Hồi 47
Trương Lương bày kế giúp Thái tử
Như ý được phong làm Triệu vương

Tả hữu thấy Hán đế bi ác khí xông váo mặt, ngã xỉu xuống đất, liền xúm lại đỡ dậy đưa vào nội cung, tìm ngự y điều trị.
Qua mấy ngày nằm liệt trên giường, Hán đế không nói năng gì cả. Các tướng vào vấn an, đem lòng lo lắng.
May thay! Chỉ độ mười ngày Hán đế lần lẫn tỉnh lại rồi bình phục.
Một hôm, Hán đế lâm triều, đòi Ngô Thành vào, ban thưởng rất hậu, và phong chức Trung Nghị hầu, lại viết chiếu khuyên Ngô Nhuế dụng tâm gìn gìn đất Giang Hạ, phong con Lưu Trọng là Lưu Hán làm Ngô vương, cho trấn thủ đất Giang Ðông.
Qua một thời gian, Hán đế lại đi tuần du khắp nơi, để vỗ về dân chúng. Khi đến nước Lỗ thấy có đền thờ đức Khổng tử ở làng Khuyết Lý, Hán đế bèn thân xuất trăm quan đến đó làm lễ tế, rồi phong cho con cháu họ Khổng làm quan cả.
Xong việc ấy, Hán đế lại trở về Phong Bái, đặt tiệc rượu ở Bái cung, cho mời tất cả bô lão trong vùng và các trẻ con nơi đó đến dự.
Tiệc rượu linh đình suốt mấy ngày đêm không ngớt tiếng đàn, tiếng hát.
Hán đế tự mình đặt ra một bài hát, dạy bọn trẻ con hát như sau:
Gió lộng trời cao thẳm
Rồng vườn mây cùng bay!
Giang sơn này! Sự nghiệp này!
Phong lưu cho bõ những ngày lao lung
Bọn trẻ hát vang trời. Hán đế bất giác cảm động, ứa nước mắt nói với các bô lão:
- Kẻ du tử này nghĩ đến cố hương không khỏi động lòng bi cảm. Như ta, lúc còn bé, ngày ngày cùng các người hàng xóm gần gũi chuyện trò, tình quyến luyến thực không nỡ dứt. Ðến sau, Khởi binh ở Phong Bái, ngược xuôi trong trường chinh chiến, sống chết như cánh lông hồng, trải bao nguy nan, nay mới gầy nên sự nghiệp. Và ngày nay, ta đã trở nên người có tuổi tác, mà các ông thì cũng đã đầu bạc răng long. Nghĩ lại việc xưa, tình cảm biết mấy. Ta đây, tuy trong cảnh phú quý, song lúc muôn tuổi vong hồn sẽ về nơi quyến luyến với đất Phong Bái.
Nói xong, lấy huyện Bái làm ấp Thang Mộc, miễn cả các sắc thuế trong vùng.
Dân chúng reo vui, các bô lão cả ngày đến chầu chực rộn rịp.
Hán đế thấy thế sợ làm phiền nhiễu mọi người, tỏ ý trở về Tràng An. Các bô lão cố nài, xin vua ở nán lại cho thỏa tình hoài vọng.
Hán đế nói:
- Trẫm về đây binh mã quá nhiều, huyện Bái chỉ là một ấp nhỏ, làm sao cung cấp nổi! Nếu ở lâu sanh điều phiền toái.
Hán đế chỉ ở lại thêm mấy ngày nữa rồi truyền lệnh xa giá trở về Lạc Dương.
Lã hậu, Thái tử, Thích Cơ, Như Ý và văn võ bá quan đều ra ngoài thành nghênh tiếp.
Hán đế truyền mở tiệc ăn mừng, khao thưởng tướng sĩ.
Từ đó, thiên hạ thái bình thịnh tri, lớn nhỏ lạc nghiệp âu ca.
Hán đế có lòng yêu thứ hậu Thích Cơ, nên Lã hậu đem lòng ghen tức nhiều lần tìm cách gây sự với Thích Cơ. Nhưng Thích CƠ vẫn một mực nhẫn nhục.
Một hôm Hán đế yếu mình, Thích Cơ nhân vào cung chầu chực, tâu với Hán đế:
- Bệ hạ xuân thu đã cao, nếu thánh ý không quyết định thế nào e mẹ con thần thiếp sau này phải bị tận diệt.
