Chương 18
Bà Chúa kho Đại-Việt

Hôm ấy là ngày mười bốn, trăng thu sáng vằng vặc như ban ngày. Dân chúng Thăng-long đổ xô về chùa Thánh-chúa, làng Dịch-vọng, để được thấy dung nhan Ỷ-Lan phu nhân. Người ta bàn tán ồn ào: Xưa đức vua mộng thấy Ngọc-Hoàng thượng đế truyền cho Hằng-Nga giáng thế để làm vợ ngài; lại cho Thanh-y đồng tử đầu thai làm con của Hằng-Nga. Nay đức vua đã tìm thấy Hằng-Nga là Ỷ-Lan phu nhân rồi. Vì vậy đức vua tổ chức cầu tự ở chùa Thánh-chúa, mong chư vị Bồ-tát giúp Thanh-y đồng tử đầu thai dễ dàng. Lễ cầu tự do đại thần là Chi-hậu nội-nhân Nguyễn Bông, tước Trường-yên hầu đích thân điều khiển. Thời gian cầu tự kéo dài 49 ngày. Hôm nay là ngày cuối cùng. Đức vua cùng với Ỷ-Lan phu nhân thân tới chùa lễ tạ. Tháp tùng nhà vua, còn có Yên-vương vương phi Lê Thiếu-Mai, công chúa Thiên-Ninh, quan tổng-lĩnh thị-vệ Đỗ Oanh.
Từ hôm trở về cung, Ỷ-Lan đã tâu xin cho trương tuần xã Siêu-loại là Lê Huy làm chức vũ-vệ hiệu úy cung Ỷ-Lan. Nàng cũng cắt mười lăm thang thuốc mà Mộc-tồn hòa thượng cho nàng để trị bệnh. Mỗi thang chia làm hai phần. Phần uống buổi sáng để trục độc khỏi người. Phần uống buổi chiều để tư bổ can, thân, Xung, Nhâm mạch. Chứng huyết trắng đã được trị dứt. Nhưng người nàng lúc nào cũng bứt rứt, da căng lên, mà mồi hôi thì không chưa thoát ra được. Ngự-y không tìm thấy lý, thành ra không đưa ra pháp, phương. Ỷ-Lan cho rằng nàng lại bị đầu độc nữa.
Nhà vua vội sai sứ giả mời Yên-vương phi tức Thiếu-Mai tiên nương vào cung. Nhưng sứ giả nói thác rằng để dạy nàng về những lễ nghi, tổ chức, luật lệ của Tống triều, mà thực ra để vương phi kiểm soát việc ăn uống cho nàng, tránh khỏi bị đầu độc nữa. Chiều nay, tiên-nương về tới, thì đúng lúc nhà vua với nàng phải ra lễ tạ ở chùa Thánh-chúa, nên nàng mời tiên-nương cùng đi.
Trước khi khởi hành, Ỷ-Lan cho gọi Tây-hồ thất kiệt, Long-biên ngũ hùng cùng đi. Chúng cỡi ngựa, chia làm hai hàng, đi hai bên xe Ỷ-Lan.
Tăng chúng trong chùa xếp hàng ra đón đức vua cùng Ỷ-Lan phu nhân. Đức vua thân ban thưởng chư tăng, rồi ngài cùng phu nhân phát chẩn cho kẻ khó. Chi-hậu Nguyễn Bông tâu rằng chỉ người nghèo mới được lĩnh chẩn mà thôi. Nhưng Ỷ-Lan phu nhân ban chỉ rằng: người có mà cũng đến xin lĩnh chẩn, đâu phải họ nghèo đói? Chẳng qua họ hiếu kính với đức vua, nên muốn được thấy long nhan. Vậy chẳng nên phân biệt kẻ giầu người nghèo.
Vì thế cuộc phát chẩn trở thành lễ ban lộc cho dân. Mỗi phần lộc gồm có oản, chuối, bánh, và mười đồng tiền. Đây là loại tiền mới đúc, trên mặt có chữ Chương-thánh thông bảo. Thời bấy giờ giá mỗi đấu gạo là một đồng. (Mỗi đấu tương đương với ngày nay là 1,1kg). Đa số dân chúng được tiền vua ban đều xỏ vào dây, rồi đeo lên cổ.
Cuộc phát chẩn đến gần khuya thì xong. Nhà vua với Ỷ-Lan phu nhân lên xe bốn ngựa về Hoàng-thành. Công chúa Thiên-Ninh ngồi đánh xe. Hai bên đường, dân chúng chen chúc, cúi đầu chắp tay lễ đức vua. Đi trước xe là một toán ngự-lâm quân dẹp đường. Thị vệ mặc giáp bạc, gươm đao sáng ngời ruổi ngựa song song làm hai. Trước và sau xe là ngựa của Long-biên ngũ-gùng, Tây-hồ thất kiệt.
Chợt phiá trước thị-vệ ùn lại, có nhiều tiếng cãi vã, làm quan tổng-lĩnh thị vệ Đỗ Oanh phải vọt ngựa lên trước xem xét. Công chúa Thiên-Ninh ghì cương cho xe chậm lại.
Nhà vua hỏi:
– Cái gì vậy?
Đúng là điếc hay hóng, ngọng hay nói. Dương Minh tức Minh ngọng trong Tây-hồ thất kiệt tâu:
– Có... có... có người người người... ăn... ăn mày tàn tật ngồi cản đường. Y nói, vì chân bị què, không thể đến chùa lĩnh lộc, nên y nằm giữa đường chờ xa giá bệ hạ để xin ân ban.
Ỷ-Lan tung mình lên cao, thân pháp nàng uốn lượn dưới bóng trăng trông đẹp không thể tưởng tượng nổi. Nàng ban chỉ:
– Không được đuổi người ta.
Nói rồi nàng xẹt tới chỗ người ăn mày. Trước mắt Ỷ-Lan là một người đàn ông, đầu quấn khăn nâu, áo cánh rách mấy chỗ, quần cũng vá năm sáu miếng, lưng đeo cái bị cũ. Y nói:
– Đường này là đường của vua Hùng, vua An-Dương, vua Trưng để lại, đâu phải đường của riêng nhà vua, mà các chú đuổi tôi? Vả, tôi bị tật, không chen vào xin lộc vua được, nên tôi nhất định ngồi đây đợi đức vua đi qua thỉnh chứ!
Thị-vệ định hè nhau nhắc người ăn mày đem vào lề đường thì Ỷ-Lan tới. Nàng vẫy tay cho thị-vệ:
– Các người lui ra, để đấy cho ta giải quyết.
Nàng cất giọng ôn nhu nói với người ăn mày:
– Này anh, năm nay anh bao nhiêu tuổi, tại sao lại bị tật?
Người ăn mày ngước mắt lên nhìn Ỷ-Lan rồi hỏi lại:
– Cô là vợ vua đấy hả?
Ỷ-Lan phì cười:
– Tôi là nàng hầu của vua mà thôi.
– Nàng hầu! Nàng hầu hay vợ thì chỉ khác nhau cái tên. Nhưng thực tế ra thì cũng là vợ cả. Vợ cả, vợ hai, hai vợ đều là vợ cả. Tôi đói quá, cô có gì cho tôi ăn không?
Ỷ-Lan xòe hai tay:
– Bao nhiêu lộc đã phát hết rồi, tôi không còn gì cả.
Người ăn mày bưng mặt khóc hu hu:
– Hỡi ơi! Ngay tại kinh thành, chính vua với vợ vua mà cũng không giữ được công bằng, kẻ nhanh chân thì được, người tàn tật thì không. Hỏi như vậy ở các trấn, ở thôn trang nhỏ thì làm sao có lẽ công bằng?
Câu cãi vã với thị-vệ cùng lời than này, làm Ỷ-Lan tỉnh ngộ: đây là một kỳ nhân dị sĩ. Y đón đường với mục đích gì chứ không phải là ăn mày bình thường. Nàng cũng nhận ra tiếng nói của y hơi khàn khàn, rất quen thuộc, rất thân ái, nhưng trong nhất thời nàng không nhớ ra đã gặp ở đâu? Nàng nhìn sang bên cạnh: trong khi Long-biên ngũ hùng ngẩn người ra nhìn gã ăn mày; còn Tây-hồ thất kiệt mặt hiện ra vẻ uy nghi trang trọng, hai tay chắp lại. Dường như chúng đã nhận ra được chân tướng người ăn mày.
Chợt Ỷ-Lan nghĩ lại: ban nãy, khi rời chùa, Nguyễn Bông có dành một mâm lộc Phật sai cung nữ cất vào quả mang về cung cho nhà vua với Ỷ-Lan thụ lộc. Nàng bảo Nguyễn Bông:
– Hầu đem quả đựng lộc cho ta.
Nguyễn Bông lưỡng lự:
– Tâu phu nhân, lộc đó dành dâng hoàng thượng với phu nhân, không thể bố thí được.
Ỷ-Lan lạnh lùng:
– Của hoàng thượng lại càng nên bố thí. Hầu đưa quả đó đến đây ngay.
Cung nữ bưng quả đựng lộc tới. Ỷ-Lan mở nắp, lấy bánh, oản, chuối đưa cho người ăn mày. Rồi an ủi:
– Đây, lộc đây đem về mà ăn. Thế nhà anh ở đâu, để tôi sai người đưa về?
Một tay người ăn mày cầm oản ăn, một tay xoè ra:
– Ai cũng được mười đồng tiền, tại sao tôi lại không? Tôi nghĩ dường như ông vua với vợ... trong túi không có một đồng tiền thì phải?
Ỷ-Lan phì cười, vì lời người ăn mày quả không sai. Nàng thấy công chúa Thiên-Ninh đã xuống xe, đến cạnh nàng từ bao giờ. Nàng hỏi:
– Công chúa có tiền không?
– Có chứ, cháu có mang theo đây.
Thiên-Ninh đưa cái túi bên mình cho Ỷ-Lan. Ỷ-Lan mở túi ra, thì bên trong chỉ có vàng, bạc với ngọc, mà không thấy tiền. Thiên-Ninh cầm lấy túi dốc ra, được mười tám đồng tiền. Ỷ-Lan cầm tiền trao cho người ăn mày. Hai tay y tiếp tiền. Khi bàn tay y chạm bàn tay Ỷ-Lan, nàng cảm thấy một nguồn nội lực chính đại quang minh giống hệt Vô-ngã tướng thiền công của nàng... từ người y truyền vào người nàng. Kinh hãi, nàng vội vận công chống lại, nhưng không kịp nữa, Thiền-công của người ăn mày chạy khắp cơ thể. Nàng cảm thấy khoan khoái kỳ lạ. Biết người ăn mày không có ác ý, Ỷ-Lan buông lỏng kình lực. Chỉ trong vòng năm tiếng đập tim, y thu công lại, bỏ tiền vào túi.
Người ăn mày móc trong bị ra hai con rồng bằng sứ, lớn bằng bắp chân, hai tay dâng lên cho Ỷ-Lan:
– Biếu cô đấy! Rồng bố với rồng con cùng bay xuống Đại-Việt. Rồng bố bay trước, rồng con bay sau. Chẳng may rồng bố bị mãng xà phun khói độc che mất, nên rồng con bị lạc. Tôi thấy chúng bơ vơ, bắt bỏ bị bấy lâu. Nay mây mù mãng xà được Hằng-Nga quét đi, tôi trả rồng con lại để phụ tử đoàn tụ.
Mỗi lời nói của người ăn mày đều bao hàm ý tứ sâu sa. Nhà vua hiểu rằng: đúng số mệnh, ngài đã có hoàng nam, nhưng vì Hoàng-hậu cùng kẻ gian đầu độc các phi tần nên Thanh-y đồng tử chưa đầu thai được. Nay có Ỷ-Lan, thì chắc chắn ngài sẽ sinh hoàng nam.
Ỷ-Lan đưa tay tiếp hai con rồng. Dưới ánh trăng, nàng nhìn rõ: hai con rồng làm bằng sứ Bát-tràng cực kỳ tinh vi.
Người ăn mày nói với công chúa Thiên-Ninh:
– Bà là người giữ kho của vua đấy à? Này bà chúa kho, đồng rụng, đồng rơi của bà, nhưng là tài sản lớn vô cùng của kẻ khó đấy.
Câu nói của người ăn mày làm nhà vua với Ỷ-Lan đã nhận ra chân tướng của y: y chính là Khất hòa thượng, tức thiền sư Minh-Không tái thế, từng ngăn đường trêu ghẹo cháu tể tướng Dương Đạo-Gia, lần khác coi số Tử-vi cho Ỷ-Lan, và hôm ở chùa Tiêu-sơn đã dùng Thiền-công trị độc cho nhà vua.
Ghi chú,
Phải. Người ăn mày đó chính là Minh-Không Bồ-tát tái đấu thai, sau này ngài trị bệnh cho vua Lý Thần-tông, được phong là Quốc-sư. Lời nói đùa của một vị Bồ-tát, nên trở thành linh ứng kỳ lạ. Trong cuộc đánh sang Tống, cùng chống Tống xâm lăng, công chúa Thiên-Ninh phụ trách toàn bộ việc thu góp lương thảo, tổ chức kho đụn. Binh tướng gọi bà là bà chúa kho. Sau khi tuẫn quốc ở trận Như-Nguyệt, công chúa rất thiêng. Ai thành tâm đến đền thờ công chúa cầu tài đều được.
Ỷ-Lan vội cung tay:
– A-di-đà Phật, thì ra Khất đại sư. Đệ tử là Yến-Loan xin ra mắt đại sư phụ.
Nhà vua cũng tiến lên hành lễ. Trong khi xung quanh, nào cung nga, nào thái giám, nào thị vệ cùng quỳ gối đỉnh lễ ngài. Khất hoà thượng đứng lên lột cái khăn trên đầu, lập tức hiện ra một khuôn mặt từ ái, miệng như cười mà không phải cười.
Bây giờ Ỷ-Lan mới hiểu tại sao Tây-hồ thất kiệt thoáng thấy Minh-Không bồ tát đã cung cung, kính kính chắp tay đứng xung quanh ngài. Thì ra chúng gần ngài lâu ngày, biết ngài hay giả ăn mày, nên chỉ thoáng một cái chúng nhận ra ngài, mà không dám nói thực chân tướng ngài cho nàng.
Khất đại sư thuyết pháp. Tiếng của ngài trong, cao, rất rõ ràng. Ngài giảng về cái nghiệp quả của nhà Phật. Sau khi giảng xong, ngài nhìn vào mặt Nguyễn Bông mà kết luận:
– Xung quanh ta đây thiếu gì những trái chủ đòi nợ lẫn nhau. Người này gây quả, người khác đòi. Thù oán chồng chất biết bao giờ hết? Sao bằng xóa bỏ đi là hơn!
Nói xong, ngài nhấp nhô mấy cái, đã biến mất trong đám đông. Nhà vua cùng Ỷ-Lan hướng theo ngài lễ ba lễ.
Xa giá nhà vua đã về tới cung Ỷ-Lan. Yên-vương phi Thiếu-Mai hỏi Ỷ-Lan:
– Thế nào? Minh-Không bồ-tát dồn Thiền-công trị bệnh cho phu nhân, phu nhân thấy sao?
