Chương 26
Một đi không trở lại

Hoàng-Nghi cùng Cao-Huy, Y-Bang ra đón ở cửa trại. Hoàng-Nghi vờ hỏi:
– Thế nào? Yan đạo trưởng đâu?
– Lục tể tướng ra lệnh chúng ta phải về Đồ-bàn rồi tiến ra phòng tuyến Tu-mao tiếp viện cho Thi-nại gấp. Còn Yan đạo trưởng thì ở lại kinh, mai mới về.
Đêm hôm đó, đám trẻ với sáu vợ chồng Huyền, Lam, Xích kỳ chủ hội họp nhau bàn định kế hoạch tiến quân. Hoàng-Nghi chỉ lên bàn đồ:
Từ đây đến Đồ-bàn còn khoảng một ngày đường. Vậy sáng mai ta tiến quân thực mau, sao cho đến ngoài thành vào khoảng chập choạng tối. Ta cũng viết thư cho đạo vượt Hải-vân tiến quân tới nơi cùng một lúc. Khi đến dưới thành, chúng ta cùng phát pháo, kéo cờ Đại-Việt. Như vậy trong thành Đồ-bàn tưởng như chúng ta từ trên trời bay xuống. Ta cho quân thay nhau bắn hỏa pháo lên trời, đánh trống reo hò như vậy ắt Chế-Củ cho mở cửa Nam bỏ thành mà chạy. Ta sẽ cho đội thú đuổi theo.
Có tiếng công chúa Động-Thiên rót vào tai nó:
– Đánh như vậy cũng được. Nếu như Chế-Củ nhất quyết thủ thành thì sao? Phải có kế hoạch nào chu đáo hơn chứ?
Bỗng có tiếng chân người đáp nhẹ như tiếng chim ngoài lều. Vũ-Quang là đứa trẻ có nội công cao nhất, nó chấm tay vào nước viết lên bàn:
– Có gian nhân nghe trộm. Xin nhị vị Huyền kỳ chủ bắt dùm.
Nói rồi nó ra hiệu cho Kim-Loan. Kim-Loan nói bằng tiếng Chàm:
– Chúng ta đang hội họp, người là ai, mà dám nghe trộm?
Vợ chồng Huyền kỳ chủ tung người ra khỏi lều, thì thấy trước lều có hai bóng đen đứng đó. Hai người tung chưởng tấn công. Hai bóng đen vung tay đỡ. Binh, binh hai tiếng. Vợ chồng Huyền kỳ chủ bật lui liền hai bước. Hoàng-Nghi kinh hoàng, vì võ công các kỳ-chủ Hồng-thiết đâu có tầm thường, mà mới thử một chiêu đã lạc bại? Nó định hô vợ chồng Lam kỳ chủ nhập cuộc, thì có tiếng nói rất trong trẻo, rất thân mật:
– Nghi lùn! Chị đây, chớ có làm ồn.
Bọn trẻ nhận ra tiếng bà chị Nguyễn-thị Trinh-Dung, tức vương phi Trung-thành vương. Chúng mừng chi siết kể. Hai bóng vào trong lều, thì ra Trung-thành vương, với vương phi. Bọn trẻ với sáu vợ chồng kỳ chủ vội hành lễ. Vương hỏi:
– Công chúa Động-Thiên đâu?
Thấy không dấu thân phận được nữa, công chúa đứng dậy:
– Thưa thúc phụ cháu đây.
Bà tiến ra hành lễ.
Đến đó, các tướng: Tả lĩnh-vệ đại tướng quân Dư-Phi, Vũ-kị thượng-tướng quân Hà Mai-Việt, các đô-thống Lưu Trọng-Kiệt, Vương Văn-Trổ, Nguyễn Văn-Huy, Trần Lam-Thanh, Trần Thanh-Nhiên, Trương Đình, Trần Văn-Huệ, Nguyễn Văn-Thuấn cùng xuất hiện. Tất cả vào trướng, theo thứ tự ngồi.
Trung-thành vương xoa tay vào nhau:
– Vì tình hình khẩn trương, nên ta phải đích thân đến đây hội chư tướng. Trận đánh Thi-nại diễn ra từ sáng nay. Đại-Việt ta vẫn chưa đổ bộ lên bờ được. Chiêm biết ta muốn đánh thực mau, nên đã lập phòng tuyến dài trên bãi biển Thi-nại, dùng cung tên phòng thủ. Ta đã cho đổ bộ bốn lần đều thất bại. Trong khi trên các chiến hạm, nước ngọt cạn dần, nguồn tiếp tế duy nhất lấy từ Tư-dung lại quá xa. Phía sau Thi-nại tới Tu-mao gần trăm dặm, họ lập tới hai mươi đồn rất kiên cố. Cho rằng nếu ta đổ bộ được lên Thi-nại, thì đến bao giờ mới công phá nổi hai mươi đồn để đến Đồ-bàn?
Chư tướng gật đầu, tỏ vẻ hiểu biết.
Vương tiếp:
– Trước tình-thế khó khăn này, từ hoàng-thượng cho tới sư thúc Tôn-Đản, nguyên soái Thường-Kiệt, đô-đốc Hoàng-Kiện đều bàn nên rút quân về, đợi dịp khác thuận lợi hơn. Hơn nữa hoàng thượng sợ rằng người viễn chinh xa, ở nhà Quốc-phụ ngọc thể không an, thái-sư Lý-đạo-Thành thì tuổi già sức yếu, mình Ỷ-Lan cai tri nước e không đương nổi. Vì vậy rút quân là điều hay nhất.
Long-biên ngũ hùng cùng bật lên tiếng phản đối:
– Không thể, không nên rút quân. Nếu mặt biển đánh không được thì ta đánh úp bằng mặt bộ.
Đô-thống Trần Thanh-Nhiên lắc đầu:
– Nhưng mặt bộ lực lượng ta quá ít. Đánh có khác gì tự tử?
Hoàng-Nghi đứng lên nói lớn:
– Chúng tôi xin tình nguyện đánh cảm tử. Đô-thống sợ thì cứ đứng ngoài cuộc.
Trung-thành vương vẫy tay ra hiệu cho hai bên ngừng tranh luận, rồi tiếp:
– Khoan! Khoan hãy cãi nhau. Trước khi rút quân, hoàng-thượng gửi chỉ dụ đến các đạo quân hỏi ý kiến. Tín-nghĩa vương với cô gia chưa kịp hội nhau tìm kế sách, thì hoàng thượng nhận được biểu của Quốc-phụ và Ỷ-Lan thần phi.
Nghe nói đến sư phụ, Long-biên ngũ hùng ngồi nghiêm chỉnh lại, Phạm-Dật cung cung kính kính hỏi:
– Chắc Quốc-phụ truyền chỉ phải tiến binh, không được lui?
– Không!
Vương tiếp: Trong biểu người ban dụ rằng người với thái-sư Lý Đạo-Thành khó ở, mọi việc đều do Ỷ-Lan thần phi đảm trách.
Vương ngừng lại, đưa mắt nhìn chư tướng, thấy mặt Long-biên ngũ-hùng có vẻ buồn quá, vương tiếp:
– Trong biểu Quốc-phụ không hề nói gì đến việc rút hay tiến quân, mà người chỉ nói về cuộc trị nước an dân của thần-phi. Người tâu rằng: Thần-phi thực là người tài trí vô song. Phi vừa có tài của tể tướng Phương-Dung, vừa có tài của công chúa Nguyệt-Đức Phùng-vĩnh-Hoa. Trước hết là việc nông tang mùa màng, tuy trai tráng phải xung quân, thế mà việc đồng áng, chăn nuôi gia súc, việc trồng dâu nuôi tằm lại thịnh hơn năm trước. Thứ đến việc học hành không những không bị ngăn trở, mà học phong thịnh hơn bao giờ hết. Số trẻ trong nước đi học tăng gấp hai trong mấy tháng qua. Đến nỗi trước đây trong làng, một thày đồ dạy từ ba chục đến năm chục học trò, nay mỗi thầy phải dạy từ sáu chục đến một trăm. Số người học võ, luyện binh lên cao đến nỗi các trương tuần phụ trách dạy võ, luyện binh trong làng không sao đương nổi. Thần-phi gửi sứ đến các môn phái xin các chưởng môn nhân gửi đệ tử về các làng trợ giúp các trương tuần.
Long-biên ngũ hùng nghe thuật việc trị nước của bà chị mình, thì hớn hở lắng nghe. Vương tiếp:
– Suốt từ ngày xuất binh đến giờ, trong nước không hề xẩy ra một vụ trộm, một vụ cướp, không hề có vụ trộm trâu giết trâu. Đi đâu cũng chỉ nghe tiếng người già dạy trẻ, tiếng trẻ đọc sách. Dân chúng ca tụng: Nước mình có bà Quan-âm cai trị, mình đang sống những ngày của vua Hùng, vua Trưng đây.
Vương ngừng lại uống nước rồi tiếp:
– Còn biểu của Ỷ-Lan thần phi...
Long-biên ngũ hùng nghe nói đến bà chị mình, thì nhao nhao lên:
– Thần-phi tâu gì? Chắc là người không đồng ý rút quân!
– Đúng thế! Thần-phi luận rằng: ta cần đánh Chiêm để an phía Nam, hầu trấn Bắc. Nay ta đánh không nổi Chiêm, thì Tống sẽ chẳng ngại gì xui Chiêm đánh vào sau lưng ta để trả thù, rồi Tống đem quân Lưỡng-Quảng đánh ta. Vậy phải đánh cho được Chiêm bằng bất cứ giá nào.
Long-biên ngũ hùng sướng quá vỗ tay:
– Hoan hô chị Yến-Loan!
– À không, hoan hô Thần phi.
Thời bấy giờ, dù là người con gái bình dân lấy chồng rồi, thì không ai được gọi nhũ danh ra nữa. Thân phận Ỷ-Lan thần-phi cao biết mấy, mà bọn trẻ trong lúc bồng bột đã gọi tên bà ra, chúng vội vàng chữa:
– Thần-phi thực trông rộng, nhìn xa...xa đến đây lận!
Mặt Trần Thanh-Nhiên xám như tro.
Trung-thành vương tiếp:
– Thần-phi còn tâu rõ: dùng số ít quân, vượt rừng núi đánh úp Đồ-bàn, phi Long-biên ngũ hùng, Tây-hồ thất kiệt, ít ai đủ can đảm, ít ai dám hy sinh. Tại sao không trao cho mười hai đứa cháu của Phù-Đổng thiên vương, mà lại rút quân?
Đám Long-biên ngũ hùng sướng quá, múa tay, lắc mình đầy vẻ khoan khoái.
