấy tài liệu trên, tôi sẵn sàng khai đúng người đó và một trong các ông đó đều có đủ bản lĩnh dám nhận là đã đưa những tài liệu đó cho tôi. Nên tôi không nhớ thì khai là không nhớ, chứ ông B đưa lại khai ông A thì còn mặt mũi nào nhìn nhau nứa.
Cứ truy, cứ vặn vẫn chỉ như vậy và giờ nghỉ cũng đã đến. Thiếu tá VNC bảo tôi: "Anh cũng cần có thái độ thành khẩn, mềm đi một chút đừng cứng nhắc để chúng tôi còn báo cáo lên cấp trên về thái độ tốt của anh, tạo điều kiện sơm trả tự do cho anh". Trên đường về buồng giam, người đại uý quản giáo mới nhưng thái độ đối với tôi khác hẳn hôm đầu tiên vào trại, họ lặng lẽ nhưng đôi mắt họ nhìn tôi dịu hơn nếu không nói là đồng cảm. Tôi nghĩ không hiểu có đúng không, đã lâu lắm rồi ở đây không có "tù chính trị", nay đột nhiên như trên trời rơi xuống một ông gìa tù chính trị gầy gò, ốm yếu hẳn là trong trái tim sắt đá lạnh băng của họ hãy còn lại những giọt máu của lòng nhân aí.
Đón tôi ở cửa buồng giam hôm nay là Tr T, nhìn nét mặt ông rất vui làm tôi cũng hồi hộp. Mâm cơm trên tờ báo đã dọn sẵn, chỉ còn lại bát thịt lợn kho hôm trước còn lại và âu canh mỳ cọng rau muống như hôm qua có thêm đĩa cá khô kho mặn theo chế độ hàng tháng. Bên cạnh mâm còn thấy nải chuối tây, 3 quả trứng gà luộc còn âm ấm, một gói ruốc, một hộp thuốc đánh răng, 2 cuộn giấy vệ sinh, một hộp bánh trứng và một gói tăm.
- Khi ông đi cung, chúng tôi nhận thay ông đồ tiếp tế của bà ấy gửi vào. Tr T hồ hởi nói như chính ông được nhận đồ tiếp tế.
- M nói với giọng như vừa bí mật, vừa chia vui: Con ông cũng gửi thư vào cho ông đấy.
Nghe nhận được đồ tiếp tế đã thấy ấm lòng, nay nghe nói có thư của con tôi, lòng tôi vui không kể xiết, vui đến nghẹt thở dù tôi mới ở tù có mấy ngày. Tôi vội hỏi thư đâu? M trả lời: "Tôi chỉ được phép đọc tờ giấy đó có mấy dòng, tôi nhớ nội dung rồi. Còn tờ giấy ấy họ thu lại và xé đi rồi. "Ai thu lại? Có lẽ một anh tù "tự giác" nào đó có một tấm lòng. Một nghĩa cử nhỏ ở chốn lao tù này làm tôi xúc động. M nói tiếp: Bây giờ tôi đọc nguyên văn không thiếu một chữ nào để ông nghe: "Bố thương yêu, Mẹ và các con thương bố lắm. Bố cố ăn uống cho tốt để giữ gìn sức khoẻ. Các bạn bè của bố đang đứng sau lưng bố. Cả nhà mong bố chóng trở về".
Tôi không nén được nữa, hai hàng nước mắt tôi dàn dụa, tôi bật khóc, khóc vì sung sướng. Ôi cái chỗ dựa vững chắc của tôi: cái gia đình nhỏ bé của tôi, các ông bạn già của tôi vẫn ở bên tôi. Những người tù cộng sản ngày xưa khi họ ở trong nhà tù của bọn đế quốc, thực dân chắc họ cũng có những giờ phút sung sướng giống như tôi bây giờ khi họ được biết vợ con họ, đồng chí của họ đang ở bên họ. Nhưng họ với kẻ giam cầm họ là mâu thuẫn đối kháng, mâu thuẫn sống mái. Còn tôi, tôi đã từng là một người cộng sản nay bị cầm tù trong nhà tù của chế độ cộng sản, cái chế độ mà tôi đã bỏ hết cả tuổi thanh xuân, dám đem nghĩa tử sinh chiến đấu bảo vệ nó khi nó còn ấu thơ, trứng nước để nó có sức mạnh, có chính quyền vững mạnh ở trong tay, nó lại bỏ tù tôi.Tuy nhiên dù rằng những tội nó quy kết cho tôi thì nó vẫn là máu thịt của tôi, nó đại diện về lý thuyết cho một chủ nghĩa nhân đạo. Nếu nó biến lý thuyết nhân văn thành thực tiễn nhân văn thì nếu còn làm được cuộc đời tôi trẻ laị, tôi lại sẵn sàng chiến đấu vì nó, vì cái lý tưởng "Chỉ có súc vật mới quay lưng lại với nỗi đau khổ của đồng loại mà chỉ chăm lo cho bộ da, bộ lông của mình thôi!" như Mác đã nói. Còn tôi, tôi là một con người.
Ba chúng tôi lại có một bữa ăn khá xôm. Đầu tiên mỗi người ăn một quả trứng luộc. Tôi cho một vốc ruốc thêm vào bát canh cho thêm đậm đà. Cơm xong lại có trà Thái, bánh trứng, chuối tráng miệng. Xin các bạn ngoài đời đừng cười tôi, vì sao tôi tả miếng ăn kỹ lưỡng thế. Bạn cứ đọc kỹ những hồi ký trong tù của các bậc tiền bối trước tôi mà xem. Ngoài đời không nói làm gì, nhưng có vào thử ở tù ít ngày nếu không có bản lĩnh thì chẳng cần dũng cảm gì thì chỉ miếng ăn thôi sẽ làm bạn bộc lộ rõ mình là kẻ cao thượng hay là một tên ty tiện ngay.
Cả đêm hôm ấy tôi trằn trọc không ngủ được vì sung sướng, vì vững tin vào những cuộc đấu trí sắp tới. Tôi sẽ "mềm" đi, sẽ nhận những "tội" gì mà chỉ bản thân tôi phải chịu trách nhiệm, tôi sẽ được đem ra xét xử trước toà án, trước bạn bè tôi, trước nhân dân tôi.
Sáng ngày 28-4-2201, vẫn đi cung.
Hỏi: Ngoài những bài viết của Bùi Tín và Nguyễn gia Kiểng, khi khám nhà anh chúng tôi còn thu được những tờ báo phản động của nước ngoài như: Tin Nhà, Việt Nam tiến lên. Vậy anh có tán phát những tờ bào phản động ấy cho bạn bè không?
Đáp: Tôi thường nhận được những tờ báo này qua bưu điện, không có tên, địa chỉ người gửi. Nhưng có một điều chắc chắn khi người gửi cho tôi những bài báo nước ngoài ấy đều được chọn lọc. Hoàn toàn không có những bài báo mang tính hằn học, hằn thù, kích động theo kiểu "chuyển lửa về quê hương". Xin các ông hãy đọc lại những tờ báo nước ngoài mà các ông thu giữ ở nhà tôi xem nó có nội dung phản động không?... Có nhiều điều họ đề cập trong đó nếu chúng ta còn có bộ óc tỉnh táo thì hãy đọc, hãy phân tích trong đó có những vấn đề nóng bỏng của đất nước mà chính các nhà lãnh đạo của ta cũng đang quan tâm. Vậy đâu cứ là nước ngoài là phản động. Tôi đọc để biết, để suy ngẫm chứ không tán phát.
Vẫn như thường lệ, hỏi gì thì hỏi cuối cùng họ cũng dồn tới chỗ phải ký nhận là đã lưu trữ, tán phát các tài liệu mang nội dung xấu chống Đảng. Lần này tôi nhận và ký vào biên bản.
Buổi chiều đi cung về còn sớm chừng 4 giờ 30 chiều. Tr T dục tôi đi tắm, vì suốt từ hôm tôi bị bắt ông chưa thấy tôi tắm. Tôi mỉm cười bảo: "Tôi ở bẩn quen rồi, ở nhà 365 ngày trong một năm thì có đến 360 ngày tôi tắm nước nóng. Tôi yếu chịu lạnh lắm, dù hôm nay đang là mùa hè mà tôi ùm ùm như ông M thì tôi bị liệt ngay".
Sáng ngày 29-4-2001 vẫn như thường lệ tôi chuẩn bị đi cung. Thật bất ngờ Tr T gọi ngoài cửa buồng giam chõ vào: "Ông Quận chuẩn bị đi tắm nhé, có nước nóng cho ông đấy". Tôi nhìn ra thấy một anh tù tự giác gánh một gánh nước nóng khói bốc nghi ngút. Tôi lính quýnh chuẩn bị quần áo để tắm nhưng vôi hỏi Tr T: "Sắp đi cung rồi tắm sao kịp". "Kệ". Thầy sai người gành nước cho ông, ông cứ tắm. Tr T trả lời. Với một gánh nước nóng đầy phải 4 lần tắm mới hết. Đã gần một tuần không tắm, người tôi bẩn quá. Có sẵn nước nóng, tắm thì thùm cũng chỉ hết nửa thùng. Tôi thay quần áo, ăn mặc chỉnh tề, sơ mi đút gọn trong quần, bẻ lại cổ aó. Chỉ thiếu cái cà vạt, thì tôi có vẻ như sắp đi dự một cuộc họp hay đi ăn cưới chứ không phải là anh tù đi cung.
VL đã đứng đón tôi ở phòng trực. Anh hơi mỉm cười thay cho một lời chào và nói: "Bác lúc nào cũng gọn ghẽ, chỉnh tề". Tôi đáp khẽ lời cảm ơn và nói một câu hiểu thế nào cũng được: "Còn cố được lúc nào thì cố, ông VL ạ".
Hỏi: Ông có mối liên hệ nào với người nước ngoài?
Đáp: Tôi hoàn toàn không có một mối liên hệ nào với người nước ngoài. Không có họ hàng, thân thích. (Tôi hơi mỉm cười) tôi không có "kiều"
Hỏi: Ông cố nhớ lại xem?
Tôi đoán máy điện thoại của tôi đã bị nghe trộm, thôi đến nước này đành lật bài ngửa chơi với nhau thôi.
Đáp: Nếu gọi là có mối liên hệ thì tôi không muốn khai, vì đó lá những mối liên hệ "lỏng lẻo". Tôi có một anh bạn là CCB theo con cái sang lập nghiệp ở ÚC. Tôi mới nhận được thư của anh ấy có một lần. Chuyện xã giao tình thường, mà lá thư đó nằm trong sô tài liệu mà các ông khám nhà đã thu.
Hỏi: Chúng tôi muốn hỏi những mối liên hệ khác nữa cơ. Cụ thể ông có nhận được tiền của nước ngoài gửi cho không?
