Dịch giả : Thích Nữ Trí Hải
14- Những hành trì cho người sắp chết

Tôi nhớ nhiều người thường đến thầy Jamyang Khientse tôi để xin thầy chỉ dẫn cho lúc sắp chết. Ngài được yêu mến, kính trọng khắp xứ Tây Tạng, nhất là ở vùng tỉnh Kham về phía Ðông. Nhiều người đã du hành hàng tháng để đến gặp ngài và xin ngài ban ân phước một lần trước khi họ chết. Tất cả các bậc thầy của tôi đều cho lời khuyên sau đây, vì nó là cốt tủy tối cần cho bạn vào lúc chết: "Hãy giải thoát mọi sự bám víu và ghét bỏ. Hãy để tâm thanh tịnh. Hợp nhất tâm bạn với tâm Phật".
Toàn thể thái độ của đạo Phật đối với lúc chết có thể tóm tắt trong đoạn thơ sau, của Padmasambhava trong Tử Thư Tây Tạng:
Khi Trung Ấm chết xuất hiện
Tôi sẽ từ bỏ mọi chấp thủ, khát khao, lưu luyến
Thể nhập không tán loạn vào minh sát giáo lý
Và chiếu tâm tôi vào không gian của Tự Tánh vô sanh
Khi xả cái thân do máu thịt tập hợp này
Tôi sẽ biết nó chỉ là phù du mộng huyễn.
 Vào lúc chết, có hai việc đáng kể: những gì ta đã làm trong đời, và tâm trạng ta lúc sắp chết. Dù ta có tích lũy rất nhiều ác nghiệp, song nếu ta có thể thật sự thay đổi lòng dạ vào lúc chết, thì điều ấy chắc chắn có thể ảnh hưởng đến tương lai ta và chuyển hóa nghiệp của ta, bởi vì giờ phút chết là một cơ hội vô vàn mãnh liệt để tịnh hóa nghiệp chướng.
 Giây phút chết
Hãy nhớ mọi tập quán khuynh hướng đã chất chứa trong nền tảng tâm thông thường của ta, đang nằm sẵn để có thể bị khởi động bởi bất cứ một ảnh hưởng nào. Ngay hiện tại ta cũng biết chỉ cần một khiêu khích nhỏ cũng đủ để làm cho những phản ứng quen thuộc, bản năng nơi ta nổi lên. Ðiều này càng đúng hơn vào lúc chết. Ðức Dalai Lama giải thích:
"Vào lúc chết, những thái độ ta đã quen thói từ lâu thường thắng lướt để hướng dẫn tái sinh. Cũng vì lý do này, sự chấp thủ mãnh liệt đối với tự ngã được phát sinh, vì người ta sợ tự ngã mình đang biến mất. Sự chấp thủ này là dây nối ở khoảng giữa hai đời sống. Ước muốn có một thân xác mới là cái nhân để tạo ra thân Trung Ấm".
Bởi vậy, tâm trạng chúng ta vào lúc chết vô cùng quan trọng. Nếu ta chết trong tâm trạng tích cực, ta có thể cải thiện tái sinh kế tiếp của mình, mặc dù nghiệp ta xấu. Nhưng nếu ta tán loạn, buồn khổ thì ảnh hưởng sẽ tai hại, mặc dù có thể ta đã xử dụng đời ta một cách tốt đẹp. Ðiều này có nghĩa ý tưởng và cảm xúc cuối cùng mà ta có trước khi chết, có một hiệu lực vô cùng quyết liệt đối với đời sống tương lai kế tiếp của chúng ta. Cũng như người điên thì tâm trí hoàn toàn bị xâm chiếm bởi một ám ảnh duy nhất, tái đi tái lại nhiều lần ; tâm ta khi chết cũng thế, rất nhạy cảm và hoàn toàn bị phơi ra cho bất cứ ý tưởng nào xâm chiếm tâm vào lúc đó. Ý nghĩ hay cảm xúc cuối cùng ta có, có thể khuếch đại hết cỡ và tràn ngập toàn thể nhận thức của ta. Vì vậy các bậc thầy nhấn mạnh rằng, tính chất bầu không khí xung quanh lúc ta chết rất là quan trọng. Cho nên khi thân quyến, bạn bè chết, ta nên làm mọi cách có thể để gây những cảm xúc tích cực, thiêng liêng, như lòng từ bi, sự sùng kính, và giúp "buông xả chấp thủ, khát khao, ràng buộc".