Trung-thành vương tiếp:
– Chính vì vậy, mà cô gia phải trao cho Tín-nghĩa vương trấn từ Nam-giới tới Hải-vân, còn cô gia đem bốn hiệu Thiên-tử binh, đạo kị binh Phù-đổng, với chư tướng vào đây hội nhau, nghiên cứu tình hình, rồi quyết định nên đánh cách nào?
Đô-thống Trần Thanh-Nhiên phân vân:
– Khải vương gia, chúng ta hiện chỉ có bốn hiệu bộ binh, với đạo kị binh Phù-đổng. Trong các trận đánh Tư-dung, Ma-linh, Bố-chánh, Nhật-lệ, bị hao hụt khá nhiều, tuy đã bổ xung, nhưng quân khí không còn như lúc xuất quân. Rồi bây giờ, vượt ngàn dặm Tây Trường-sơn đến đây, thì e không đủ sức công Đồ-bàn nữa. Đấy là nói về quân khí, quân lực. Còn nói về quân số, thì tại Đồ-bàn kị binh Chiêm gấp đôi ta, bộ binh đông hơn ta. Binh pháp định rằng: trong phép công thành, thì một thủ, phải mười công. Nay lực lượng ta ít hơn, thì công bằng cách nào? Theo thần thì nên rút quân là hơn.
Long-biên ngũ hùng cùng đứng dậy, Trần-Ninh nói lớn:
– Thà chết, chứ không rút. Rút tức là tự tử. Ai sợ chết thì ở nhà với vợ.
Trung-thành vương vẫy tay ra hiệu cho Long-biên ngũ hùng ngồi xuống rồi đưa mắt nhìn chư tướng:
– Cô gia nghĩ, ta không cần đánh Đồ-bàn, cũng chẳng cần đánh Tu-mao mà cần đánh phía sau Tu-mao, cắt đường tiếp tế của Thi-nại cùng gây rồi loạn Đồ-bàn. Nhưng cần có một đội quân cực can đảm, dám hy sinh, giả quân Chiêm đánh úp một đồn trên bờ Tây ngạn Tu-mao; lại phải có một đạo quân tương tự đột nhập Đồ-bàn đốt phá cung điện, kho lẫm, làm rối loạn kinh đô. Trong khi đó tung bốn hiệu Thiên-tử binh, hiệu kị binh Phù-đổng đánh phá các phủ huyện xung quanh Đồ-bàn. Tin này đến Thi-nại làm nát lòng quân tướng Chiêm, bấy giờ đại quân có thể đổ bộ Thi-nại. Đại quân lên được bờ rồi, thì ta phá giặc dễ dàng.
Ông nhìn các tướng với đôi mắt sáng rực:
– Đạo quân mạo hiểm đánh úp đồn Tây-ngạn Tu-mao, thì Tây-hồ thất kiệt với hai đạo Hoàng, Bạch kỳ đã tình nguyện. Đích thân giáo chủ Đông-Thiên chỉ huy. Hiện đạo này đã lên đường rồi.
Phạm-Dật đứng lên:
– Xin vương huynh ban cho Long-biên ngũ hùng cái danh dự được chết vì nước trong thành Đồ-bàn.
Trung-thành vương cau mày:
– Ta biết, đánh mạo hiểm, thì không ai bằng Long-biên ngũ hùng. Nhưng, năm chú nên nhớ trong thành Đồ-bàn binh lực Chiêm cực mạnh, không dễ gì thành công đâu.
Ngọc-Hương đứng lên, nàng cất tiếng nói ôn nhu, thanh tao:
– Vương gia ơi! Thì bọn em có cần thành công đâu? Đánh cảm tử, đánh hy sinh, đánh để chết mà. Vương gia có nhớ Thiên-ưng lục tướng, Lục hầu tướng thời Lĩnh-Nam trong khi đánh trận Thường-sơn không? Khi ra trận các ngài đã tự biết rằng đi là không trở về. Vì vậy trong trận này, quân Hán đông gấp mười quân Lĩnh-Nam, mà Hán bị bại; vả binh pháp nói: một người liều mạng, trăm người khó đương (xin xem Cẩm-khê di hận, cùng tác giả do Nam-á Paris xuất bản). Nay chúng em có năm trai, bốn gái, năm trăm võ sĩ Long-biên, trăm hổ, trăm báo, trăm sói, trăm voi, trăm hầu... cộng chung gần hai nghìn. Chúng em đánh lấy chết thì ít ra cũng đương nổi hai mươi vạn quân Chiêm.
Vũ-kị thượng tướng quân Hà Mai-Việt vốn thân với Long-biên ngũ hùng, ông can gián:
– Nhưng ngũ vị sư đệ, tứ vị sư muội còn trẻ mà đã hy sinh thì hỡi ơi... hỡi ơi...
Kim-Loan mỉm cười:
– Thưa Hà đại ca, chúng em biết đại ca thương chúng em. Nhưng chúng em lại nghĩ khác: tại sao người lớn tuẫn quốc được, mà bọn trẻ chúng em không thể chết cho đất nước? Chết, đau đớn, chúnnh Đồ-bàn rồi. Theo lệnh của Trung-thành vương, khi Chế-Củ còn, thì cuộc chiến còn, điều cần nhất là phải đuổi theo bắt cho được Chế-Củ, rồi giáo chủ trở về Đồ-bàn ban lệnh an dân, và lên ngôi vua.
Đông-Thiên bảo Vũ Chương-Hào:
– Hiện trận chiến ở Thi-nại đang diễn ra cực kỳ ác liệt. Quân ta chưa đổ bộ lên bờ được. Bố-bì Đà-na đắp đồn lập mặt trận dài từ cửa biển Thi-nại tới sông Tu-mao. Cho nên ta phải đánh từng đồn một, rất tốn sức, tốn thời giờ. Vì vậy trước đây cánh quân của ta phải tiến về hợp với cánh quân của Trung-thành vương đánh Đồ-bàn, thì nay ta đánh phía sau phòng tuyến Tu-mao. Bây giờ ta để hữu sứ, Đông-phương sứ, cùng đạo quân của Hoàng-Nghi đuổi theo Chế-Củ. Còn bọn ta tiến về phía Tu-mao. Người nghĩ sao?
Vũ Chương-Hào cung tay:
– Xin tuân chỉ dụ của giáo chủ.
Thế là đội quân của Chương-Hào với đội quân của Hoàng-Nghi đang thù nghịch, chém giết nhau, bây giờ hợp thành một cánh, đuổi theo Chế-Củ.
Vừa ra khỏi cửa Tây, thì gặp hiệu quân Bổng-nhật. Đô-thống Vương-văn-Trổ chỉ Vũ-chương-Hào:
– Thế nào! Phép lạ ở đâu khiến các vị này đi với ta?
Trần-Ninh cười:
– Quốc-tổ, Quốc-mẫu linh thiêng lắm, ngài phù hộ cho con cháu hiểu nhau.
Hoàng-Nghi tóm lược sự kiện thuật cho Vương-văn-Trổ, Trần-lam-Thanh nghe, rồi nó nói:
– Bọn đệ đi tiên phong, hai vị đi tiếp ứng nghe.
Nó lại nói với Chương-Hào:
– Hữu sứ với Đông-phương sứ thông thuộc đường lối, xin hai vị dẫn đường cho bọn hậu bối đuổi giặc.
Không đừng được, Chương-Hào phải ra lệnh cho thuộc hạ hợp với bọn Hoàng-Nghi. Nhưng là con cáo già, y cẩn thận hơn. Y nhảy lên bành voi ngồi chung với Hoàng-Nghi; Thị-Bằng ngồi chung với Lý-Đoan, Ngọc-Liên.
Voi của Lý-Đoan dẫn đầu đoàn quân, hướng phía Bồng-sa tiến phát. Dọc đường Vũ Chương-Hào cật vấn Hoàng-Nghi về việc gặp Đông-Thiên. Hoàng-Nghi biết rằng Vũ là một ma đầu xảo quyệt, linh lợi có thừa, chỉ cần dấu một điểm là y biết ngay. Vì vậy nó tường thuật từ đầu đến cuối, không bỏ sót một chi tiết nào.
Chương-Hào thắc mắc:
– Ta có một nghi ngờ: xưa nay triều Lý cực kỳ thù hận Hồng-thiết giáo, mà sao nay nhà vua lại giúp giáo chủ làm vua Chiêm? Có gì dấu diếm ở trong không?
Biết rằng khó mà biện thuyết với Vũ, Hoàng-Nghi làm bộ ngây thơ:
– Điều này thì tiểu bối hoàn toàn không biết. Hữu sứ kinh lịch khắp thiên hạ, hữu sứ thử kiến giải xem.
– Ta thì ta đoán rằng: triều Lý do cửa Phật mà có, nên ông vua nào cũng phải tỏ ra từ bi, hỷ xả, khoan thứ, bỏ thù. Chắc vì vậy mà nhà vua nghĩ: bọn ta ở Chiêm lâu ngày, từ tiếng nói, đến cách ăn ở, y phục giống Chiêm, thì để bọn ta làm vua Chiêm, hơn là triều Lý cử quan sang cai trị, rồi cứ phải đánh dẹp bọn Chàm nổi lên phục quốc rất cơ cực. Lại nữa chúng ta là người Việt, mà cai trị Chiêm, thì giòng giống Việt tại đây mới chiếm ưu thế, diệt dần giòng giống Mã-lị-á. Có đúng thế không?
Hoàng-Nghi thấy Chương-Hào chỉ vì cái danh, mà nhìn sự vật toàn mầu xanh, nó vội nói thêm vào:
– Sự thực như hữu sứ kiến giải cũng có, mà theo tiểu bối còn một điều nữa là: Hồng-thiết giáo tổ chức chặt chẽ, có nhiều người minh mẫn tuyệt đỉnh, võ công cao thâm. Nếu như các vị cai trị Chiêm, thì bọn Mã-lị-á có nổi lên chống cũng không nổi. Tương lai, các vị còn tiến vào Nam, chiếm Chân-lạp nữa. Triều đình Đại-Việt luận bàn: từ khai quốc đến giờ Đại-Việt luôn bị cái ách đe dọa của phương Bắc, gần đây lại thêm cái rắc rồi ở phương Nam. Cho nên triều đình muốn sao dứt được cái rắc rối, để có thể yên tâm chống họa Bắc. Nếu Chiêm quốc được cai trị bởi các vị, ít ra Hồng-thiết giáo không phải là bạn tốt, thì cũng chẳng phải là kẻ thù như Chế-Củ.