Đến đây tôi phải xin phép được nói cụ thể vấn đề tiền nong này. Tôi xuất thân thành phần tư sản kiêm địa chủ dấn thân đi theo cuộc cách mạng này từ những năm 16 tuổi, không lương lậu, không quần áo và lại càng không loá mắt vì một thứ "tiền nong" gì. Trước mắt chỉ là gian khổ, đói rét và tôi cũng như bao người khác không hề có nợ gì cuộc cách mạng này. Nếu có nợ thì tôi nợ Tổ quốc của tôi lầm than trong nô lệ mà là thân trai thì phải đem cái nghĩa sinh tử để đáp đền ơn nước. Và đến nay đã gần ở tuổi cổ lai hy phó thác tấm thân già này cho trời đất, tiền là cái cần nhưng không còn là cái "thiết" nữa. Chắc lại cái bài bản cũ rích là hơi một tý là vu cho chúng tôi, những người đấu tranh cho một nền dân chủ là bọn cơ hội, bọn bán nước, bọn bị những đồng "Đôla xanh mướt" làm loá mắt...
Khoảng giữa tháng 3-2001 tôi nhận được một cú phôn của một người chưa hề quen biết. Tôi có một số bài viết sau này tự in thành một tuyển tập gửi vài người bạn thân xem. Nhưng nó đã "bay" xa ngoài sức tưởng tượng của tôi nên tôi nhận được nhiều thư của các bạn không quen biết gửi tới (tôi sẽ có một đoạn nói về vấn đề này sau) và những cú phôn xa thì từ Sài Gòn, Tây Nguyên, gần thì từ Hà Nội, Thái Bình, Hải Dương, Hà Nam... Lần này tôi được biết người gọi phôn cho tôi tên là Trần Dũng, một trí thức Việt kiều ở Caliphooc-ni-a ở Mỹ. Tôi thuật lại cuộc nói chuyện giữa tôi và Trần Dũng và cũng là nội dung tôi khai với CA.
Người khách lạ: Xin lỗi tôi hỏi có phải là nhà ông Vũ Cao Quận?
Tôi trả lời: Thưa đúng và tôi là Vũ Cao Quận, xin lỗi ông cho tôi được biết tôi đang được tiếp chuyện ai?
Người khách lạ: Tôi là bạn của ông Nguyễn Thanh Giang và Phạm Quế Dương. Ông Quận ạ. Tôi đọc những bài viết của ông, Văn phong của ông, tôi thích thú lắm và tôi đọc xúc động lắm. Nghe tin Thanh Giang nói ông bị mệt nặng, tôi xin có lời thăm hỏi và chúc ông mau lành.
Tôi trả lời: Hết sức cảm ơn ông, hiện giờ bệnh tình đã đỡ. Xin ông cho biết quý danh để có dịp lên Hà Nội tôi sẽ đến thăm ông.
Tôi nghe tiếng cười khẽ trong máy và nghe: Tôi là Trần Dũng, tôi đang gọi cho ông từ Caliphoocnia. Ông Quận ơi. Nghe ông bị ốm mà tôi thì lại ở xa quá không làm gì giúp ông được. Tôi có chút quà mọn ít ngày nữa xin gửi tới ông để gọi là tấm lòng của tôi.
Nghe xưng tên và gọi mãi từ Mỹ rồi lại tặng quà. Cái tính cảnh giác của một người lính già, tôi nghĩ ngay đến mấy ông chơi trò "chuyển lửa về quê hương" đây. Thấy cũng chờn chợn, tôi khéo léo thoái thác: "Ông Dũng ạ, Tôi vô cùng cám ơn tấm lòng của ông, nhưng việc ông gọi từ Mỹ về thì việc nói chuyện của chúng ta sẽ sắp gián đoạn rồi. Vả lại ông gọi điện thoại đường dài đã khá lâu rồi sẽ tốn tiền lắm". Trần Dũng vội nói: "Không hề gì, tôi muốn nói với ông một lát nữa". Tôi vội cướp lời: "Ông Dũng ạ, giá có dịp tôi được gặp ông, để được bắt tay ông, để cảm ơn một tấm lòng. Xin tạm biệt". Tôi cúp máy và gọi ngay cho Thanh Giang, Thanh Giang trả lời vui vẻ: "Trần Dũng hay lắm đấy anh Quận ạ. Tôi quen anh ấy khi tôi qua Mỹ họp hội nghị. Tôi băn khoăn hỏi Thanh Giang: "Chưa biết người, chưa quen bao giờ, nghe tin tôi ốm anh ấy nói có quà tặng cho tôi để bồi dưỡng sức khoẻ. Chưa biết là quà gì nhưng có nên nhận hay không?
Thanh Giang cười: "Trần Dũng là một trí thức tôi quen, hay lắm đấy. Có quà thì cứ vô tư nhận đi". Khoảng 3 hôm sau có một Việt kiều từ Mỹ về gửi cho tôi món quà 300 USD của Trần Dũng. Lần đầu tiên nhận được Đôla từ đất nước của "đế quốc Mỹ" cũng sợ chứ. Có tiền tiêu nhưng sợ thì cứ sợ. Nhưng rồi tôi "lý sự": Ông Tổng Bí thư ĐM nhận 1.000.000 USD của tập đoàn tư bản cá mập LG tặng, cầm ngon ơ, cầm không đỏ mặt thì tôi cầm có 300 USD thì nhằm nhò gì. Tôi thì ông Trần Dũng vì đọc sách của tôi, vì quý mến mà cho, còn ông ĐM chắc phải ký những cú thầu béo bở cho tập đoàn tư bản LG, nếu nó có lợi hàng tỷ, hàng trăm triệu đôla thì nó mới tặng ông một triệu đôla như các ông lãnh tụ thường giáo dục chúng tôi là bọn đế quốc tư bản chẳng cho không ai bao giờ...
Sau những lời khai của tôi, họ đi đến một kết luận rất kỳ quái: Tiền của nước ngoài gửi cho ông, người gửi không phải là họ hàng, bạn bè thân thiết thì là tiền của kẻ địch, bọn phản động nên ông phải nộp lại cho Nhà nước... Trước cái gậy chuyên chính vô pháp luật to tướng lăm lăm trước mắt thì mọi tranh luận, mọi lý lẽ đều vô nghĩa. Chẳng "mềm" thì cũng phải mềm, tôi viết một cái thư tay gửi cho con gái tôi nộp lại số tiền 300USD.
Ngày 30-4-2001 vẫn tiếp tục đi cung và nội dung cũng vẫn là chần đi, chần lại: Mối quan hệ với những ai? Ai giao tài liệu? Có liên hệ gì với những người ở nước ngoài? Vân vân và vân vân?
Căn bệnh tê liệt chân trái có chiều hướng nặng hơn và đầu óc tôi choáng váng bồng bềnh như say sóng. Đêm nằm xoay người nằm nghiêng là đầu óc quay cuồng muốn nôn mửa, có lẽ vì không được uống thuốc. Thôi thì muốn ra sao thì ra, tôi quyết định ngày 1-5-2001, tôi không đi cung nữa. Đêm nằm tim tôi đau nhói, tôi có cảm tưởng cái chết đã lẩn khuất đâu đây. Khi 8 giờ sáng ngày 1-5-2001, tiếng mở khoá cửa buồng tù khua loảng xoảng, dù không còn ngủ nhưng tôi không dậy, Tr T lay tôi dậy, nhưng tôi kêu mệt. Ông lặng lẽ đi đổ rác, lấy cơm, cháo và nước uống. Sau đó ông dục tôi dậy đánh răng, rửa mặt rôi đi ăn cháo. Ông bê cháo tới tận đầu giường cho tôi. Tôi nói với ông: "Tôi thấy mệt lắm, gần mười hôm không có thuốc bệnh tôi có chiều hướng tái phát. Thôi tôi đành buông xuôi. Tôi không muốn ăn uống gì nữa. Hai bác cứ ăn đi". Ông tiếp tục dỗ dành tôi như người chị. Tôi cũng kệ và sau cùng ông nổi cáu: "Ông Quận ạ, tôi không là người lính như ông nhưng trước khi vào tù tôi từng là một Đảng viên. Tôi đã ngồi tù được 5 năm rồi mà tôi còn quyết sống để kháng án, tôi bị chảy máu dạ dày phải đi cấp cứu đã tưởng chết nhưng tôi không hèn như ông, mới có mấy ngày tù mà ông lại định tìm đến cái chết hay sao?. Ông định chết ở trong tù để lại nỗi nhục cho vợ, con là chết rũ tù. Nếu còn nghĩ đến vợ, con thì ông phải sống..." rồi ông hạ giọng: "Thôi ông dậy ăn đi, tôi lên xin với thầy phát thuốc cho ông". Chắc có bạn cho tôi là "ca cải lương" câu nói trên hay trích đoạn lâm li, mùi mẫn trên sân khấu hoặc triết lý màn ảnh. Tôi viết lại đúng 100% câu nói của Tr T. Dù sao câu nói của Tr T cũng chưa đủ sức lôi tôi dậy thì nghe có tiếng vọng vào: "Vũ Cao Quận ra nhận đồ". Tôi nhờ Tr T ra nhận đồ. Khi Tr T mang tờ biên nhận vào để tôi ký nhận, nhìn nét chữ của vợ tôi, tôi như nhìn thấy bộ mặt đau đơn của bà. Lời "thuyết giáo của cha cố Tr T" cộng với tình vợ chồng, cha con trộn lẫn lộn với mục đích của cuộc đời tôi, tôi vùng ngồi dậy và tự nhủ: "Tiếp tục thôi"...