 Buông xả ái luyến (ràng buộc)
Cách lý tưởng để chết là buông xả hết mọi thứ trong cũng như ngoài, càng ít khát khao, chấp thủ, ái luyến càng tốt, để cho cái tâm vào thời điểm tối hậu đó không còn gì để vương vấn. Bởi vậy trước khi chết, ta nên cố giải thoát ái luyến đối với tài sản, bạn bè, người thân. Ta không thể đem theo bất cứ gì, bởi thế ta dự tính cho hết đồ đạc của mình trước, hoặc hiến tặng vào quỹ từ thiện.
Ở Tây Tạng, các bậc thầy trước khi từ bỏ thân xác thường chỉ định cho những thầy khác những vật gì. Ðôi khi một bậc thầy định tái sanh sẽ chừa lại một số đồ vật cho thân tái sanh của ông sau này, và chỉ định rõ ràng cái gì ông muốn để lại. Tôi cũng tin chắc rằng chúng ta nên chỉ định chính xác ai sẽ nhận tài sản hay tiền bạc của ta. Những điều này cần được diễn tả càng rõ ràng càng tốt. Nếu không, sau khi chết, đang ở trong Trung Ấm chờ tái sanh, mà thấy bà con giành giật của cải, hoặc sử dụng sai tiền của bạn, bạn sẽ khó chịu. Khi xác định mọi sự một cách rõ ràng cho đến từng chi tiết, thì bạn sẽ an tâm và dễ buông xả.
Như đã nói, bầu không khí xung quanh lúc ta chết cần phải hết sức thanh bình. Bạn bè thân thuộc nào khóc lóc buồn thảm không nên ở cạnh người sắp chết, vì họ sẽ gây một cảm xúc rầy rà vào lúc chết. Những người làm việc trong các nhà Tiếp dẫn kể lại rằng, đôi khi người sắp chết yêu cầu thân quyến đừng đến thăm lúc họ hấp hối, chính vì sợ khêu gợi những cảm giác đau khổ và ái luyến mãnh liệt. Ðôi khi điều này thực vô cùng khó hiểu đối với gia đình, họ tưởng là người sắp chết không yêu họ nữa. Nhưng họ nên hiểu rằng, chỉ cần những người thương yêu có mặt cũng đủ gợi lên những cảm tình ái luyến nơi người sắp chết, làm cho họ càng khó buông xả.
Thật vô cùng khó mà không khóc khi ta ở bên tử sàng của một người ta yêu mến. Tôi khuyên mọi người hãy cố gắng thanh toán nỗi ái luyến đau buồn với người sắp chết trước khi cái chết xảy đến: Hãy cùng nhau khóc, hãy diễn đạt tình yêu của bạn, nói lời từ biệt..., nhưng hãy cố chấm dứt những màn này trước khi cái chết thực sự xảy đến. Bởi vì tâm thức người chết vào giờ phút hấp hối rất dễ tổn thương, bén nhạy. Tử Thư Tây Tạng nói rằng, sự khóc lóc và nước mắt của bạn xung quanh người chết làm cho họ cảm thụ đau đớn như là sấm sét và mưa đá. Nhưng nếu bạn đã từng lỡ khóc bêtu
Nếu người thân bạn đang chết đã quen với một lối thiền định nào đó, thì bạn hãy khuyên y an trú trong thiền ấy càng nhiều càng tốt, và hãy nhập thiền định với họ khi cái chết đến gần. Nếu người sắp chết sẵn sàng chấp nhận một pháp tu, bạn hãy giúp họ tìm một pháp tu thích hợp, giản dị, và cùng thực tập với họ càng thường xuyên càng tốt, và nhẹ nhàng nhắc cho họ thực tập pháp ấy khi cái chết đến gần.