Bỗng tiếng chim ưng tuần phòng trên trời réo lên báo hiệu. Hoàng-Nghi nhìn về trước, có khói bốc lên, rồi tiếng quân reo, ngựa hý. Vương-văn-Trổ đã phi ngựa lên trước quan sát. Ông nói:
– Đây còn cách Bồng-sa hơn hai mươi dặm. Phía trước kia có trận giao tranh rất ác liệt. Chắc là quân của Chế-Củ với quân của Vũ-kị thượng tướng quân Hà Mai-Việt. Ta phải lên tiếp viện mau.
Đến đó có đôi chim ưng bay tới, chúng ré lên báo hiệu khẩn cấp. Lý-Đoan gọi chim ưng xuống, lấy thư ra đọc, quả là lời cầu cứu của Phạm-Dật, Kim-Loan:
«... Tiền quân của Chế-Củ rút tới Bồng-sa, chúng tôi tung phục binh đánh hậu quân của Chế. Những tưởng hiệu Bổng-nhật với đội thú của Hoàng-Nghi đuổi tới đánh phía sau địch. Nhưng sau nửa giờ vẫn không thấy đâu. Trung quân của Chế-Củ đánh quặt trở lại. Chúng tôi bị bao vây... »
Hoàng-Nghi hội với Vũ-chương-Hào, Nguyễn-thị-Bằng, Vương-văn-Trổ, Trần-lam-Thanh. Nó nói:
– Đúng kế hoạch, thì hai đô thống với bọn đệ đuổi sát phía hậu quân Chế-Củ. Nhưng vì có sự hiểu lầm, bọn đệ bị Vũ hữu sứ kiềm chế, thành ra ta tiến quân chậm, mới nên nông nỗi. Bây giờ chúng ta phản ứng ra sao?
Vương Văn-Trổ đề nghị:
– Ta viết thư cho Hà Mai-Việt, báo tin để họ phá vòng vây, còn ta thì đánh bọc hai bên.
Trần-Ninh viết thư sai chim ưng đi liền. Sau khi thỏa thuận, Vương-văn-Trổ, Trần-lam-Thanh đem hiệu Bổng-nhật đánh vào bên phải; Vũ-chương-Hào, Nguyễn-thị-Bằng với bản bộ quân mã đánh vào bên trái; bọn Hoàng-Nghi, đem đội võ sĩ Long-biên, đội voi, đội hổ đánh vào chính giữa.
Ba cánh quân đánh trống, tiến lên.
Bọn Hoàng-Nghi thúc quân lên đường. Mỗi lúc tiếng quên reo, ngựa hí càng gần. Khoảng hơn khắc sau, phía trước hiện ra một trận chiến: quân Việt đóng trên một ngọn đồi thấp thoai thoải, dàn trận thành hình cánh cung. Đội kị binh Phù-đổng núp sau những tảng đá lớn dùng tên cản trở không cho quân Chiêm tiến lên. Đội sói núp bên cạnh trong tư thế phòng vệ. Còn quân Chiêm thì dàn ra vây chặt dưới đồi. Dường như họ đã xung phong nhiều lần, nhưng không kết quả, vì xác người, xác ngựa nằm rải rác trên sườn đồi.
Hoàng-Nghi đốt pháo thăng thiên tung lên trời. Đó là hiệu lệnh tấn công. Đạo Bổng-nhật từ phía phải, đạo của Vũ-chương-Hào từ phía trái, vừa reo hò xung vào phòng tuyến Chiêm. Bọn Hoàng-Nghi cầm cờ phất, đám võ sĩ Long-biên đứng trên lưng voi, cung dương, tên nạp; đội hổ đi phía trước. Quân Chiêm thấy hổ mà vẫn bình tĩnh, dương cung chống trả. Nhưng chỉ hai loạt tên đầu của đội võ sĩ Long-biên, hơn nghìn người chết. Đội hình Chiêm bị cắt làm đôi. Phía trên đồi, Phạm-Dật, Kim-Loan xua đội sói đổ đồi. Đạo kị binh Phù-đổng rời khỏi chỗ nấp đánh trở xuống. Không đầy nửa giờ, vòng vây bị phá vỡ, quân Chiêm bỏ chạy về hướng Nam.
Hai quân bắt tay được với nhau. Vợ chồng Huyền-kỳ chủ vội đến trước Vũ-chương-Hào, Nguyễn-thị-Bằng thi lễ. Phạm-Dật kể với Hoàng-Nghi:
– Trận chiến vừa qua, nghĩ lại mà rùng mình. Bọn Chiêm rút về Bồng-sa, vừa ngừng lại nấu cơm ăn, Vũ-kị đại tướng quân với bọn ta phục binh, xông ra đánh cắt hậu quân chúng thực dễ dàng. Trong khi giao chiến, ta cứ nghĩ rằng bọn mi tới liền, tiêu diệt đám hậu quân, rồi đuổi theo trung quân chúng. Không ngờ chẳng thấy bọn mi đâu, trong khi trung quân chúng trở lại đánh tập hậu. Bọn ta đành rút lên đồi cố thủ.
Có chim ưng mang thư đến, Phạm-Dật mở ra coi, rồi cung kính nói với Vũ-chương-Hào, Nguyễn-thị-Bằng:
– Thưa hữu sứ, Trung-thành vương cho biết, hiện quân Đại-Việt đã chiếm xong Đồ-bàn và các huyện lân cận. Chỉ dụ của đức vua ban ra rằng: quân Đại-Việt tiến đánh đến Bắc Hải-vân thôi. Còn phía Nam Hải-vân trao cho các vị trong Hồng-thiết giáo. Đạo quân của Trung-thành vương đánh Đồ-bàn; đạo quân của nguyên soái Thường-Kiệt đánh Thi-nại, đều với mục đích giúp các vị. Hiện nay đại giá giáo chủ đang đánh quân Chiêm ở Tu-mao, vậy kính mời hữu sứ, Đông-phương sứ về Đồ-bàn tổ chức an dân, cai trị.
Vũ Chương-Hào mừng chi siết kể, bởi từ trước đến giờ y vẫn coi thường Đông-Thiên. Trong trận chiến Đồ-bàn vừa rồi, bất đắc dĩ y phải khuất phục Đông-Thiên để chờ thời, chứ trong lòng y, thì y vẫn nghĩ rằng, lật Chế-Củ rồi, y sẽ lên làm vua. Bây giờ Đông-Thiên đang tham chiến ở Tu-mao, Trung-thành vương gọi y về giữ Đồ-bàn, thì là điều y cầu mà không được. Vì sau khi y tổ chức nền cai trị Đồ-bàn, rồi cử người thân tín đi nhậm tất cả lộ, phủ, huyện, trang, xã, thì sau này Đông-Thiên không thể tranh thắng với y. Y vui vẻ nói:
– Tôi xin tuân chỉ của vương gia.
Sau khi cho quân ăn cơm trưa rồi, Phạm-Dật nói với vũ-kị đại tướng quân Hà Mai-Việt:
– Hà tướng quân cùng hai vị Huyền-kỳ chủ ở lại đánh chiếm, tổ chức cai trị các vùng xung quanh. Anh em chúng tôi xin đuổi theo quân Chiêm ngay, không cho chúng kịp nấu cơm ăn. Như vậy khi chạy tới Nỏng-khà thì tan rã.
Hổ, sói được xua lên xe, dùng voi kéo. Phạm-Dật hỏi anh em:
– Ê! Bọn bay mệt chưa?
– Mệt hay không, đếch cần bàn đến! Hãy đuổi theo giặc tới cùng đã.
Bốn trai, ba gái, đi trên bốn voi xua quân lên đường. Lý-Đoan luôn luôn dùng chim ưng theo dõi tình hình quân Chế-Củ. Trưa hôm ấy bọn chúng dừng quân dưới chân một ngọn núi đá dựng đứng, cạnh con suối. Phạm-Dật quan sát kỹ, chúng quyết định hạ trại: lưng dựa vào núi, phía trái là ngọn suối, phía phải là cánh đồng. Hoàng-Nghi bố trí các xe thành những bức tường che mặt trước, mặt phải. Sau đó phân chia cho Ưng-binh, Ngao-binh canh phòng, rồi nấu cơm ăn.
Thú rừng được thả ra cho chạy tự do. Đội võ sĩ Long-biên cử mười toán đem chó sói đi săn. Rừng núi vùng này rất nhiều thú. Chỉ hơn giờ sau, các toán săn bắn đem về nào hươu, nào nai, nào hoẵng, nào heo rừng, nào trâu rừng không biết bao nhiêu mà kể; làm lương thực. Đội voi, ngựa thì ăn cỏ. Đội hổ, sói, hồi chiều sau trận giao chiến với quân Chiêm, chúng được thưởng thức một bữa thịt người ê hề, nên bây giờ chúng kiếm chỗ nằm nghỉ. Ngọc-Liên, Ngọc-Hương vốn có tài nấu ăn. Hai nàng cắt một đùi nai, rồi lấy củi khô đốt lên nướng. Bẩy người vừa cắt thịt ăn vừa bàn luận.
Hoàng-Nghi vừa ăn, vừa thừ người ra tỏ vẻ đăm chiêu. Ngọc-Liên hỏi:
– Anh ba Nghi đang nghĩ gì vậy?
– Anh thấy chúng mình trải qua một đêm xung sát mệt lử, bây giờ hãy tạm nằm nghỉ. Đêm nay trời tối, ta đem quân đuổi theo Chế-Củ, gây cho quân sĩ của y kinh hoàng, thì mới mong bắt được y. Tuy nhiên, anh ngại một điều, quân của chúng tuy hao hụt, nhưng cũng còn vài vạn. Ta làm sao địch nổi?
Phạm-Dật phất tay:
– Hồi sáng, giao chiến với bọn Chiêm, anh thấy chúng mệt mỏi lắm rồi. Vì từ sớm hôm qua, chúng chia thành hai phe ủng Vũ Chương-Hào, phe ủng Chế-Củ đánh nhau kẻ chết, người bị thương; rồi khi quân ta vào thành, chúng rút chạy. Khi đến đây vừa dừng lại nấu cơm thì bị đổ ra đánh. Ta đồ chừng chúng chạy khoảng năm chục dặm ắt dừng lại nghỉ ngơi. Bây giờ giữa đêm, ta tung phục binh đánh, thì y phải bỏ chạy.
Lý-Đoan, Trần-Ninh tán thành:
– Thôi ăn rồi đi ngủ, để sức đêm nay xung sát. Mình phải đánh tan quân Chế-Củ cho tên chó Trần Thanh-Nhiên lé mắt chơi.