Vừa lúc đó, P đại uý quản giáo vội vã xộc vào buồng giam cũng là lúc tôi ngồi dậy. Thấy tôi, anh nói: "Sao lại thế, bác phải dậy mà ăn uống chứ". Tôi đáp lại: "Đã một tuần lễ nay không được uống thuốc nên bệnh cũ tái phát, tôi mệt lắm rồi, tôi không muốn ăn uống gì nứa". P nói tiếp: "Bác cố gắng ăn đi, tôi sẽ cho gọi bác sĩ ngay". Nói xong P đi ra. Tr T mang vào lại vẫn 3 quả trứng gà luộc còn âm ấm, một gói ruốc to, một hộp bánh trứng, một gói vừng lạc và một nải chuối rất to. Tôi cố gượng húp một thìa cháo và lấy trứng gà mời Tr T và M mỗi người 1 quả. Khoảng 15 phút sau, một tù tự giác gọi: G1 lên khám bệnh và lấy thuốc. Tôi đi lên buồng quản giáo thì đã thấy viên thiếu tá quân y (ngưòi nói "đổng" cái câu: "Già rồi mà còn chống Đảng"). Giá không mang bộ cảnh phục trên người thì trông anh ta cũng có vẻ là một người tử tế. Anh nói: "Nằm xuống đây để tôi khám". Vẫn giọng nói chỏng lỏn anh ra hiệu tôi nằm xuống. Tôi nghĩ thầm: Đúng là một tên thầy thuốc bất nhân, thất đức. Mày định bắt tao nằm xuống đất này khám bệnh sao? Vì phòng quản giáo rất hẹp không có giường nhưng còn một diện tích đủ trải một chiếc chiếu. Đã vậy tao nằm cũng để thử xem ở cái chốn lao tù này liệu cái chút lương tri của XHCN có hơn gì TBCN... Tôi hơi khuỵu người xuống sàn đất để chuẩn bị nằm thì đại uý P đi vào vội kêu lên: "không được, các cậu nào chạy về buồng mượn cho chiếc chiếu. Một tù tự giác rất trẻ anh ta chạy vội và chỉ loáng sau anh mang về một cái chiếu một và trải cho tôi nằm. Ngay lúc đó M đã cầm cái gối của anh để tôi gối (cái gối rất đẹp của anh mà anh thường nói: Trông vậy mà cái áo gối của em giá trên 100.000đ đấy). Vào tù anh không thích dùng chung những đồ dùng riêng của anh, nhất là cái gối. Viên thiếu ta đo huyết áp cho tôi, nghe tim phổi một chút rồi lôi từ cái túi da mang theo lấy ra một số lọ nhựa đựng thuốc. Nhìn thấy khoảng hơn chục viên thuốc các loại trông xỉn xỉn ngả màu, nghĩ mà ghê. Tôi toan cầm đem về uống, nhưng là để vất đi những viên thuốc đáng ngờ đó. Viên quân y không cho, gọi đưa nước và bắt tôi uống ngay tại chỗ. Thôi thì liều đã chấp nhận cái chết vả lại chết có số, uống đại đi kẻo để người ta đè cổ móc mồm đổ vào thì chẳng ra làm sao.
P đưa tôi ra khỏi phòng quản giáo và nhẹ nhàng nói: "Bác cố gắng giữ gìn sức khoẻ. Nếu khi nào cần tắm tôi lại bảo gánh nước nóng cho bác". Tưởng hôm nay được nghỉ, nhưng không...
- G1 chuẩn bị đi cung. Có tiếng nói chõ vào. Thôi lại tiếp tục chiến đấu... tôi nghĩ vậy.
Hôm nay đợi tôi có 3 người: VNC, VL và thay cho Ng Th là VS, cùng 2 nhân viên camera. VNC pha nước mời tôi và anh tươi cười nói: Chưa năm nào anh em chúng tôi phải làm việc vào ngày này. Việc khác thì nghỉ được, nhưng việc của bác, làm chúng tôi không được nghỉ".
Tôi lặng lẽ ngồi xuống ghế. Trên mặt bàn ngoài tập giấy để ghi biên bản còn có một quyển sách màu hồng nhạt. Đó là quyển "Gửi Lại Trước Khi Về Cõi" của tôi, tập hợp một số suy nghĩ tản mạn, văn chẳng ra văn cùng ít bài thơ "con cóc", chủ yêu tôi chỉ ra cái sai ghê gớm của Mác trong cái thuyết công hữu của ông mà để một lớp học trò lợi dụng học thuyết tai hại ấy thâu tóm toàn bộ giang san gấm vóc của tổ tiên ông bà để lại cho con Lạc, cháu Hồng, họ chia năm xẻ bảy làm tan nát cơ nghiệp của đất nước. Cuối cùng công nhân, nông dân và nhân dân lao động lại "trắng tay" sau hơn một trăm năm chống xâm lược.
Hỏi: Quyển sách này có phải của anh không?
Đáp: Vâng, quyển sách này của tôi.
Hỏi: Những bài viết trong này là của anh cả chứ?
Đáp: Toàn bộ là của tôi với một vài bút danh khác nhau.
Hỏi: Anh có quen biết gì ông Lê Tần không? (Tôi dùng tên chệch đi).
Đáp: Tôi không phải là bạn của ông Tần. Nhân một lần đến chơi HT bạn tôi nên tình cờ gặp ông mà thôi.
Hỏi: Anh có gửi cho ông Tần quyển nào không? Vì sách có nội dung xấu, nên người ta đem nộp cho CA. Đây anh xem....
VS vừa đưa cuốn sách ra trước mặt tôi, vừa bật bật những trang đầu. Cũng rất nhanh tôi nhìn thấy chữ "Phóng", à. Thì ra là tên "sọc dưa" này đây. Tôi cũng cần kể qua tên này một chút. Tôi không hề biết hắn và cũng không từng là bạn của hắn. Số là hôm 27 tết Canh Ngọ tôi bị cảm liệt nửa người phải đi cấp cứu tại quân y viện 203. Tại đây tôi tình cờ gặp V, một giám đốc Cty đến thăm bạn ốm. V vốn cũng không phải là bạn mà chỉ là biết nhau trong một cuộc giao hữu bóng bàn. V vốn là người vui vẻ, sởi lởi, lịch thiệp và đến bây giờ tôi cũng không hề nghĩ anh ấy là một tên "sọc dưa". Sau khi tôi ra viện chừng hai, ba hôm thì V có Phóng đi theo đến thăm tôi vào một buổi tối tại nhà tôi. Sau khi thăm hỏi và cho quà, V nói: "Em đã đọc "Gửi lại trước khi về cõi" của anh, rất hay có nhiều điều em tâm đắc nhưng xem chưa xong thì bị đòi lại, nên hôm nay em muốn nếu được, anh cho em một cuốn".
Các bạn ạ. Tôi cũng chỉ là một con người, có đủ các tính xấu vốn có. Tôi cũng mắc cái bệnh "huyễn ngã thị dục" của Dale Carnegie viết trong "đắc nhân tâm". Mới ti toe, chập chững viết được ít trang tản văn và mấy bài thơ con cóc mà lại được có người đến xin "tác phẩm", quả thật mũi tôi cũng hơi to ra. Tôi vui vẻ tặng V. Thấy tôi tặng V, Phóng nói: "Em cũng rất thích đọc, nếu có thể thì anh cho em xin một cuốn". Từ chối lúc này là sự thiếu lịch thiệp, thực lòng tôi không muốn tặng anh ta, chẳng phải vì "cảnh giác" gì mà vì tôi đã có cảm nhận là anh ta không phải loại người của "thế sự". Suýt nữa tôi nghĩ sai về bác Lê Tần, một nhà giáo già đáng kính trọng.
Đáp: Tôi có tặng cho HT một cuốn và nhân tiện có bác Lê Tần có mặt tôi cũng tặng bác ấy. Gẩy đàn và làm thơ mà không có người đọc, người nghe thì buồn quá, nên tôi có tặng bạn bè cũng chỉ vỉ lý do rất đời thôi.
Hỏi: Anh còn gửi cho những ai?
Đáp: Tôi chưa cầm bút bao giờ. Thực ra tôi cũng chưa bao giờ nghĩ tôi là nhà văn, "nhà gì" cả. Nên tôi làm có 4 quyển. Một quyển tặng Đại tá Võ Hạ, một quyển tặng Tiến sĩ viện sĩ Thanh Giang, một quyển tặng nhạc sĩ ĐQT ở Hà Nội, một người tôi chưa quen chưa biết mặt nhưng đã mến mộ những bài viết của tôi khi còn trứng nước. Còn một quyển tôi giữ. Tôi chưa dám nghĩ những bài viết lại có thể trở thành "tuyển tập" nếu không có sự khuyến khích của đại tá VH và khá đông bạn bè. Còn nghĩ đến việc tặng người này, người nọ tôi coi đó là một sự "cao ngạo và lố bịch".
Hỏi: Anh chưa thật sự thành khẩn khai báo. Việc anh chế bản vi tính photocopy ở đâu, chúng tôi cũng đều đã biết, nhưng muốn tự anh nói ra thì tốt hơn?
Đáp: Thưa các ông, chả có gì làm tôi sợ khi phải nói về cuốn sách của tôi. Tôi viết có tên tuổi, địa chỉ đàng hoàng điều đó chứng tỏ tôi sẵn sàng chịu trách nhiệm trước pháp luật. Cũng xin nói thêm là khi tôi in 4 cuốn đầu tiên thi nhân viên của Tổng cục 2 đã biết và đã tìm đến đại tá VH muốn được có một cuốn. VH có hỏi ý kiến của tôi. Tôi trả lời VH "sách của tôi đã ghi rõ tên tuổi, coi như canh bạc chơi đến con bài cuối cùng rồi thì lật ngửa thôi. Anh cứ cho họ nếu họ cần". Và VH đã đưa họ 2 quyển sau khi họ còn cẩn thận gửi lại 50.000đ để photocopy.
Hỏi: Sao không thấy anh nhắc đến ông ĐĐV, còn ông BNT nữa?
Đáp: ĐĐV chỉ là người bạn thân chơi bóng bàn với tôi, quan hệ đơn thuần chỉ là thể thao. Anh ấy không phải là bạn về thế sự nên không có quan hệ trao đổi tài liệu với nhau nên không nằm trong bộ nhớ của tôi. Còn ông BNT là một nhà văn nổi tiếng, ông không phải là bạn tôi mà vì mến mộ tôi đến làm quen với ông. Ông không thích những chuyện liên quan đến chính trị nên ông chỉ coi tôi như một người bạn qua đường. Do đó giữa chúng tôi không hề có quan hệ trao đổi sách báo tài liệu.
Hỏi: Thế còn ông T?
Đáp: Ông NTT cũng chỉ là một người bạn bóng bàn như ĐĐV. Ngoài ra ông ấy chỉ là một người thích trao đổi về thơ, ca chứ không quan tâm đến thời sự, chính trị. Nếu tôi có tặng cho ông NTT, cho ĐĐV thì cũng giống như tôi tăng cho bác Lê Tần mà thôi.
Hỏi: Thế còn NMS? Thế còn ông HG, ĐM thì sao? Tại sao anh cứ để chúng tôi hỏi đến người nào thì anh mới khai người đấy.
Đáp: Tôi mới quen NMS chưa bao lâu. Vả lại tôi không muốn anh ấy vì tôi mà luỵ. Vâng. Tôi có tặng cho NMS một quyển. Còn bác HG là một bậc lão thành cách mạng, tuổi gần như bậc cha, chú của tôi. Tôi chưa bao giờ dám nhận là bạn của bác ấy nên rất ít khi giao tiếp. Tôi không có sách tặng bác ấy. Vả lại mới đầu tôi mới in có mấy quyển, đâu có nhiều mà tặng.