Bạn cần phải phong phú, sáng tạo trong cách giúp đỡ, vào cái lúc cao điểm này, vì rất nhiều chuyện lệ thuộc vào đấy. Toàn thể bầu không khí chết chóc có thể được chuyển hóa nếu người ta tìm được một pháp tu mà họ có thể làm hết mình, trước và trong khi họ chết. Có rất nhiều phương diện của sự tu tập tâm linh, bạn phải sử dụng tính mẫn cảm của bạn để tìm ra phương diện liên hệ tới họ nhiều nhất: hoặc tha thứ (sám hối), hoặc thanh luyện, hoặc hiến dâng, hoặc cảm thấy hiện diện của ánh sáng và tình yêu. Khi bạn giúp họ khởi sự tu tập, hãy tha thiết cầu nguyện cho họ tập luyện thành công, nguyện cho họ có mọi năng lực và đức tin để theo con đường họ chọn. Tôi đã biết có những người ngay cả khi gần chết, đã làm được sự tiến bộ tâm linh rõ rệt nhờ sử dụng một câu chú, một bài kinh hay một sự quán tưởng đơn giản, nhờ vào đó họ đã thực sự liên lạc được với cái tâm của họ.
Stephen Levine kể cho tôi câu chuyện về một phụ nữ chết vì bệnh ung thư. Bà cảm thấy chới với vì đã bỏ nhà thờ, mặc dù bà sùng kính Chúa Giê-su. Stephen cùng bà ta cố tìm cách nào để bà có thể lấy lại được sức mạnh của lòng tin và sự sùng kính ấy. Bà nhận ra rằng cái điều có thể giúp bà tái lập quan hệ với Chúa để tìm được một ít bình an, tin tưởng trong lúc chết, là liên tục nhẩm lời cầu nguyện: "Xin Chúa Ki-tô hãy thương xót con". Sự đọc lời nguyện này đã mở lòng bà, làm cho bà khởi sự cảm thấy sự hiện diện của Chúa ở bên bà mãi mãi.
Pháp chuyển di tâm thức "Phowa"
Pháp tu có giá trị nhất, hiệu lực nhất mà tôi tìm thấy trong lúc săn sóc người hấp hối, là pháp chuyển di tâm thức, Tạng ngữ là phowa. Rất nhiều người hăng hái theo pháp này.
Pháp chuyển di tâm này đã được thực hiện bởi những bạn bè thân quyến hay thầy (của người chết) ở khắp nơi trên thế giới - Úc, Mỹ và Âu châu. Nhờ năng lực của nó mà hàng ngàn người đã có cơ hội để chết một cách thanh thản. Tôi lấy làm hoan hỷ khi đem trái tim của sự thực hành "chuyển di" này đến cho bất cứ ai cần dùng.
Tôi muốn nhấn mạnh, pháp tu này ai làm cũng được. Nó rất giản dị, nhưng cũng là pháp tu cốt yếu nhất mà ta có thể làm để tự chuẩn bị cái chết cho ta. Và đây là phần thực tập chính thức mà tôi đã dạy cho học trò để giúp người bạn sắp chết của họ, hoặc những bà con thân quyến đã chết.
Thực tập một:
Trước hết, ngồi thoải mái theo thế ngồi thiền. Nếu bạn làm thực tập này lúc bạn gần chết, thì có thể ngồi kiểu nào thuận tiện cho bạn, hoặc nằm mà tập.
Rồi đưa tâm bạn về nhà, buông xả, thư giãn hoàn toàn.