Hán đế nói:
- Việc đó rất dễ. Thỉnh thoảng rồi trẫm sẽ tính.
Một hôm, Hán đế ngự sang Tây cung, cùng Thích Cơ uống rượu. Lúc say, Hán đế gối đầu vào đùi Thích Cơ ngủ thiếp. Lã hậu cho người do thám, biết được liền thân hành đến Tây cung.
Kẻ hầu cận vội vào báo với Thích Cơ, nhưng Thích Cơ bị Hán đế gối đầu trên vế, không biết làm cách nào để ra tiếp đón Lã hậu được.
Lã hậu xông vào, chỉ mặt Thích Cơ mắng:
- Con tiện tỳ, mày mỗi khi gặp ta thường tỏ ra vô lễ. Nay ta đến cung mày, mày không đứng dậy, phỏng có còn ra thể thống gì nữa.
Thích Cơ thưa:
- Tiện thiếp hay Chánh hậu đến, song Chúa thượng đang an giấc, không dám kinh động, có đâu lại dám thất lễ.
Lã hậu nói:
- Mỗi việc mày đều đưa Chúa thượng ra để che chở.
Sau này lúc Chúa thượng trăm tuổi ta xem thử lấy ai che chở mày.
Nói rồi bỏ ra ngoài. Thích Cơ ngồi lặng hồi lâu, nước mắt ràn rụa rơi vào mặt rồng.
Hán đế chực thức dậy, thấy Thích Cơ đang khóc liền hỏi:
- Ái khanh có việc gì mà khóc thế?
Thích Cơ thưa:
- Vừa rồi Bệ hạ nằm ngủ say trên vế thiếp, chợt Chánh hậu từ ngoài vào, thiếp sợ giấc rồng bị động, chẳng dám đứng dậy ra tiếp đón. Chánh hậu vào đây quát mắng, buông lời hăm dọa, thần thiếp tủi phận mà khóc.
Dứt lời Thích Cơ quỳ móp xuống đất, cơn buồn đang tràn trên nét sóng thu, khiến Hán đế lòng bối rối, cảm động đưa tay kéo áo, vỗ về:
- Ái khanh cứ an lòng. Trẫm sẽ tìm cách bảo vệ cho mẹ con ái khanh. Ngày mai vào triều, trẫm sẽ bàn với quần thần, đổi ngôi Thái tử, thử xem Lã hậu từ nay còn đám bạc đãi ái khanh nữa chăng?
Thích Cơ dập đầu lạy tạ. ngày hôm sau, vua lâm triều bá quan ứng hầu đủ mặt, Hán đế viết chiếu ban cho quần thần truyền bàn việc đổi Thái tử sao cho hợp với công luận, không được câu nệ theo ý riêng của mình.
Các quan tuân lệnh, đem việc đó đến phủ Thừa Tướng bàn bạc.
Lã hậu hay được, vội gọi Lã Trạch vào nói:
- Hoàng thượng vì yêu mến Thích Cơ, chẳng nghĩ đến phải trái, mấy lần triệu tập quần thần bàn việc đổi ngôi Thái tử. Nhà ngươi có kế chi giúp ta chăng?
Lã Trạch nói:
- Hạ thần kiến thức thức hẹp hòi, không đủ để mưu việc lớn. Xin Hoàng hậu mật sai người đến hỏi Trương Tử Phòng may ra có kế hay.
Lã hậu nói:
- Tử Phòng nay đã tịch cốc tu hành còn muốn tham dự gì đến việc nước?
Lã Trạch nói:
- Hạ thần vẫn quen biết với con Tử Phòng là Tích Cường, vậy nhờ hắn khéo nói với Tử Phòng, ắt Tử Phòng không nở từ chối.
Lã hậu liền sai Lã Trạch và Tử Cường đến yết kiến Trương Lương.
Trương Lương từ chối không tỏ ý.
Lã Trạch nói:
- Tôi vâng mệnh Hoàng hậu tới đây vấn kế, nếu Tôn công không chỉ dạy, tôi biết về tâu với Hoàng hậu làm sao. Thôi thà tôi liều chết ở đây chứ quyết không ra khỏi cửa này.
Trương Lương nói:
- Việc ấy không phải tôi không muốn nói. Chỉ sợ nói ra không tiện mà thôi.
