3 - Bản năng tình dục trong thời kỳ niên thiếu
Phần 21
Sự tự khẳng định của lứa tuổi thiếu niên và hành vi thủ dâm

Các hoóc môn tăng đột ngột vào thời điểm dậy thì làm nảy sinh và thức tỉnh bản năng tình dục ở cả nam giới và nữ giới. Những thiếu niên ở giai đoạn này bộc lộ nhu cầu cần thiết hướng sự thúc đẩy diệu kỳ của bản năng tình dục vào trong nhân cách của mình thông qua các ảo ảnh và cách cư xử của chúng. Một ví dụ mới đây đã khẳng định điều này. Giữa những năm 1972 đến năm 1983 có 3000 trẻ em người Portoricain ở độ tuổi chưa đến trường đã có biểu hiện dậy thì sớm với sự phát triển của vú và xuất hiện kinh nguyệt. Tỷ lệ này tăng lên một cách đặc biệt (1 trên 50 so với 1 trên 10.000 ở những cộng đồng dân cư khác), nó giải thích cho chế độ ăn của con gà mái hay gà trống tơ có nhiều chất gây kích thích). Dù sao chăng nữa sự tăng vọt của thời kỳ dậy thì đã đặt ra một vấn đề khẩn thiết và bắt buộc người ta phải tìm các giải pháp cụ thể mà những giải pháp này thường chỉ là những sự thỏa thuận. Trước sự tăng cao của xung năng dục tính, các cô cậu thiếu niên phải nhìn nhận và tự tạo cho mình phương pháp tự vệ riêng đã được tạo ra nhờ gia đình và xã hội.
Bản năng tình dục của tuối thiếu niên - một sự thỏa hiệp?
Cách cư xử về khía cạnh tình dục của trẻ được phân chia theo các xu hướng đối lập nhau và vẫn tiếp tục phát triển với những bước tiến lớn. Từ năm 1938 Terman đã cho rằng có rất nhiều cô gái trẻ tiến tới hôn nhân vẫn còn trinh trắng. Tuy nhiên sự dự đoán này vẫn chưa được khẳng định chính xác bằng các con số thống kê. Vào thời đại của Kinsey có 80% nam nữ thiếu niên 18 tuổi đã có những hoạt động vuốt ve cơ quan sinh dục nhưng chỉ có 21% cậu con trai và 15% bé gái đi tới khoái cảm so với tỉ lệ 50% con gái ngày nay.
Tuy nhiên, cách xử sự trong tình dục của thanh thiếu niên vẫn chỉ thường là một sự thỏa thuận.
- Giữa những đòi hỏi của nhu cầu về mặt sinh học tăng lên do bầu không khí kích dục ngày càng phổ biến.
- Những gò bó của gia đình và xã hội ngăn cản chúng.
Vấn đề nên biết: liệu bọn trẻ có phải đẩy lùi lại xung năng tình dục của mình để xây dựng tốt hơn nền tảng của những nền văn minh hay ngược lại như Reich đã từng mong muốn: nên cho chúng làm chủ việc làm thỏa mãn bản năng của chúng? Với việc này, chúng được tùy ý sử dụng 3 hình thức sau:
1.Thủ dâm
2.Quan hệ đồng tính.
3.Quan hệ tình dục khác giới.