Nhà vua hỏi:
– Thưa sư thúc. (Lời chú: nhà vua là học trò của thái-sư Dương Bình. Mà thái-sư Dương Bình là sư huynh của tiên-nương Thiếu-Mai, lấy lý đó, nhà vua gọi bà là sư thúc). Bồ tát dồn Thiền-công cho Ỷ-Lan bao giờ?
Thiếu-Mai cười tủm tỉm nhìn Ỷ-Lan. Ỷ-Lan tuyệt không ngờ tiên-nương lại tinh mắt đến thế. Nàng đáp thay cho bà:
– Tâu bệ hạ, khi thiếp trao tiền cho ngài, ngài dồn Thiền-công sang người thiếp.
Thiếu-Mai bảo Ỷ-Lan ngồi yên, rồi bà cầm mạch. Lát sau tiên-nương gật đầu:
– Ài chà! Phu nhân mới bằng này tuổi, mà đã chịu không biếtn biên thần Tống hiếu sự. Chính sách gồm bẩy điều. Nhưng điều quan trọng nhất là: đối với triều đình thì hậu lễ, lời khiêm. Ðối với bọn biên thần thì thẳng tay dùng sức mạnh.
Ghi chú:
Xin đọc Anh-hùng Bắc-cương, cùng tác giả, 4 quyển.
Ông Phó lý hỏi:
– Vụ Tống dở quẻ ra làm sao xin cụ nói cho rõ để cả làng được hiểu.
Lý trưởng bỡ ngỡ một chút rồi hướng vào một người già, tóc bạc phơ, nhưng không râu, ngồi ở chỗ cao nhất:
– Vụ này Quân-hầu biết nhiều, xin Quân-hầu giảng cho.
Lão già gật đầu nói:
– Ðược, được chứ.
Một thanh niên hỏi bạn:
– Ông này có phải là Trung-nghĩa hầu không? Lý lịch ông ra sao?
- À, ông có tên là Trịnh Quang-Thạch, vốn là gia tướng của quan Kiểm-hiệu Thái-phó, Tả-bộc-xạ, Ðồng-trung-thư môn hạ bình chương sự, Chiêu-văn-quan đại học sĩ, giám tu quốc sử Dương Ðức-Thành, tức Tể-tướng thời vua Thái-tông. Hồi trẻ ông hầu tiểu thư con quan Dương tể tướng. Sau tiểu thư tiến cung được phong Thiên-Cảm hoàng hậu, ông tự thiến làm thái giám hầu Hoàng-hậu. Vì ông có võ công cao, cùng văn tài, nên dần dần được thăng lên đến chức Nhập-nội đô-tri. Ông cũng có thời cầm quân. Lúc về hưu, ông được thăng hàm Trung-nghĩa đại tướng quân, tước Siêu-loại hầu. Vùng mình ở đây là ấp phong của ông. Khi mới được phong, ông đem tông tộc, rồi mượn thêm một số nhân sĩ, mở ra trường Trung-nghĩa để dạy văn, luyện võ cho thiếu niên. Hiện có rất nhiều võ tướng, văn quan xuất thân từ trường ông, nên ông có uy tín với triều đình.
– Hèn gì ai cũng cung cung kính kính với ông.
Siêu-loại hầu nói:
– Từ xưa đến giờ biên giới Tống-Việt thường ngăn cách bằng 207 trang ấp. Các trang ấp này là lạc ấp còn sót lại từ thời vua Hùng. Mỗi trang là một giòng họ, người cai trị là một lạc hầu. Người Hán gọi là khê động. Các khê động thường bị biên thần Tống lấn áp, đe dọa, vì vậy khi thì họ theo Tống, khi thì họ theo Việt. Vào thời vua Thái-tông, Khai-Quốc vương giúp cho tộc Nùng nổi lên, đánh chiếm Lưỡng-quảng. Nùng Trí-Cao được tôn làm Nhân-Huệ hoàng đế (1052), quốc hiệu là Ðại-Nam. Nước Ðại-Nam bao gồm lãnh thổ 107 khê động với Lưỡng-Quảng. Ðại-Nam, Ðại-việt, Ðại-lý, Lão-quan, Xiêm-la, Chân-lạp, Chiêm-thành kết thành tộc Việt, để chống lại Tống, nếu Tống xâm lăng.
Ông ngừng lại, đưa mắt nhìn cử tọa rồi tiếp:
– Nhưng khi Trí-Cao đắc thế rồi thì y lại muốn dùng 9 tộc Nùng cai trị các tộc Mán, Thái, Trang, Mèo, Lô-lô, Tày. Các lạc hầu của 198 tộc khác chống lại. Trí-Cao thẳng tay đàn áp. Y còn bắt các tộc khác bỏ phong tục, tiếng nói của mình, mà học tiếng Hán, chữ Hán. Thế là Ðại-Nam bị rạn nứt. Thấy việc nguy hại, vua bà Bình-Dương phải can thiệp. Nhưng Trí-Cao cho rằng nước mình còn lớn hơn Ðại-Việt, dân đông hơn tất cả các nước thuộc tộc Việt, nên y không nghe. Sau cùng chính vua Thái-tông sai sứ sang khuyên răn, y cũng không nghe. Vì vậy, 198 tộc khác bỏ Ðại-Nam, xin trở về với Ðại-Việt, rút lại lãnh thổ của y chỉ có 9 khê động Nùng với phần đất Lưỡng-Quảng. Tống dò được tin đó, sai Ðịch Thanh mang đại quân sang đánh. Người Hán tại Lưỡng-Quảng nổi lên theo Tống. Lúc đầu Trí-Cao thắng được mấy trận. Sau bị bại, mất hết vùng Quảng-châu, Khâm-châu, Liêm-châu. Y vội rút về Quảng-Tây. Biết thế nguy, y cầu cứu với vua Thái-tông.
Ông ngừng lại, nhấm một chung trà. Ðám thanh niên trẻ nhao nhao lên hỏi:
– Thưa cụ thế Ðại-Việt có cứu Trí-Cao không?
Siêu-loại hầu hỏi ngược lại:
– Theo chư vị, Ðại-Việt có nên cứu hay không?
Lập tức cả đình ồn lên bàn tán, kẻ thì bảo nên cứu, người thì bảo không nên. Siêu-loại hầu hỏi một trung niên nam tử:
– Thầy đồ Thái, thầy là người có kiến thức, thầy cho biết ý kiến?
Làng Thổ-lội có hai thầy đồ dạy chữ. Thầy thứ nhất ăn lương của trường Trung-nghĩa, họ Trần, tên là Trọng-San. Thầy đồ thứ nhì ăn lương vua, họ Quách tên Sĩ-An, nhưng vì cụ Tiên-chỉ trong làng cũng tên là Sĩ-An, nên thầy xin đổi là Thái, để kiêng húy vị ngồi đầu hương đảng. Nghe Siêu-loại hầu hỏi, thầy đứng dậy cung tay:
– Thưa cụ, nếu cháu là vua Thái-Tông thì cháu cứu y.
Lập tức có nhiều tiếng ồn ào:
– Không cứu tên phản bội. Không, không cứu.
Thầy đồ Thái nói:
– Thưa cụ, theo như cháu nghĩ, người xua quân đánh chiếm Lưỡng-Quảng là Khai-Quốc vương chứ không phải vua Thái-Tông. Chính Vương đã ứng mệnh trời, hợp lòng người, cùng võ lâm suất lĩnh tộc Việt tiến đánh chiếm lại đất cũ thời vua Hùng. Vương giao cho tiên-cô Bảo-Hòa tổng chỉ huy. Còn sắc dân Nùng với Trí-Cao chỉ có một đạo quân nhỏ. Ngôi vua với nước Ðại-Nam như từ trên trời rơi xuống cho Trí-Cao với 9 khê động Nùng. Nên sau khi lên ngôi vua, Trí-Cao bắt buộc phải dùng người Hán, dùng văn tự Hán. Dĩ nhiên người Hán khuyên y nên tách khỏi tộc Việt thành một nước riêng. Cái ngu của Trí-Cao là phía Bắc Ðại-Nam tiếp giáp với vùng Kinh-hồ của Tống. Vùng này vua Tống phong cho phò mã Tự-Mai làm Kinh-Nam vương. Ðáng lẽ Trí-Cao phải biết rằng Kinh-Nam vương là người dùng binh giỏi nhất Hoa-Việt, y cứ dựa vào Vương để Vương làm bức tường trấn Tống cho, thì Ðại-Nam vững như bàn thạch. Ðây y lại vô lễ với Vương. Y viết thư cho Vương mà dám xưng trẫm, coi như mình là Hoàng-đế, còn Vương chỉ là một quận vương mà thôi. Nên Vương mới để cho Ðịch Thanh đem quân vượt Kinh-Nam đánh y. Bây giờ, quân Tống đến đánh, tất nhiên người Hán phản y về với Tống, y lâm đường cùng. Nếu ta cứu y, thì sau này vĩnh viễn y phải quy phục Ðại-Việt.
Mọi người vỗ tay hoan hô.
Siêu-loại hầu nói:
– Khi Ðịch Thanh tới đánh Trí-Cao thì Khai-Quốc vương đan bao nhiêu điều bất hạnh. Nào bị đánh bằng đũa cả, nào bị ném vào chuồng hôi, nào bị tra tấn cùm kẹp, nào bị hấp Chu-sa ngũ độc, nào bị dồn Huyền-âm độc tố. Nhưng may mắn được vua bà Bình-Dương dạy Vô-ngã tướng công nên hóa giải hết những di chứng rồi. Này phu nhân ơi! Sau đó phu nhân bị đầu độc bằng đường ngoài da, bằng đường ẩm thực, rồi bằng chân khí, đến nỗi có huyết trắng. Dường như hôm trước phu nhân đã được Mộc-tồn hoà thượng cho một phương thuốc để trị. Nhưng chưa kịp trị, lại bị người ta đầu độc bằng nọc tầm độc của người Miêu, với ý định giết chết phu nhân. May nhờ phu nhân luyện Vô-ngã tướng công, mới thoát chết, nọc tầm chỉ gây hỗn loạn Xung, Nhâm mạch mà thôi.
Tiên-nương ngước mắt nhìn lên trời:
– Phương thuốc của Mộc-tồn hòa thượng trị được tất cả những di chứng đánh bằng đũa cả, rơi xuống chuồng hôi, khảo băng kìm kẹp, Chu-sa huyền âm, cùng giải hết chất độc bị người ta hại... Còn khi ngài cho thuốc phu nhân thì người phu nhân chưa có nọc tầm độc, nên ngài không có những vị thuốc giải. Do vậy phu nhân uống thuốc của ngài mà nọc tầm vẫn còn đó. Không hiểu bằng cách nào, Minh-Không bồ tát biết được, ngài đã dùng thượng-thừa Thiền-công đẩy nọc tầm ra ngoài da cho phu nhân.
Bà buông tay Ỷ-Lan ra rồi nói:
– Nọc tằm gây độc cho da. Da bên ngoài, da trong bao tử, trong ruột và trong tử cung. Ngài đã dồn Thiền-công cho phu nhân, hiện da trên người phu nhân đang căng thẳng. Chỉ cần phu nhân tắm xong là mồ hôi đổ ra, bao nhiêu nọc tầm sẽ theo đó rời cơ thể phu nhân.
Chợt nhớ ra một chuyện, Ỷ-Lan hỏi Tiên-nương:
– Sư thúc, cháu lớn mật dám thỉnh sư thúc về lý lịch một người. Mong sư thúc đừng tiếc công chỉ dạy.
– Phu nhân muốn biết lý lịch ai? Bất cứ lý lịch một nhân vật dù Hoa, dù Việt, dù Chiêm, Khu-mật viện đều biết hết. Phu nhân cứ hỏi Thái-bảo Thường-Kiệt, người quản Khu-mật viện là ra ngay, tại sao lại hỏi ta?
Chợt bà nhớ lại điều gì, rồi bà lắc đầu:
– Ừ nhỉ, có hai nhân vật mà Khu-mật viện không biết. Một là kẻ đánh thuốc mê ám hại Thái-bảo Thường-Kiệt. Vụ án xẩy ra đã hơn hai mươi năm, mà cho đến nay Thái-bảo cũng chưa tìm ra thủ phạm để trả thù. Người thứ nhì là Mộc-tồn Vọng-thê hòa thượng.
Ỷ-Lan giật mình, nàng không ngờ tiên-nương lại minh mẫn đến như vậy. Thực sự nàng muốn hỏi lý lịch Mộc-tồn hòa thượng. Nàng than:
– Người mà cháu muốn hỏi là Mộc-tồn hòa thượng. Hoà thượng tuy là sư bá của cháu, mà tuyệt cháu không biết chân tướng người. Cháu nghe sư phụ Bình-Dương nói rằng: khi Mộc-tồn hòa thượng kết án ai, chỉ cần sư thúc với tiên nương Bảo-Hòa lên tiếng xin tha, lập người ân xá liền. Như vậy hẳn sư thúc phải biết rõ chân tướng người chứ?
Nàng mỉm cười tinh quái:
– Mỗi ngày sư bá Mộc-tồn để ra một giờ ngồi tưởng nhớ lại người vợ xưa. Cháu nghe nói, hồi niên thiếu sư bá có một mối tình diễm ảo. Sau đó bị tan vỡ. Vì vậy cả đời người không tưởng đến người đàn bà nào khác, để giữ mối chung tình với người cũ. Sư bá quả là người đa tình số một của Đại-Việt. Không biết người tình của sư bá là ai mà có phúc vậy? Phải chăng là sư thúc? Sư thúc khỏi xấu hổ, sư thúc kể sự thực cho cháu nghe đi.
Thiếu-Mai lắc đầu tha thứ:
– Người ta nói, các thiếu nữ thích tò mò vào chuyện tình, thực đúng. Phu nhân đã là người lĩnh hồng ân số một của hoàng-thượng, mà cũng còn tính ngây thơ như khuê nữ vậy! Quả ta có biết rõ Mộc-tồn là ai, chính vì thế mà biết luôn mối hận tình thiên thu của người. Khi ta khám phá ra chân tướng người, người xuống nước năn nỉ ta đừng tiết lộ lý lịch người, thì vĩnh viễn trọn đời ta nói gì người cũng nghe. Ta nhân đấy bắt người tuyên thệ rằng: khi người tuyên án ai, ta lên tiếng là phải ân xá ngay. Người hứa.
Tiên-nương chỉ nhà vua:
– Căn cước Mộc-tồn hòa thượng, tiên-nương Bảo-Hòa cũng biết đấy. Hoàng thượng là đệ tử, là em tiên-nương, vậy sao phu nhân không hỏi tiên-nương là ra ngay chứ khó gì?
– Cháu đã hỏi, nhưng tiên-nương làm nghiêm vẫy ta ra hiệu không cho cháu tò mò. Thôi, lý lịch sư bá Mộc-tồn cháu không biết cũng chẳng sao. Cháu nhờ sư thúc một chuyện?