Lã Trạch nói:
- Lời Tôn công nói ra chỉ lọt vào tai tôi, có gì mà không tiện?
Trương Lương suy nghĩ một lúc rối ghé vào tai Lã Trạch nói nhỏ:
- Ngày thường, Bệ hạ vẫn nghe tiếng bốn hiền sĩ ẩn trong núi Thương Sơn. Núi này hiểm trở lắm, bốn người ấy chỉ ăn cỏ chi, uống nước suối mà sống thảnh thơi. Bệ hạ đã nhiều lần vời về triều, nhưng họ nhất định không ra. Bệ hạ lại có ý muốn trừ họ đi, song sợ thiên hạ chê bai, tàm cho kẻ hiền sĩ bốn phương không dám tìm đến triều phục. Vì vậy mà Bệ hạ đành chịu vậy. Nay Chánh hậu nên chọn một người ăn nói giỏi, dùng lễ vật mời họ về triều can ngăn. Lời nói của bốn người ấy có sức mạnh hơn trăm vạn binh hùng, ngôi Thái tử sẽ không mất.
Lã Trạch nói:
- Xin Công tôn cho biết tên bốn người hiền sĩ đó.
Trương Lương nói:
- Bốn người đó có một người họ Ðường tên Tuyên Minh, quê ở Ðông viên, hiệu là Ðông Viên Công Một người họ Y tên Lý Quý, quê ở hàm Ðan, trước ẩn ở Thương Nam. sau cùng Ðông Viên kết bạn. Một người họ Thôi, tên Hoàng, tự là Thiếu Thông, quê ở nước Tề, ẩn ở Hạ Hoàng, niên hiệu là Hạ Hoàng Công. Một người họ Chu tên Thuật, tự là Nguyên Ðạo, người ở Hà Nội, hiệu là Giốc Lý Tiên sinh.
Lã Trạch liền trở về cung tâu lại với Lã hậu.
Lã hậu sai nội sứ sắm sửa vàng rồng, bạc nén, cùng đem theo bốn con ngựa tốt đến Thương Sơn tìm yết kiến bốn nhà ẩn sĩ.
Lúc ấy, bốn ông già vừa đi hái rau chi về, thấy sứ giả đem lễ vật đến quỳ móp bên chân núi, liền hỏi:
- Quý ngài có việc gì đến đây lại thủ lễ với chúng tôi dường ấy?
Sứ giả nói:
- Hoàng Thái tử ngày nay là người nhân hiền, lâu nay vẫn ngưỡng mộ danh các ngài, vì vậy sai chúng tôi đến đây rước bốn ngài về triều giúp đỡ, và dạy bảo Thái tử để thành cái nghiệp thái bình thịnh trì.
Bốn vị ẩn sĩ ban đầu từ chối nhưng sau cùng sứ giả thành khẩn, quỳ mãi không đứng dậy, nên bằng lòng thu lễ vật, sắm sửa hành trang về Tràng An yết kiến Thái tử.
Lã hậu đặt tiệc khoản đãi bốn hiền sĩ rất long trọng.
Từ đó bốn người sớm tối cùng Thái tử bàn luận việc thiên hạ, một phút không rời.
Ngày kia Hán đế lâm triều, hỏi quần thần:
- Trẫm giao cho quần thần định việc lập ngôi cho Thái tử chẳng hay ý các khanh thế nào?
Thúc Tôn Thông và Chu Xương bước ra tâu:
- Xưa Tấn Hiếu Công vì say mê nàng Ly Cơ, bỏ Thế tử lập Hề Tề nên nước Tấn bị loạn mười năm. Nước Tần vì không sớm định ngôi Thái tử của Phù Tô khiến Triệu Cao được dịp trái lập họ Hồ mà nghiệp Tần phải mất. Ðó là những tấm gương Bệ hạ từng thấy rõ. Nay Thái tử là người nhân hiếu, thiên hạ đều biết tiếng cả. Bệ hạ lại bỏ con lớn, lập con thứ, sao cho khỏi thiên hạ dị nghị.
Hán đế nghe nói, vung tay áo, bỏ đứng dậy đi vào trong, định sang Tây cung, nhưng vừa đi đến tiền điện xảy gặp Thái tử từ điện Văn đức đến, có bốn ông già theo sau.
Hán đế ngạc nhiên hỏi:
- Bốn người kia từ đâu đến?