Sự thủ dâm:
Sự thủ dâm là hành vi tình dục thường gặp nhất ở mức độ tuổi thiếu niên tới mức mà một số nhà tâm lý học không hề lưỡng lự giới thiệu hành vi tự kích thích nhục dục như một đặc trưng cơ bản của lứa tuổi này. Trong những số liệu thống kê mới nhất của Masters tiến hành với 580 phụ nữ thì 75% trong số họ thú nhận là đã có hành vi thủ dâm khi còn nhỏ so với tỷ lệ 20% ở thời đại của Kinsey. Thủ dâm thường đi kèm với ảo ảnh và mơ ước tình dục. Và chỉ có 10% thiếu niên dù nam hay nữ khi thủ dâm đã khẳng định là không có hiện tượng đó. Những ảo ảnh do tưởng tượng có vai trò cơ bản ở độ tuổi này của cuộc đời. Nó chuẩn bị trong trí tưởng tượng một quan hệ tình dục trong tương lai thông qua sự lặp lại liên tục trong trí nhớ. Các nhà giáo dục muốn nhắc nhở rằng: ngày nay thủ dâm không phải là gây thiệt hại cả trên phương diện thể chất lẫn tâm lý. Như vậy, việc nghĩ xấu về thủ dâm đã từng tồn tại trong suốt 20 thế kỷ qua đáng phải bác bỏ. Tất nhiên, tất cả các tác giả đều đồng ý sẽ không quy kết tội cho hành vi thủ dâm nữa, nhưng như Jean Ormezzano lưu ý một cách hài hước rằng luôn luôn có một đoạn văn bắt đầu bằng từ “nhưng” còn ở đây cũng phải nói nhưng hành vi này không được kéo dài quá vì hiệuu quả của nó là đáng kể…
Sự lo sợ của các nhà giáo dục cũng như các bậc cha mẹ trước hành vi thủ dâm biểu hiện thông qua giọng điệu răn đe, phủ nhận những dự định của bọn trẻ hoặc thông qua những lời khuyên răn về bề ngoài rất thoải mái tự do, nhưng làm bọn trẻ sợ hãi, lo lắng về điều đó.
Lập luận của họ được chia ra làm 6 chủ điểm chính:
-  Thủ dâm lặp lại sẽ gây mệt mỏi.
-  Thủ dâm làm giảm đi hứng thú trong tương lai.
-  Thủ dâm làm cho người ta trở nên nhút nhát thay vì phải xông pha chiến đấu nhưng lại chỉ thu mình trong trí tưởng tượng.
-  Thủ dâm có chiều hướng giật lùi, đó là một sự xác định của chúng ơ-đíp.
-  Thủ dâm buộc tội người chủ nhân. Làm cho họ lo lắng và không bao giờ hạnh phúc cả.
-  Thủ dâm làm mất tính cách của chủ nhân, xé nhỏ nhân cách bởi người tiến hành hành vi thủ dâm lại vừa là tác giả, vừa là người cảm nhận và thực hiện những ảo ảnh do chính mình tạo ra. Những lập luận trên đây bị thiếu cơ bản những khiếm khuyết chính của hành vi thủ dâm, do đó làm đảo lộn cả nguyên nhân và hậu quả.
Thủ dâm không gây mệt mỏi cho con người là bao, nó chỉ tương đương với bài tập thể dục hay một công việc trí óc nào đó kéo theo sự tập trung cao độ. Mà ngược lại, thanh thiếu niên bị mệt mỏi có thể tìm thấy ở nó một lối thoát. Nó cũng không làm cho người ta trở nên nhút nhát và bất hạnh, ngược lại, nó được sử dụng để giảm nhẹ trạng thái cảm xúc và cả căng thẳng về tình dục nữa. Thủ dâm không làm cho người ta lo sợ, hành vi này giống như một loại ma túy thần diệu để người ta tự an ủi khi gặp những thất bại, chống lại buồn phiền hoặc sự thiếu thốn tình cảm và cần tránh những khó khăn khi tiếp xúc trong quan hệ tình dục khác giới. Người ta luôn có xu hướng làm giảm hàne='height:10px;'>
Thuật cắt bao quy đầu là một phẫu thuật y học nhỏ, cắt đi lớp da mỏng ở phía đầu của dương vật. Phẫu thuật được tiến hành do nhiều lý do mang tính nghi lễ của người Do Thái và những người theo đạo Hồi, thuật này đã được người Ai Cập biết đến từ năm thứ 5000 trước Công nguyên. Rất nhiều các dân tộc khác cũng cần đến thuật cắt bao quy đầu như một sự kết nạp đánh dấu sự chuyển giao từ một đứa trẻ thành một người trưởng thành. Sự cắt bỏ da quy đầu gợi nhớ đến phần hợp chứa âm đạo như sự cắt bỏ âm vật mà một số bộ lạc châu Mỹ vẫn tiến hành vào thời điểm dậy thì của các bé gái. Liệu họ có vì mục đích ấy để khẳng định tốt hơn cá nhân đó trong giới tính của mình là nam giới hay nữ giới?