Hoàng-Nghi đưa mắt nhìn về Đồ-bàn, trong lòng buồn rười rượi.
Kim-Loan hỏi nó:
– Chú ba này, chị thấy gần đây, dường như chú có điều gì buồn thì phải. Chị tuy chưa là vợ của anh Dật, nhưng tương lai cũng là chị dâu chú. Vậy chú có điều gì bất mãn, chú có thể nói cho chị nghe được không?
Hoàng-Nghi thở dài:
– Chuyện em chẳng có gì lạ cả, vẫn lại chuyện Chang-Lan mà thôi.
Rồi nó tường thuật cuộc đối thoại với Lan hôm trước cho Kim-Loan nghe. Kim-Loan nhăn mặt:
– Điều Lan nói, chị không lạ. Vì chị đã từng sống trong trang Vọng-hương của Võ– Xuân-Loan, nên chị biết vấn đề này rất rõ. Chính vì vậy chị với Kim-Liên không chịu nhập Hồng-thiết giáo, rồi đưa đến cha, anh bị chúng hành hạ. Như Chang-Lan kể, thì nàng nhập Hồng-thiết giáo lâu rồi, nên coi sự hiến thân cho lão Đông-Thiên là một vinh dự. Trong những ngày vừa qua, chị thấy cô ấy tỏ ra rất có oai quyền với mười kỳ chủ, gần như tự coi mình là vợ của giáo-chủ vậy. Như thế thì chú chẳng nên để ý đến con người ấy làm gì.
– Kể từ lúc nàng thuật rằng được phục thị Đông-Thiên là một vinh hạnh lớn, thì em cảm thấy lợm giọng, không muốn nói chuyện với nàng nữa. Còn em buồn, là buồn cho số kiếp mình mà thôi. Em đợi sau trận đánh này trở về, sẽ tìm Mộc-tồn hòa thượng xin thọ giới, để làm một tiểu Mộc-tồn.
Nghe Hoàng-Nghi kể, Kim-Loan an ủi nó:
– Chuyện tình, thì chỉ là cái vui nhỏ. Cái vui lớn là sự nghiệp vĩ đại mà chúng ta đang làm đây mới đáng kể. Không lẽ chỉ vì một đứa con gái Chiêm, tư cách chưa đáng gía một đồng, mà chú ba lại táng chí như thế sao?
– Em cũng nghĩ như chị, nhưng chị ơi, cái tình là cái chi chi, không thể đem lý ra mà luận bàn được. Chị khuyên em, tuy em thấy thuận lý, nhưng trong lòng em, thì em vẫn thấy bồi hồi khó tả.
Đạo quân ngủ đến hết canh tư, thì có tiếng sói tru, tiếng ưng kêu báo hiệu. Cả bọn bật dậy, leo lên cây quan sát, bất giác cùng ớn da gà: từ hai phía trước và phải của trại, hai đạo quân đông như kiến đang âm thầm tiến vào phía trại. Trong trại, đội võ sĩ Long-biên đã dàn ra, núp vào các xe, bụi cây, chuẩn bị chống trả. Trần-Ninh, Ngọc-Hương trấn phía phải; Lý-Đoan, Ngọc-Liên trấn phía trái.
Hoàng-Nghi chỉ huy đội voi, đội hổ, đội sói chia làm hai mặt, chuẩn bị yểm trợ.
Phạm-Dật, Kim-Loan trấn tại trung ương. Cả hai thấy địch còn ở xa, nên ra lệnh án binh bất động. Đội quân tấn công chỉ còn cách phòng tuyến trại khoảng trăm trượng (200m ngày nay), mà không thấy trong trại có phản ứng gì, thì dừng lại nghe ngóng. Khoảng nhai dập miếng trầu, hai đội quân lại từ từ tiến vào, khoảng cách ngắn dần... năm mươi trượng, rồi ba mươi trượng, rồi hai mươi trượng. Hoàng-Nghi cầm tù và rúc lên một hồi, đám võ sĩ Long-biên đồng buông tên, hàng đầu đội binh bị trúng tên ngã lổng chổng. Quân tấn công thúc trống reo hò xua voi đi trước, người đi sau. Đuốc đã đốt lên sáng rực. Nhìn quân tấn công, bất giác Phạm-Dật ớn da gà, bởi chúng dàn đến mười lớp. Hai lớp đầu tiên gồm voi, với đội hoả công, chúng đeo rơm tẩm dầu trên lưng, chắc định phóng hỏa đốt trại; hai lớp thứ nhì là cảm tử mang đoản đao; hai lớp thứ ba là đội cung thủ; hai lớp thứ tư là kị binh; hai lơp cuối cùng là bộ binh với xe bắn đá.
Loạt tên đầu làm lớp thứ nhất ngã, loạt tên thứ nhì khiến đội voi con thì bị thương, con thì chết; thành ra lớp thứ nhì bị voi với tử sĩ lớp thứ nhất cản trở.
Phạm-Dật hô võ sĩ Long-biên:
– Dùng tên tẩm dầu bắn vào những bó cỏ trên lưng đám tử sĩ, và lớp thứ nhì.
Võ sĩ Long-biên lấy tên đầu bọc vải tẩm dầu đeo trên lưng đốt lên bắn ra ngoài. Những tử sĩ tuy chết, nhưng trên lưng còn đeo bó cỏ tẩm dầu bị trúng tên lửa bốc cháy, làm lớp thứ nhì không tiến lên được. Chúng đang kinh hãi thì đến lượt những bó cỏ trên lưng chúng bị trúng tên bốc cháy. Chúng vội quẳng cỏ xuống, chưa biết hành động ra sao, thì lại bị trúng tên. Xung quanh trại khói lửa bốc lên sáng rực. Tuy thấy hai lớp đầu thất bại, nhưng lớp thứ hai vẫn không lùi bước; đó là những võ sĩ cảm tử. Họ nhảy qua xác chết, qua hàng rào lửa, tiến vào trại. Võ sĩ Long-biên lại buông tên, nhưng loạt tên chỉ làm ngã một phần đám cảm tử quân mà thôi; thoáng một cái, họ đã vào tới hàng rào. Hoàng-Nghi hú lên một tiếng, voi, sói, cọp, cứ ba con thành một toán nhảy ra cản đám võ sĩ cảm tử. Hai bên lẫn vào nhau. Kẻ chém giết, sói cắn, hổ vồ, voi dùng vòi vật... hỗn độn.
Phạm-Dật chỉ huy đội võ sĩ Long-biên, bỏ không đánh đội cảm tử, mà ngăn cản đội cung thủ đã tiến tới sau đội cảm tử. Tên bắn qua, cung bắn lại. Khoảng một khắc sau, hai lớp đầu của quân tấn công bị cắt đứt, xác chết ngổn ngang ngoài doanh trại.
Có tiếng thanh la vang dội, đội quân tấn công từ từ lùi ra khỏi phòng tuyến.
Thời gian giao chiến khoảng ba khắc (40 phút ngày nay), nhưng thực kinh hồn táng đởm: bên tấn công đông gấp mười, tỏ ra gan dạ, liều mạng. Bên phòng thủ thì mưu trí, điều động nhịp nhàng; nhất là đội võ sĩ Long-biên, họ là những cao thủ võ lâm, nên cung cứng, tên dài, tầm bắn xa, trăm phát trăm trúng. Khi thì mỗi phát họ bắn một mùi tên, khi thì mỗi phát hai, ba, thậm chí mười mũi; nên hầu hết đội voi xung vào đều bị bắn hạ.
Hoàng-Nghi đếm xác voi ngoài hàng rào có đến hơn trăm. Nhiều con bị thương chưa chết, rống lên thảm thiết. Về quân tấn công, kẻ trúng tên, người bị voi quật, cắn chết, cũng có người bị chính cỏ mình đốt cháy. Còn rất nhiều người bị thương chưa chết, nằm rên rỉ. Nó khoát tay ra lệnh thu quân, chỉ để mỗi mặt một đội canh gác. Trên trời, thường trực đội ưng tuần phòng.
Lý-Đoan là thầy thuốc, hoàn cảnh bất đắc dĩ phải xung trận giết người, thì nó làm được. Bây giờ sau trận đánh, thấy thương binh kêu khóc, lòng nó nhũn ra. Nó cùng đội cứu thương với đội võ sĩ Long-biên ra ngoài nhặt được bẩy mươi thương binh đem vào trong băng bó, chữa trị. Đội võ sĩ Long-biên bắt được bốn mươi chín tù binh, vì sợ quá, nằm ì lại dưới các lùm cây giả chết.
Phạm-Dật hội anh em lại. Nó bảo Kim-Loan, Ngọc-Liên, Ngọc-Hương:
– Trong đám tù binh, có hai tên mặc theo võ phục đội trưởng, các em nói giỏi tiếng Chàm, vậy các em đem chúng vào hỏi cung xem đây là quân nào? Chúng tấn công mình với mục đích gì?
Trong khi đó Phạm-Dật bàn với ba em:
– Các em nghĩ sao?
Lý-Đoan phát biểu:
– Bọn tấn công tỏ ra rất can đảm, thiện chiến, phối hợp nhịp nhàng. Chúng lại biết rõ tình hình ta, nên chúng định dùng voi phá phòng tuyến ngoài, rồi đốt trại để làm tê liệt đội hổ. Bấy giờ chúng mới tung đội cảm tử đánh giápn một đặm, mà không thấy ai, đến đây tiếng tiêu, tiếng đàn dứt, đệ phải về.
Chợt vương phi Trinh-Dung chỉ vào mũ nó:
– Kìa, trên mũ em có cái gì kìa?
Phạm-Dật cầm mũ xuống xem, bất giác mọi người cùng bật lên tiếng: « Ồ! » rồi « ái chà », « úi chu choa », bởi trên mũ nó ai đó đã gắn vào hai phù hiệu bằng bạc. Một phù hiệu là bông sen, và một phù hiệu là con chó.
Trung-thành vương bảo Phạm-Dật:
– Người tấu nhạc là Đại-từ liên hoa Viên-Chiếu và Mộc-tồn Vọng-thê hoà thượng. Vì vậy hai ngài cài phù hiệu vào mũ mà em không biết, thì cũng chẳng có gì là lạ. Hà! Hai vị đã hiện diện quanh đây, thì chúng ta coi như đó hai Bồ-tát biến thành hai ngôi sao thủ mệnh rồi.
Chư tướng cùng cảm thấy ấm áp trong lòng. Còn Trần Thanh-Nhiên thì sợ quá, đến chân tay run lật bật, nhưng y vẫn nói cứng:
– Hy sinh! Hy sinh để cướp nước người ư?