Bốn người phục xuống đất xưng rõ họ tên. Hán đế kinh ngạc, hỏi:
- Trẫm nghe danh các ngươi đã lâu, dùng hậu lễ đến rước cớ sao các ngươi không đến, nay lại theo con ta?
Bốn người nói:
- Bệ hạ vẫn có tánh hay khinh kẻ sĩ, vì vậy chúng tôi khiếp sợ xa lánh. Nay nghe Thái tử là người nhân hiếu, nguyện đem thân đến phò.
Hán đế nói:
- Phiền các ngươi cố gắng dạy bảo Thái tử.
Bốn ông già phục xuống lạy tạ, tướng mạo uy nghi, khí phách trang nhã. Hán đế đứng nhìn một lúc rồi mới dời chân.
Sang đến Tây cung, Thích Cơ ra rước vào, Hán đế thuật lại chuyện triều thần can ngăn không cho đổi ngôi Thái tử.
Thích Cơ nghe nói, bất giác rơi lệ. Hán đế an ủi:
- Ðể ta phong cho Như Ý đến một nơi đất tốt, làm căn bản lập nghiệp không còn lo gì nữa.
Thích Cơ nói:
- Tại sao hôm nay Bệ hạ đổi ý?
Hán đế nói:
- Thái tử vừa thu nạp được bốn kẻ sĩ có tài, như thế tức là vây cánh đã định. Vả lại Thái tử cũng là bậc nhân hiếu thiên hạ đều ngưỡng phục. Nếu thay đổi e sanh biến.
Thích Cơ dập đầu lạy tạ nói:
- Thần thiếp chỉ ước mong làm sao sống an thân là đủ rồi, có đâu dám cao vọng. Chẳng hay Bệ hạ định phong Như Ý nơi nào?
Hán đế nói:
- Vừa rồi ta đi tuần du ở Hàm Ðan, thấy phong thổ thuần hậu, nhân dân giàu mạnh, đó là nơi hiểm trở, trước có Yên Ðài ngăn cách, sau có Chương Hà bủiv>Hạng Vũ mừng rỡ, dẫn Anh Bố đến yết kiến Hạng Lương.
Hạng Lương tiếp đón niềm nở và nói:
- Muôn quân dễ kiếm, một tướng khó tìm. Ðược tướng quân cộng tác, chẳng khác nào như hùm thêm vây.
Nói xong truyền thống hợp binh mã, tiếp tục lên đường.
Một hôm, Hạng Lương bàn với chư tướng:
- Quân mạnh, tướng hùng là điều kiện tất yếu trong quân, song trí dũng lúc nào cũng phải đi đôi với nhau mới có lợi. Quân ta sức mạnh đủ đánh Tần, chỉ thiếu một người mưu sĩ.
Quý Bố nói:
- Tôi nghe thôn Cư Sào, hạt Hoài Dương có một người họ Phạm tên Tăng, tuồi đã bảy mươi mà mưu trí còn thừa, dẫu Tôn, Ngô ngày xưa cũng khó bì kịp. Nếu Minh Công muốn dùng, tôi xin đi rước.
Hạng Lương mừng rỡ, sai Quý Bố đem lễ vật đến mời Phạm Tăng.
Quý Bố đến Cư Sào tììm nhà trọ nghỉ ngơi, dò hỏi tông tích Phạm Tăng.
Người chủ trọ nói:
- Ông ấy tuy ở gần thành thị, song không thích cảnh phố phường, lâu nay mai danh ẩn tích, chẳng chịu tiếp kiến ai bao giờ.
Quý Bố nghĩ thầm:
- Nếu không được giáp mặt Phạm Tăng làm sao bày tỏ cạn lời.
Nghĩ rồi hỏi chủ trọ:
- Ông có biết nhà Phạm Tăng hiện ở đâu chăng?
Chủ trọ đáp:
- Cách đây ba dặm, nơi chân núi Kỳ Cổ có ngôi nhà lá đó là nhà Phạm Tăng.
Quý Bố nghĩ ra môt kế, sai đứa tùy tùng giả làm khách buôn đến nói với người nhà Phạm Tăng:
- Chúng tôi người xứ lạ, đến Cư Sào buôn bán, chẳng may gặp vận rủi, hàng hóa lỗ lã nghe đồn tiên sinh đây là bậc kỳ mưu, đến xin yết kiến để lãnh vài lời chỉ giáo.