Giờ nghỉ trưa cũng đã đến. Trước khi trở về buồng giam, thiếu tá VNC trân trọng đưa tôi một gói quà là hộp bánh và nói: Hôm nay nhân dịp ngày quốc tế lao động 1-5, mấy anh em chúng tôi có món quà tặng bác.
Thú thật tôi hơi ngỡ ngàng và xúc động vì bất ngờ. Thôi thì món quà vì "nghiệp vụ" hay gì gì chăng nữa ở giây phút ấy tôi cũng chẳng cần phân tích làm gì mà tôi thành thực cảm ơn các anh, cám ơn những tấm lòng. Việc tặng tôi hộp bánh không những làm tôi ngỡ ngàng mà làm cho hai cậu tù tự giác có mặt lúc đó cũng ngạc nhiên vì một tù nhân bị gọi lên hỏi cung mà lại được tặng quà. Không hiểu trước đó có tiền lệ nào chưa nhưng mấy ngày sau đó khi tôi bị giải qua các tốp tù tự giác, các chàng trai nhìn tôi với ánh mắt thiện cảm hơn.
Buổi chiều hôm đó tôi "khai" nốt người cuối cùng cũng được tôi tặng sách là trung tá công an VĐT đã về hưu, người lính cũ của tôi cách đây 40 năm khi tôi là Trung đội trưởng. Cũng xin nói qua một chút về VĐT cách đây 3 năm khi anh nghe tin tôi bị khai trừ khỏi Đảng, anh tìm đến gặp tôi với lòng thương người thủ trưởng cũ của mình, từ đó anh gắn bó với tôi trong tình cảm như anh em thân thiết.
Sáng ngày 2-5-2001, sau bát cháo sáng tranh thủ vài phút trước khi gọi đi cung, tôi cùng Tr T và M nhâm nhi mỗi người một cái bánh trứng, có trà Thái và tráng miệng mỗi người một quả chuối. Suốt hơn một tuần ở tù lần đầu tiên tôi thấy M vui vẻ và cởi mở: "Nói thật với bác Quận, ở ngoài đời mỗi sáng như thế này em tiêu ít nhất cũng 100.000đ. Vào đây thèm đủ mọi thứ nhưng rồi cũng quen". Tr T tiếp: Tôi đoán ông Quận sắp được tha rồi, vì tôi và bác M sắp chuyển về chỗ cũ. Rồi họ kể cho tôi nghe chỗ ở của họ là những buồng giam từ 80 đến 100 người với đủ nỗi khổ: Chật chội, nóng bức, ăn uống, tắm giặt... với đủ hạng người việc "chí choé anh chị" cũng khá thường xuyên, nhưng ở cái nơi tưởng như u tối đó cũng không thiếu nghĩa cử, những tình người cao thượng, tốt đẹp giữa những người tù với nhau cũng đáng để khối kẻ ngoài đời tự do nhâng nhâng rao giảng đạo đức cũng phải xấu hổ.
Khoảng 8 giờ 30 tôi lại đi cung. Số người hỏi cung vẫn như hôm trước, nhưng có khác là thiếu tá VNC ngồi ở buồng trong chỉ đạo. Còn trực tiếp vẫn là hai trung tá VL và VS.
Hỏi: Quyển sách của anh chúng tôi thây photo khá nhiều. Vậy anh đã in bao nhiêu quyển và còn cho những ai. Anh có tặng cho các ông Hà Nội không?
Đáp: Tôi không có nhiều tiền nên photo nhiều lần, mỗi lần khi thì 2 quyển, khi thì 3 quyển nên cũng chẳng nhớ cụ thể là bao nhiêu quyển. Có thể là 15 quyển gì đó. Còn nói là tặng thì cũng xin được nói hơi dài dòng một chút, nếu các ông cho phép.
Hỏi: Được thôi, anh cứ nói cụ thể cho chúng tôi nghe.
Đáp: Như hôm trước tôi đã nói, tôi có phải nhà văn, nhà quái gì đâu. Ở Hà Nội mới đầu chỉ dám tặng Viện sĩ tiến sĩ Thanh Giang và nhạc sĩ ĐQT. Sau được khen là đọc tàm tạm được nên tôi mạnh dạn "phạm thượng" tặng các bậc đàn anh như: Trung tướng Trần Độ, nguyên bí thư thành uỷ Hà Nội Nguyễn văn Đào, đại tá nguyên Tổng biên tập tạp chí lịch sử quân sự Phạm Quế Dương, CCB quyết tử quân Trần Dũng Tiến, nhà báo Cam Ly, nhà nghiên cứu Hán-Nôm Trần Khuê, lương y Nguyễn Đắc Kính, các CCB Trần Bá, Dương Sơn...
Cứ hỏi, cứ đáp xung quanh cuốn sách của tôi rồi cũng hết giờ. Khi trở về buồng giam lúc đi ngang qua chỗ mấy người tù tự giác mặc áo sọc trắng đen đang làm lao động dọn sân thì một người tù đã có tuổi đứng dậy nói khẽ: "Họ đang rất lúng túng khi đưa ông ra xử trước toà". Lời nói ngắn gọn của người tù kết hợp với dự đoàn của Tr T hồi sáng, tôi cũng hơi ngỡ ngàng, vui sướng. Vì trước đây mấy hôm có tin "thoảng" đến tai tôi là có khả năng họ định giam tôi 2 tháng. Chả lẽ họ lại tha mình sớm thế sao? Lúc đó tôi nào đâu có biết những người bạn già ở Hà Nội của tôi như: Thanh Giang và CCB quyết tử Trần Dũng Tiến... đã viết những bài phản kháng rất quyết liệt về việc bắt giữ tôi để nhân dân trong nước và thế giới biết.
Buổi chiều sau khi tiếp tục tra hỏi chán chê về cuốn sách, họ đưa ra một quyển về Luật xuất bản gì đó, bìa mầu lam thẫm và quy tôi tội vi phạm luật in ấn, xuất bản sách trái phép có thể bị phạt tiền từ 1 triệu đến 10 triệu đồng. Mới đầu tôi kiên quyết không nhận, tôi in cho bạn bè đọc, có bán chác gì đâu mà vi phạm pháp luật. Nhưng mọi biện luận của tôi đều vô ích, trước áp đặt của quyền lực tôi ký nhận. Thôi thì lại chờ ra trước toà hãy hay. Còn nếu bị phạt tiền thì cứ việc trừ vào đồng lương hưu xương máu cũng được vì tôi tuy "lạc hậu" đẻ những 5 con vịt trời, các cháu đã lớn cả và rất có hiếu sẽ nuôi đến cuối đời, vả lại tôi cũng chẳng sống được bao lâu nữa.
Sáng ngày 3-5-2001, nhân sự hỏi cung tôi vẫn như hôm trước, nhưng có nội dung mới: chiếm dụng bí mật quốc gia.
Hỏi: Chúng tôi khám ở nhà anh thu được những tài liệu thuộc về bí mật quốc gia như bài nói của TBT Lê Khả Phiêu và bản thông báo của Uỷ ban dân vận TU vê vụ Thái Bình, vi phạm luật này có mức án tù từ...
Lại vẫn chuyện tù từ mấy năm đến mấy năm, hôm nay tôi không còn nhớ nữa. Thì ra họ đang hỏi tôi về "Lược ghi bài nói của TBT Lê Khả Phiêu tại hội nghị toàn quốc về xây dựng và chỉnh đốn Đảng ngày 21-5-1999 tại Hà Nội. Và bản thông báo của Uỷ ban dân vận TU về sự nổi dậy chống bọn cường hào ác bá ở Thái Bình của hàng vạn nông dân Thái Bình. Quái, một bài nói chuyện trước hàng mấy trăm con người của TBT thì còn gì là bí mật nữa. Nhưng cứ cho là bí mật đi nữa thì bí mật của Đảng đâu phải là bí mật quốc gia. Và tôi có phải là Đảng viên đâu mà phải giữ cái "bí mật cho Đảng" và thấy cần cho nhiều người cùng đọc. Rồi nữa cái bản thông báo, đã gọi là thông báo thì còn quái gì là bí mật nữa. Nhưng rồi trước cái: La raison du plus fort est toujours la meilleure. (Lý lẽ của kẻ mạnh luôn luôn đúng). Bởi vì 2 cái bản kể trên bi photo nhiều lần nhoè nhoẹt rất khó đọc có in mỗi chữ "mật" theo kiểu dấu củ khoai. Biết thân phận, tôi chả tranh cãi nữa và nhận "tội".
Nhân thể cũng cần nói qua một chút về "Bài nói của TBT Lê Khả Phiêu". Phải nói đây là khí phách dũng cảm của một TBT khi phải thừa nhận những thói hư, tật xấu, những thoái hoá đến nghiêm trọng của một Đảng luôn luôn khoe khoang là một Đảng vĩ đại, giống như mặt trước của chiếc huân chương mạ vàng sáng choé bao nhiêu thì mặt sau của nó cũng sù sì ghê gớm. Trong chuyện cổ Hy Lạp có chàng dũng sĩ A Sin anh hùng là thế, dũng mãnh là thế, bách chiến, bách thắng chỗ yếu sinh tử là một cái lỗ cỏn con ở gót chân, còn toàn thân thể là bất khả chiến bại. Thế mà chỉ với một phát tên của thần Appolon vào đúng gót chân mà thân anh hùng để hận mãi với ngàn thu. Còn qua bài nói của TBT thì Đảng ta có "cái gót chân A sin " gần như toàn thân. Nói dại có chuyện gì xẩy ra thì chỉ có sức mạnh 4000 năm của dân tộc VN mới bảo vệ được Đảng, sẽ ngăn chặn được không phải một mũi tên chứ trăm mũi tên của thần Appolon hiện đại cũng không thể nào quật ngã được Đảng ta. Làm sao Đảng có thể trông cậy vào số Đảng viên cơ hội, chạy quyền, chạy chức, tham nhũng, hối lộ, quan liêu, cửa quyền, lộng hành, nhũng nhiễu lại có thể bảo vệ được Đảng. Tiếc lắm thay...
Đáp: Tôi chưa bao gì nghĩ đó là bí mật quốc gia. Khi tôi nhận được từ những bạn bè đến tay thì nó đã nhàu nát và rất mờ. Chứng tỏ là đã có rất nhiều người đọc.
Hỏi: Anh có thấy ở trên đầu hai tài liệu đều có dấu "mật" không?
Đáp: Có, tôi có thấy, những dấu mật này thậm chí tối mật hoặc tuyệt mật, tôi thấy ở những bà bán chè chai, đồng nát có rất nhiều trong đống giấy phế loại từ các cơ quan nhà nước bán ra mà dấu còn đỏ tươi chứ không đen xì như dấu đã qua photo.