Nói rồi y cau mặt lắc đầu. Trần-Ninh tức quá, nó đứng lên chỉ vào mặt Thạnh-Nhiên rồi kể cái tội không chịu tham chiến đánh vào hậu quân Chiêm ở cửa Nhật-lệ. Thạnh-Nhiên cũng không vừa, y nói:
– Tôi đường đường là một đô thống, vào sinh ra tử hai mươi năm dư, nay thân cầm quân, chẳng lẽ tôi phải nghe lệnh bọn trẻ các người chưa có lấy một chức tước nào sao?
Trần-Ninh cười nhạt:
– Này Trần đô thống! Chúng ta lặn lội vào Chiêm này với mục đích gì? Đâu có ai tham vàng, tham bạc? Chúng ta cùng ra đi với một mục đích giữ gìn sự nghiệp mấy nghìn năm của tổ tiên, thì phải bỏ tỵ hiềm riêng tư, để chung lưng, đấu cật đánh giặc chứ?
Thạnh-Nhiên tức xám mặt lại, nhưng y không biện luận được, vì Trần-Ninh đem đại nghĩa dân tộc ra làm căn bản tranh luận, chứ không đem quân luật hay nguyên tắc hành binh. Trần-Ninh tiếp:
– Vừa rồi, ngoài khơi thì quân ta với Chiêm giao chiến nghiêng ngửa, phía trước thì Trung-thành vương, tả-lãnh vệ thượng tướng quân Dư, vũ kị thượng tướng quân Hà... đang gặp nguy cơ; tất cả đều trông vào sự thành hay bại của chúng ta. Anh em tôi thấy nếu mình cứu ứng chậm một chút, thì có hàng nghìn binh tướng Việt chết. Vì vậy chúng tôi mới đề nghị với đô-thống cùng xuất quân. Nhưng đô thống lấy lẽ quân sĩ mệt không tham dự. Anh em chúng tôi phải đơn độc mạo hiểm. Thế nhưng sau trận đánh, đô-thống phúc bẩm rằng chiến công tiêu diệt kị binh Chiêm, chiếm thủy trại Chiêm là của đô thống. Chúng tôi có nói gì đâu? Bây giờ, để thực thi chỉ dụ của hoàng-thượng, phải giải quyết chiến trường cho mau, anh em chúng tôi không quản mệt nhọc, tình nguyện chết, chẳng liên quan gì tới đô-thống, mà đô-thống cũng rắc rối với anh em chúng tôi?
Trung-thành vương là người trầm tĩnh, khoan hòa, vương đã được phúc bẩm tất cả những gì xẩy ra ở trận đánh thủy trại Chiêm, nhưng trong lúc đang đối diện với giặc trên đất nước người, vương lờ đi cho Thạnh-Nhiên an tâm. Không ngờ bây giờ y lại kiếm chuyện với Long-biên ngũ hùng, khiến Trần-Ninh nổi giận, nó nói toạc ra, làm y giận tái mặt.
Trung-thành vương vẫy tay ra lệnh im lặng:
– Đó là lỗi ở cô gia. Hôm trước cô gia không chỉ định ai làm chánh tướng mặt trận ấy, nên mới ra cơ sự. Hôm nay đây Trần đô thống làm phó tướng cho đô-thống Nguyễn-văn-Thuấn, thì không có vấn đề nữa.
Vương hướng vào Long-biên ngũ hùng:
– Nếu Chế-Củ bỏ thành Nỏng-khà chạy về Nam, thì tinh lực quân của y không còn. Dư tướng quân trấn tại thành này, còn Long-biên ngũ hùng, với năm trăm dũng sĩ và các đạo binh thú đuổi y cho đến cùng.
Hoàng-Nghi hỏi:
– Nếu y chạy tới biên giới Chân-lạp, rồi vào nước này, chúng đệ có đuổi theo không?
– Không! Chân-lạp với ta rất thân. Giờ này Chân-lạp đang cất quân đánh vào phía Nam Chiêm-thành rồi. Ta liệu chừng Chế-Củ không dám vào Chân-lạp đâu.
Vương đứng dậy:
– Cô gia nhắc lại: cuộc chiến này là cuộc chiến giữa nhân nghĩa và hung tàn. Ta ra quân đánh Chế-Củ, để lập lại hạnh phúc cho dân Chàm. Mà dân Chàm, vốn thuộc tộc Việt. Vì vậy đối với dân chúng, ta phải tỏ ra hết sức nhẹ nhàng, thận trọng, giúp đỡ họ. Đối với tù binh, ta càng phải tử tế. Họ bị thương, thì chữa trị cho họ, chu cấp lương bổng cho họ như quân nhà. Tuyệt đối tránh chém giết.
Vương nói thực chậm:
– Binh, tướng nào đánh tù binh, đánh dân chúng, cướp bóc tài sản, thì bị chặt tay. Nếu giết dân chúng, giết tù binh, thì bị xử tử hình. Các cấp chỉ huy tới cấp sư trưởng đều bị cách. Nếu hãm hiếp phụ nữ thì bị chém ngay tại chỗ, đầu đem rao khắp chư quân.
Vương trở lại giọng ôn tồn:
– Sáng mai, Hoàng-Nghi khởi hành vào giờ Mão. Còn chúng ta khởi hành vào giờ Tỵ. Thôi, đi nghỉ.
Vương nói với vợ chồng Huyền, Lam, Xích kỳ:
– Các vị đều là con dân Đại-Việt. Vì lòng yêu nước, mà bị bọn ma đầu làm cho thân tàn ma dại. Sau trận này, cô gia sẽ đưa các vị đi gặp Đại-từ Liên-hoa, Mộc-tồn Vọng-thê hòa thượng để giải độc tố Chu-sa huyền âm, rồi cô gia sẽ nhờ tiên nương Thiếu-Mai trị lưỡi cho các vị.
Sáu người mừng chi siết kể, cùng cúi đầu lạy tạ vương.
Hôm sau, giờ Mão, đoàn quân của Hoàng-Nghi kéo cờ Chiêm lên đường. Ngọc-Liên, Ngọc-Hương, đội hoàng Nam Vọng-hương đi đầu. Bọn Hoàng-Nghi giả làm giáo chúng Hồng-thiết, dẫn năm trăm dũng sĩ Long-biên, cùng một số dân phu tải lương hướng Đồ-bàn. Đám thú được bỏ vào cũi, để trong xe đậy kín, do voi kéo. Đoàn quân đi đến chập choạng tối, thì thành Đồ-bàn hiện ra trước mặt. Từ xa xa nhìn về, trong thành có những cột khói đen cùng lửa bốc cao, Hoàng-Nghi bàn với Lý-Đoan, Trần-Ninh:
– Hai em nghĩ sao?
– Khó biết lắm. Ta sai chim ưng dò thám xem sao.
– Ừ nhỉ.
Hoàng-Nghi sai một đội mười chim ưng bay đi, lát sau, chúng bay về, vỗ cánh lá cà diệt đội võ sĩ Long-biên, cuối cùng là đội tiễn thủ để thanh toán chiến trường. Nhưng chúng không biết hai điều, một là đội võ sĩ Long-biên có mang tên lửa theo, hai là cọp của ta được huấn luyện không sợ lửa; nên chúng mới thất bại.
Đến đó Kim-Loan trở lại, nàng nói:
– Đạo binh này là đạo binh phòng thủ tuyến thứ ba ở Tu-mao, chưa từng giao chiến với quân Việt. Nghe tin Đồ-bàn thất thủ, Bố-bì Đà-na sai Bắc-sứ Hồng-thiết giáo là Nguyễn Nhược-Điểu rút lui, đi men theo đường biển đến Bồng-sa, đánh tập hậu chúng ta, rồi đi đoạn hậu bảo vệ Chế-Củ. Chế-Củ sẽ rút về Phong-sa-trang. Còn Nguyễn Nhược-Điểu trấn tại thành Nỏng-khà, trong khi đó Bố-bì Đà-na cố cầm cự ở Tu-mao. Mục đích chúng làm cho ta phải chia quân làm bốn nơi: trấn Đồ-bàn, công Tu-mao, vây Nỏng-khà, đánh Pandurango. Ta có dứt được bốn nơi, ít ra phải hơn năm. Như vậy ta sẽ bỏ cuộc rút lui. Bấy giờ chúng mời phản công.
Phạm-Dật vội viết thư báo cáo cho Trung-thành vương, cho nguyên soái Thường-Kiệt, rồi sai chim ưng mang đi. Hoàng-Nghi than:
– Bọn Chiêm quả thực tài chí không tầm thường, hèn gì chúng dám mưu đánh chiếm Nghệ-an của mình. Cơ chừng này, hoàng thượng là ông vua nhân từ, sợ binh sĩ chết nhiều, người cho lui quân thì hỏng bét. Vậy ta phải làm sao bây giờ? Mấy hiệu quân của Trung-thành vương dàn ra quá rộng rồi, bây giờ tập trung lại đánh Nỏng-khà không dễ gì thành công đâu. Tất cả đều đặt hy vọng vào chúng ta, mà chúng ta bị vây ở đây, thì làm sao hành sự được?
Đến đó, chim ưng từ phương Nam đem thư đến, Hoàng-Nghi vội mở ra xem, thì ra đó là thư của Dư-Phi, Vũ-Quang thông báo quân tình:
«... Đạo binh của Chế-Củ không rút về Nỏng-khà, mà đi đường tắt ra bờ biển. Chế-Củ, cùng triều đình, cung quyến rút xuống chiến thuyền, đổ về Nam đèo Trưởng-sơn. Còn quân tướng, thì chia làm hai, một nửa đóng trong thành Nỏng-khà, một nửa đóng ở bờ biển làm thế ỷ dốc. Vì vậy chúng ta đều ẩn thân trong rừng chờ lệnh của nguyên soái Thường-Kiệt. Chúng ta chỉ còn bốn ngày lương mà thôi... ».
Trời sáng dần.
Phạm-Dật truyền thả thú ra cho chúng ăn uống, quân sĩ nấu cơm, nhưng vẫn phải phòng bị, sợ quân Chiêm trở lại. Quân sĩ vừa ăn cơm xong, thì quân Chiêm quay trở lại tấn công. Chúng xung phong ba lần, đều bị chết nhiều quá, phải rút ra. Hơn hai giờ sau, đạo quân khác lại kéo đến tấn công. Nhưng khi tới cách tuyến phòng thủ năm chục trượng, chúng lại reo hò rút lui. Hoàng-Nghi kinh hãi nói:
– Nguy lắm!
Ngọc-Liên hỏi:
– Cái gì vậy anh ba?