Chúng tôi nghĩ: biểu tượng cắt bao quy đầu mà người ta tìm thấy ở khắp nơi trên thế giới, từ những quốc gia tiến bộ nhất (ví dụ 90 người thực hiện cắt bao quy đầu trên 100 người châu Mỹ) cũng như một số bộ lạc nguyên thủy nhất. Nó đáp ứng được kiểu mẫu gốc vẫn tồn tại trong vô thức của cộng đồng loài người.
Chính việc phẫu thuật cắt bao quy đầu lại làm nổi lên một vấn đề bàn cãi khác.
Liệu cắt bao quy đầu có cần thiết không? Câu trả lời là có bởi những nguyên do về y học. Khi da quy đầu khít lại nó sẽ xiết chặt phần đầu của dương vật; da quy đầu bị nhiễm khuẩn nó bị kích thích thường nguyên và khi phân da dài một cách không bình thường như một số trẻ em bị mắc bệnh (miệng lỗ niệu đạo được mở ra ở mặt trong của dương vật, không ở đúng vị trí của nó). Các trường hợp này là ngoại lệ đặc biệt và y học cần phải can thiệp. Người ta cần chấp nhận phẫu thuật sớm bởi phẫu thuật chậm trễ vào giai đoạn dậy thì, phẫu thuật có thể coi như một sự hoạn thiến.
- Phẫu thuật cắt da quy đầu phải được tiến hành từ lúc mới sinh ra vì những lý do về vệ sinh và phòng chống các vấn đề khác.
- Những con số thống kế cho thấy dường như thuật cắt bao đầu quy sẽ đề phòng được những căn bệnh hoa liễu. Điều này có lý bởi sau khi cắt bao quy đầu, da của dương vật luôn được phô bày ra, dễ dàng vệ sinh sạch sẽ và ngày càng tỏ ra vững chắc trước sự tấn công từ bên ngoài. Một cuộc điều tra mới đây chỉ ra rằng những người cắt da quy đầu ít bị vi rút AIDS tấn công hơn. Đôi khi người ta thấy Smegma (một loại dịch tiết dạng bã đậu được tích tụ dưới da quy đầu của những người không cắt da quy đầu) sẽ tạo điều kiện cho căn bệnh ung thư cổ tử cung. Sự khiếp sợ bệnh ung thư này đã thúc đẩy đáng kể những người châu Mỹ đối với thuật cắt bao quy đầu.
Liệu cắt da quy đầu có gây ra trục trặc gì về hứng thú tình dục hoặc làm giảm hứng thú này như G. Zwang đã khẳng định không? Theo ông nay thì những nhạy cảm tổng thể của dương vật được phủ bởi một lớp sừng dày hơn. Do vậy chỉ còn bức thông điệp được bao phủ bởi một lớp giảm âm, đó chính là lớp sừng. Cắt da quy đầu giúp người ta giữ được trạng thái cương cứng kéo dài hơn và kiểm soát tốt nhất phản xạ xuất tinh. Dựa trên những nghiên cứu của Master và Johnson (không dựa trên bằng chứng của những phụ nữ đã có sự so sánh giữa những người đàn ông đã cắt da quy đầu từ sớm với những người đàn ông cắt da quy đầu muộn) thì không tồn tại bất cứ một khác biệt nào về sự nhạy cảm, kể cả những người đã được cắt da quy đầu và người không được cắt và cũng không có sự khác biệt về cấp độ thỏa mãn của bạn tình, điều ấy cũng không làm ai sửng sốt cả. Thực vậy, chúng ta đều biết rằng: khoái cảm và quan hệ tình dục phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố tâm lý và cảm xúc hơn là sự nhạy cảm cục bộ. Trên quan điểm này, não bộ là cơ quan sinh dục chế ngự tất cả.