Hỏi: Nhưng đây là những tài liệu thuộc phạm vi của TU nghiên cứu không thuộc phạm vi phổ biến rộng rãi trong xã hội. Do đó việc anh lưu trữ là vi phạm luật chiếm hữu bí mật quốc gia?
Một lần nữa tôi biết "Lý sự cùn" là thế nào. Cái họ cần là buộc tôi phải ký vào biên bản nhận "tội". Thôi thì đằng nào cũng ra toà đi tù luôn một thể, tôi đặt bút ký vào biên bản. Hoặc tôi còn sống được bao năm nữa mà chấp án tù, hoặc cái "luật rừng" này sẽ còn tồn tại được bao năm nữa mà bỏ tù tôi.
Họ yêu cầu tôi viết thư gửi các bạn được tôi tặng cuốn "Gửi lại trước khi về cõi". Tôi viết hai bức thư gửi các bạn Hải Phòng và Hà Nội, đại ý: Tôi đề nghị các bạn tôi vui lòng nộp lại cho CA tác phẩm của tôi và tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật thuộc về cá nhân tôi. Riêng thư gửi các bạn ở Hà Nội, họ không cho tôi ghi dòng: tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật thuộc về cá nhân tôi. Việc thu sách này dù vin vào bất cứ lý do gì thì tôi là người có lỗi với các bạn bè của tôi. Qua mấy dòng hồi ký này, tôi thành thực tạ lỗi cùng các bác, các anh chỉ vì tôi mà phiền luỵ. Sau này về tôi được các bạn có sách cho biết họ đều được triệu tập lên CA để nộp sách. Khi tôi đang viết những dòng này (24-12-2001) thì tôi được tin trên đài "Tiếng nói Hoa Kỳ" và BBC thông báo là Bộ văn hoá - Thông tin ra lệnh cấm lưu hành và tiêu huỷ tác phẩm "Gửi lại trước khi về cõi" hiền lành và tội nghiệp của tôi cùng "Hồi ký" của Trung tướng Trần Độ, tác phẩm "Suy tư và ước vọng" của Thanh Giang và tác phẩm "Đối thoại năm 2000" và "Đối thoại năm 2001" của Trần Khuê và Nguyễn Thị Thanh Xuân. Chợt nhìn lên ti vi thấy đoàn đua xe đạp nghiệp dư làm từ thiện từ nước Mỹ xa nửa vòng trái đất đang cùng các bạn VN bon bon trên con đường của Tổ quốc VN, những người mà mới hôm qua chúng ta còn coi họ là kẻ thù số 1 thì giờ đây đang đón nhận những vòng hoa thân ái của các em nhỏ ở thanh phố HCM đeo tặng. Còn chúng ta, những người cùng một dân tộc, thiêng liêng hơn nữa là đồng đội, đồng chí của nhau mà cứ tìm diệt nhau mãi thế này.
Tối hôm đó có lẽ do quản giáo trực quên mở ti vi nên tiếng í ới gọi nhau chộn rộn trong khu giam cầm yên tĩnh.
- Bố T ơi. Bố gọi cán bộ trực mở ti vi cho khu G xem với.
Tr T gọi với sang các buồng bên: "Tao già rồi không gọi to được, chúng mày cố gọi to lên".
Thế là những tiếng gọi vang lên:
"Ôi cán bộ ơi. Mở ti vi cho khu G xem với". Rồi có tiếng vọng cổ cất lên khá mùi mẫn. Tiếng rủ nhau đi nghỉ Đồ Sơn trong tưởng tượng của cánh tù trẻ. Những âm thanh xao động chốn ngục tù, những âm thanh của khao khát tự do.
Tôi lặng lẽ nằm im, thả hồn trong suy tư và những chuẩn bị cho ngày mai còn đầy cam go, bất trắc. Tự nhiên tôi thấy nản long, mình già quá rồi... tôi muốn buông xuôi tất cả. Chặc lưỡi muốn ra sao thì ra.
Sáng ngày 4-5-2001 như thường lệ tôi vẫn ra bể nước ngoài sân để mục nước chứa vào thùng chứa trong buồng vệ sinh. Tr T vẫn đi đổ rác, lĩnh cơm và cháo. Còn M vẫn quét sân vô tư thì thùm múc nước trong bể tắm ào ào.
Khi 3 người sì sụp húp cháo, Tr T giọng chia vui lẫn bùi ngùi: "có lẽ hôm nay ông Quận được tha rồi". May ra còn được ăn với nhau bữa cơm tù cuối cúng với chúng tôi. M thủng thẳng nói: "Em cũng đang thu xếp để về phòng cũ và cũng chuẩn bị đi trại rồi. Em cố xin được về Gốc Thị (Kiến An) thì tốt, được gần nhà. Cùng lắm sang Phi Liệt thì hơi xa. Nếu bác đựoc tha em xin bác cái màn và cái ba lô để chuẩn bị đi trại". Tr T cũng nói: "Tôi cũng chỉ xin bác bộ ‘xu vết tơ măng’ thôi".
Tự nhiên tôi lại ứa nước mắt thương hại người bạn tù. Tôi mới bị giam có mấy ngày mà đã thấy "thiên thu tại ngoại", ở với nhau vài ngày cũng nên nghĩa nên tình khi chia tay tránh sao khỏi bùi ngùi. Tr T người chỉ gầy như con mắm, rất yếu. Liệu ông ta còn sống đến hết hạn tù không, đằng đẵng những mười năm nữa chứ ít gì. Còn M thì cũng còn xấp xỉ mười năm. Ôi, con đưòng trường chinh của chốn lao tù. Đột nhiên một cậu tù trẻ, trắng trẻo, rất đẹp trai vào mời tôi lên gặp quản giáo. Tôi vừa đi vừa phân vân là có chuyện gì nhỉ? Khi tôi lên phòng quản giáo thì đã thấy đại uý Ph quản giáo khu G1 tươi cười mời tôi uống trà. Hôm nay được mời ngồi ghế đối diện đàng hoàng như một vị khách, được uống trà nóng, mà mới mấy hôm trước thôi khi có việc quản giáo gọi lên, tôi phải ngồi chồm hổm dưới đất như một con chó. Nói điều này tôi không có ý trách đại uý Ph, vì các đối xử đó là quy tắc của nhà tù đối với phạm nhân, nghĩa là cái quyền làm người tối thiểu cũng bị tước đoạt nốt dù chỉ là một chiếc ghế xấu xí hoặc cái ghế thấp hơn ghế người quản giáo.
Anh tươi cười rót nước mời tôi uống. Bước đầu cả hai phía đều hơi lúng túng vì biết nói chuyện gì với nhau bây giờ. Anh hỏi thăm sức khoẻ của tôi đã khá hơn chưa, nếu cần anh gọi bác sĩ xuống thăm bệnh và cho thuốc. Tôi cám ơn và cũng hỏi thăm lại hoàn cảnh gia đình cùng vợ con anh. Để thăm dò xem tin tôi tối sắp được thả tự do có đúng không, tôi nói: "Thưa ông, nếu có thể được ông cho tôi địa chỉ và số điện thoại để may mắn nếu tôi được trả tự do tôi sẽ đến thăm gia đình". Anh vui vẻ ghi cho ngay. Sau này hai vợ chồng con gái lớn của tôi thay mặt tôi tới thăm gia đình anh hai lần. Nếu ở địa vị một quản giáo vô tình khác thì chắc không có cuộc gặp mặt ngắn ngủi này, một cuộc gặp không cần thiết giữa ông quản giáo với một người tù. Tr T khen đại uý Ph là một quản giáo nhân hậu, tôi tin là như vậy.
Giờ đi cung đã đến, anh tiễn tôi ra cửa.
Hôm nay đợi tôi ở phòng hỏi cung đủ bộ ba: Thiếu tá VNC và 2 trung tá Ng Th và VL cùng 2 nhân viên camera. Mở đầu cuộc hỏi cung, thiếu tá VNC "biểu dương" tôi: Qua 9 ngày làm việc, anh đã khai báo thành khẩn, thành thực hợp tác và đã "nhận ra" những lỗi lầm của mình. Vậy tôi yêu cầu anh có thái độ tích cực hơn nữa để chúng tôi báo cáo với cấp trên có sự chiếu cố, khoan hồng để sớm trả tự do cho anh. Và họ quy nạp tôi 3 tội:
1- Tàng trữ, lưu hành, tán phát các tài liệu có nội dung xấu.
2- Chiếm dụng các tài liệu bí mật quốc gia.
3- Vi phạm luật xuất bản, tự ý in ấn sách.
Sau 8 ngày hỏi cung căng thẳng, giằng co giữa: tài liệu xấu hay không xấu, bí mật hay không bí mật, vi phạm luật xuất bản hay không vi phạm luật... làm tôi mệt mỏi mà căn bệnh tiền đình tiếp tục tăng khi tôi không có thuốc uống nên tôi buông xuôi, tôi ký nhận vào biên bản. Nếu bạn nào cho tôi là ngây thơ thì tôi cũng xin chịu, nhưng tôi nghĩ cái nhà nước pháp quyền này còn phải đưa tôi ra toà, tôi còn có dịp kháng cáo, có dịp bác bỏ những quy kết tội vô căn cứ này.
Thấy tôi ký xong, VNC lại một lần nữa "biểu dương" tôi và nói: "Để tạo cho cấp trên có căn cứ để xét sớm trả tự do cho anh, anh viết một cái đơn xin khoan hồng".
Tôi buông bút xuống bàn và giọng tôi đanh lại: "Thưa các ông, tôi ký vào biên bản không có nghĩa tội danh của tôi đã được xác định. Chỉ có toà án mới là nơi phán quyết tội danh của tôi. Ngay cả lúc ấy tôi cũng không cần xin khoan hồng, huống chi bây giờ tôi chưa phải là tội nhân, tôi không việc gì phải xin khoan hồng. Tôi sẵn sàng ở tù 10 năm chứ quyết không xin khoan hồng".
VNC bảo: "Thái độ của anh phải mềm đi thì tôi mới báo cáo lên trên tạo thuận lợi cho anh".
Tôi cần được trả tự do nhưng xin khoan hồng thì không.
Giọng VNC dịu lại: "Thế thì theo anh nên viết thế nào?"
Tôi nói: "Lời đề nghị được không?"
VNC đồng ý nhưng với mấy điều kiện: Thứ nhất là từ nay không viết lách gì nữa. Thứ hai là cắt đứt liên lạc, không liên hệ vơí mấy ông Hà Nội. Thứ ba là không tham gia lập các tổ chức, các CLB tự do... không lưu trữ, tán phát tài liệu...