– Bọn chúng đông gấp mười ta, chúng chia quân thành nhiều toán, thay nhau tấn công, đặt ta vào thế bị động. Như vậy chỉ trong vòng hai ngày là ta kiệt sức, bấy giờ chúng sẽ đánh thực sự thì ta khó mà sống còn.
Ngọc-Hương bàn:
– Hay là ta cũng chia toán ra phòng vệ!
– Không được!
Hoàng-Nghi than: Cứ tình trạng này thì chỉ ba ngày nữa ta hết lương, thì chịu sao cho nổi?
Ngọc-Liên suy nghĩ một lúc rồi chỉ về phía Đồ-bàn:
– Ta viết thư cầu cứu với Trung-thành vương. Vương sẽ cho quân đến giải vây cho ta.
Hoàng-Nghi nhăn mặt, nói với Phạm-Dật:
– Bất cứ ai cũng có thể làm như Ngọc-Liên bàn. Riêng anh em mình không thể làm thế được. Bởi lúc đi, mình đã cam kết hoàn thành sứ mạng, nay lại viết thư cầu cứu, thì danh dự còn gì? Chúng ta thà chết, chứ không thể chịu nhục. Em đề nghị đêm nay chúng ta phá vòng vây chạy về hướng Nỏng-khà hợp với quân của Dư-Phi, Vũ-Quang, rồi rút sang Lão, ta đi đường Tây Trường-sơn đánh úp Pandurango. Như vậy vừa không phạm quân luật, vừa hoàn thành sứ mạng.
Trần-Ninh suýt xoa:
– Ta hành sự táo bạo như vậy, thì muôn ngàn lần Nguyễn Nhược-Điểu cũng không ngờ tới. Y chỉ có thể tưởng tượng ta cố thủ, hoặc phá vòng vây trở về Đồ-bàn mà thôi.
Cả bọn đều đồng ý.
Lý-Đoan sai chim Ưng binh cùng Ngao-binh dò thám quân tình địch, trong khi Phạm-Dật truyền cho binh sĩ nấu cơm ăn tại chỗ, chuẩn bị cơm nắm trong hai ngày. Sau khi ăn cơm xong, Ngao-binh, Ưng-binh trình bầy:
– Quân Chiêm tưởng ta có thể rút trở về Đồ-bàn, nên chúng phục binh làm ba nơi. Còn lại chúng đóng rải rác thành bốn trại. Riêng con đường mòn phía sau ngọn suối đi về hướng Tây thì chúng chỉ có hai vọng gác mà thôi.
Hoàng-Nghi truyền lệnh:
– Đêm nay, canh ba bắt đầu rút binh. Lý-Đoan, Ngọc-Hương dẫn một đội Ưng-binh, Ngao-binh, trăm võ sĩ Long-biên âm thầm vượt suối, thình lình giết quân canh Chiêm ở phía Tây, rồi trấn tại đó. Còn lại tất cả chúng ta khóa mõm thú, chia làm ba đội rút lui. Anh Dật, chị Loan dẫn toán đầu; Trần-Ninh, Ngọc-Hương dẫn toán thứ nhì. Tôi dẫn toán thứ ba. Khi tôi rút qua, thì Ninh, Hương mới rút theo bảo vệ hậu quân.
Đúng nửa đêm, các toán bắt đầu rút. Bao nhiêu xe đều phải để lại. Người ngậm tăm, thú khóa mõm âm thầm băng qua suối đi về hướng Tây. Trần-Ninh, Ngọc-Hương chờ cho Hoàng-Nghi rút qua rồi, hai người mới đem đội Ngao, đội Ưng và trăm võ sĩ Long-biên rút lui. Toán tiền phong nhờ có chó sói, chim ưng dẫn đường, nên tuy đi trong đêm mà không bị lạc. Khi trời sáng, thì toàn quân đã vượt qua bốn ngọn đồi, đang đổ vào một thung lũng, đồng bằng mênh mông. Bấy giờ Phạm-Dật mới cho nghỉ quân. Nó viết thư sai chim ưng báo cho Dư-Phi, Vũ-Quang biết. Hai bên hẹn nhau tại khu rừng phía Nam đèo Rundari (tiếng Việt gọi là Rù-rì, tên này nay vẫn còn).
Nghỉ quân đến trưa, Phạm-Dật lại thúc quân lên đường. Tối hôm đó, quân vượt qua một ngọn núi, tiến về hướng Đông. Kinh nghiệm bị tấn công mấy hôm trước, khiến bọn trẻ cẩn thận hơn, chúng chia quân đóng làm hai khu. Phạm-Dật, Kim-Loan, Hoàng-Nghi đóng ở cạnh suối. Lý-Đoan Ngọc-Liên, Trần-Ninh Ngọc-Hương đóng ở chân ngọn núi đá cao. Cơm chiều xong, chúng cho quân tắt đèn đi ngủ.
Tại khu trại chân núi, giữa lúc Trần-Ninh, Lý-Đoan đang cùng chị em Ngất ba lần, đạo binh dưới quyền y hô lên một tiếng rồi xông vào trận. Bọn Hoàng-Nghi vẫn án binh bất động. Đạo binh theo Chiêm đông hơn, khí thế mạnh hơn. Nhưng đạo binh của Hồng-thiết thì tướng giỏi, võ công cao. Vì vậy cuộc chiến thực ác liệt. Vũ-chương-Hào, Nguyễn-thị-Bằng võ công cực cao, mỗi chưởng của chúng đánh ra, là một tướng Chiêm bay khỏi mình ngựa.
Khoảng hơn khắc sau, lại có tiếng trống thúc, rồi quân reo. Một kị binh vào báo với Hoàng-Nghi:
– Bốn hiệu quân đã vây bốn cửa thành rồi. Trung-thành vương truyền tiểu tướng quân tấn công bọn Hồng-thiết ngay.
Phía sau, hai hiệu quân Thần-điện do Nguyễn-văn-Thuấn, Trần-thạnh-Nhiên đã theo cửa Tây nhập thành. Hai hiệu quân đều mang cờ voi của Chiêm, nên cả hai bên không biết đạo này sẽ giúp ai? Nguyễn-văn-Thuấn lĩnh đạo tả, đánh về cửa Nam. Trần-thạnh-Nhiên trấn sau đội của Hoàng-Nghi.
Hoàng-Nghi đứng trên bành voi, tay cầm cờ phất ba cái. Đội voi rống lên xông vào ngang hông đạo cờ đỏ. Chỉ loạt tên đầu, hơn năm trăm viên tướng, đội trưởng ngã ngựa. Đội hổ xung vào hậu quân. Đội quân Hồng-thiết bị cắt làm đôi. Hoàng-Nghi cho mở đường máu đánh thẳng về trước, hàng ngũ đội cờ đỏ rối loạn. Đạo quân cờ voi phía trước được trợ giúp, tiến lên đánh như vũ bão.
Trong khi giao chiến, Hoàng-Nghi nhìn lại, thì đạo Thần-điện hữu với Trần-thạnh-Nhiên án binh bất động. Nó nói vọng lại:
– Xin đô-thống đánh vào hậu quân đội cờ đỏ dùm, mau lên!
Thạnh-Nhiên cau mày lắc đầu:
– Ta không tuân lệnh bọn nhóc các người.
Hoàng-Nghi phát cáu, nhưng đành chịu nhịn, nó đứng điều động đội võ sĩ Long-biên tấn công địch. Khoảng hơn khắc, đạo quân cờ đỏ lùi về tới cửa thành phía Đông. Vũ-chương-Hào thấy rằng đội binh Hoàng-Nghi không đông làm bao, nhưng được chỉ huy bởi ba đứa con trai, hai đứa con gái, tuổi chưa đến hai mươi. Y nói với Thị-Bằng:
– Bọn Chiêm ta không đáng sợ. Đáng sợ là bọn nhóc con kia, không biết ai chỉ huy chúng. Nếu muốn sống sót hôm nay, ta phải xông vào kiềm chế năm đứa ranh con, thì mới hy vọng thoát thân. Nào, tiến lên.
Chương-Hào, Thị-Bằng cùng mấy chục đệ tử xông thẳng vào trận thú của Hoàng-Nghi. Biết rõ chủ ý của chúng, Hoàng-Nghi cầm cờ chỉ cho võ sĩ Long-biên. Tất cả cung đều hướng hai người buông tên. Nhưng cả hai là những cao thủ hiếm có, tay vung kiếm, tay khoa bắt tên. Chỉ nhấp nhô mấy cái, cả hai đã tiến sát tới voi của Hoàng-Nghi, Lý-Đoan, Trần-Ninh. Ba người nhảy khỏi lưng voi ẩn tránh, thì cảm thấy tóc bị túm, rồi bị nhắc bổng lên cao. Đám võ sĩ Long-biên không dám buông tên nữa, sợ trúng chủ tướng.
Quân ba bên cùng reo hò, rồi lui lại ngừng chiến.
Chương-Hào, Thị-Bằng bắt được ba trẻ, tung mình về trận cờ đỏ, chúng điểm huyệt cả ba, rồi để trước voi. Đám tượng binh, hổ binh, võ sĩ Long-biên không người chỉ huy, đều lùi lại. Chương-Hào nói với ba trẻ bằng tiếng Chiêm:
– Các người là ai, mà lại tấn công chúng ta?
Trần-Ninh đáp:
– Chúng tôi là đệ tử của Lam trưởng lão trong Hồng-thiết giáo. Tôi được lệnh rút từ Bố-chánh về giúp hữu sứ bản giáo là Vũ-chương-Hào. Hữu giáo là tể tướng của vua Chiêm, mà quân cờ voi là quân của vua Chiêm, nên chúng tôi phải trợ chiến.
Chương-Hào tin thực, y nói nhỏ nhẹ:
– Ta chính là hữu sứ đây. Bây giờ người phải theo lệnh ta, chỉ huy voi, hổ cản đội quân cờ voi ngay, để chúng ta mở đường máu rút ra cửa Đông thành. Bằng không ta bóp chết hết.
– Chúng tôi truyền lệnh bằng cờ, mà hữu sứ bắt tôi, làm rơi hết cờ rồi, tôi biết làm sao bây giờ?
– Người ra lệnh bằng miệng cũng được.
Hoàng-Nghi đứng lên bành voi nói lớn:
– Anh em hổ, tượng binh nghe đây, chúng ta dàn ra, cản đội quân cờ voi lại, cho đội quân cờ hồng rút lui.