Phạm Tăng nình nhật vốn thích việc bày mưu, lập kế, nghe người nhà nói có khách buôn từ phương xa lại, liền cho vào.
Quý Bố lập tức cùng với tên tùy tùng vào yết kiến.
Thấy Phạm Tăng tóc bạc da mồi, khăn nâu áo vải, mà khí tượng đường bệ, ra vẻ tiên phong, đạo cốt, vội vã cúi chào.
Phạm Tăng hỏi:
- Khách từ đâu đến? Nghề nghiệp gì?
Quý Bố lập tức dâng lễ vật, quỳ mọp xuống đất thưa:
- Tiện nhân không phải khách xa lạ, cũng chưa từng buôn bán ở Cư Sào, vì sợ không được yết kiến Tiên sinh nên mượn lời nói vậy. Nay vua Nhị Thế vô đạo, lòng dân oán vọng, hào kiệt nỗi lên chiếm đất giành dân, mưu đường tiến thủ. Hạng tướng quân tôi vốn dòng dõi Hạng Yên nước Sở, tài kiêm văn vũ, lòng sẵn hiếu trung, vừa phất cờ khởi nghĩa ở Cối Kê, muôn dân hưởng ứng. Trộm nghe Tiên sinh mưu trí, hơn người, Tôn, Ngô, không sánh kịp, nên sai tôi đem lễ vật đến dâng, nếu được Tiên sinh giúp sức thì việc đại nghĩa ắt thành, xin tiên sinh vì cảng lầm than của thiên hạ, ra cứu dân độ thế.
Pham Tăng bảo Quý Bố đứng dậy chỉ ghế mời ngồi và nói:
- Việc đồ vương định bá không thể quyết định trong chốc lát được. Túc hạ đã đến đây, xin tạm trú nơi tệ xá, ngày mai sẽ bàn.
Quý Bố cứ quỳ mãi dưới đất năn nỉ:
- Hạng tướng quân tôi mong được Tiên sinh chẳng khác nắng hạn trông mưa, lòng nóng như đốt, xin Tiên sinh vì cảnh điêu linh của muôn dân, đem tài cứu vớt, thiên hạ sẽ mang ơn Tiên sinh không nhỏ.
Phạm Tăng thấy Quý Bố năn nỉ quá, bất đắc dĩ phải nhận lời.
Tối hôm ấy Phạm Tăng bấm độn xem vận mệnh nước Sở, bỗng thở dài lẩm bẩm:
- Thôi! Ta lầm rồi! Sở không phải chân mệnh, khó lòng giúp nên công. Nhưng kẻ trượng phu đã nói một lời không thể thay đổi.
Hôm sau, Phạm Tăng thu dọn hành lý, cùng đi với Quý Bố đến giúp Hạng Lương.
Hạng Lương hay tin sửa sang áo mão, ra ngoài năm dặm đón rước vào đại trại, và nói:
- Lương tôi nghe tiếng Tiên sinh đã lâu, lòng khao khát, ngặt bận rộn việc quân, chưa đến bái yết được. Nay Tiên sinh không nỡ bỏ kẻ ngu hèn này đến đây dạy bảo, thật Lương tôi thỏa chí bình sinh.
Phạm Tăng đứng lên nói:
- Dòng dõi tướng quân mấy đời thờ nước Sở, nay vì dân khởi nghĩa, thiên hạ ai chẳng nức lòng. Tăng này dẫu tuổi già trí cạn, được tướng quân đoái tưởng, quyết tận tâm mưu tính nghiệp vương, để đền ơn tri ngộ.
Từ đó Hạng Lương cùng Phạm Tăng ngày đêm bàn tính việc quân cơ, rất tương đắc.
Một hôm Hạng Lương sai người đi dò thám tin tức Trần Thắng.
Quân thám thính về báo:
- Trần Thắng bị tướng Tần là Trương Hàm đánh bại, chạy về đất Nhữ Âm, bị tên Trang Giả giết chết. Chư hầu đều giải tán cả. Quân Trương Hàm hiện còn đóng ở Nam Dương.
Hạng Lương thất kinh, nói:
- Ta họp chư hầu cốt để giúp Trần Thắng đánh Tần, ngờ đâu Trần Thắng lại tử trận rồi. Quân ta không nên khinh thường kinh động.