+ Tinh hoàn:
Trong một số trường hợp, sự teo tinh hoàn chỉ còn bằng hạt thóc hay hạt nho hay không có tinh hoàn trong bìu dái cũng là cả một vấn đề với một cậu thiếu niên. Trong trường hợp này, hỏi ý kiến bác sĩ là rất cần thiết. Thực tế trường hợp này đòi hỏi nghiên cứu một sự khác thường của nhiễm sắc thể hay sự cân bằng về hoóc môn. Trường hợp các cậu thiếu niên từ 5 đến 10 tuổi không có tinh hoàn trong bìu dái, các bác sĩ phải kê đơn thuốc cho bệnh nhân một loại hoóc môn kích thích, tạo điều kiện thuận lợi cho sự dịch chuyển của tinh hoàn từ vành bẹn tới tận bìu. Thay vào đó việc điều trị bằng phẫu thuật sẽ được tiến hành từ lúc bắt đầu thời kỳ dậy thì.
+ Các vấn đề về trạng thái cương cứng:
Đối với một thiếu niên bị rối loạn do dâng trào mạnh mẽ của xung năng tình dục sẽ có những vấn đề nảy sinh đối với trạng thái cương cứng dương vật. Những buổi sáng hoan hỉ không chỉ phụ thuộc vào sự căng bọng đái, trạng thái cương cứng vào buổi sáng cũng như buổi đêm có liên hệ chặt chẽ với những ước muốn nhục dục. Cậu thiếu niên cảm thấy tội lỗi trước những ham muốn của mình và nhận thức điều đó một cách vô thức. Sự tưởng tượng gợi dục của cậu bé làm cho cậu ta trở nên nhạy cảm với những kích thích biến đổi nhất. Một nụ hôn, một sự tiếp xúc với cơ thể của người bạn tình trong buổi khiêu vũ hay một cái lướt nhẹ của bàn tay cũng đủ tạo ra trạng thái cương cứng. Cậu ta giận dữ vì không kiểm soát được trạng thái này. Có một số tình huống chi phối bởi mặt tình cảm, chúng đánh thức cậu thiếu niên này: ví dụ ở thời điểm của một kỳ kiểm tra, một sự sắp xếp, một bài tập thể dục hay một buổi thuyết trình đứng trước những người nghe, hệ thống thần kinh rất nhạy cảm và sẽ phản hồi lại bằng trạng thái cương cứng hoàn toàn không tương xứng.
Trách nhiệm của các bậc phụ huynh và các nhà giáo dục nên làm gì để xóa bỏ những bối rối, cảm giác tội lỗi của các cậu thiếu niên này. Thông qua thái độ và những lời giảng giải của mình, bác sĩ phải chỉ cho cậu ta thấy được sự bình thường của các phản ứng về mặt sinh lý ấy.
Trạng thái của dương vật không kiểm soát được không phải là một sự trục trặc hay suy giảm, cũng không phải là một căn bệnh hay tội lỗi. Cần thuyết phục cậu ta không nên phí hoài sức lực vào trận chiến vô vọng, quyết phải kiển hướng những trẻ em vị thành niên: trong hơn 93% các trường hợp đồng tính khi bạn tình của người đồng tính luyến ái khuyến khích sự tiếp cận của họ hoặc không hề phản đối gì. Trên quan điểm này, người ta cũng không nên quên sự hiếu kỳ về tình dục và nhu cầu tình cảm của một số trẻ em đã tạo điều kiện thuận lợi cho những trục trặc kiểu như vậy.
Những nguyên nhân tạo điều kiện thuận lợi cho sự hình thành chứng tình dục đồng tính
Nếu quy cho tình dục đồng tính một nguyên nhân chính xác thì sẽ là một sai lầm. Những giả thuyết về gien và hoóc môn cũng không phải là bằng chứng của luận điểm trên. Thực tế, những người phụ nữ có triệu chứng của cơ quan sinh dục nam và rất nhiều tính chất của phái nam thì có nhiều khả năng trở thành người đồng tính luyến ái nữ. Những nam giới có triệu chứng Klinefelter do sự biến đổi nhiễm sắc thể tạo ra sự teo tinh hoàn có nhiều cách xử sự của một người đồng tính nam. Thế nhưng những số liệu này chưa có minh chứng. Gần đây Dorner đã công bố một giả thuyết của “một trung tâm giao cấu kép ở vùng phía dưới”. Ở phôi nam, sự tiết các chất mang nam tính bị suy giảm trong thời điểm quyết định trước khi sinh sẽ có sự chế ngự của trung tâm giao cấu nam và dư lại các tính chất nữ. Ngược lại ở phôi nữ có sự sản xuất quá nhiều các tính chất của giống đực sẽ tạo điều kiện cho trung tâm giao cấu mang tính nam. Giả thiết này vẫn chưa được thừa nhận. Người mắc bệnh này phân ra sự tồn tại của tình dục đồng giới và tình dục đồng tính, họ phân biệt với nhau bởi lứa tuổi, văn hóa, những vấn đề tâm lý, đặc biệt là sự hòa nhập nhiều hoặc ít với sự thay đổi giới tính của họ.