Tôi đồng ý nhưng viết theo cách của tôi. Đại để:
Lời đề nghị trả tự do với 3 cam kết: Thứ nhất tôi già rồi từ nay về vui cùng con cháu, không viết lách gì nữa. Thứ hai tôi chưa bao gì có ý định và cũng không tham gia các tổ chức, các phong trào tự do vì không thích hợp với mục đích của tôi. Thứ ba là tôi "Tuyệt giao về mặt thời sự chính trị" với các ông Hà Nội nhưng về tình nghĩa bạn già thì tôi không thể bỏ bạn bè được. Nếu có các tài liệu tôi xem thì đốt đi hoặc CA cần tôi sẽ "nộp" cho CA nghiên cứu.
Sau này tôi nghĩ cứ buồn cười về cái bản cam kết mà về mặt pháp lý cam kết mà chẳng cam kết gì cả. Không viết lách gì là không viết cái gì? các bạn già của tôi ở Hà Nội là những công dân tự do ai đời một cơ quan thi hành pháp luật lại vi phạm pháp luật vì cấm công dân này không được "chơi" với công dân kia. Nghĩ cũng kỳ...
Còn tài liệu trôi nổi nếu đưa cho CA đọc có hại gì đâu. Tôi e CA đọc nhiều quá lại bị "nhiễm trùng" thì nguy. Nhất là khi tôi nói: "Tôi không phải là người duy nhất ở Hải Phòng lưu trữ tài liệu, mà còn có hàng trăm người khác có tài liệu như tôi". Trung tá VL có hỏi: "Nếu anh biết những ai có. Anh nên khai cho chúng tôi". Tôi trả lời: "Thưa ông, điều này các ông phải tự tìm hiểu, chứ tôi không phải một Indicateur". VL hơi sững lại, tôi hiểu là anh có biết tiếng Pháp. Còn tôi tập toẹ dăm ba câu tiếng Pháp từ hồi còn Ê lê măng te cách đây gần 60 năm còn rơi rớt lại, vì dùng tiếng ta thì hơi sỗ sàng quá. Vâng tôi không phải là một tên chỉ điểm.
VNC lại yêu cầu tôi làm một bản hợp tác với CA. Tôi đồng ý ngay vì hợp tác với CA để cùng giữ vững trật tự an ninh cho xã hội là nhiệm vụ của bất cứ người dân nào. Nhưng tôi yêu câu cho biết nội dung cụ thể. Sau khi VNC cho biết nội dung tôi viết đại để:
- Nếu có bất cứ ai đến vận động tôi tham gia các tổ chữc, các phong trào, các CLB để gây rối loạn xã hội thì tôi can ngăn họ và nếu họ cứ cố tình tổ chức thì sẽ "báo" cho CA.
Khi tôi đang viết, để khích lệ tôi VNC nói: "Anh cứ yên tâm, chúng tôi hoàn toàn giữ bí mật, giữ danh dự cho anh để không ai được biết việc hợp tác này". Tôi ngừng ngay bút lại và nói: "Khi tôi đặt bút viết cam kết hoặc hợp tác này, tôi cũng có những nguyên tắc riêng của tôi là nhất quyết không bao giờ phản bội lại bạn bè. Nếu sau này các ông thấy tôi không làm đúng các cam kết hoặc hợp tác không đúng mức, các ông cứ cho công bố các bút tích, các lời nói của tôi các ông ghi được ra công khai trước toà án, trước một cuộc họp báo chẳng hạn, trước công chúng, tôi cũng chẳng lo ngại gì".
Đòn cuối cùng ra tiếp của VNC là tôi sẽ viết một "bản kêu gọi" các bạn Hà Nội và Hải Phòng đừng tiếp tục làm những việc như tôi đã làm. Tôi nhìn thẳng vào mặt VNC hơi mỉm cười và trả lời:
- Thưa ông, các bạn bè tôi, nhất là các bạn HN là những bậc công thần cách mạng, nhiều người tuổi vào bậc cha chú, đàn anh, trình độ học vấn uyên bác và cấp chức cao hơn tôi mấy cái đầu. Còn tôi chỉ là tên vô danh tiểu tốt, một dân quèn tôi lấy danh nghĩa gì mà dám ra "lời kêu gọi". Tôi lại sẵn sàng ngồi tù 10 năm chứ tôi mà viết thì khi gặp họ thì chỉ có cắn lưỡi mà chết cho rồi. Tôi không phải là một tên chiêu hồi.
Nghe tôi nói vậy VNC cũng không ép tôi. Giờ làm việc buổi sáng cũng đã hết, nhưng tôi cũng chưa hề nghĩ đó là buổi đi cung cuối cùng sau 9 ngày ở trong tù. Một buổi làm việc với một không khí tương đối thoải mái, không vui mà cũng chẳng buồn.
Khi tôi về buồng giam thì Tr T và M đã chờ sẵn tôi bên mâm cơm. Cơm xong vẫn còn bánh trứng và chuối tráng miệng cùng nước tra Thái của Tr T. Tôi đi rửa bát xong thì Tr T đưa tôi một lưỡi dao cạo Croma mới tinh và bảo: "Ông đi cạo râu đi". Tôi ngạc nhiên vì sao ông kiếm đâu ra của quý này, vì làm gì có người tù nào được dùng dao cạo râu, toàn dùng nhíp nhổ thôi. Tôi chợt nhớ có hôm Tr T bảo tôi: "Ông Quận ạ, râu ông tốt quá rồi, ông nhổ râu đi". Nói xong ông đưa tôi cái nhíp nhổ râu. Tôi cám ơn và từ chối với lý do tôi toàn cạo râu, nay nhổ râu thì đau lắm. Thôi ở trong tù tập để râu luôn. Chẳng hiểu Tr T bằng con đường nào kiếm cho tôi lưỡi dao cạo này. Tr T còn cẩn thận hỏi: "Ông có biết cạo không có cán dao không?" ở hoàn cảnh này không biết thì cũng phải biết, tôi lùa ngón tay giữa vào khe lưỡi dao và phải loay hoay mất 15 phút tôi mới làm vệ sinh xong bộ râu. Trưa hôm nay cả ba người đều không ngủ, vừa nằm vừa chuyện vãn, Tr T và M cho tôi địa chỉ gia đình và sau này khi ra tù tôi đã đến thăm gia đình hai người và gửi chút quà.
Khi tiếng mở khoá các buồng giam vang lên, tôi đang gấp gọn chăn màn thì đại uý Ph xuống báo thu xếp quần áo tư trang rồi lên phòng quản giáo. Tôi lật đật thu xếp nhưng có gì đâu mà thu xếp. Tôi cởi bộ xu-vết-tơ-măng, lột cái áo may ô tut nốt cái quần đùi, bộ xu-vết-tơ-măng nghĩa là "tú nuy" rồi mặc lại cái áo sơ mi, cái quần âu. Còn để lại tất: Cái chăn len và cái màn tuyn mới, một bộ quần áo thay đổi, bộ quần áo lót, hai đôi tất, nghĩa là bỏ lại tất (sở dĩ tôi kể hơi tỉ mỉ là vì giữa thời buổi thừa mứa quần áo ở ngoài đời thì trong tù vẫn còn nhiều người không có quần đùi, áo lót). Riêng cái ba lô vì một lý do không thể nói được trong hồi ký này tôi nói với M la tôi mượn phải đem về trả. Sau này tôi nhờ vợ anh gửi vào tặng anh cái ba lô to hơn và mới. Chuẩn bị xong, tôi ôm lấy M rồi ôm chầm lấy Tr T khóc nức nở, khóc cho nỗi tủi nhục của tuổi xế chiều. Phút bịn rịn chia tay kẻ ở, người ra lòng thương cảm làm tôi quên hẳn nỗi sung sướng của chính tôi. Khi lên phòng quản giáo, đại uý Ph đã pha trà sẵn mời tôi. Anh chúc tôi trở về mạnh khoẻ. Còn tôi chúc anh hạnh phúc và đầy lòng nhân đức.
Khi lên phòng trực, họ lại khám ba lô, một cái ba lô rỗng không. Lần này tôi không bị khám người. Trung tá VL đưa tôi vào phòng hỏi cung ngồi chờ Ban giám đốc CA xuống tận trại giam đọc lệnh trả tự do cho tôi. Ngồi chờ chừng 10 phút thì tôi được đưa lên phòng họp ở tầng hai. Đến nơi tôi thấy có ông Phó GĐ Sở CA, thượng tá L, trưởng phòng điều tra xét hỏi, trung tá K, trưởng phòng PA25 và khoảng 7, 8 thiếu, trung tá khác cùng nhân viên kỹ thuật camera. Tôi không biết gọi buổi tiếp xúc ây là buổi tiếp xúc gì, sau mấy câu mở đầu của ông Phó GĐ CA, đó là ông Th một người trông còn rất trẻ, dáng dấp một sinh viên, một doanh nghiệp trẻ hơn là một người đang mang trọng trách của một cơ quan chuyên chính. Ông cho phép tôi tự do phát biểu với thời gian làm việc khoảng 1 tiếng.
Tôi phát biểu không dài, khoảng 10 phút. Tôi khẳng định tôi hoàn toàn không có tội nếu chiểu theo hiến pháp và luật pháp của nước CHXHCNVN, những điều tôi viết là những suy nghĩ những kiến nghị của tôi gửi lên Đảng, lên nhà nước. Tôi chả có điều gì phải chống Đảng, chống nhà nước cả nên những việc làm của tôi không thể ghép vào tội chống Đảng, chống Nhà nước.
Còn về phía ông Phó giám đốc phát biểu, ông nói những việc làm vừa qua của tôi là chống Đảng, chống Nhà nước. Căn cứ vào luật pháp tôi phạm các tội: Tàng trữ, tán phát những tài liệu xấu, chống Đảng, chống nhà nước. Chiếm giữ tài liệu bí mật quốc gia và vi phạm luật xuất bản phải đem truy tố trước toà án, trước pháp luật. Nhưng vì nhân thân chưa có tiền án, tiền sự, bản thân có một số đóng góp vào công cuộc cách mạng của đất nước, nên xét chưa đến mức đưa ra xét xử. Do vậy với "sự khoan hồng" của đảng, của nhà nước nên ông tuyên bố trả tự do cho tôi.
Tôi cũng đã lường trước được những gì ông sẽ nói nên khi ông hỏi tôi có cần phát biểu gì nữa không thì tôi hiểu đây đâu có phải là lúc tranh luận nên tôi xin cảm ơn.
Trái lại với hôm bị bắt, quang cảnh đông đúc CA ở xung quanh tôi trong phòng không hề có cảm giác căng thẳng, một không khí "có vẻ" vui bình thường như một cuộc họp cơ quan. Cam phận là một người tù, tôi không nghĩ tới việc bắt tay, nhưng khi ra về các anh đã vui vẻ bắt tay tôi.