– Chuyện gì vậy?
– Sư thúc nói gì sư bá của cháu cũng phải nghe theo. Vậy sư thúc yêu cầu người điều tra ra thủ phạm đã hại sư huynh Thường-Kiệt dùm cháu. Hồi cháu còn hàn vi, sư huynh chiếu cố đến cháu bằng tất cả tình như cha với con. Cháu muốn tìm ra kẻ thù của người, để gọi là báo một chút ơn nho nhỏ.
Thiếu-Mai trầm tư một lúc, rồi lắc đầu:
– Ta không muốn ép hoà thượng quá đáng. Hồi Thường-Kiệt bị nạn, vương phi Khai-Quốc vương Thanh-Mai đã giả làm Ưng-sơn song hiệp, tìm ra thủ phạm rồi. Nhưng Khai-Quốc vương khẩn khoản xin người dấu kín, để vụ án đó ; có thể tiếp tục làm áp lực với thủ phạm, hơn là công bố. Vậy phu nhân muốn biết y là ai, cứ thỉnh quốc-mẫu Thanh-Mai thì rõ, sao lại hỏi ta?
Tiên-nương sợ Ỷ-Lan tò mò nữa, bà vỗ vai nàng, chỉ vào phòng tắm:
– Thôi phu nhân vào tắm đi.
Khi Chương-thánh Gia-khánh nhận được tấu chương của Ỷ-Lan với Thiên-Ninh gửi từ Siêu-loại về, ngài tin tất cả. Duy việc Thượng-Dương hoàng hậu trốn đi họp với Tống và Nguyễn Bông làm gian tế là ngài không tin mà thôi. Bởi chính cái đêm mà Thiên-Ninh tâu rằng Thượng-Dương đi họp với Tống, thì bà se mình, ngài phải triệu thái y trị bệnh cho bà. Như vậy sao bà có thể đi họp được?
Nay nghe Yên-vương phi chẩn mạch, dẫn giải, bệnh của Ỷ-Lan, đúng như những gì Ỷ-Lan với Thiên-Ninh thượng biểu, ngài mới tin mấy phần. Ngài chưa kịp hỏi, thì tiên-nương đứng dậy hỏi cung nữ phụ trách nấu nước tắm:
– Có phải tiểu cô nương nấu nước cho phu nhân tắm không?
– Khải tiên-nương đúng ạ.
– Tiểu cô nương tên gì?
– Tiểu tỳ tên Chu Thúy-Phượng.
– Cô nương đã dùng những hương liệu gì nấu nước tắm?
– Tiểu tỳ không biết, quan thái y ra đơn, rồi Thái-y viện cắt, trao cho tiểu nhân. Tiểu nhân chỉ biết nấu mà thôi.
Nói dứt Thúy-Phượng trao gói thuốc cho Thiếu-Mai. Tiên-nương mở ra xem, bên trong gồm có: sinh khương, ma hoàng, quế chi, tang diệp, trúc diệp, tô diệp, mộc hương, xạ hương. Bà gật đầu:
– Được lắm.
Bà bảo Ỷ-Lan:
– Phu nhân để ta kiểm lại nước tắm đã.
Ỷ-Lan cúi rạp người xuống:
– Tiên-nương! Thân thể tiên-nương cao quý biết mấy. Muôn ngàn lần cháu không dám để tiên-nương làm những việc này đâu.
Thiếu-Mai cầm tay Ỷ-Lan, ôm sát đầu nàng vào vai mình, như mẹ đối với cô con gái nhỏ:
– Em đừng ngại. Ta là bạn thân của tiên-nương Bảo-Hòa với vua bà Bình-Dương, thì cũng như chị của em. Xung quanh em có nhiều cạm bẫy nguy hiểm, đừng nói giữa chúng ta có thâm tình, ngay như em là người ngoài, với y-đạo Đại-Việt ta cũng phải giữ gìn em. Đối với những người cùng dân bị bệnh, ta đã từng làm như thế.
Ỷ-Lan thấy ba phụ nữ: vua bà Bình-Dương thì nhẹ nhàng như hương sen, hành trạng như Quan-âm. Tiên nương Bảo-Hòa thì thoang thoảng mùi trầm, tư thái khoan hòa, nhưng khi đối phó với biến cố thì lại cương quyết vô cùng. Còn Thiếu-Mai, nàng cảm thấy bà ấm cúng, ngọt ngào như người mẹ hiền. Lời nói vừa rồi của bà làm nàng cảm động đến rơi nước mắt.
Thiếu-Mai vào phòng vốc nước tắm lên ngửi, nếm qua một giọt rồi gật đầu:
– Được, phu nhân tắm được rồi.
Ỷ-Lan cùng Thúy-Phượng vào phòng tắm. Thúy-Phượng múc nước dội lên người Ỷ-Lan, rồi cầm cái sơ mướp kỳ nhè nhẹ cho nàng. Từ khi đem Thúy-Phượng vào cung, Ỷ-Lan đối xử với nó như chị em. Khi chỉ có hai người, thì nàng với cô bé vui đùa với nhau như hai người bạn. Còn khi có đệ tam nhân, thì Thúy-Phượng giữ lễ như một cung nga với một phi tần. Hai người vào phòng tắm là cười đùa với nhau liền.
Ngoài này nhà vua với Thiếu-Mai đàm luận về Minh-Không bồ tát tái đầu thai. Nhà vua đưa hai con rồng bằng sứ cho tiên-nương, rồi nói:
– Sư thúc xem, hai con rồng sứ này thực là đẹp. Thủ thuật đồ sứ Đại-Việt ngày càng tinh vi, khác hẳn với đồ sứ Tống.
Thiếu-Mai cầm hai con rồng lên xem, bà tung nhè nhẹ, rồi lại bắt lấy mấy lần. Trong bụng rồng có tiếng lọc xọc như sỏi chạm nhau. Trán bà hơi cau lại, tay lật ngửa bụng rồng lên. Bất giác bà than:
– Có như vậy chứ!
Nhà vua kinh ngạc:
– Sư thúc thấy gì lạ chăng?
– Bệ hạ thử cầm hai con rồng lên, rồi chú ý xem có gì lạ không?
Nhà vua tiếp hai con rồng, ngài gật đầu:
– Hai con rồng này rỗng không ra rỗng, mà đặc không ra đặc. Có lẽ trong bụng đựng cái gì cũng nên?
Thiếu-Mai cầm con dao nhỏ, cạo sơ lớp sành ở bụng rồng, lập tức hiện ra vệt tròn bằng đồng tiền. Bà cho lưỡi dao cậy mạnh, miếng sành tròn rời khỏi bụng rồng, thì ra đó là cái nắp. Bên trong bụng rồng đầy những viên thuốc nhỏ mầu đen sẫm. Bà cũng làm tương tự với con thứ nhì, trong bụng nó cũng đầy thuốc, nhưng mầu đỏ.
Nhà vua than:
– Thì ra Bồ-tát ban thuốc cho mà trẫm không hay. May nhờ sư-thúc tinh tế tìm ra. Không rõ thuốc này hiệu năng ra sao?
Thiếu-Mai đưa viên thuốc đen lên miệng cắn vỡ ra, rồi nhai nhỏ. Bà cầm bút viết:
– Thục-địa, sơn-dược, kỷ-tử, sơn-thù-nhục, cam-thảo nướng, nhục-quế, đỗ-trọng, chế-phụ-tử, lộc-nhung, nhân-sâm.
Bà mỉm cười:
– Chà, phương thuốc thực là cao minh. Ngài đã tốn biết bao tâm huyết để tìm ra, hầu trị chứng hiếm muộn cho bệ hạ.
Nhà vua cảm động:
– Hèn gì lúc ban thuốc, thuốc ngài nói những lời cao xa: rồng cha xuống trước, lạc rồng con, vì bị nọc mãng xà. Thì ra thuốc giúp cháu phục hồi sức khoẻ để có thể sinh hoàng nam. Xin sư thúc dạy cho: ích lợi của phương thuốc này ra sao?
Thiếu-Mai giảng giải:
– Hiệu năng của nó là bổ thận, tráng dương. Trong phương thuốc trên, thì thục-địa, sơn-dược, thù-nhục, kỷ-tử, bổ thận âm. Nhục-quế, phụ-tử, nhân-sâm để ôn dưỡng thận dương. Cam-thảo nướng bổ ích khí tỳ-vị. đỗ-trọng, lộc-nhung để cường ích tinh khí. Phàm khi mệnh-môn hóa suy, đưa đến hư hàn, dương ủy (lời chú: bất lực sinh lý) đều dùng được. Nay cơ thể của bệ hạ, thận dương hư suy, âm hàn nội thịnh, nên bụng đau, lưng yếu, chân tay lạnh... Hôm trước ngài đã dùng thượng thừa Thiền-công trị di chứng phong thấp cho bệ hạ. Nay lại dâng phương thuốc này nữa mới có thể sinh hoàng nam.
Bà lại cắn viên thuốc đỏ, nhai nhỏ, rồi cầm bút viết:
– Bạch-đậu, nhân-sâm, bạch-truật, cam-thảo nướng, sơn-dược, liên-tử nhục, cát-cánh, ý-dĩ-nhân, sa-nhân.
Nhà vua cũng hơi biết y-lý ngài nói:
– Dường như phương thuốc này để giúp cho ăn ngon thì phải?
– Đúng vậy. Hiệu năng là bổ khí kiên tỳ, hòa vị khô thấp. Nghĩa là bổ khí-tỳ vị, làm giảm lượng nước ẩm thấp trong người. Chủ trị: tỳ vị yếu, tiêu hóa khó khăn, do vậy lượng thủy ứ trong người, khi thì mửa, khi thì tiêu chảy.
Bà chỉ vào hai loại thuốc:
– Bệ hạ uống thuốc đỏ trước, sau khi thuốc đỏ hết thì uống thuốc đen.
– Sư thúc, tại sao không bổ thận trước, mà lại bổ tỳ vị trước?
Thiếu-Mai giảng:
– Muốn cho cơ thể khoẻ mạnh, phải làm sao cho ăn uống tốt đã. Than ôi! Cơ thể con người gồm có tiên-thiên khí và hậu-thiên khí. Gốc của cơ thể đầu tiên là hạt tinh khí của người cha, gieo vào người mẹ. Những gì bào thai được người mẹ nuôi dưỡng là nguyên-khí. Tg vân du tại Chân-lạp. Vua Thái-Tông không chịu cứu y. Khai-Quốc vương được tin, trở về, xin vua xuất binh cứu Trí-Cao. Vua bằng lòng, nên Vương sai Trấn-Bắc đại tướng quân Vũ Nhĩ đem đạo quân biên phòng vượt biên đánh phía sau Ðịch Thanh. Nhưng khi quân ta vừa vào đất Tống thì toàn thể nước Ðại-Nam đã bị Ðịch Thanh chiếm. Vì vậy Vũ Nhĩ phải rút quân về (1053).
Hầu thở dài:
– Chuyện đó vừa dứt thì vua Thái-Tông băng hà. Thấm thoát nay đã bẩy năm (1059). Sau khi Ðịch Thanh diệt Trí-Cao, y tổ chức lại vùng Lưỡng-Quảng. Triều đình Tống biết dùng những tướng bại trận để trấn Nam-thùy, vì họ có kinh nghiệm. Nhưng chính bọn này lại hay gây rối.
Phó lý hỏi:
– Bẩm quân hầu, đó là những tên nào vậy?
Một trong những viên quan có tài là Tiêu Chú. Y xuất thân tiến sĩ, nhưng giỏi việc binh. Hồi Trí-Cao đánh, y làm chức Tri huyện ở Quảng-châu. Y khôn khéo rút quân về vùng Chương-giang, đợi Ðich Thanh tới đánh, y mới phản công. Chính y bắt sống được mẹ và con Trí-Cao. Sau khi Trí-Cao bị dẹp, Tống phong cho y coi Ung-châu, cuống họng của Tống thông với ta. Y có ý định đánh lấy Ðại-Việt. Y cho tuyển quân, huấn luyện, gửi tế tác sang ta. Y đã nhiều lần dâng biểu về triều để xin trình bầy phương lược đánh Ðại-Việt. Nhưng quan trên của y là Lý Sư-Trung, Tiêu Cố luôn bác ý kiến của y. Vả trong triều, vua Tống là anh em kết nghĩa của Kinh-Nam vương Tự-Mai, ngài chủ trương giữ vững mặt Nam, để chống mặt Bắc, nên Chú không làm được gì. Nhờ Kinh-Nam vương Tự-Mai cho biết rõ ý vua Tống cùng bọn quan coi Quảng-Tây không muốn gây hấn ở Nam-phương, vì vậy vua Thái-tông mới cương quyết: hơi đụng chạm là phản ứng thực mạnh. Nên nay mới có việc đem Thiên-tử binh lên để làm cho Tống kinh hãi.
Ghi chú:
Sự kiện này chép trong Tống-sử, quyển 332, trang 10.676, Lý Sư-Trung truyện. Trang 10.690 Lục Sằn truyện. Quyển 334, trang 10.727 Thẩm Khởi truyện. Trang 10.732 Tiêu Chú chuyện.
Phó lý hỏi:
– Vậy bây giờ Tống dở quẻ, không rõ Long-Thụy hoàng-đế quyết định sao?
Lý trưởng đáp:
– Ngài đồng ý giải quyết theo chính sách Bắc-cương thời Thuận-thiên. Ngài truyền cho Tả kiêu-vệ đại tướng quân, Thái-hà hầu Lý Thường-Kiệt mang mười đạo Thiên-tử binh lên Bắc-cương đặt dưới quyền vua bà Bình-Dương, để đối phó với giặc. Vì vậy quan huyện Gia-lâm truyền cho làng ta phải cấp một trăm dân đinh chuyên chở lương thảo trong vòng một tháng.
Ghi chú:
ÐVSKTT, Lý Kỷ: Năm Kỷ-Hợi, niên hiệu Chương-thánh Gia-khánh nguyên niên, (Tống niên hiệu Gia-hựu năm thứ tư) mùa xuân, tháng ba, đánh Khâm-châu nhà Tống, dương oai rồi rút về, vì (vua) ghét Tống phản phúc.
Các quan viên xã đồng ồn lên những tiếng bàn tán xôn xao. Cụ Tiên-chỉ hỏi Trương-tuần:
– Anh Huy, anh có thể cấp được trăm Hoàng-nam ngay ngày mai không? Làng ta có đủ lương thực cho trăm Hoàng-nam ăn một tháng không?
Trương tuần Huy gãi đầu:
– Bẩm cụ được chứ. Tính tuổi từ mười ba đến ba mươi, xã mình có hơn hai trăm xuất đinh. Hiện nay ruộng mới cấy, công việc đồng áng tạm ổn. Tuy nhiên xã mình đang có vụ khơi sâu lòng con lạch dẫn nước. Nếu nay lấy đi trăm hoàng nam, thì phải tạm ngưng vét lạch. Còn lương thảo thì làng mình dư giả.