Vì Hoàng-Nghi nói tiếng Việt nên các tướng đội quân Chiêm không ai hiểu gì cả. Đội voi, hổ xông vào giữa quân cờ đỏ, cờ voi. Trong khi đó quân cờ đỏ từ từ rút ra cửa Đông. Đạo quân voi, hổ, võ sĩ Long-biên theo phía sau. Đám quân cờ voi cũng không đuổi theo nữa. Khi đạo quân cờ đỏ vừa ra khỏi thành, thì một tiếng pháo nổ bùng trên không, hai hiệu quân Quảng-vũ do đô thống Lưu-trọng-Kiệt, Nguyễn-văn-Huy tràn vào thành.
Đạo quân của Vũ-chương-Hào rút ra cánh đồng, thì ngừng lại. Đội voi, hổ cũng dừng cách đó khoảng một dặm. Vũ-chương-Hào đâu phải là người ngu, quan sát cung cách, nhìn gương mặt, nghe giọng nói của bọn Hoàng-Nghi, y đã biết rõ chúng là ai. Y chỉ bọn Hoàng-Nghi mỉm cười:
– Không ngờ Long-biên ngũ hùng hôm nay lại lọt vào tay ta ba đứa. Ta muốn biết còn hai đứa nữa đâu? Ai là người chỉ huy bọn mi ở đây?
Biết không dấu được nữa, Hoàng-Nghi nói thực:
– Chúng tôi dưới quyền chỉ huy của Trung-thành vương.
– À, thì ra thằng lỏi, con của Lý-long-Bồ với Trần-thanh-Mai. Ta muốn nhờ người làm sứ giả, trở về thương lượng với Lý Hoằng-Chân một chuyện.
– Xin hữu sứ cứ nói.
– Ta muốn Đại-Việt giúp ta đánh Chế-Củ, phong cho ta làm Chiêm-vương, chứ đừng giúp tên đần Đông-Thiên. Người tính sao?
Hoàng-Nghi thấy y thực tình, nó cũng đối lại bằng tình thực:
– Tôi nghĩ rằng tiên sinh nên gặp thẳng Trung-thành vương thì hơn. Theo ngu ý, giữa việc giúp tiên sinh với Đông-Thiên, nếu tôi là Trung-thành vương, tôi sẽ giúp cả hai, chứ không giúp mình Đông-Thiên.
Chương-Hào ngạc nhiên:
– Tại sao?
– Dễ hiểu! Nói về kiến thức, thì tiên sinh hơn Đông-Thiên nhiều, nói về võ công, thì Đông-Thiên bì sao được với tiên sinh? Nhất là tiên sinh có nhiều đệ tử. Nhưng Đông-Thiên cũng có nhiều đệ tử, cũng có nhiều thế lực. Sau khi bắt Chế-Củ, quân Việt rút đi, mà để cho một trong hai vị cai trị nước Chiêm, thì cái sức mạnh bị phân tán làm hai. Ấy là không kể hai vị tranh quyền đánh nhau, bấy giờ người Chiêm họ nổi dậy thì các vị không thiệt mạng, thì cũng phải cúi đầu theo họ, để làm một chức quan.
Thấy trán Chương-Hào nhăn lại dường như đang đẳn đo, Hoàng-Nghi tiếp:
– Huống hồ tả-sứ Đinh-kiếm-Thương nay đã gác kiếm quy ẩn, vui chốn thiền môn; giáo chủ Đại-Việt Lê-phúc-Huynh binh bại ở cửa Nhật-lệ, phiêu bạt đâu chưa biết. Nay chỉ còn hữu sứ với giáo chủ! Tôi thì tôi nghĩ hữu sứ để giáo chủ làm vua Chiêm, còn hữu sứ làm Thi-nại vương, Đồ-bàn vương hay làm tể tướng, làm tư mã... như vậy chẳng hay hơn ư?
Chương-Hào đưa mắt nhìn Thị-Bằng:
– Đông-phương sứ nghĩ sao?
– Đây mới là lời của trẻ con. Để chúng ta gặp Lý-hoằng-Chân đã, rồi hãy quyết định.
Đến đó có tiếng quân reo, rồi hai đội binh kéo đến, đó là đạo cờ vàng của Hoàng-kỳ chủ và đạo cờ trắng của Bạch-kỳ chủ. Hai đội quân bao vây lấy đám tàn quân của Chương-Hào. Một người cỡi ngựa đi giữa hai cặp kỳ chủ, chính là giáo chủ Trần-đông-Thiên. Phía sau là Tây-hồ thất kiệt, đi theo đoàn xe do ngựa kéo, vải phủ kín mít.

Truyện Q8- Nam Quốc Sơn Hà Lời mở đầu Chương 1 Chương 2 Chương 3 Chương 4 Chương 5 Chương 6 Chương 7 Chương 8 Chương 9 Chương 10 Chương 11 Chương 12 Chương 13 Chương 14 Chương 15 Chưà gọi Khai-quốc vương bằng chức tước, trong lòng nó nghĩ thầm:
– Dường như hai người này thân thiết với Quốc-phụ, như vậy thì tính mệnh bọn ta coi như chưa đến nỗi nào.
Tuy biết thế, nhưng để bảo mật, nó trả lời lờ mờ:
– Tôi họ Lý tên Đoan còn sư đệ của tôi họ Trần tên Ninh. Anh em chúng tôi rất thân với Khai-quốc vương, Khai-quốc vương phi.
Mụ già nhảy phắt lên:
– Thân là thế nào mới được chứ? Thế mi có phải là con của Lý Phật-Mã hay Lý Nhật-Tông không?
Phật-Mã là tên tục của vua Lý Thái-tông, Nhật-tông là tên tục của Thiên-huống bảo tượng hoàng đế, khắp một giải đất Việt đều phải kiêng húy, không ai được quyền nhắc tới; thế mà mụ già này gọi tên hai vua bằng giọng khinh miệt, khiến Lý-Đoan kinh hãi nghĩ thầm:
– Chắc mụ có thù oán gì với hai vua, mà lại chịu ơn của Quốc-phụ.
Vì vậy nó trả lời để dò dẫm:
– Vua Thái-tông băng hà đã lâu, tôi làm sao là con của người được? Còn đương kim thiên tử thì mới có hoàng nam đây. Tôi không phải là con của hai vua đó.
– Thế mi là con của vương tử nào trong triều Lý?
Lý-Đoan nói thực:
– Tôi vốn họ Lê. Khi mẹ tôi mang thai, thì bố tôi được lệnh xung quân đánh Tống, giúp Nhân-huệ hoàng đế Nùng-trí-Cao. Bố tôi tử trận ở Như-hồng. Đức vua ban ruộng tuất nuôi mẹ con tôi, ban cho tôi quốc tính Lý. Nhưng khi tôi lên năm, thì mẹ tôi lại qua đời, làng giao ruộng cho sư cụ, để sư cụ nuôi dạy tôi.
Nghe Lý-Đoan kể, hai quái nhân nhìn nhau, trên nét mặt hai người hiện ra vẻ thương tiếc nhìn về xa xưa, rồi lại cau mày quan sát Lý-Đoan từ đầu đến chân. Lão già vung tay lên như đe dọa, rồi hỏi:
– Mi nói cha mi tử trận ở Như-hồng có đúng thế không? Thế cha chi thuộc đạo binh nào? Do ai chỉ huy? Nếu mi nói láo, ta nhả chưởng lực thì đầu mi vỡ ngay tức khắc. Nói mau.
Lý-Đoan nghĩ thầm:
– Không biết lão già này là ai? Tại sao lão lại kính trọng Quốc-phụ, mà khinh khiến hai vua? Khi mình nói đến cha mình tử trận, lão lại tỏ ra thương yêu mình? Rồi lại đe dọa rằng nếu mình nói lão, lão sẽ giết chết. Bố mình chết vì nước là một danh dự, âu là mình cứ nói thực, rủi có chết cũng không sao.
Lý-Đoan thở dài:
– Bố tôi chết ba tháng, tôi mới ra đời, nhưng trên mộ chí của bố tôi ghi rằng: bố tôi tên Lê-Mậu, thuộc hiệu Thiên-tử binh Đằng-hải tả, đo tướng Lý Nhân-Nghĩa chỉ huy, tử trận năm 23 tuổi tại Như-hồng.
Bàn tay lão già hạ xuống, hai giọt nước mắt từ từ lăn trên má lão. Lão tiến đến nắm lấy tay Lý-Đoan:
– Trời ơi! Suýt nữa ta giết lầm giọt máu của người đã vì ta hy sinh mạng sống.
Lão vuốt tay một cái, huyệt đạo được giải, chân tay Lý-Đoan cử động được như thường, trong khi đó lão bà cũng giải huyệt cho Trần-Ninh.
Lý-Đoan kinh ngạc hỏi:
– Hai vị cao danh quý tính là gì xin cho bọn tiểu bối biết để tiện xưng hô.
Người đàn bà lắc đầu:
– Chúng ta là những người danh vang Hoa-Việt hồi mười mấy năm trước. Nhưng nay đã đi vào lãng quên, chẳng nên nói đến làm gì. Chúng ta đáng tuổi cha, tuổi mẹ các cháu. Các cháu cứ gọi chúng ta là bá bá được rồi. Ta chỉ có thể cho cháu biết: xưa kia bố cháu đã ở dưới quyền chúng ta, chẳng may tuẫn quốc, vì vậy chúng ta có bổn phận thương yêu cháu như con.
Bà già hỏi Lý-Đoan:
– Ban nãy cháu nói rằng cháu rất thân với Khai-quốc vương, với vương phi. Vậy nay hai vị đó... hai vị đó có được khoẻ mạnh không?
Đến đây dường như bà muốn khóc vậy. Lý-Đoan nói thực:
– Quốc-phụ, Quốc-mẫu vẫn bình an. Khi anh em cháu lên đường bình Chiêm, hai vị có tiễn đưa chúng cháu, dạy dỗ đủ điều.
– Bình Chiêm? Quân Đại-Việt lại đánh Chiêm nữa đấy à?
Bà già sửng sốt: Ai làm nguyên soái? Tại sao các cháu còn nhỏ mà đã xung quân? Các cháu thuộc đạo binh nào?
Trần-Ninh đáp thực:
– Thưa bá mẫu, anh em chúng cháu học được thuật chỉ huy thú của Bắc-biên, tình nguyện xung quân đánh giặc, chứ triều đình không hề bắt buộc. Nguyên soái bình Chiêm là Thái-bảo Lý-hường-Kiệt. Cháu thuộc đạo binh của Trung-thành vương.
Mặt người đàn bà đang căng thẳng lập tức đổi ra nhu mì, nét ửng hồng hiện trên đôi má bà. Bà nhìn lên trên nóc hang như tưởng nhớ điều gì xa xưa. Lão ông hỏi:
– Trung-thành vương là ai vậy?