Một chiếc U-oát chờ dưới sân và chở tôi về số 14 Lê Quýnh. Tôi lại được dẫn vào một phòng họp ở tầng 2, ở đó tôi thấy ngoài số cán bộ CA của phòng điều tra xét hỏi còn có mặt vợ tôi, phó chủ tịch UBND, thiếu tá phó trưởng CA phường đại uý hộ tịch viên phường Cầu Tre. Thiếu tá VNC lên tuyên bố lý do trả tự do cho tôi với nội dung luận tội tôi giống như ông phó giám đốc CA đã nói cách đây gần một tiếng. Lại một lần nữa được các anh vui vẻ bắt tay ra về. Thủ tục cuối cùng là tôi phải ký vào 3 tờ lệnh trả tự do cho tôi. Sau khi ký xong tôi đề nghị được giữ một tờ để mang về với lý do "trình" địa phương và giữ làm kỷ niệm, nhưng VNC khéo léo từ chối với giọng nói vui: "Thôi bác giữ làm gì cái của nợ này. Tôi phải gửi đi lưu ở 3 nơi bác ạ".
Con gái tôi đi xe máy đón tôi ở cổng. Thây tôi cháu khóc vì sung sướng. Cháu chở tôi về nhà ông anh rể vợ tôi ở ngã Năm chứ không chở thẳng về nhà. Mấy phút sau tôi được ông anh rể cho biết: Thím ấy sợ về bây giờ còn sớm, bà con xóm làng cười cho. Đợi tối thím ây thuê taxi lên đón chú về. Trời ơi. Tôi phải và tự hào ngẩng cao đầu mà nhìn đời chứ, sao vợ tôi lại sợ vớ vẩn thế này. Nói vội một câu với ông anh rể, tôi ra thuê xe ôm về ngay nhà. Lúc đó là 5 giờ chiều.
Khi về đến nhà, hàng xóm kéo đến đầy nhà. Cô hàng xóm bán bia đầu xóm to béo vừa cười mà nước mắt ràn rụa ôm tôi xốc bổng lên và nói: "Xem bác vào tù mà sút bao cân nào?". Mọi người cười ồ vui vẻ. Một lát sau một bà cụ già ở sâu trong xóm 82 tuổi lò dò chống gậy ra chia vui với tôi và bà nói: "Ôi dào, hôm nghe tin em bị bắt, chị nghĩ thương ứa nước mắt".
Có lẽ không cần phải tả thêm nỗi sung sướng của vợ tôi và ba cô con gái sau 10 đêm tôi bị giam giữ là 10 đêm nước mắt. Số nước mắt này cộng lại sức nặng của nó nặng gấp trăm lần nước mắt của mẹ tôi, của vợ tôi khóc thương cho số phận của tôi trong chiến tranh giữ nước.
Những ngay tiếp sau bạn bè, hàng xóm tiếp tục đến chia vui "tai qua nạn khỏi". Các bác trong chi bộ cũ, trong CCB nơi sinh hoạt cũ của tôi lần lượt đến thăm. Đồng đội trong trung đoàn Cờ Đỏ anh hùng cũ của tôi đến động viên, an ủi. Có 2 vị lão thành cách mạng từ HN đến tận nhà thăm hỏi. Và tôi còn nhận được nhiều cuộc điện thoại từ Đăk Lăk, tây Nguyên, Thái Bình, Hà nội và các bạn ở ngay Hải Phòng mà tôi chưa có dịp quen biết cũng gọi điện đến chia vui, thăm hỏi. Cũng hơi đặc biệt là có một dòng thơ trích của một bạn vô danh gửi đến vẻn vẹn có mấy dòng. Trích đoạn thơ tặng Hăng- Ri- Mác-Tanh, chiến sĩ hoà bình Pháp:
HĂNG RI MÁC TANH
"Chúng nó giam không cho anh nói.
Nhưng giam sao được ánh mặt trời chói lọi.
Nhưng giam sao được cả cuộc đời
".
Có lẽ anh động viên tôi "hơi quá" vì thân phận tôi chỉ là hạt bụi của cuộc đời này. Rồi cũng mấy dòng ngắn nguỉ của một nhạc sĩ ở HN: "Chị Lan ơi, nói hộ thằng em là em thương anh Quận lắm lắm lắm!". Tôi đội ơn anh "cái thằng em" ấy cũng đã 65 tuổi rồi.
Ba ngày sau khi tôi ra tù tức là ngày 7-5-2001 một đoàn từ HN đi ô tô xuống thăm tôi gồm: CCB Trần Dũng Tiến (trưởng đoàn), Đại tá Nguyễn Hữu ích, nguyên tư lệnh Phòng không. Đại tá Thế Kỷ, Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang và CCB Nguyễn Sắc nguyên Phó Tổng GĐ liên hiệp Dệt 8-3 với 19 Huân chương lấp lánh trên ngực. Qua cuộc tiếp xúc này tôi được biết đôi điều về việc CA Hải Phòng bắt tôi, những diễn biến xẩy ra trong những ngày tôi bị giam giữ.
Việc ra lệnh bắt tôi là do CA HP. Đó là một điều hết sức thường tình như vãn bắt các kẻ phạm tội khác. Nhưng hình như CA HP chủ quan quên một điều là đằng sau tôi là các bạn tôi, là một nhà nước pháp quyền sống làm việc theo hiến pháp và pháp luật và đằng sau nữa là nước ta đã ký vào bản công ước quốc tế về các quyền Dân sự và chính trị (Convention internationale des droits civils et politiques) ngày 24-9-1982 thì dù một chính quyền dù lộng quyền đến đâu cũng phải e sợ dư luận nhân dân nước mình và dư luận quốc tế chứ. Hơn hai trăm năm trước đây, Nguyễn Du đã để lại cho hậu thế những vần thơ lục bát vẫn còn nguyên vẹn tính thời sự:
"Nghĩ mình phương diện quốc gia
Quan trên nhắm xuống, người ta trông vào...
"
Cái câu "lộng ngôn" của Lê nin cách đây gần trăm năm không thể dùng được nữa rồi: "Chính quyền vô sản là chính quyền không bị luật pháp nào hạn chế cả". (Lênin toàn tập - Nhà xuất bản Tiến bộ - tập 37 - trang 297).
Tôi bị bắt chiều 24-4-2001 tức là 2 ngày sau khi Đại hội lần thứ IX của ĐCSVN bế mạc với câu tổng kết chiến lược nổi tiếng của Tân tổng bí thư Nông Đức Manh: "Trí tuệ - Đoàn kết - Dân chủ - Công bằng - Văn minh" còn nóng hổi. Lập tức, Trần Dũng Tiến, người trực tiếp chiến đấu bảo về Bác Hồ từ những ngày đầu CM tháng 8 cũng là người đầu tiên viết bài phản ứng rất quyết liệt về việc bắt giữ tôi trái phép với đầu đề: "CHẲNG LẼ LẠI KHỞI SỰ BẰNG ĐÀN ÁP Ư?" gửi tới TBT Nông Đức Mạnh, chủ tich nước Trần Đức Lương, QH, Thủ tướng Phan Văn Khải, bí thư Hải Phòng Tô Huy Rứa và các cơ quan thông tin đại chúng. Trong đó có một số đoạn ông nêu: Khi nghe tin Vũ cao Quận bị bắt, Nguyễn Thanh Giang đã nghẹn ngào thốt lên: Thật là đảo điên, tàn bạo hết chỗ nói. Sao không làm vào một lúc nào khác, hoặc sớm hơn hoặc muộn hơn mà nhằm ngay lúc TBT mới vừa đăng quang để gây náo loạn thế này. Hoặc tôi cũng mong ông Bí thư thành uỷ Hải Phòng Tô Huy Rứa... hãy ra lệnh tha ngay Vũ Cao Quận.
Cũng vì bài viết phản đối quyết liệt về việc bắt giữ tôi mà ngay ngày 26-4-2001 các đài BBC, Hoa Kỳ, RFI và Châu á Tự do... đưa tin về dự luận thế giới phản ứng về việc bắt giữ vô cớ CCB Vũ Cao Quận. Tiếp theo đó các tổ chức nhân quyền thế giới lên tiếng chất vấn và phản đối việc bắt giữ CCB Vũ Cao Quận gửi đến Chính phủ VN. Không thể im lặng trước sự bất bình của dư luận thế giới, chính phủ ta phải đưa bà Phan Thuý Thanh người phát ngôn viên của Bộ ngoại giao nước CHXHCNVN ra "đỡ đạn" và chối tội là tin về việc bắt giữ ông Vũ Cao Quận là vu cáo với ý đồ xấu vì việc bặt ông Vũ Cao Quận là hoàn toàn không có!!!
Thưa bà Phan Thuý Thanh đáng kính. Tôi với bà không hề có oán thù gì, tôi chắc là bà cũng không định vu khống tôi và tôi cũng không có lý do gì để vu khống bà. Ở thân phận một con chim mồi, ở cái thế bà không thể không nói, nhưng việc tôi bị bắt bỏ tù là có thật 100%. Tôi có thể thông cảm với bà, nhưng với cương vị là người phát ngôn của BNG và cũng là ngưòi đại diện quốc gia trên chính trường bà cũng cần biết cái gì mình nên làm và cái gì vì còn chút tự trọng ít ỏi của bà, xin bà đừng làm.
Xin nói tiếp về đoàn HN xuống thăm tôi, Ngoài việc các bác đem lại nguồn an ủi tinh thần vô cùng quý giá với gia đình tôi, các bác Trần Độ, Hoàng Minh Chính, Lê Hồng Hà, Phạm Quế Dương và Nguyễn Thanh Giang gửi tặng một số tiền 1.000.000đ. Lương y Nguyễn Đắc Kính tặng 10 thang thuốc bổ tự tay mình cắt thuốc. Mấy ngày sau tôi tiếp tục nhận được một số tiền của những người chưa từng được biết như: Bác Kim, một vị lão thành CM gửi tặng 200.000đ, bác Thanh (bác có đề là một người yêu những người dân chủ) gửi tặng 50.000đ. Và đặc biệt là một món tiền gửi tặng 300.000đ của cháu sinh vên PXH ở trường ĐH Tổng hợp HN làm tôi xúc động và băn khoăn, vì các cháu sinh viên nào có giàu có gì. Cháu là ai vậy? Cháu đang ở nơi đâu? Trung tá về hưu PNG ở Hải Phòng tặng 300.000đ.