Siêu-loại hầu dơ tay lên, ý muốn nói, lập tức trong đình im phăng phắc. Tiếng cụ oang oang:
– Nước Ðại-Việt ta có truyền thống nam hùng, nữ kiệt. Nay nhân lúc không bận việc nông tang, khi nam phải ra trận, thì nữ thay thế vét lạch. Ta tuy tuổi trên bẩy mươi, nhưng sức còn tráng kiện, ta cũng ra vét lạch với bọn cháu chắt. Bà nhà ta thì thổi xôi, nướng gà cho chúng ăn.
Lập tức các cụ già chiếu nhất cũng hưởng ứng:
– Quân hầu đã dạy thế thì chúng tôi cũng xin theo gương quân hầu.
Cụ Lý lắc đầu:
– Bẩm các quan dạy thế, chứ bọn con đâu dám.
Một cụ già cười:
– Bọn già này chưa chết mà, chúng tôi tuy chân tay run, không vét kinh được, thì cũng chống gậy ra kể chuyện đời xưa cho bọn cháu gái nghe, hầu cổ động lòng hăng say của chúng.
Buổi họp định rõ những Hoàng-nam nào được cử đi vận lương; những phụ nữ nào phải đi vét lạch. Tuy buổi họp diễn ra êm đẹp, vì người người đều một lòng với đất nước, một lòng với làng xã. Nhưng khi chấm dứt, thì gà đã lên chuồng khá lâu, bóng đêm phủ xuống trong làng. Mọi người thư thả ra về, trong làng rộn lên niềm vui, vì tin tưởng rằng ta sẽ thắng giặc Tầu.
Trương tuần Huy nói với thầy đồ Thái, trưởng giáp Nhì trong làng:
– Này thầy đồ Thái, giáp thầy có bao nhiêu Hoàng-nam đi biên?
– Gần như hết. Còn thanh nữ thì mất bốn đứa phải đi vét lạch, bây giờ tôi đi báo cho cha mẹ chúng biết.
Thầy đồ Thái đến xóm Nhì, tới trước cổng một căn nhà thanh lịch, thầy giật chuông. Một thiếu nữ cầm đèn chạy ra, thấy ông, cô vội cung tay:
– Lạy thầy ạ. Mời thầy vào chơi.
– Minh-Ðệ đấy à. Bố, mẹ có nhà không?
– Thưa thầy bố mẹ con sắp về đấy ạ, rước thầy an tọa ạ.
Thầy đồ Thái hỏi:
– Minh-Ðệ à, con đã hiền hậu, lại học giỏi, sao không thi vào trường Trung-nghĩa mà học? Bỏ học uổng quá.
– Thưa thầy tại vì nhà con thiếu người làm, nên mẹ con bảo con ở nhà làm việc đấy ạ.
– Kể cũng lạ, với hoàn cảnh nhà con, thì mượn đến mười người ở cũng cứ được đi. Con vừa thông minh, cần cù, lại có đức tốt, mà bỏ học thực đáng tiếc. Trong khi Minh-Can vừa hung dữ, vừa đành hanh đỏ mỏ, thì lại cho đi học. Khó hiểu quá.
Minh-Ðệ rơm rớm nước mắt:
– Thưa thầy tuy không được đến trường nữhạ không quá ba người làm được. Thân phận các hạ đâu có nhỏ? Tại sao các hạ lại phải trùm đầu? Các hạ hãy mở khăn ra cho mọi người biết các hạ là ai đi.
Người trùm đầu không trả lời, y chỉ lắc đầu, tỏ vẻ không muốn nói. Thượng-Dương hoàng hậu cầm kiếm chỉ vào mặt người trùm đầu:
– Như vậy mi là dư đảng Hồng-thiết giáo, ta phải bắt mi.
Nói dứt bà đưa kiếm vào ngực đối thủ. Người trùm đầu né mình tránh khỏi, rồi dùng chưởng phản công. Đấu được trên hai mươi hiệp, y đánh liền ba chưởng cực kỳ trầm trọng, kiếm của hoàng-hậu bật tung lên cao, y dùng một chiêu ưng trảo chụp hoàng-hậu nhắc bổng lên kẹp vào nách trái. Tay phải y để lên đầu bà:
– Tất cả đứng im, bằng không ta nhả chưởng lực, thì cái đầu này vỡ ngay.
Hoàng-hậu vẫn quật cường:
– Hoàng-thượng hãy dùng loạn tên bắn chết y đi, đừng vì thiếp mà để cho gian nhân sống.
Tất cả cung nga, thái giám, thị vệ đều phục Hoàng-hậu là người can đảm, có chính khí như nam nhi. Thấy Hoàng-hậu lâm nguy, động lòng cố cựu, Thường-Kiệt định nhảy vào cứu người yêu xưa, thì nhà vua ban chỉ:
– Tất cả đứng im, không được vọng động.
Ỷ-Lan đã mặc y phục xong, đang đứng lược trận. Nàng ghé miệng vào tai Thiếu-Mai nói nhỏ mấy câu. Thiếu-Mai gật đầu mỉm cười, rồi bước ra chỉ vào người bịt mặt:
– Các vị nghe đây! Chương-thánh Gia-khánh hoàng đế ban chỉ bắt mọi người không được vọng động. Ta là vương phi của thái-sư, quốc-phụ Yên-vương bên Đại-Tống, vì vậy ta không phải tuân chỉ của hoàng-đế Đại-Việt. Người này thuộc dư đảng của ma giáo, bất cứ ai là người trong võ lâm Hoa-Việt cũng muốn tru diệt, cho nên ta phải giết y.
Bà nói với nhà vua:
– Bệ hạ! Hoàng-hậu là người nghĩa khí, sẵn sàng hy sinh cho đại nghĩa, nay tôi tru diệt ma quỷ, hậu có tuẫn quốc, thì xin bệ hạ miễn trách.
Nói rồi bà vận đủ mười thành công lực phát chiêu Lôi-đả Ân-tặc trong Sài-sơn chưởng. Chưởng chưa ra hết, mà mọi người đều cảm thấy nghẹt thở. Đàn chó bị sức ép của chưởng lực, bật tung ra xa. Gian nhân kinh hãi, vội tung Dương hậu lên cao, dùng cả hai tay cùng phát chưởng đỡ. Bình một tiếng, người y với Thiếu-Mai lảo đảo bật lui liền ba bước. Một bóng xanh xẹt tới nhanh như điện, tung mình lên cao đỡ lấy hoàng hậu.
Người bịt mặt thấy nếu để mất con tin, thì tính mạng y khó toàn. Y tung một chưởng mạnh như núi lở băng tan vào bóng xanh với hoàng-hậu. Bóng xanh vội lăn tròn xuống đất tránh thế chưởng ác liệt. Nếu chưởng đó trúng bóng xanh, thì cả bóng xanh với hoàng-hậu đều tan xương nát thịt. Thiếu-Mai phát một chưởng vào thích khách, bắt buộc y phải cho chiêu chưởng đổi chiều để đỡ chưởng của bà. Bình một tiếng, người y bật lui ba bước. Thiếu-Mai lại đánh liền ba chưởng đẩy y lùi ra sau. Thế là hai người thi diễn cuộc đấu.
Bấy giờ người ta mới nhìn lại, xem bóng xanh là ai, mà dám liều mạng cứu hoàng-hậu? Thì ra đó là Ỷ-Lan. Ỷ-Lan trao hoàng-hậu cho công chúa Thiên-Ninh, tay nắm chắc đốc kiếm đứng lược trận. Long-biên ngũ hùng, Tây-hồ thất kiệt đứng xung quanh nàng để hộ vệ.
Thiếu-Mai với người trùm đầu vẫn đấu với nhau, bất phân thắng bại. Nhà vua hỏi Lý Thường-Kiệt:
– Thái bảo. Người thấy sao? Trận chiến sẽ nghiêng về ai?
– Tâu bệ hạ, gian tế là người đã phối hợp Chu-sa độc chưởng với Huyền-âm độc chưởng. Chu-sa dùng Hồng-thiết công, một thứ nội công dương cương thuộc tà môn. Huyền-âm dùng nội công âm nhu, chính đại quang minh. Cho nên võ công của y trong cương có nhu, trong chính có tà, rất khó đối phó. Hơn nữa dường như y đã già, công lực cao thâm khôn lường.
– Trẫm nghe nói võ công của U-bon vương do Yên-vương phi dạy cho. Trong trận đánh sang Tống, U-bon vương thắng chưởng môn phái Thiếu-lâm. Thế sao vương phi không đàn áp được gian tế?
– Tâu, vương phi dạy U-bon vương là dạy hồi thơ ấu, chứ phi không phải là sư phụ Vương. Trong trận Trường-yên,Vương được thái sư phụ là Phan lão sư cùng Ngô lão sư dồn bẩy mươi năm công lực cho, nên công lực Vương mới mạnh đến nghiêng trời lệch đất. Còn Yên-vương phi, thì người chỉ chú trọng vào y đạo hơn, nên công lực không tiến làm bao.
Thình lình người bịt mặt đánh liền ba chưởng như vũ bão, rồi tung mình nhảy ra khỏi vòng vây. Nhưng khi y vừa đứng xuống, chạy về trước thì một mũi kiếm chỉ ngay vào ngực y. Suýt nữa y tự lao người vào mũi kiếm. Quá kinh hoảng y uốn cong người lộn về sau ba vòng, rút cuộc y lại trở về vị trí cũ. Nhưng khi y vừa chạm chân xuống đất thì mũi kiếm vẫn theo y như bóng với hình. Y nằm xuống đất lăn mình hai vòng, rồi dùng một thức ưng trảo đoạt thanh kiếm của một nữ binh, đưa lên gạt kiếm của đối phương.
Nói thì chậm, chứ động tác tung mình chạy, lộn trở lại, đoạt kiếm của y nhưng như điện chớp, còn người tấn công y càng nhanh hơn. Hiện diện hàng mấy trăm người thấy y gặp hung hiểm đều nín thở. Bây giờ mọi người mới vỗ tay hoan hô, và dưới ánh trăng mười tư, người ta nhìn thấy kẻ tấn công y là Ỷ-Lan. Trên từ nhà vua cho đến các võ quan, cùng thị vệ đều ngẩn người ra tự hỏi:
– Võ công Ỷ-Lan cao đến thế ư?
Ngoại trừ Lý Thường-Kiệt, ông gần Ỷ-Lan lâu, nên biết rõ trình độ võ công của nàng. Nhà vua tuy biết Ỷ-Lan là học trò vua bà Bình-Dương, nhưng tuyệt ngài không ngờ võ công nàng lại cao thâm đến trình độ đó.
Người trùm đầu với Ỷ-Lan đang giao đấu. Kiếm pháp của hai người đều nhanh đến không thể tưởng tượng nổi. Dưới ánh sáng của mấy trăm ngọn đuốc, người ta chỉ thấy hai trái cầu bạc cuốn lấy nhau, không ai phân biệt được Ỷ-Lan với thích khách.
Những võ quan giỏi kiếm thuật như phò mã đô đốc Hoàng Kiện, hoàng-tử Hoằng-Chân, Chiêu-Văn đều kinh hãi, tự hỏi: Ỷ-Lan học kiếm với vua bà Bình-Dương từ bao giờ mà kiếm pháp, cũng như nội công đã đến trình độ này.
Phò mã Hoàng Kiện là chồng của công chúa Động-Thiên hỏi Thường-Kiệt:
– Anh cả, thích khách là ai, mà kiếm thuật đến trình độ em chưa hề thấy qua?
Nguyên đô đốc phò mã Hoàng Kiện vốn xuất thân từ cửa Tôn Đản, ông là một tay kiếm thuật nổi tiếng tại triều Chương-thánh Gia-khánh thời bấy giờ. Do ảnh hưởng của sư phụ Tôn Đản, nên ông thích dùng tiếng bình dân xưng hô hơn là xưng hô theo lễ nghi triều đình. Thường-Kiệt trả lời:
– Từ trước đến giờ, phái Mê-linh nức danh Hoa-Việt với Long-biên kiếm pháp. Sau đó tới Đông-a kiếm và Sài-sơn kiếm. Người này xử dụng Sài-sơn kiếm bằng nội lực Hồng-thiết, pha với Huyền-âm, thì chắc y là dư đảng Hồng-thiết giáo rồi. Nhưng, không biết y là ai.
Hoàng tử Chiêu-Văn nói với Thiếu-Mai:
– Sư thúc! Nguy quá, Mê-linh kiếm pháp lấy mau thắng chậm, rất tổn hao nội lực; cho nên phàm khi gặp đối thủ cao tay, thì phải tấn công như mưa dồn, như sóng vỗ, để thắng ngay trong trăm chiêu. Nay Ỷ-Lan phu nhân tuổi còn trẻ, công lực không làm bao, trong khi đối phương đã cao niên, công lực thâm hậu vô cùng, mà kéo dài như vậy thì phu nhân nguy mất.
Thiếu-Mai lắc đầu:
– Ỷ-Lan phu nhân là người thông minh tuyệt đỉnh, chắc phu nhân cũng hiểu như cháu. Nhưng dường như từ ngày học kiếm, đây là lần đầu tiên phu nhân xử dụng nên lúc đầu chưa thuần. Thành ra đôi khi đáng lẽ địch mất căn bản, chỉ việc đánh hai chiêu là y mất mạng, trong khi đó phu nhân chần chờ, do vậy y lấy lại được thăng bằng.
Quả thế. Đấu được trên trăm hiệp, chiêu thức của Ỷ-Lan đã thuần thục, nhưng công lực nàng cạn dần, chiêu số bắt đầu chậm lại. Trong khi đó kiếm pháp của người bịt mặt càng áp đảo dữ dội.
Bỗng Thiếu-Mai nhớ lại một chuyện, nàng la lớn:
– Này Đinh Hiền, ta tưởng trong trận chư vương nổi loạn mi đã chết rồi, không ngờ mi còn sống đến ngày nay.
Bà nói lớn cho mọi người nghe:
– Gian nhân này có tên là Đinh Hiền, y thuộc phái Sài-sơn nhà tôi. Kể về vai vế, y ngang vai với phụ thân tôi. Y là học trò của Lê Ba. Sau lại học với Đinh Kiếm-Thương. Thời Thuận-thiên, y nổi danh đệ nhất kiếm thuật trong Hồng-thiết giáo. Trong hơn mười năm không ai địch lại y. Sau chỉ mình vua bà Bình-Dương thắng được y mà thôi. Kể từ khi chư vương nổi loạn, y biến mất. Ai cũng tưởng y chết rồi. Có ngờ đâu y vẫn còn sống trên thế gian này.
Trải qua năm mươi hiệp nữa, kiếm chiêu của Ỷ-Lan càng chậm. Đinh Hiền đẩy ra hai chiêu như sét nổ, mong kết liễu tính mệnh nàng. Thường-Kiệt đứng ngoài, định nhảy vào can thiệp, thì từ một bụi hoa gần đó phát ra tiếng « hừ », rồi vật gì to bằng quả dưa bay rất nhanh bật lên tiếng vèo lớn, hướng Đinh Hiền. Đinh-Hiền vội thu kiếm về gạt « ám khí ». Kiếm chém trúng vào vật kia đến bộp một tiếng, vật đó đứt làm đôi văng ra xa. Nhưng lực đạo « ám khí » quá mạnh làm kiếm vuột khỏi tay Đinh-Hiền bay ra ngoài vòng vây cắm xuống đất, chuôi rung rung không ngớt. Mọi người nhìn lại xem ám khí gì là lớn đến như thế? Thì ra cái đầu chó luộc chín.