Ðoạn, mời Phạm Tăng đến thương nghị.
Phạm Tăng nói:
- Trần Thắng là hạng tầm thường, chỉ tham lợi nhỏ mà không thấy được đại cuộc. Dẫu sống cũng chẳng làm được trò gì.
Hạng Lương hỏi:
- Thế nào là lợi nhỏ, thế nào là đại cuộc?
Phạm Tăng nói:
- Phàm kẻ mưu đại cuộc trước hết phải chinh phục lòng dân. Trong lúc muôn dân ly tán, không phân tính được chân, thiện, ác, lẽ ra Trần Thắng phải tìm dòng dõi vua Sở trước kia lập lên để tỏ ra mình vì đại nghĩa, đàng này Trần Thắng tự lập mình, cho mọi người nghi ngờ hành động của mình, rõ là kẻ bất trí.
Hạng Lương nghe Phạm Tăng nói, ngẩn người một lúc, rồi hỏi:
- Việc thất bại của Trần Thắng có ảnh hưởng gì đến đường tiến thủ của chúng ta chăng?
Phạm Tăng đáp:
- Dĩ nhiên đó là một bài học. Cứ như tướng quân khởi nghĩa chuyến này, dân chúng đâu đâu cũng hưởng ứng, vì tin chắc rằng tướng quân dòng dõi tôi thần nước Sở, tất sẳn lòng lập con cháu vua Sở lên làm vua. Mà như thế là chính nghĩa. Danh chánh ngôn thuận là một sức mạnh tuyệt đối, thắng bạo lực.
Hạng Lương cho là phải, liền dùng Phạm Tăng làm quân sư, sai người đi tìm con cháu vua Sở đem về lập lên ngôi.
Bọn thủ hạ đi tìm mãi không thấy tông tích con cháu vua Sở đâu cả.
Hạng Lương tức giận sai Chung Ly Muội dẫn một đám thủ hạ đi tìm.
Chung Ly Muội nói với bọn thủ hạ:
- Nước Sở từ khi bị nhà Tần diệt, con cháu ly tán, nếu còn thì nay cũng đổi họ tên, lẩn trốn nơi hoang dã, khó mà tìm được.
Ðoạn, cùng với bọn tùy tùng cất bước, lang thang khắp hang cùng ngõ hẻm mà vẫn chưa tìm ra tông tích.
Một hôm, đi đến địa phận Nam Hoài, thấy một lũ chăn dê đang đuổi đánh một đứa trẽ đồng bọn.
Ðứa trẽ bị đánh ấy mặt mũi khôi ngô, trán cao, vai rộng, không phải như những đứa trẻ tầm thường, Chung Ly Muội gọi đứa trẻ ấy lại, hỏi:
- Tại sao chúng lại xúm nhau đánh mày như thế?
Ðứa trẻ đáp:
- Tôi vốn không nhà cửa.., mẹ cha, ở làm con nuôi cho nhà Vương Xã trưởng, vì vậy chúng nó khi dễ. Vừa rồi tôi nói với chúng nó rằng: "Chúng bây dẫu có mẹ cha, nhà cửa, nhưng là con nhà tầm thường, ta đây tuy không nhà cửa, mẹ cha, nhưng là dòng dõi nhà vua. Chúng cho tôi nói láo, xúm nhau đuổi đánh.
Chung Ly Muội nghe nói, có ý mừng thầm, hỏi vội:
- Em nói em là con cháu nhà vua, vậy quê quán em ở đâu?
Ðứa bé ngẫm nghĩ một lúc rồi nói:
- Tôi từ nhỏ lưu lạc đó đây, nay cũng không nhớ đâu là quê quán.
Muội hỏi vặn mãi, đứa bé sợ hãi bỏ chạy, Muội nắm áo kéo lại nói:
- Ðừng sợ! Ta muốn hỏi để biết rõ mà giúp đỡ em đó thôi.
Ðứa bé đứng trù trừ một lúc, rồi mới nói:
- Tôi năm nay mười ba tuổi, đến đây đã tám năm rồi. Mẹ tôi nói tôi là cháu đích tôn vua Hoài Vương nước Sở.
Ðứa bé nói chưa cạn lời, Chung Ly Muội đã truyền bọn tùy tùng bế đứa bé bỏ lên lưng ngựa thẳng đến nhà Vương Xã trưởng.