Rồi tiếp những ngày sau, tôi nhận được bài viết 5 trang của một cử nhân luật rất trẻ Lê Chí Quang với đầu đề: "CÂY PHƯỢNG VĨ NỞ HOA TRÁI MÙA" (thư gửi một chiến sĩ cách mạng mà tôi chưa được gặp mặt) có đoạn: "Trong cả thanh phố Phượng đỏ này, tôi đang lưu ý đến một cây phượng già khẳng khiu. Cây phượng đã gần 70 tuổi, trải qua bao phong ba bão táp, sóng gió của cuộc đời mà vẫn vươn lên thẳng thắn..." hoặc: "Tôi đã nghe nhiều người nhắc đến tên ông, tôi cũng đã đọc những bài viết của ông... Cây phượng vĩ Vũ Cao Quận mãi mãi thăm đỏ cùng nước non... Nghe tin ông bị bắt hôm cuối tháng tư vừa rồi, chúng tôi không thể không bàng hoàng, xót xa cho thân phận của ông...". Với bài: "THỔN THỨC VŨ CAO QUẬN" (nhân đọc tập sách "Gửi Lại Trước Khi Về Cõi") của Viện sĩ - Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang. 15 trang trích dẫn cuốn sách của tôi, có đoạn: "Vậy mà trái tim Vũ Cao Quận cứ từ bi, bác ái quá. Ông không hờn trách, không giẫn dữ thét gào mà ngay trong song sắt xà lim vẫn thầm thì hát lên: "Tôi yêu cuộc đời này”. (Đây là đầu đề tên một bài thơ tôi làm trong 9 ngày bị giam giữ). Một lần nữa với bài: "VŨ CAO QUẬN ĐƯỢC TRẢ TỰ DO, MỘT BIỂU HIỆN ĐỔI MỚI TÍCH CỰC" của CCB Trần Dũng Tiến để chào mừng thời ký đổi mới Nông Đức Mạnh. Trong bài "TẠI SAO NGHỊCH CẢNH CHÍNH TRỊ CỨ TIẾP TỤC TÁI DIỄN" của các cụ lão thành CM trung ương và HN có đoạn: "Ngay cả ông Cao Quận... thì các nhà lãnh đạo của ngành CA tìm cách làm khó dễ... hành hạ tới số..."
Bài của Đại tá nhà báo, nhà văn Nguyễn Trần Thiết gửi TBT Nông Đức Mạnh có đoan: Xin anh đừng để ấn tượng tốt, rất tốt về tân TBT gắn liền với đàn áp, giam giữ (như trường hợp với đ/c Vũ Cao Quận)...
Bài viết "KHÔNG NÊN ĐƯA DÙI CUI, ROI ĐIỆN VÀO MẶT TRẬN ĐẤU TRANH TƯ TƯỞNG VÀ LÝ LUẬN" của đại tá Trần Nhật Độ, 55 tuôi Đảng, nguyên chính uỷ Binh chủng Đặc công có đoạn: Vụ bắt Vũ Cao Quận ngày 24-4, hai ngày sau khi kết thúc ĐH 9 của Đảng vừa mới xác định ĐH: Trí tuệ - dân chủ - đổi mới - đoàn kết có 4 điều đáng nói: Bắt với cái cơ không đáng gì lại không có lệnh, khám nhà không có lệnh và không có đương sự tại nhà... Người phát ngôn BNG khi trả lời các đài phương tây lại phủ nhận không có sự việc ấy... Nói dối một lần, sau họ không tin vào tính trung thực của một người phát ngôn...
Bài viết gửi Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh của nhà lão thành cách mạng Trần Đại Sơn 54 tuổi Đảng có đoạn viết: Bắt anh Vũ Cao Quận một CCB kỳ cựu, một đảng viên kiên cường đấu tranh bị chúng khai trừ ở Hải Phòng... xin hỏi đồng chí Bí thư Thành ủy Tô Huy Rứa có chỉ đạo việc này không?... Bắt và tha anh Vũ Cao Quận lợi hay hại gì cho cách mạng?
Sau những bài viết, những lá thư động viên, an ủi, bênh vực cho cái phận "mỏng cánh chuồn" của tôi là những cuộc thăm viếng của các bạn già có trẻ có phần nhiều tôi chưa được quen biết như anh em bác Kh, nguyên cán bộ của Tổng cục Chính trị, bác VMN lão thành CM, của một giám đốc tư nhân trẻ PHS và anh có nhã ý thuê một phòng khách sạn thành phố để được nói chuyện tâm tư suốt một đêm chỉ để bày tỏ tấm lòng tâm đắc sau khi được đọc "Gửi lại trước khi về cõi" của tôi. Nhân đây cũng coi như là một đôi lời gửi tới ông Phan Khắc Hải, thứ trưởng Bộ Thông tin văn hoá ra lệnh cấm lưu hành và thu hồi tác phẩm "Gửi lại trước khi về cõi" của tôi. Khi đã là chân lý thì không che chắn nổi đâu. Dù khiêm tốn đến mấy, tôi cũng dám đem sinh mệnh của tôi để bảo đảm, để khẳng định những suy ngẫm về cuộc đời này, cái cuộc đời tôi và ông cũng chung sống nhưng "đồng sàng dị mộng" vậy.
Với hơn 10.000đ trong túi, người CCB thương binh NHT từ một làng quê nghèo thuộc huyện Thanh Liêm - Hà Nam lặn lội với cái tuổi 75 dưới trời lạnh giá ra tận HP để được biết mặt Vũ Cao Quận sau khi được đọc "Gửi lại trước khi về cõi" và cầm theo một lá thư của VCK một CCB 56 tuổi đang trên giường với bệnh chứng nan y mà cái chết ngày đêm đang rình rập đã viết: Anh Quận ơi, em cũng họ Vũ với anh, nhưng em may mắm được biết anh sau khi em đọc "Gửi lại trước khi về cõi". Thế là em giải toả được những vướng mắc về chủ nghĩa Mac trong suốt hơn 30 năm qua và hiểu tường tận "chân tướng" qua cách viết nôm na dễ hiểu của anh... Em muốn ra thăm anh quá mà không thể...
Một lá thư của một nhạc sĩ Hà Nội ĐQT viết: Tôi đã đọc những bài viết của anh, chắc anh cũng chưa già lắm. Thôi anh cứ coi em như thằng em trai anh đi. Đọc bài viết của anh thú vị lắm với bao điều em tâm đắc. Mong được đón anh ở HN để được biết anh... (hoá ra ông em nhạc sĩ này cũng 65 cái lá vàng rơi rồi).
Một lá thư của vị lão thành Ng. Th. L ở phố Cầu Gỗ - HN viết: Tôi được biết ông qua tác phẩm "Gửi lại trước khi về cõi", ông Quận ạ. Tôi đã ở cái tuổi 92 mùa thu, tôi đã đọc nhiều sách, nhưng lần đầu tiên tôi được đọc một cuốn sách hay (có thể vì xã giao bác L khen hơi quá nhưng bác viết vậy tôi chép nguyên văn).
Nhà báo lão thành CL là bậc thầy của tôi, qua tác phẩm của tôi khi chưa được biết ông, ông cũng gửi lời tâm đắc. Và cách đây chừng một tuần, tôi có nhận được một cú phôn của một người bạn được gặp cách đây 2 năm mà đã đem lòng quý mến: có phải ông Vũ Cao Quận ở HP đây không?. Với giọng vui vẻ, hồ hởi và ngôn ngữ rất lính tráng ông nói: Tôi là đại tá ĐT đây, tôi vừa lĩnh huy hiệu 50 năm tuổi đảng và 300.000đ kèm theo. Nhưng từ nay nên gọi tôi là "cư sĩ" ĐT vì tôi từ giã Mác LêNin để nghiên cứu về Thiền. Ông hãy ghé sát tai vào máy ông có nghe thấy tiếng gì không? Hơi lạ lùng và làm theo lời ông, tôi nói: Tôi có nghe tiếng loạt soạt trong máy như tiếng giở sách. Ông nói: Đấy là tiếng tôi giờ cuốn "Gửi lại trước khi về cõi" của ông, tôi mới được đọc mấy hôm nay. Vũ Cao Quận thật tuyệt vời, càng đọc càng thấy hay. Hiện nay tôi có một tiểu đội Đại tá cùng Sư 308 cả, đều đọc cả rồi. Với bọn trẻ thì tôi chưa thật rõ, nhưng lớp già tuổi tôi thì cả HN đều xem rồi. Vũ Cao Quận hay lắm... Rồi ông phàn nàn cuốn sách đến tay ông bị qua photo quá nhiều lần nên mờ, hơi khó xem, ông mong có một cuốn nguyên bản.
Thưa ông thứ trưởng: Tôi không phải là kẻ hãnh tiến, mèo khen mèo dài đuôi nhưng ông là người có quyền lực, ông có dám chơi trò "quân tử Tàu" không? Đối thoại, tranh luận công khai đàng hoàng để nếu nhân dân kết luận tôi đáng bị "dựa cột" tôi rất sẵn sàng. Tôi chỉ dám giới thiệu bạn đọc trong nước để ông nghe, chứ kể những cú phôn từ Mỹ, từ Pháp gọi về tâm đắc, tán thưởng... thì ông lại vu cho là kẻ địch, một luận điệu rẻ tiền và cũ mèm. Cả một bộ máy tuyên truyền khổng lồ nằm trong tay, các ông luôn luôn chơi cái trò thiếu "minh bạch" để thế giới chê cười, còn nhân dân VN thì quá hiểu rồi. Con hồ ly tinh tu luyện hàng ngàn năm khi biến thành ngưòi vẫn không dấu nổi cái đuôi, huống chi các ông mới chỉ có mấy chục năm. Cuộc đời có nhân, có quả đã thấy nhỡn tiền rồi. Tạm biệt ông để tôi trở về với "Chín ngày trong một đời người" của tôi.
Tôi cũng xin xá lỗi trước hương hồn các "sư phụ về tù đầy" như: Thiếu tướng Đặng Kim Giang, vụ trưởng Vũ Đình Huỳnh ngưòi bí thư đầu tiên của Bác Hồ, Vũ Huy Cương nhà báo... và các bậc "bị tù nhưng chưa chết" đang sống nốt những ngày cuối cùng của đời mình như: Hoàng Minh Chính, Trần Thư, Vũ Thư Hiên, Bùi Ngọc Tấn, Phùng Văn Mĩ.... cùng bao nhà lãnh đạo chính trị, nhà khoa học, nhà báo, nhà văn, cán bộ cao cấp quân đội từng bị tù đày... đừng bĩu môi trách mắng tôi: cái thằng Vũ Cao Quận vô danh tiểu tốt mới tù có 9 ngày mà đã "nhắng" lên...
Vâng, mới chỉ có 9 ngày trong một đời người cũng đủ mang nỗi đau này xuống đến "tuyền đài chưa tan". Tôi xin "ăn theo" câu thét gọi nổi tiếng thế gới đau khổ của Ju-Li-út Phuxích bằng câu nói của mình:
"HỠI NHÂN DÂN, TÔI YÊU QUÝ NGƯỜI, HÃY CẢNH GIÁC".