Người người bật lên tiếng kêu:
– Mộc-tồn Vọng-thê hòa thượng.
Đúng ra, trong lúc kiếm vuột khỏi tay đối thủ, mà Ỷ-Lan đưa một chiêu nữa thì y đã mất mạng. Nhưng một là nàng mệt mỏi, hai là nàng chưa kinh nghiệm, chậm mất một chút, khiến Đinh Hiền đủ thời giờ lấy lại bình tĩnh, y tung vào người nàng một chưởng, rồi lộn liền về sau ba bước, tay y đã đoạt được thanh kiếm khác. Y lại tấn công Ỷ-Lan.
Ỷ-Lan đang kinh hãi, thì có tiếng sư phụ Viên-Chiếu dùng Lăng-không truyền ngữ rót vào tai:
– Có sư phụ với sư bá lược trận. Con đừng sợ. Hãy không tâm vận khí, rồi ra chiêu.
Nghe tiếng sư phụ, Ỷ-Lan mừng vô kể, công lực lại phục hồi. Từ lúc nhập cuộc, theo thói quen, Ỷ-Lan dùng nội công âm nhu của Mê-linh kiếm pháp, mà không xử dụng đến Vô-ngã tướng Thiền-công. Nghe sư phụ nhắc, nàng vội không tâm, bỏ ra ngoài nhãn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ý, rồi phát chiêu. Chiêu số trở thành chậm chạp, nhưng kình lực phát ra kêu lên những tiếng vi vu, mạnh như núi lở, băng tan. Thình lình hai kiếm chạm nhau đến choang một tiếng. Cả Ỷ-Lan lẫn Đinh Hiền cùng bật lùi liền hai bước.
Nhà vua nói với Thiếu-Mai:
– Sư-thúc! Xin sư thúc can thiệp. Nếu dùng chiêu số ảo diệu thì Ỷ-Lan có thể cầm cự được, chứ đấu nội lực thì e nguy mất.
Thiếu-Mai nói nhỏ:
– Bệ hạ hãy nhìn kià! Ỷ-Lan đang xử dụng Thiền-công để đấu với Hồng-thiết công kìa. Ban nãy phu nhân dùng nội công âm nhu đối chọi với nội công Hồng-thiết, thì ai mạnh người ấy được. Bây giờ phu nhân dùng Thiền-công là công lực nhà Phật đấu với nội công Hồng-thiết là nội công tà ma. Nhờ phép Phật mà trị ma, thì tà ma phải bại. Bệ hạ đừng lo.
Ngoài đấu trường, hai đối thủ cùng vận hết công lực ra đấu với nhau. Kẻ không biết võ nhìn kiếm chiêu chậm chạp, tưởng hai người là thầy phù thủy bắt tà vậy. Vì Thiền-công phát ra đối đa, nên quần áo Ỷ-Lan bay phơi phới dưới ánh trăng, trông nàng như một Hằng-Nga đang múa khúc Nghê-thường.
Bỗng Ỷ-Lan đẩy một chiêu kiếm hướng cổ Đinh Hiền. Đinh Hiền cũng đưa kiếm đỡ. Bộp một tiếng, hai mũi kiếm đụng nhau, rồi dính chặt với nhau. Hai bên cùng vận hết nội lực để đấu một trận sinh tử. Mặt Ỷ-Lan nóng bừng, trên đầu nàng có khói trắng bốc lên, còn đầu Đinh Hiền bị bịt kín, không ai biết tình trạng ra sao. Người đứng ngoài đều sợ thay cho Ỷ-Lan, vì trận này sẽ không có kẻ thua người thắng, mà sẽ có kẻ chết, người tàn tật.
Thời gian qua, ước gần một khắc, thanh kiếm của Ỷ-Lan hơi cong lại. Nhà vua cuống lên, định ban chỉ cho Thường-Kiệt can thiệp, thì thình lình có tiếng chó sủa oăng oẳng trên không, rồi một con chó quay tròn trên trời hướng Đinh-Hiền bay tới. Không hổ là đại cao thủ, y vẫn bình tĩnh dùng tay trái chụp con chó. Con chó bị ai đó túm lấy cổ ném lên cao, nó quá kinh hãi, nên khi Đinh Hiền chụp lấy nó, nó há m bồng thì bà vợ cau có nhìn ông như không hài lòng. Mỗi lần Minh-Ðệ khóc, là lập tức bị mẹ tát cho hai cái liền. Vì vậy suốt cuộc đời thơi ấu, mỗi lần thấy mẹ,là y như Minh-Ðệ tìm chỗ trốn, như phải thấy một cái gì kinh hãi trên thế gian. Minh-Ðệ sống cô độc với vú, sống với người ở, nàng không được hưởng một chút gì về tình mẫu tử. Vì mẹ coi con như một thú vật bất đắc dĩ phải nuôi trong nhà, nên từ vú, đến người ở đều nuôi Minh-Ðệ như nuôi lợn, không mấy thiết tha chăm sóc. Minh-Ðệ thơ thẩn chơi một mình, đứa trẻ luôn kinh sợ, không biết khi làm cái này, có bị đánh không? Nói điều kia có bị chửi không?
Hai năm sau nữa, Minh-Giang lại sinh ra một gái, đặt tên là Minh-Can, với ngụ ý đứa con này là gan là ruột của mình. Lạ thay, vừa sinh ra, Minh-Can đã được mẹ yêu thương cực kỳ. Bà không mượn vú, mà đích thân mình nuôi. Mọi săn sóc như tắm rửa, thay quần áo, nhất nhất bà đều tự tay làm. Sau Minh-Can đến hai con trai tên Mãnh, Tráng, một con gái tên Minh-Nhàn, cuối cùng là đứa con trai tên Lợi. Tuy có sáu mặt con, nhưng bà cũng rửng rưng không mấy quan tâm đến chúng. Bà chỉ không quan tâm, chứ không đến nỗi ghét như đối với Minh-Ðệ.
Triều Lý tôn sùng đạo Phật, nên không có việc trọng nam khinh nữ, lại nữa hào quang của vua Trưng cùng 162 tướng còn sáng rực. Mới đây thời Thuận-thiên (1010-1028) những danh tướng như vua bà Bình-Dương đương kim trị vì Bắc-biên kiêm chưởng môn phái Mê-linh; trưởng đại công chúa Bảo-Hòa, chưởng môn phái Tản-viên, sư phụ của đương kim thiên tử; Vương-phi Khai-Quốc vương Thanh-Mai; các công chúa Kim-Thành, Trường-Ninh, Côi-Sơn... với những trận đánh sang Tống kinh thiên động địa. Cho nên trong hương đảng, ngoài lăng miếu phụ nữ được tôn trọng, con gái được hoc văn, luyện võ như con trai.
Làng Sủi có ba trường học lớn. Một trường của thầy đồ Thái, ăn lương vua, dạy khai tâm cho trẻ con. Khi học trò trường làng có trình độ khá, mới nhập học trường của Trung-nghĩa đại tướng quân Siêu-loại hầu. Trường này thường được gọi là trường Trung-nghĩa hầu. Trường dạy cả văn lẫn võ. Trường thứ ba cũng dạy văn, luyện võ, nhưng hơi xa, điều kiện thu nhận khó khăn hơn, đó là chùa Dâu. Sư trưởng của chùa, thuộc phái Tiêu-sơn, phái võ xuất thân của vua Thái-tổ nhà Lý, đương kim chưởng môn hiện là Quốc-sư. Nên những học sinh được thu nhận đều trở thành đệ tử Tiêu-sơn, điều mà tất cả phụ huynh đều mơ ước con mình được thu nạp.
Chị em Minh-Ðệ, Minh-Can đều theo học với thầy đồ Thái. Bà Thiết chỉ theo dõi đường học vấn của Minh-Can. Còn Minh-Ðệ học ra sao, ăn ra sao, bệnh thế nào bà không biết tới. Bà xử dụng nàng như con ở, thứ con ở bị khinh miệt bị hắt hủi, để hầu Minh-Can. Hơi một tý là bà đánh, bà chửi. Minh-Can lại đành hanh, đụng chút là khóc bù lu bù loa, bịa chuyện mách mẹ, để Minh-Ðệ phải đòn. Bà ra lệnh: khi bà đánh, mắng thì Minh-Ðệ tuyệt đối phải cúi đầu chịu đựng, không được khóc, không được cãi, cũng không được nói
Chị em Minh-Ðệ, Minh-Can đều theo học với thầy đồ Thái. Bà Thiết chỉ theo dõi đường học vấn của Minh-Can. Còn Minh-Ðệ học ra sao, ăn ra sao, bệnh thế nào bà không biết tới. Bà xử dụng nàng như con ở, thứ con ở bị khinh miệt bị hắt hủi, để hầu Minh-Can. Hơi một tý là bà đánh, bà chửi. Minh-Can lại đành hanh, đụng chút là khóc bù lu bù loa, bịa chuyện mách mẹ, để Minh-Ðệ phải đòn. Bà ra lệnh: khi bà đánh, mắng thì Minh-Ðệ tuyệt đối phải cúi đầu chịu đựng, không được khóc, không được cãi, cũng không được nói năng gì. Năm mười tuổi bà cho Minh-Can thi vào trường của Trung-nghĩa hầu. Minh-Ðệ cũng xin cha mẹ cho thi. Lập tức bà Thiết mắng:
– Cái ngữ như mày, ăn không nên đọi, nói không lên lời, học hành được dăm ba chữ mèo cào, mà cũng xin thi vào trường quan ư? Ăn mày đòi xôi vò, sao mày không lên núi Tản xin tiên cô Bảo-Hòa thu làm đệ tử, rồi sau gả mày cho Thái-tử một thể. Hừ! Người chẳng đáng giá hòn chì. Ba hồn bẩy vía đòi đi võng đào.
Bà nói nói bâng quơ một mình:
– Voi đú, chó đú, chuột chù cũng nhảy.
Minh-Can đậu vào trường Trung-nghĩa hầu, học văn, luyện võ, nghiễm nhiên trở thành thiếu nữ được khắp huyện kính trọng, với những hy vọng vào tương lai. Tuy mới mười tuổi, nhưng đã có nhiều gia đình danh giá đánh tiếng kết thân.
Còn Minh-Ðệ thì được cho nghỉ học, ở nhà giúp việc, phụ với người ở. Nàng trở thành người ở bậc nhì, loại người ở không công để hầu hạ Minh-Can cùng các em. Không được học, nhưng Minh-Ðệ vẫn âm thầm đọc sách. Ngoài những sách của bố có sẵn, Minh-Ðệ còn mượn thêm sách của nhà Trinh-Dung để đọc thêm. Hóa cho nên cái cô đơn, phẫn hận, khiến Minh-Ðệ âm thầm đọc sách, kiến thức trở thành rất rộng, mà trong nhà không ai hay.
Mấy năm sau, một biến chuyển lớn đã làm thay đổi cuộc sống trong nhà ông Thiết.
Nhân bà chị ông Thiết mở một khách điếm và một tửu lầu lớn ở huyện, ông được chị cử làm quản lý, bà được cử trông coi trang trí tiếp khách. Từ nhà lên huyện khoảng một giờ đi bộ, nhưng hai ông bà đi về bằng xe ngựa. Công việc làm đòi hỏi ông bà phải có mặt từ sáng tinh mơ cho đến tối, đôi khi khuya ông bà mới trở về nhà.
Vì phải đi làm xa, nên ông bà cho vú già nghỉ, rồi mượn một người làm để trông coi con cái, cùng cơm nước. Nhưng một người làm, thì không xuể đối với cả gia đình tám người, lại thêm một đàn gia súc, nào là cặp chó, một đực tên Ðức-Tâm, một cái tên Tâm-Ðức. Tiếp theo là cặp mèo, mười con ngỗng, hơn hai chục con gà, bốn con lợn. Nên bà Thiết bắt Minh-Ðệ phải trợ giúp cho chị người làm.
Chị này tên Sửu.
Chị Sửu nguyên là một nông dân, vì chồng chết, lại không con, nên khi đi vào tuổi bốn mươi, sức khoẻ không cho phép chị làm những việc nặng nhọc như gánh lúa, bừa ruộng, tát nước, nên chị phải đi ở. Trái với cái tên Sửu, người chị nhỏ thó, khẳng khiu, dáng đi lịch bịch, cánh tay như chỉ còn xương, mặt chị tái mét, mà trên lớp da lúc nào cũng bóng những mỡ, mụn lớn, mụn niệng đợp một miếng vào cánh tay y. Đau quá, Đinh quật con chó xuống đất. Con chó càng sợ hãi hơn, nó nghiến chặt hai hàm răng, làm Đinh Hiền bị đứt một miếng thịt. Thịt đứt, chân khí theo máu thoát khỏi cơ thể, công lực bị yếu đi, Đinh bật tung về sau, ngã lăn đi hai vòng. Ỷ-Lan đã có kinh nghiệm, nàng tung mình theo dùng chuôi kiếm điểm vào huyệt Đại-trùy của y. Y tê liệt khắp người, nằm dài dưới đất.
Sau khi dùng hết lực trong một trận đấu thập tử nhất sinh, Ỷ-Lan mệt quá, người nàng loạng choạng muốn ngã. Nhà vua xẹt tới toan đỡ nàng, thì từ đâu có hai vật nhỏ quay rất nhanh, nhưng bay rất chậm, khi vật đó sắp chạm vào người Ỷ-Lan thì vỡ tan thành bột chụp lên người nàng. Một mùi thơm như hương sen thoang thoảng bay khắp quảng trường. Ỷ-Lan cảm thấy khoẻ vô cùng. Nàng biết sư phụ Viên-Chiếu đã tung thuốc trợ sức cho nàng, còn sư bá Mộc-tồn đã ném đầu chó, ném chó cứu nàng. Nàng hướng vào bụi hoa, lên tiếng:
– Sư bá, sư phụ! Phật-giá sư bá, sư phụ quang lâm từ bao giờ vậy?
Nhưng khi nàng tới bụi cây thì không có ai cả.
Thị-vệ trói Đinh Hiền lại giải đến trước nhà vua. Thiếu-Mai giật cái khăn trùm đầu Đinh Hiền ra, mọi người đều bật lên tiếng:
– Ủa!
– Ối chà!
– Trời ơi!
– Úi trời ơi đất ơi.
Nguyên y là Nguyễn Bông.
Thường-Kiệt lắc đầu, nói với Thiếu-Mai:
– Sư thúc, cháu thấy y không phải là Đinh-Hiền. Thời Thuận-thiên y đấu kiếm với vua bà Bình-Dương, y bị vua bà thích lên trán một vết thẹo tròn. Còn Nguyễn Bông thì không có thẹo.