Vương Xã trưởng thấy quân lính đến nhà ồ ạt, sợ liền quỳ trước cửa rên rĩ:
- Tôi là kẻ tiều phu thảo dã, không rõ phép nước chẳng hay có điều gì lầm lổi xin các ngài dung thứ!
Chung Ly Muội đặt đứa bé lên giường cao ngồi rồi nói:
- Hay mời người mẹ đứa trẻ này ra đây cho ta nói chuyện.
Xã trưởng vâng lời chạy xuống bếp thay quần áo cho bà lão rồi dắt lên yết kiến Chung Ly Muội.
Chung Ly Muội hỏi lai lịch, bà lão ban đầu sợ sệt tìm lời chối quanh, nhưng sau thấy Chung Ly Muội một mực kính cẩn, liền lấy ra một chiếc áo lót mình đã cũ, đưa cho Chung Ly Muội xem.
Chung Ly Muội thấy trên áo có nét chữ, nhưng không rõ là chữ gì, bèn giơ lên trời xem, mới đọc được. Dòng chữ viết:
" Cháu đích tôn vua Hoài Vương nước Sở tên Mễ Tâm, Phu nhân Thái tử nước Sở là Vệ Thị ".
Dưới dòng chữ có đóng dấu quốc bảo của nước Sở.
Chung Ly Muội xem xong mừng rỡ, gọi Xã trưởng nói:
- Ông hãy thay áo quần sạch sẽ cho đức Ðiện hạ, rồi cùng tôi đưa đức Ðiện hạ đến hội kiến Hạng tướng quân, ông sẽ được trọng thưởng.
Vương Xã trưỏng mừng rỡ, lấy quần áo cho Mễ Tâm thay rồi theo Chung Ly Muội đến Hoài Tây.
Hạng Lương hay tin, hội cả văn võ ra ngoài ba dặm tiếp đón, rồi tôn Mễ Tâm lên làm vua hiệu là Hoài Vương, Vệ Thị làm Vương Thái hậu.
Hoài Vương phong Hạng Lương làm Võ Tín Quân, Hạng Vũ làm Ðại Tư Mã phó tướng quân, Phạm Tăng làm quân sư, Quý Bố và Chung Ly Muội làm Ðô Kỵ, Anh Bố làm Thiên Tướng quân, Hoàn Sở, Vũ Anh làm Tán Ky.
Bá quan văn võ thảy đều được hưởng hàm ân.
Còn Vương Xả trưởng được thưởng năm mươi lạng vàng, cho về quê quán.
Ngày hôm sau, có tướng nước Sở tên Tống Nghĩa đang mộ quân ở Giang Hạ, hay tin Hạng Lương lập con cháu nước Sở, liền dẫn ba vạn quân đến quy phục.
Hoài Vương phong Tống Nghĩa làm Khanh Tử Quán Quân, cùng với Hạng Vũ thống lãnh binh mã đi đánh Tần.
Tống Nghĩa bàn với Hạng Vũ:
- Hoài Tây tuy là đất Sở, nhưng đóng đô không tiện. Nay Trần Anh hiện đang đồn quân ở Vu Thai, nơi đó địa thế hiểm trở, lúc tiến có thể đánh, lúc lui có thể giữ, ta nên đến đó chiêu dụ Trần Anh lấy Vu Thai làm căn bản để xử sự.
Hạng Vũ khen phải, liền vào tâu với Hoài Vương, rồi chỉnh đốn ba đội quân, chia làm ba đạo, kéo thẳng đến Vu Thai.
Ðạo tiên phong vừa kéo đến sông Hoài, thấy phía trước có bụi cát bay mịt mù, rồi một toán quân ồ ạt kéo đến.
Hạng Lương và Phạm Tăng cùng dừng ngựa lại xem, thấy tinh kỳ tề chỉnh, kiếm kích huy hoàng.
Phạm Tăng giật mình, lẩm bẩm:
- Chao ôi! Toán quân uy nghi như thế, kẻ cầm đầu phải là bậc siêu quần.
Vừa nói dứt lời, chợt thấy một tướng cỡi ngựa vọt tới trước đầu quân, mũi phụng, mặt rồng hào quang sáng chói.
Phạm Tăng thở dài, than:
- Ta lầm rồi! Chính người này mới là vị chơn chúa.