– Vương có tên là Lý Hoằng-Chân, hoàng trưởng tử của Quốc-phụ.
Lão bà nói với lão ông:
– Ông muốn sao thì muốn, tôi phải xuất động ra giúp Trung-thành vương một chuyến cho trọn tình trọn nghĩa. Dù sao nó cũng là em mình.
Lý-Đoan vờ hỏi, để khai thác bí mật của cặp vợ chồng quái nhân:
– Hai vị lão bá là chỗ thế nào với Quốc-phụ, Quốc-mẫu?
Lão già cúi mặt xuống đáp rất ôn nhu, tay chỉ vào lão bà:
– Đây là vợ của ta. Ông nhạc ta là sư đệ của Khai-quốc vương. Hồi niên thiếu, vợ ta được Khai-quốc vương với vương phi thương mến như con gái. Người định hỏi vợ ta cho nghĩa tử của người là Lý Thường-Kiệt. Nhưng sau... nhưng sau sư huynh Thường-Kiệt bị kẻ gian ám hại, người lại gả vợ ta cho ta.
Nghe lão già kể, Lý-Đoan, Trần-Ninh bật lên tiếng kêu lớn:
--Như vậy lão bá là Nùng Trí-Cao, là Nhân-huệ hoàng đế nức danh Hoa-Việt thời trước sao?
Lão già gật đầu:
– Kiến thức các cháu rộng lắm nhỉ?
Lý-Đoan nhìn người đàn bà:
– Còn bá mẫu, dường như bá mẫu nhũ danh là Tạ Thuần-Khanh, trưởng nữ của Phụ-quốc thượng tướng quân, tước phong Kiểm hiệu thái phó, Cổ-loa quốc công sao?
– Sao cháu biết?
– Dạ, chúng cháu nghe Quốc-phụ, Quốc-mẫu kể chuyện hai vị hoài, nhất là công nghiệp hai vị được chép trong « Nhân-huệ hoàng đế kỷ sự ». Nếu đúng như vậy, thì năm nay hai lão bá tuổi khoảng năm mươi hơn là cùng, mà sao tóc đã bạc hết rồi, trong khi khuôn mặt lại như người mới ba mươi? Sách Nhân-huệ hoàng đế kỷ sự chép rằng: sau khi bị Địch-Thanh đánh bại, hai lão bá trốn sang Đại-lý rồi qua đời ở đó, nên... nên... vạn vạn lần cháu cũng không ngờ hai lão bá ở đây.
Trần-Ninh nói với Lý-Đoan:
– Hèn chi, hai lão bá biết sai chim ưng, sai sói, phục hổ. Thì ra hai lão bá đã từng chỉ huy thú rừng ở nước Đại-Nam hồi trước.
Ghi chú:
Sự việc Lý-thường-Kiệt đính hôn với Tạ Thuần-Khanh, giữa lúc sắp làm đám cưới, thì Thường-Kiệt bị gian nhân đánh thuốc mê rồi đem thiến. Cho đến nay cũng chưa tìm ra manh mối thủ phạm, dù gần ba chục năm qua. Sau đó Thuần-Khanh được gả cho Nùng-trí-Cao. Khai-Quốc vương suất lĩnh tám vùng tộc Việt đánh chiếm lại vùng Quảng-Đông, Quảng-Tây, cho Trí-Cao làm vua, xưng nước là Đại-Nam, hiệu Nhân-huệ hoàng đế v.v. Những sự kiện đó được thuật trong bộ Anh-linh thần võ tộc Việt của Yên-tử cư-sĩ, gồm 4 quyển, do Xuân-thu Hoa-kỳ xuất bản 1994.
Nùng-trí-Cao thở dài:
– Sau khi thất bại, ta bỏ vùng Bắc, trốn vào đây cùng mấy người thân tín. Bọn thủ hạ của ta, kẻ thì lập ra gánh hát ảo thuật, người lập ra đội mãi võ. Riêng chúng ta, chúng ta giả làm vợ chồng thợ săn để tránh con mắt dòm ngó của người Tống. Chúng ta chẳng lý gì đến sự đời. Thành ra tình hình Tống, tình hình Việt, tình hình Chiêm ra sao, ta tuyệt không biết. Cháu có thể kể cho ta nghe được không?
Lý-Đoan tóm tắt tất cả những cuộc tiến binh của vua bà Bình-Dương, phò mã Thân-thiệu-Thái hồi mười năm trước (1059) ra sao, rồi tiếp đến họ Dương chuyên quyền bị Ưng-sơn song hiệp, Mộc-tồn hòa thượng xử như thế nào, việc Ỷ-Lan nhập cung... cho đến ngày Nam chinh. Bên Tống thì việc Nhân-tông, Anh-tông băng, từ khi Hy-ninh hoàng đế lên ngôi, trọng dụng Vương-an-Thạch cải tổ pháp chế... Nhất nhất nó tóm lược cho vợ chồng Nùng-trí-Cao nghe.
Sau Lý-Đoan, Trần-Ninh lại thuật chi tiết cuộc bình Chiêm. Cuối cùng nó kết luận:
– Nghe ngôn từ của bá phụ, thì dường như bá phụ cực kỳ hiếu kính Quốc-phụ, Quốc-mẫu, mà không bằng lòng vua Thái-tông với đương kim thiên tử thì phải? Cháu e trung gian bên trong có gì bất thường. Bá phụ có thể cho cháu biết được không?
Trí-Cao nghiến răng kèn kẹt vào nhau:
– Cháu lầm rồi! Ta không có điều gì bất mãn với Nhật-Tông, vì ta với hắn biết nhau, có ơn với nhau trong vụ án Bắc-ngạn. Nhưng ta căm hận tên Phật-Mã. Tại sao? Vì anh hùng võ lâm tám vùng tộc Việt cùng mưu đòi lại cố thổ hời vua Hùng, vua An-Dương vương. Nhưng y thì chí quá nhỏ, nên y không muốn. Cuộc Bắc chinh chiếm lại lưỡng Quảng sở dĩ có là do Khai-Quốc vương với võ lâm. Phật-Mã bất đắc dĩ phải nhắm mắt để cho vương với chúng ta làm. Thảng hoặc thất bại, thì y đổ thừa cho vương. Còn thành công thì y hưởng.
Nói đến đây Trí-Cao nhổ nước bọt đến toẹt một cái:
– Cứ mỗi lần nói đến tên Phật-Mã là ta lợm giọng. Trong vụ Bắc chinh, y vừa đéo vừa run, vừa sướng vừa hét. Thực là trò đéo mèo. Y ngồi trên ngai vàng, luôn khệnh khạng, điệu bộ, kiêu căng, kiểu cách mà chả có tài con mẹ gì cả. Thu phục nhân tâm, giữ gìn mở rộng biên cương là Khai-Quốc vương. Bình Chiêm là sư thúc Tôn-Đản Cẩm-Thi. Bắc chinh là tiên nương Bảo-Hòa, vua bà Bình-Dương. Còn y ư? Y chỉ biết cái « lộ phồ » con gái họ Dương. Y chui đầu vào cái lỗ đó rồi thành u mê, để đến nỗi thằng bố nó bắt giam thái-tử, định dâng nước cho Tống, mà cũng ù ù cạc cạc.
Nói đến đây mặt Trí-Cao đỏ gay, y nghiến răng:
– Cho đến khi chiếm lại được lưỡng Quảng, ta lên ngôi vua. Nước của ta lớn ngang với Đại-lý, Xiêm-la, nhỏ hơn Đại-Việt một chút, thế mà y dám sai sứ lên bắt ta quy phục. Con bà nó, quy phục cái « củ thìu » ông đây này. Ta bèn sai sứ về xin quy phục Khai-Quốc vương, và không thèm đáp lễ y.
Trí-Cao đưa mắt nhìn lên nóc hang, như nhớ lại chuyện xưa:
– Khi khởi binh, y đồng ý rằng tám vùng tộc Việt liên kết trong thế môi hở răng lạnh. Nếu Tống đánh một nước, thì bẩy nước kia cùng khởi binh. Thế nhưng sau khi ta lên ngôi vua, Tống sai bọn Địch-Thanh sang đánh ta. Ta loan báo cho bẩy nước khởi binh. Y...y... không những lờ đi, mà còn cản trở Xiêm-la, Lão-qua, Đại-lý đem quân giúp ta. Vì vậy ta thất bại, rồi vùng đất lưỡng Quảng lại thuộc về Tống. Cho đến nay y chết rồi, mà ta còn căm hờn y.
Tạ-thuần-Khanh an ủi chồng:
– Nay sự đã rồi, vua Thái-tông băng hà cũng lâu. Người làm vua là Nhật-tông chẳng từng có ơn với anh đó sao? Thường-Kiệt chẳng là sư huynh của anh đó sao? Nay hai người đó đem quân bình Chiêm, anh nên xuất động ra giúp cố nhân một phen.
Nghe đến Thường-Kiệt, Nhật-tông, mặt Nùng-trí-Cao hiện ra nét nhu mì, hiền hậu. Ông vỗ vai Lý-Đoan:
– Bọn cháu là hiện thân của sư thúc Tôn-Đản, Tự-Mai, Lê-Văn xưa. Ta yêu các cháu lắm. Được, ta vì phu nhân mà xuất động phen này. Ta sẽ trợ giúp các cháu.
Ông hỏi Trần-Ninh:
– Bọn cháu còn mấy đứa ở ngoài phải không? Để ta gọi chúng vào.
Ông tru lên mấy tiếng như tiếng sói, lập tức mười con sói đứng nhổm dậy gật đầu hành lễ rồi ra khỏi hang. Lát sau chúng dẫn Phạm-Dật, Hoàng-Nghi cùng bọn Kim-Liên, Kim-Loan, Ngọc-Liên, Ngọc-Hương vào. Sáu người ngơ ngơ ngác ngác như xẩm vào đám, không hiểu gì cả. Lý-Đoan phải tóm lược sự kiện đã xẩy ra trong hang, rồi giới thiệu hai bên.
Hoàng-Nghi là con mọt sách, hồi ở Thăng-long nó đã đọc đến thuộc làu bộ « Nhân-huệ hoàng đế kỷ sự », trong lòng nó cực kỳ kính trọng Nùng-trí-Cao, nay gặp ông, không giữ được cảm động, nó nắm lấy tay ông:
– Thưa bá phụ, ch
Chương 41 Chương 42 Chương 43 Chương 44 Chương 45 Chương 46 Chương 47 Chương 48 Chương 49 Chương 50 HỒI KẾT