Công chúa Thiên-Ninh nhớ lại những lời trong tờ biểu của Ỷ-Lan gửi hoàng tử Hoàng-Chân, Chiêu-Văn mang về rằng: Mộc-tồn hòa thượng đã khám phá ra Nguyễn-Bông cau mặt mà trán bất động, da má không có vết nhăn, như vậy y dán một lớp da giả lên. Nàng tiến đến gần, dùng ngón tay bẹo má y, lập tức hai miếng da bong ra, mặt y bầu, bây giờ trở thành dài. Nàng lại lột da dán trên trán y, trán y lại hiện vết theo dài.
Bây giờ những người lớn tuổi hiện diện, mới thấy rõ Nguyễn Bông là Đinh Hiền. Thường-Kiệt khám trên người Nguyễn Bông, thì thấy có mấy viên thuốc to bằng quả chanh. Ông trao thuốc cho Thiếu-Mai:
– Xin sư thúc biện biệt xem đây là thuốc gì vậy?
Thiếu-Mai bóp viên thuốc ra ngửi, rồi nói với nhà vua:
– Mừng bệ hạ. Thì ra Ðinh Hiền nấp trên nóc cung Ỷ-Lan, định bỏ thuốc vào nước tắm. Nếu Ỷ-Lan tắm nước có thuốc này vào thì mồ hôi không thoát ra được, hóa ra thuốc của Mộc-tồn hòa thượng thành vô hiệu.
Ỷ-Lan cung tay:
– Đa tạ sư thúc. Trong lúc đấu kiếm, mồ hôi cháu thoát ra còn hơn tắm nữa.
Thường-Kiệt ban lệnh cho thị vệ, cung nga, thái giám, ai về cung người ấy. Còn Đinh Hiền, ông truyền mang trao cho Khu-mật viện lấy khẩu cung.
Không thấy Thượng-Dương hoàng hậu, nhà vua hỏi công chúa Thiên-Ninh:
– Mẫu hậu đâu rồi?
– Tâu phụ-hoàng, người sang cung Thiên-Cảm vấn an Thái-hậu.
Nhà vua đầy vẻ lo lắng nói với Thiếu-Mai:
– Sư thúc! Cháu dám cản gan thỉnh sư thúc sang cung Thiên-Cảm chẩn mạch cho hoàng-hậu. Cháu nghĩ lại, tự cảm thấy mình có điều không nên không phải với hậu. Cháu hối hận, vì suốt mười mấy năm sống với hậu, mà cháu không hiểu hậu tý nào cả. Nguyên do bởi ông, bác của hậu làm càn, nên cháu luôn nghi ngờ hậu. Người xưa nói: khi nhà có sự mới biết con hiếu, khi nước có biến mới biết tôi trung. Hôm nay gian tế lộng hành, dù biết rằng võ công mình thua đối thủ xa, hậu cũng dám rút kiếm ra bắt nó. Đến khi bị cầm tù, cái chết cầm chắc trong tay, hậu vẫn khảng khái chịu tuẫn quốc. Hỡi ơi! Cháu thực có lỗi với hậu.
Thiếu-Mai nhìn Ỷ-Lan, Thiên-Ninh, rồi bà lắc đầu thở dài. Nhà vua kinh ngạc hỏi:
– Sư thúc có gì lo lắng vậy?
– Không phải tôi lo lắng, mà sợ hãi nữa. Than ôi! Bệ hạ đã đến tuổi bốn mươi, cai trị thiên hạ cả chục năm qua, mà sao lại thiếu tinh tế như vậy nhỉ? Nếu đúng như bệ hạ luận ban nãy, thì sao bệ hạ có thể phân được kẻ trung người nịnh, giữ vững sự nghiệp tổ tiên?
Nhà vua giật mình, vì từ trước đến nay Thiếu-Mai luôn thanh thản, ôn nhu, chưa bao giờ phiền trách ai. Thế mà nay bà đưa ra lời cảm thán chỉ vì mình. Ngài hỏi lại:
– Xin sư thúc dạy rõ hơn một chút cho cháu hiểu ra lẽ.
– Tôi đã nghe nói nhiều về việc Dương hậu vô tình, bạc nghĩa với bệ hạ. Từ trước đến giờ những việc xẩy ra tại Hoàng-thành bà thường ôm gối lãnh đạm. Thế mà hôm nay, gian tế đang bị chó, thị-vệ bao vây. Bà muốn bắt y, thì chỉ cần hô một tiếng. Tại sao bà lại mạo hiểm vô lý như thế? Đó là một điều đáng ngờ. Võ công bà bình thường nhưng cũng thừa biết võ công gian tế cực kỳ cao thâm, vậy mà bà lại xông vào trận. Đó là hai điều đáng ngờ. Từ xưa đến giờ có bao giờ hậu mặc võ phục, đeo hộ tâm kính đâu? Có bao giờ hậu luyện võ trong đêm đâu? Thế mà sau tiếng báo động, hậu xuất hiện đầu tiên, ngay tức thời với võ phục, lưng đeo kiếm, nai nịt cẩn thận. Chứng tỏ hậu mặc võ phục từ trước, tức là biết trước có gian tế. Đó là ba điều đáng ngờ. Lại đến khi gian tế ra chiêu Tuyết-lạc sơn lĩnh, đánh thẳng về trước, đáng lẽ hậu phải xỉa kiếm vào giữa chưởng của y, thì lại vòng kiếm xuống dưới. Gian tế ra chiêu Tuyết-ủng sơn đầu, để hở bên hông trái, thì hậu lại nhảy sang phải, để cho y chụp. Như vậy rõ ràng Hậu cố ý để cho y bắt làm con tin. Đó là bốn điều đáng ngờ. Nếu bệ hạ đặt câu hỏi: tại sao hậu làm thế??? Tại sao??? Thì biết ngay.
Nghe Thiếu-Mai phân giải, không những mồ hôi nhà vua vã ra như tắm, mà chính Thường-Kiệt cũng rùng mình. Ông than thầm:
– Nghe tiên-nương nói, dường như hoàng-hậu có dính vào việc ám toán Ỷ-Lan. Nay tuy cơ thể ta không toàn vẹn, nhưng dù sao, giữa ta và hậu như ngó ý tuy lìa, nhưng tơ vương đâu đã dứt? Ta pi trưa con Ðệ nó giết gà đãi bạn nó là con Ngọc-Nam, Trinh-Dung, Ngọc-Huệ, Thanh-Thảo cùng với mấy thằng bạn mất rồi.
Minh-Ðệ kinh hãi cãi:
– Thưa mẹ, chính nó đem bẩy đứa bạn về, bắt con giết gà làm cơm đãi. Con chối, chúng nó xúm vào đánh con. Ðây, mẹ xem, khắp người con đầy vết thâm tím đây.
Bà Thiết xỉa xói vào mặt nàng:
– Tiên sư bố mày, mày nứng l... lên, đem trai về nhà, lại bắt gà mái đẻ của tao giết đãi nó, rồi mày lại đổ cho con gái tao ư? Tao phải giết chết mày mới được.
Thế là bà đánh nàng túi bụi. Xưa nay, mỗi lần bị đòn, mà nàng phân trần, thì y như bà Thiết còn đánh đến khi nàng không nói gì mới thôi. Vì vậy nàng nghiến răng chịu mưa roi, bão vọt cho qua.
Sau trận đòn, nàng ra bờ sông ôm mặt ngồi khóc. Nàng khấn Bụt, nói chuyện với Bụt. Nàng chắp tay:
– Lạy Bụt chứng giám cho con.
Rồi nàng kể hết nguồn cơn. Nàng vừa kể xong, thì có tiếng nói trong, êm đềm phát ra:
– Tất cả những gì con đang phải gánh chịu, là do cộng nghiệp từ muôn vàn kiếp trước kết tụ. Nếu nay con cứ chống, cứ tránh né, thì cái nghiệp xưa bao giờ mới giải hết?
Nàng ngửa mắt nhìn lên, thì không phải là Bụt, mà là một bà quần áo trắng. Trong bóng đêm mờ ảo, nàng nghĩ ngay đến đức Quan-Thế-Âm hiện xuống cứu khổ cứu nạn. Nàng thụp lạy:
– Nam-mô cứu khổ, cứu nạn Quan-thế-âm Bồ-tát, xin Bồ-tát thương tình cứu con khỏi cảnh đau khổ này.
– Ðau khổ, đau khổ. Thế con có biết trên thế gian này có không biết bao nhiêu chúng sinh đau khổ hơn con không? Ta cho con bốn câu để giải cái ẩn ức trong tâm. Con hãy nghe đây:
Nhân sinh đô thị mệnh an bài.
Con người ta sinh ra, đã được số mệnh an bài, nhà Phật gọi là nghiệp quả. Khi nghiệp nó tới, thì phải thản nhiên chịu đựng, chứ nếu cứ chống đối thì kiếp sau nó sẽ theo mà đòi mãi.
Nhân thế nan phùng khai khẩu tiếu.
Trong thế gian này, đau khổ đầy dẫy, khó mà mở miệng cười được. Vậy thì con có khổ một mình đâu?
Khởi khả nhân vô đắc vận thời?
Cuộc đời thay đổi, người nào đang khổ rồi cũng có ngày vận tốt nó tới. Con muốn gấp làm chi?
Cử đầu tam xích hữu thần minh.
Ngửa đầu nhìn lên ba thước (75 cm) là có thần minh chứng giám. Con khỏi phải kêu oan!
Qua bốn câu khuyên của Quan-âm, Minh-Ðệ cảm thấy trong người khoan khoái lạ thường. Ngài tiếp:
– Thôi, bây giờ ta tạm giảm cái đau đớn thân xác cho con đã. Con hãy ngồi im, không được động đậy.
Quan-Âm cúi xuống, xòe bàn tay để lên đỉnh đầu, một luồng nhiệt khí chạy khắp cơ thể nàng. Lạ thay, nhiệt khí chạy đến đâu, bao nhiêu cái đau đớn đều biến mất.
Nàng lại thì thụp lạy, Quan-Âm phán:
– Thôi, lạy vậy đủ rồi. Bây giờ ta cho con ba cái bửu bối để tránh khỏi hoạn nạn. Con nhớ nhé, tuyệt đối không được kể cho ai nghe, bằng không con sẽ gặp tai ách ghê lắm.
– Con xin tuân lệnh.
Quan-Âm móc trong túi ra một tập sách nhỏ trao cho nàng:
– Ðây là quyển sách loại bỏ túi, trong có chép bài kinh Bát-nhã, cùng yếu chỉ kinh Kim-cương. Lúc nhàn rỗi, trước khi đi ngủ, con hãy đem ra đọc, cùng suy nghĩ ý nghĩa thâm sâu. Nào, con hãy đọc theo ta.
Gì chứ kinh Bát-nhã thì nàng thuộc lòng, đã đọc hàng trăm, hàng nghìn lần. Nàng cất tiếng đọc:
"Quán-tự-tại Bồ-tát,
Hành thâm Bát-nhã ba-la mật đa thời,
Chiếu kiến ngũ uẩn giai không,
Ðộ nhất thiết khổ ách.
...........
Yết đế, yết đế, ba la yết đế,
Ba la tăng yết đế,
Bồ đề tát bà ha
".
– Con có hiểu nghĩa bài kinh này không?
– Dạ, con hiểu nghĩa Hán-Việt thôi, còn ý thâm sâu thì con không được học.
– Như vậy cũng được rồi. Ta đã kiến giải bài kinh này, và chép trong tập yếu quyết mà ta cho con đây. Khi có thời giờ thì con đem ra mà đọc. Ta cho con một yếu quyết: lúc nào trong lòng cũng phải để trống không, nhãn không, nhĩ không, tỵ không, thiệt không, thân không, ý không. Nhớ đấy, hãy bỏ lục tặc ra ngoài.
Minh-Can nhận tập sách. Quan-Âm tiếp:
– Bây giờ con nhắm mắt, rồi từ từ bỏ hết nhãn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ý. Trước hết bỏ nhãn đã. Con nhắm mắt lại. Bây giờ chỉ tưởng tượng thấy ta đứng trước mặt.
– Ðược rồi, con bỏ, không chú ý đến miệng đắng nữa. Ðược rồi, khá lắm, như vậy bỏ được thiệt rồi đó. Bây giờ không còn nghĩ tới thân mình bị đau đớn, nóng hay lạnh nữa. Ðược. Như vậy vô thân rồi đó. Nào, hãy quên đi, không nhớ tới bị mẹ đánh, bị em làm nhục. Ðược, con quên mau lắm, thế là vô ý rồi. Cuối cùng là vô nhĩ. Con đừng chú ý đến xung quanh nữa, chỉ chú ý đến lời ta nói thôi. Ðược rồi, bây giờ hãy tập trung tinh thần đừng chú ý đến lời nói của ta nữa.
Thế là Minh-Ðệ như người mê đi, không còn biết gì đến xung quanh. Cứ như thế, nàng nhập vào một giấc triền miên thâm sâu không biết bao nhiêu lâu, cho đến khi bàn tay Quan-Âm vỗ lên đầu, nàng mới tỉnh giấc.
Nàng cảm thấy người sảng khoái vô cùng tận. Quan-Âm phán:
– Con ngồi ngay ngắn lại. Ðược rồi. Từ từ hít hơi, hít làm nhiều nhịp. Mắt nhắm, nhưng nhìn vào tỳ-vị (lá lách, dạ dày),tưởng tượng khí từ ngoài vào mũi lên đỉnh đầu, rồi tỏa ra hai thái dương, mặt, cổ, chạy xuống bụng giữa. Ðược rồi. Bây giờ lại thở ra, thở làm nhiều nhịp, tưởng tượng khí từ bụng giữa xuống chân qua gối, bàn chân. Ðược rồi. Bây giờ lại hít vào, vẫn hít làm nhiều nhịp, tưởng tượng khí từ hai bàn chân chạy lên bụng trên. Ðược rồi. Bây giờ con thở ra làm nhiều nhịp, tưởng tượng khí tứ bụng trên lên đầu, rồi ra ngoài.
Sau hai lần hít, thở, người Minh-Ðệ cảm thấy khoẻ mạnh vô cùng. Quan-Âm tiếp:
– Ta cho con ba bảo bối. Một là bài kinh Bát-nhã, hai là phương thức nhập tĩnh, ba là phương pháp thở hít cho khoẻ. Sau này, khi gặp nguy cơ về thần chí, thì chiếu kinh Bát-nhã mà tự giải lấy. Gặp đau đớn thể xác thì nhập tĩnh. Còn như người mệt mỏi thì thở hít. Nhưng nếu con nhập tĩnh rồi thở hít và nhẩm đọc kinh Bát-nhã thì con sẽ có sức khoẻ vô biên.
– Con xin đa tạ ngài.
– Ta có một số yếu quyết, ta đọc cho con. Tùy theo duyên phận, con có ngộ tính cao thì thuộc được nhiều. Còn ngộ tính thấp, thì thuộc ít.
Nói rồi bà đọc:
Âm nhu tâm pháp thị vô song,
Luyện khí, luyện công thực bất đồng.