Người đồng tính luyến ái thường nhận về mình vai trò của giới tính đối lập với mình. Theo Gide, những người đồng tính nam chỉ biểu lộ ham muốn tình dục với trẻ em hay thiếu niên. Những người bán thân nuôi miệng bị đồng tính luyến ái thường tặng cho khách hàng sự phục vụ của họ mà không lấy tiền công. Sự thủ dâm qua lại, giao cấu ở hậu môn, sự kích thích bằng miệng chủ động hay thụ động, vuốt ve có sự tham gia của miệng vào hậu môn. Những hoạt động này tạo ra một đội quân những người bị mắc chứng tình dục đồng tính ủy mị rất lớn.
Liệu có một điểm chung nào giữa tất cả những sự lệch lạc giới tính này không?
Đa số các tác giả và Nach cùng nghi ngờ bởi 3 yếu tố về mặt tâm lý mà người ta thường quan sát thấy ở người mắc chứng bệnh tình dục đồng giới:
- Lòng tự mê mà người ta có thể xác định như một sự lo lắng thái quá về bản thân và những người này thường che dấu một tình cảm không ổn định về giá trị riêng của bản thân. Người bị mắc thói tự mê luôn luôn cần một người khác như một tấm gương để họ có thể tự đánh giá được mình.
- Lo sợ sẽ đánh mất bản tính tình dục. Thực tế đối với rất nhiều thiếu niên thì vấn đề mấu chốt của chúng xoay quanh sự sử dụng dương vật. Như một người hay gán cho một bộ phận của người bạn tình khả năng kích dục, vậy đời sống tình dục của người này xoay quanh bộ quần áo, găng tay, chiếc giày. Thường thường người bị mắc chứng tình dục đồng giới sắp xếp cuộc tìm kiếm của mình xung quanh nền móng là dương vật. Trong những cuộc săn đuổi không ngừng của anh ta, anh ta không bao giờ tìm kiếm chính bản thân mình và những biểu hiện của một người nam nhi đang bị đe doạ.
- Sự gắn bó với người mẹ và thiếu vắng một hình ảnh người cha là điều kiện làm đứa con duy nhất trong gia đình rơi vào tình hình trầm trọng thêm (30% trong số những người đồng tính cùng giới là con độc nhất chỉ sống với mẹ so với 10% sống với cộng đồng chung). Người phụ nữ bất hạnh trong đời sống vợ chồng có quan hệ quá thân thiết với con trai, dành hết cả tình yêu cho nó. Bà ta coi đứa nó có vai trò thay thế người chồng của mình. Đứa con trai bị cảm giác tội lỗi do ham muốn loạn luân kể từ đây tự cấm mình có quan hệ với tất cả những người đàn bà khác. Những điều kiện mới về văn hóa xã hội cũng được coi là một nguyên nhân có xu hướng quy kết những vai trò có thể trao đổi lẫn nhau của mỗi cá nhân.
Tuy nhiên, tình dục đồng tính không có nghĩa chỉ bó hẹp ở mấy tiêu chuẩn này. Có rất nhiều người có đầy đủ 3 tiêu chuẩn trên nhưng họ vẫn không phải người đồng tính. Có rất nhiều trẻ em bị quyến rũ bởi một người mắc tình dục đồng giới những vẫn giữ gìn được hoạt động tình dục nguyên gốc của chúng. Tại sao trong cùng một gia đình có anh em trai hay hai chị em gái lại có những định hướng giới tính khác nhau? Cho tới ngày nay người ta cũng không thể trả lời được câu hỏi này một cách chắc chắn.