Khí đắc, công thành, hậu luyện kiếm,
Giải trừ dương lực, phá ngạnh công.
Bà đọc đến đâu Minh-Ðệ thuộc đến đó. Bà đọc một lúc 99 câu, Minh-Ðệ cũng thuộc cả 99. Bà hỏi:
– Con thử đọc lại xem, con thuộc được mấy câu.
Minh-Ðệ đọc thông 99 câu. Bà kinh ngạc:
– Ngộ tính con cao thực. Ðể ta giải thích cho con mười câu đầu, con luyện xong, ta sẽ giải thích tiếp.
Bà giảng giải ý nghĩa mười câu. Minh-Ðệ luyện cho đến khi trời gần sáng thì xong. Quan-Âm phán:
– Kể từ nay ta đặt tên cho con là Yến-Loan. Sau này mỗi khi con dùng tên này, thì người của ta khắp nơi sẽ biết con là đệ tử của ta, mà giúp đỡ con. Ta dặn con một điều, từ nay bất cứ ai hỏi về ba bảo bối mà ta cho con, tuyệt đối con không được tiềt lộ gặp ta trong trường hợp nào. Nhớ không?
– Con ghi nhớ rồi.
Nói rồi nàng cúi xuống đảnh lễ. Sau khi lễ ba lễ, nàng ngẩng đầu nhìn lên, thì không thấy Quan-Âm đâu cả.
Từ đấy nàng âm thầm thở hít, nhập tĩnh, đọc kinh Bát-nhã. Nhưng chưa bao giờ thử kết hợp cả ba thứ lại với nhau. Nàng ngẫm thấy rằng, trước đây người nàng bè bè ra, coi rất chướng mắt. Cứ sau thời gian luyện ba bảo bối, thì sức khoẻ tăng lên, cơ thể thon dần lại, mắt sáng hơn lên.
Mười ngày sau Quan-Âm lại xuất hiện, giải thích thêm mười câu nữa, rồi nàng luyện trong mười ngày là song. Cứ như thế sau chín lần xuất hiện, Minh-Ðệ được Quan-Âm giải thích hết 99 câu. Rồi từ đấy không thấy ngài hiện ra nữa. Còn nàng thì cứ âm thầm luyện một mình.
Tiếng chuông chùa ban mai, làm Minh-Ðệ tỉnh giấc, súc miệng qua loa rồi nàng phải vác một rổ lớn bèo đem thái nhỏ, trộn với cám, nhóm lửa nấu. Vì nấu bằng rơm, nên nàng phải ngồi bên bếp, không rời ra được. Tuy ngồi nấu cám lợn, mà nàng vẫn thở hít, để bồi bổ lại việc mất sức vì không được ngủ.
Nồi cám sôi rồi, thì chị Sửu mới thức giấc, chị le te sai nàng nhặt rau, nấu cơm.
Trời tảng sáng, cả nhà thức giấc. Cơm dọn lên. Cơm chia làm hai mâm. Mâm thứ nhất, ông bà Thiết ngồi với Minh-Can, còn lại tất cả ngồi chung một mâm với chị Sửu. Tuy ngồi không cùng mâm, nhưng bà Thiết luôn luôn hướng đôi mắt cá quả về phía Minh-Ðệ:
– Con trời đánh, tại sao không ngồi cho thẳng lên, mà lại khòm khòm thế kia.
Minh-Ðệ vội ngồi ngay ngắn lại.
– Cái đầu cá rô thế kia mà mày bỏ không ăn à?
Minh-Ðệ vội gắp cái đầu cá rô bỏ vào bát.
– Ðấy, nó ăn cá không à? Không bao giờ nó ăn dưa cả. Ăn hỗn thế thì thôi.
Minh-Ðệ vội gắp dưa ăn.
Minh-Can xen vào:
– Cái thứ hủi mà mẹ cứ nói hoài chi cho mệt. Từ nay mỗi bữa mẹ để bọn con ăn xong rồi cho nó ăn có phải khỏi chướng mắt không?
Bà Thiết như tìm ra cái gì mới mẻ:
– Này chị Sửu, từ nay chị đợi cả nhà ăn xong rồi hãy cho nó ăn nghe.
– Thưa bà vâng.
Vừa lúc đó, có tiếng trống ngũ liên thúc dân làng phải tới bờ sông nhận nhiệm vụ. Có tiếng gọi từ cổng vào:
– Minh-Ðệ ơi! Ði thôi, mọi người đang tụ họp ở bờ sông chờ chúng mình đấy.
Minh-Ðệ vội buông bát đứng dậy, tìm cái móng, khoác áo tơi, chào bố mẹ rồi cúi đầu ra đi. Nếu ai tinh ý, sẽ thấy vai nàng rung động, và hai hàng nước mắt tuôn rơi. Ðến cổng, đám bạn gái reo mừng:
– Ðệ đấy à? Lại khóc rồi. Hôm nay chúng mình vừa vét, vừa nói chuyện, tha hồ mà họp chợ như chim vỡ tổ.
– Tiểu thư Can đâu rồi? À, đời nào bà Thiết cho chân tay nàng lấm bùn nhỉ? Con vàng, con ngọc mà.
Minh-Ðệ lẫn vào trong đám bạn gái. Trong đám bạn gái cùng lứa tuổi với Minh-Ðệ thì có bốn người là Trinh-Dung, Ngọc-Huệ, Thanh-Thảo, với Ngọc-Nam là thân nhất. Năm người nguyên là bạn học với nhau từ hồi năm sáu tuổi. Ngọc-Nam hỏi:
– Nghe thầy Thái nói, thì Minh-Ðệ phải làm những hai mươi công phải không? Chà, hai mươi ngày thì chịu sao nổi?
Minh-Ðệ thản nhiên:
– Ðành chịu vậy chứ sao? Mẹ bắt thì phải làm.
– Vô lý chi thậm, con nào cũng là con, tại sao Minh-Ðệ lại phải cực khổ cho con Minh-Can sung sướng?
– Tự mẹ mình muốn vậy, thì làm sao bây giờ.
Thanh-Thảo bực mình:
– Nói với Minh-Ðệ tức bỏ bu đi ý. Chính bà ấy không có lấy một chút ý thức nào để tự vệ, thì Ngọc-Nam có nói cũng vô ích.
– Mình là người đọc sách thì phải lấy chữ hiếu làm đầu.
Trinh-Dung lắc đầu:
– Bà làm như vậy mới chính là bất hiếu, chứ không thể coi là hiếu.
– Tại sao?
– Trời ơi Đinh-Hiền với cái tên Nguyễn Bông. Nhờ có kiến thức, cùng võ công, Đinh Hiền trải hai mươi mấy năm qua, dần dần y lên tới nhập-nội đô-tri rồi Bắc-ban chỉ-hậu rồi chi-hậu nội-nhân, tước tới hầu.
Sau khi Dương Đức-Thành bị cách chức, họ Dương tuy có mất quền, nhưng Thiên-Cảm hoàng hậu trở thành Thiên-Cảm thái hậu. Cháu của bà thành Thượng-Dương hoàng hậu. Phe Dương lại hưng thịnh lên, lại kết hợp với Tống, với Chiêm, định cướp ngôi. Rồi Dương-đạo-Gia leo lên tới chức tể tướng.
Đám Hồng-thiết giáo quyết định đổi kế hoạch: trong lúc họ Dương làm gian tế cho Tống để mưu cướp ngôi vua, thì Nguyễn Bông chờ đợi khi nhà vua đemquân Nam-chinh, y báo hết quân tình cho Chiêm, cuộc chiến sẽ kéo dài, quân trong nước gửi hết ra mặt trận. Nguyễn Bông cùng hoàng-hậu tổ chức binh biến, chiếm Hoàng-thành. Thái-hậu sẽ họp quần thần, truất phế nhà vua, lập một ấu quân lên thay. Bà đương nhiên buông rèm thính chính, bấy giờ bà sẽ loại hết những quan lại trung thành với triều Lý, bước cuối cùng là các quan sẽ truất phế ấu quân, tôn Dương Đạo-Gia lên thay.
Dĩ nhiên Dương lên thì Tống cũng sẽ kéo quân sang « Phù Lý, diệt Dương », bấy giờ đám Hồng-thiết giáo nắm quyền quân sự, hạ Dương xuống, phất caongọn cờ chống ngoại xâm... Âm mưu của họ tưởng đâu sắp thành, thì bị Ưng-sơn song hiệp, bị Mộc-tồn hòa thượng, bị Ỷ-Lan khám phá, phe Dương kẻ bị giết, người bị tù. Cuối cùng chân tướng y với Dương hậu bị lộ. Hy vọng cuối cùng của họ Dương với y là mong sao cho nhà vua không con, chờ khi nhà vua Nam chinh, là y với Thái-hậu tổ chức chính biến, truất phế ngài về tội không con, lập ấu quân lên thay. Chính vì lẽ đó, y với Dương hậu tìm đủ cách đánh thuốc độc Ỷ-Lan cùng các phi tần được nhà vua sủng ái. Hôm rồi y định bỏ thuốc vào nước tắm Ỷ-Lan thì bị bắt ».
Nghe Thường-Kiệt tâu xong, nhà vua suy nghĩ một lúc rồi phán:
– Ở đây có Ỷ-Lan, tiếng là phu-nhân, nhưng thực ra là một đại-học sĩ của trẫn. Thường-Kiệt với trẫm có nghiã vua tôi, có tình bạn học thời thơ ấu thì là gan là ruột của trẫm. Thiên-Ninh là người con trẫm kỳ vọng nhất, sủng ái nhất. Vậy trẫm hỏi thực: trẫm phải đối phó sao với Thái-hậu, Hoàng-hậu?
Ỷ-Lan tâu ngay:
– Bệ hạ miễn cho thiếp phải đưa ý kiến về vụ này. Vì từ khi chưa tiến cung, thiếp đã bị Dương gia hãm hại, lấn áp biết bao phen. Bây giờ chính Thái-hậu, Hoàng-hậu hại thiếp. Bất biết thiếp phát biểu gì, quần thần sẽ dị nghị phân vân.
Nàng chỉ vào Thường-Kiệt, Thiên-Ninh:
– Sơ bất gián thân. Sư huynh tuy có thâm tình với bệ hạ, nhưng đây là việc trong hoàng tộc, người cũng chẳng có thể phát biểu ý kiến. Còn Thiên-Ninh, lại không thể bàn luận vào vụ này. Bởi dù gì Thái-hậu cũng là tổ-mẫu, hoàng-hậu là đích mẫu. Luật bản triều không cho phép con, cháu kết tội người trên. Vậy bệ hạ nên hỏi Quốc-phụ là hơn.
Ỷ-Lan nhìn Thường-Kiệt, rồi mỉm cười một mình. Thường-Kiệt kinh ngạc hỏi:
– Phu nhân, thần có điều gì cổ quái chăng?
– Sư huynh ơi! Muội làm gì dám cười sư huynh. Muội thấy bao nhiêu tội trạng trong vụ này, sư huynh đổ lên đầu bọn Tống, bọn Hồng-thiết hết. Còn Dương hậu thì... vô tội.
Thường-Kiệt kinh hoảng, đưa mắt nhìn nhà vua:
– Phu nhân... phu nhân nghĩ thế thôi, chứ thần đâu có thiên lệch.
Quả tình Thường-Kiệt biết rõ chính phạm là Thượng-Dương hoàng hậu, nhưng nghĩ lại mối tình xa xưa với bà, cũng như những lần trước, ông cố tình lướt qua tội trạng của cố nhân. Ông nghĩ thầm:
– Không lẽ mối tình của mình với Hồng-Hạc xẩy ra khi Ỷ-Lan chưa ra đời, mà sao nàng biết được?
Đến đó, có thái-giám vào tâu:
– Quốc-phụ, Quốc-mẫu giá lâm.
Cả bốn người vội chỉnh đốn y phục, ra khỏi cung Ỷ-Lan, đã thấy Khai-Quốc vương với vương-phi Thanh-Mai vừa xuống kiệu.
Lễ-nghi tất. Trà nước bầy ra.
Trong khi vương phi Thanh-Mai nắm tay Ỷ-Lan, Thiên-Ninh để ngồi bên cạnh bà. Bà vuốt tóc Ỷ-Lan:
– Trời đem Ỷ-Lan cho dân Việt. Ỷ-Lan là học trò của bồ-tát Viên-Chiếu, của vua bà Bình-Dương có khác. Những kế sách cải tổ chế độ tá điền, chủ điền, giảm tô, cấm giết trâu, khai hoang, giảm chi nội cung... lúc đầu thân-vương, quan lại, chủ điền nghị luận, chỉ trích tưởng không thi hành được. Nhưng tá điền, dân nghèo thích lắm. Cái nạn tá điền bị ức hiếp nổi lên giết chủ điền đã tuyệt hẳn. Trên toàn quốc không còn ăn mày nữa.
Bà tát yêu Thiên-Ninh:
– Chà! Cháu gái thực giỏi, phụ hoàng trao cho cháu nhiệm vụ theo dõi kiểm soát việc giảm tô cho tá điền, cấm giết trâu, lại khuyến khích phá hoang. Đi đâu cũng thấy người người ca tụng rằng trên từ các quan, cho tới chủ điền, tá điền đều răm rắp tuân hành. Suốt sáu tháng qua toàn quốc chỉ có ba vụ trộm trâu, nhưng bắt được ngay thủ phạm. Mùa vừa rồi trúng lớn. Nhà nhà lúa đầy cót. Giỏi, cháu giỏi.
Nhà vua hỏi Quốc-phụ:
– Không biết Quốc-phụ quang lâm có điều chi dạy dỗ thần nhi.
Khai-Quốc vương thở dài:
– Thần cầu kiến bệ hạ chỉ vì vụ án Đinh Hiền. Thần thấy các quan có ý hướng muốn xử Thái-hậu như Lã hậu đời Hán, Vũ hậu đời Đường. Thần thấy không thể, và không nên. Chúng ta chỉ xử người để cắt đứt mối nguy hiểm phản loạn. Nay thì mối nguy đó đã bị phá rồi, ta nên xử nhẹ tay thôi. Thiên-Cảm thái hậu là đích mẫu của bệ hạ, lại là người tiên-đế sủng ái cùng cực. Thượng-Dương hoàng hậu là người tiên-đế tuyển cho bệ hạ. Vì vậy thần nghĩ: bệ hạ cho gửi bản cung từ của Nguyễn Bông đến cung Thiên-Cảm, Thượng-Dương. Thái-hậu, hoàng-hậu đọc xong, tự hậu sẽ không dám có hành vi gì khác nữa. Còn Đinh Hiền, hãy đem ra cánh đồng trước chùa Thánh-chúa chém đầu răn chúng.
– Thần nhi tuân chỉ của Quốc-phụ.
Ghi chú,
Sau khi đọc bản cung từ của Đinh Hiền, tức Nguyễn Bông, Thiên-Cảm thái hậu uống thuốc độc tự tử. Bà có để lại một chỉ dụ dặn nhà vua: bao nhiêu tội trạng bà chịu hết, xin ân xá cho Thượng-Dương hoàng hậu cùng thân thuộc họ Dương. Sự kiện này không thấy ghi trong ĐVSKTT đã đành, mà ngay bộ VSL cũng không thấy chép, trong khi QTNC và TTCTGCK lại chép rất chi tiết. Có lẽ nhờ vào vị thế làm nguyên soái đánh Đại-Việt, nên Quách Quỳ, Triệu Tiết được đọc tất cả các văn kiện mật của Khu-mật viện Tống, mà biết chi tiết này.
Còn Nguyễn Bông thì VSL không ghi, ĐVSKTT chép như sau:
...Qúy-Mão (Chương-thánh Gia-khánh thứ năm), Tống Gia-hựu năm thứ tám (1063). Bấy giờ nhà vua tuổi đã cao, bốn mươi mà chưa có con trai nối dõi. Ngài sai chi-hậu nội-nhân Nguyễn Bông cầu tự ở chùa Thánh-chúa, sau đó Ỷ-Lan phu nhân có thai, sinh thái tử Càn-Đức tức vua Nhân-tông. Thế truyền... Vua muốn có con trai, sai Bông cầu tự ở chùa Thánh-chúa. Nhà sư dạy cho Bông thuật đầu thai thác hóa. Bông nghe theo. Việc phát giác, đem chém Bông ở trước cửa chùa. Người sau gọi chỗ ấy là đồng Bông. Chùa ở xã Dịch-vọng, huyện Từ-liêm. Đồng Bông ở phía Tây trước cửa chùa, nay hãy còn (hiện thuộc huyện Từ-liêm, Hà-nội)...
Vì sử chép quá vắn tắt, nên người sau thắc mắc rằng: vua Thánh-tông nổi tiếng là một nhân quân, việc Nguyễn Bông thác hóa làm con ngài, thì là việc y tỏ lòng hiếu kính với ngài, mà tại sao ngài lại sai chém y?
Còn thần tích Ỷ-Lan lại chép thêm:
«...Nhà sư Đại-Điên (ghi chú: Đinh Kiếm-Thương đi tu, pháp danh là Đại-Điên) ở chùa Thánh-chúa bảo Bông trở về nấp trong buồng tắm Ỷ-Lan. Một hôm Ỷ-Lan tắm thì bắt được Bông còn ẩn trong buồng. Vua Thánh-tông sai đem Bông đi chém. Khi qua chùa Thánh-chúa, Bông xin vào chùa để trách sư. Sư cười trả lời: Nếu không hủy thân này thì sao đầu thai được. Bông hiểu mưu của sư, và vui vẻ chịu chết...»
Tất cả sự thực vụ này, chỉ độc giả Nam-quốc sơn hà là biết rõ từng chi tiết mà thôi.

Sau khi đập Minh-Ðệ hai cán chổi, chị Sửu ngẫm ra một điều là mọi khi chị đập sẽ thôi, là Minh-Ðệ ôm chân ngồi nhăn nhó một lúc mới đi nổi. Bây giờ nàng chỉ kêu lấy lệ, dường như không đau đớn gì.
Minh-Ðệ vội lấy thúng vào gian nhà chứa thóc, xúc thóc đem ra cối xay. Xay xong lại phải sàng, xảy, rồi đem gạo ra cối dã. Gạo dã xong, thì trời về chiều. Chị Sửu quát:
– Con ngẫn ngờ kia, mau quét nhà, rồi gánh nước rửa chuồng lợn.
Minh-Ðệ tuy mệt nhừ, người hâm hấp sốt, nhưng vẫn phải tuân hành. Nàng gánh được hai gánh nước trót lọt. Ðến gánh thứ ba thì trượt chân ngã lăn xuống đất. Không may, bắp chân chà phải mảnh sành, máu chảy ra chan chứa. Từ chị Sửu, cho tới Minh-Can, cùng mấy đứa em trai là Thắng, Lực đều dương mắt thản nhiên nhìn. Nàng quằn quại một lúc, rồi cố gắng ngồi dậy, uể oải ra vườn tìm cây thuốc dấu, hái mấy lá cho vào cối dã ra, đắp lên vết thương, rồi xé vạt áo cũ băng lại. Lát sau vết thương cầm máu. Nàng lê bước về buồng, nằm xuống nghỉ. Nhưng chị Sửu đã oang oang:
– Con ngớ ngẩn làm bộ, giả đau trốn việc đâu rồi? Có ra ngay không thì bảo?
Ghi chú:
Cây nhọ-nồi: loại cây mọc hoang khắp Việt-Nam. Tên Hán-Việt gọi là Bách-thảo-sương. Tên khoa học là Pulvis Fumu carbonissantus. Khi dã cây này ra, thì có chất mầu đen, giống như nhọ nồi. Cây này tính vị cay, hơi ấm, nhập tâm, phế kinh, tác dụng cầm máu, trợ tiêu hóa, giải độc. Có thể dùng trị chảy máu cam, chảy máu chân răng, tả lỵ. Chảy máu chân răng: dã nhọ nồi bôi vào. Chảy máu cam: án nhọ nồi khô, thổi vào mũi. Chữa ghẻ ngoài da trẻ con: tán nhọ nồi khô, trộn với mỡ heo, mỡ gà bôi lên. Chữa tả lỵ: nhọ nồi khô uống với cháo nóng, ngày hai lần, mỗi lần 8g.
Minh-Ðệ chưa kịp trả lời, thì tiếng Minh-Can nói:
– Chị để em vào, lôi nó ra cho chị nhá!
– Ừ, em làm dùm chị.
Minh-Can xồng xộc bước vào buồng, nó vung tay tát Minh-Ðệ hai cái, rồi quát:
– Giả đau trốn việc này!
Mọi khi Minh-Can tát, thì Minh-Ðệ cảm thấy đau đớn. Nhưng nay sau hai cái tát với tất cả sức lực dáng vào mặt nàng, mà nàng chỉ cảm thấy hơi ran rát thôi. Minh-Can cũng nhận ra điều đó, thị bẻ quặt cánh tay nàng, rồi nhắc bổng lên, ném ra sân đánh huỵch một cái. Ðau quá, Minh-Ðệ nằm im, không bò dậy được.
Minh-Can cáu:
– Con chết tiệt giả bộ nữa hả?
Nó co chân đá vào mông nàng hai cái. Vốn đã bị đòn nhiều thành kinh nghiệm, Minh-Ðệ ngẫm ra khi bị đòn, nàng cứ nhập tĩnh thực sâu, rồi thở hít, thì cái đau giảm một nửa. Vì vậy nàng nhắm mắt nhập tĩnh rồi thở hít. Hai cái đá khiến thân thể nàng lăn đi hai ba vòng, nhưng nàng vẫn nằm bất động. Thằng Mãnh chạy ra lay nàng:
– Chị Ðệ, chị Ðệ.
Nàng vẫn nằm bất động. Nó oà lên khóc:
– Chị Ðệ chết rồi, mau đi báo làng.
Nói rồi nó chạy vội đi. Chị Sửu vội ngăn lại:
– Con nỡm này nó giả đò đấy, em mà báo làng, thì làng họ nọc cổ em ra họ đánh cho mà coi.
Thằng bé vội ngừng lại. Chị Sửu với Minh-Can vội khiêng Minh-Ðệ vào nhà, rồi đi luộc trứng, đánh cảm. Bấy giờ Minh-Can, chị Sửu mới biết sợ. Chị sờ tay vào ngực nàng, thấy còn thoi thóp thở, nên yên tâm. Chị chỉ mặt thằng Mãnh, Tráng và con Minh-Nhàn:
– Muốn sống thì câm cái miệng, đứa nào hé môi thì tao đập chết, nghe không?
Ba đứa trẻ im lặng gật đầu.
Khi mặt trời lặn, thì ông bà Thiết về. Xe vừa dừng trước ngõ bà Thiết không thấy Minh-Ðệ ra dắt ngựa đi tắm, cùng cho ăn cỏ như thường lệ, bà hét lên:
– Cái con trời đánh thánh đâm đâu rồi? Có ra tắm ngựa hay không?
Minh-Can đon đả cùng bốn đứa trẻ chạy ra:
– A, bố về, mẹ về.
Thằng Lợi chạy đến ôm chân bà, bà đẩy nó ra:
– Làm gì thế này, cút.
Sau khi đẩy đứa trẻ ra, bà chợt thấy nét mặt Minh-Can như có vẻ sợ hãi, tay bà vòng ra ôm lấy cổ con gái:
– Con gái của mẹ. Sao hôm nay ở trường có gì lạ không? Mẹ mua quà cho con đây này.
Bà móc trong bọc ra cái khăn lụa, choàng lên cổ Minh-Can. Thằng Lợi mới có bốn tuổi, thấy mẹ hắt hủi mình, nó ngơ ngác nhìn bà Thiết bằng con mắt sợ hãi, rồi không hiểu nghĩ sao nó òa lên khóc. Ông Thiết vội bế nó lên lên, nó nức nở:
– Chị Sửu với chị Can đánh chết chị Ðệ rồi.
Bà Thiết chép miệng:
– Cứ đánh chết nó đi cũng chẳng sao.
Ông Thiết cau mày hỏi chị Sửu:
– Bây giờ nó ở đâu?
– Thưa ông, sau khi đi việc làng về, cháu bảo nó gánh nước rửa chuồng lợn, nó giả bệnh rồi vào buồng nằm ngủ, mọi việc nào xay thóc, nào dã gạo, nào thổi cơm, em Can phải làm hết.
Lập tức bà Thiết rống lên như trâu gầm:
– Ông thấy không, con trời tru, đất diệt; con tù đâm chó đéo nó như vậy đấy, nó làm khổ cho con tôi, trời hở trời???
Bà cầm hai bàn tay Minh-Can lên xem xét tỷ mỉ dưới ánh đèn, trong lòng đầy xót xa, bà bảo chị Sửu:
– Từ nay trở đi, cái con thiên lôi đánh nó có dở chứng gì, thì mặc nó, chị đừng bắt đứa con châu ngọc của tôi phải làm việc.
Minh-Can xen vào:
– Tự con muốn chính tay mình xay thóc, dã gạo để dâng hiến cho bố mẹ chứ có phải chị Sửu bảo con đâu? Mẹ đừng mắng chị ấy mà con phải tội.
Bà Thiết ôm sát Minh-Can vào lòng:
– Ông thấy con nó có hiếu không? Thực không thua Tử-Lộ đội gạo, đâu kém vua Thuấn. Nó thực được cả người, cả nết, chứ đâu có như con khốn nạn kia.
Ông bà vào nhà thay quần áo, cơm đã dọn lên. Cả nhà ngồi vào hai mâm cơm. Ông Thiết bảo Lực:
– Con vào gọi chị dậy ăn cơm.
Thằng Lực vào buồng nói lớn:
– Chị Ðệ ơi, dậy ăn cơm.
Minh-Ðệ đau đớn, mệt mỏi, lại đang lên cơn sốt, chỉ ngất đi chứ chưa chết. Tuy nhiên trong cái ngất, nàng ngủ được một giấc, thành ra sức lực dần dần trở lại. Nghe tiếng em gọi, nàng nói trong hơi thở hổn hển:
– Các em cứ ăn cơm đi, chị không ăn đâu.
Lực trở ra nói với mẹ:
– Chị Ðệ không ăn cơm.
Bà Thiết nghiến hai hàm răng vào nhau, mắt bà đỏ gay, mở tròn như hai con ốc ang to. Bà rít lên:
– Mày lại hờn hả? Mày dỗi hả? Có dậy ngay không?
Giữa lúc đó, Minh-Ðệ từ từ tỉnh giấc, tay đau, chân đau, mông bị vết đá tím bầm, nàng nghiến răng ngồi dậy, nhưng vẫn không nổi. Bà Thiết chụp ngay đôi đũa cả rồi lao người vào buồng Minh-Ðệ; không nói, không rằng, bà quất vào mông, vào lưng, vào vai nàng liên tiếp không biết bao nhiêu cái. Mấy cái đầu Minh-Ðệ còn dãy đụa, nhưng mấy cái sau nàng lại ngất đi, không biết gì nữa, mặc cho bà Thiết đánh. Ðánh một lúc mỏi tay, bà Thiết hơi ngạc nhiên, vì thấy Minh-Ðệ không rên siết như mọi khi, bà chán nản ngừng tay:
– Ðể thằng cha mày dạy mày.
Bà ra nhà ngoài rống lên khóc với chồng:
– Ông thấy chưa? Nó làm gan, nằm lỳ ra không chịu dậy. Con ông đấy, ông dạy nó đi.
Kinh nghiệm cho ông Thiết biết, nếu ông đưa ra lời bênh Minh-Ðệ, thì vợ sẽ đánh chết đứa con gái bất hạnh của mình. Nhược bằng ông hùa theo vợ, thì tội cho nó, nên ông im lặng.
Bà Thiết thở hổn hển bảo Minh-Can:
– Con vào nắm cổ nó ném ra ngoài vườn kia cho mẹ. Mẹ không chịu được nữa rồi.
Ðược mẹ sai hành hạ kẻ thù, Minh-Can sướng quá, ả bước vào buồng chị túm áo ngực nàng nhắc bổng lên, rồi chạy ra vườn. Lúc đầu thị định ném nàng ra sau vườn thôi, nhưng bỗng tính ác nổi dậy, thị chạy ra chuồng hôi rồi ném nàng xuống. Bụp, Minh-Ðệ rơi xuống dưới hố đầy phân, đầy dòi bọ ngập đến ngang lưng. Nhưng vừa đau đớn, vừa mệt mỏi, nàng nào biết gì? Ðầu nàng gục vào bờ chuồng hôi.
Ghi chú:
Thời Lý, chưa có cầu tiêu che kín như bây giờ. Thường mỗi nhà hay nhiều nhà chung nhau đào một hố sâu, bắc ván lên để ngồi đi đại tiểu tiện. Xung quanh trồng cây ré để che phòng người ta "nhìn thấy". Cứ mấy ngày, phân nhiều thì đem tro đổ lên trên. Khi nào phân đầy, thì múc lên pha với nước đem bón cây, bón lúa.
Trong nhà, mọi người vẫn tiếp tục ăn uống, vui vẻ. Bà Thiết vừa ăn, vừa nói với chồng:
– Không biết ma quái, của nợ ở đâu nó lạc vào nhà này làm khổ cho tôi, làm khổ cho con Minh-Can.
--!!tach_noi_dung!!--

Đánh máy : CDDLT
Nguồn: CDDLT
Được bạn: NHDT đưa lên
vào ngày: 15 tháng 2 năm 2005

--!!tach_noi_dung!!--
--!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!--
Truyện Cùng Tác Giả Q1 - Anh Hùng Lĩnh Nam Q2 - Động Đình Hồ Ngoại Sử Q3 - Cẩm Khê Di Hận Q4- Anh Hùng Tiêu Sơn Q5- Thuận Thiên Di Sử Q6- Anh Hùng Bắc Cương Q7- Anh Linh Thần Võ Tộc Việt Q8- Nam Quốc Sơn Hà Q9- Anh Hùng Đông-A Dựng Cờ Bình Mông