1- Trong bầu trời trước mặt, bạn hãy triệu thỉnh biểu tượng của chân lý mà bạn tin, dưới dạng ánh sáng tỏa chiếu. Hãy chọn hình ảnh vị Phật hay thần thánh nào bạn thích. Nếu bạn không có liên hệ đặc biệt với một hình ảnh nào cả, thì chỉ tưởng tượng một ánh sáng vàng ròng trong nền trời trước mặt. Ðiểm quan trọng là bạn xem đấy là biểu tượng của chân lý, trí tuệ và từ bi của tất cả chư Phật, thánh chúng, các bậc thầy, các bậc đã giác ngộ. Ðừng lo nếu bạn không quán ra hình ảnh được một cách rõ ràng. Chỉ cần bạn làm tràn ngập tim mình với sự hiện diện của Phật, và tin rằng Phật đang ở đấy
2- Rồi tập trung tâm, trí, hồn của bạn vào hiện diện mà bạn đã triệu thỉnh, và cầu nguyện như sau:
Nhờ ân sủng, sự dìu dắt, năng lực ánh sáng tuôn phát từ nơi ngài.
Xin cho tất cả ác nghiệp của con, phiền não nghiệp chướng đều được tịnh trừ.
Xin cho con tự biết đã được tha thứ về tất cả điều hại mà con đã nghĩ và làm.
Xin cho con hoàn tất phép chuyển di sâu xa này, để chết một cái chết an ổn.
Và qua sự chết vinh quang của con, mong con có thể lợi lạc tất cả hữu tình sống hay chết.
3- Bây giờ, hãy tưởng tượng sự hiện diện ánh sáng mà bạn đã triệu thỉnh - do lời cầu nguyện chân thành tha thiết của bạn - liền đáp ứng bằng một nụ cười âu yếm và gởi đến bạn lòng từ bi trong một luồng ánh sáng từ trái tim vị ấy chiếu ra. Khi ánh sáng này chạm tới bạn, vào trong bản thể bạn, thì bao nhiêu ác nghiệp phiền não chướng ngại của bạn, nguyên nhân đau khổ đều được tịnh hóa. Bạn thấy và cảm nhận rằng bạn hoàn toàn chìm ngập trong ánh sáng ân sủng ấy.
4- Bây giờ bạn đã được tịnh hóa, hoàn toàn được chữa lành những đau khổ, nhờ ánh sáng ấy. Hãy xem như chính thân thể do nghiệp sanh của bạn, bây giờ bỗng tan rã hoàn toàn thành ánh sáng.
5- Cái thân bằng áng sáng của bạn bây giờ bay lên hư không và tan hòa trong sự hiện diện của ánh sáng ân sủng trên kia, thành một nhất thể bất khả phân.
6- An trú trong trạng thái nhất thể ấy càng lâu càng tốt.
Thực tập hai:
1- Muốn thực tập pháp này cách giản dị hơn, hãy bắt đầu như trên, bằng cách nghỉ ngơi yên tĩnh, rồi triệu thỉnh sự hiện diện của chân lý.
2- Tưởng tượng tâm thức của bạn như một trái cầu sáng ở tim, chiếu ra như một vì sao băng, và bay vào tim của sự hiện diện trước mặt bạn.
3- Trái cầu sáng ấy tan ra và hòa nhập với hiện diện ấy.
Qua sự luyện tập này, bạn đặt tâm bạn vào tâm giác ngộ của Phật. Dilgo Khientse Rinpoche nói rằng giống như ném một hòn sỏi vào hồ, nghĩ đến hòn sỏi chìm xuống càng lúc càng sâu. Quán tưởng rằng nhờ ân sủng đó, tâm bạn được chuyển hóa thành tâm giác ngộ của Phật.
Thực tập ba:
°
 Một bà dì của tôi, Ani Pelu, là một hành giả phi thường. Bà đã theo học với một vài bậc thầy lỗi lạc vào thời ấy, nhất là với Jamyang Khientse, và thầy tôi đã ban ân sủng bằng cách viết riêng cho bà một "lời khuyên tâm huyết". Bà có thân thể khỏe mạnh, tròn trịa, với một gương mặt đẹp cao quý và bản chất tự nhiên, hơi nóng tính. Bà có vẻ là một phụ nữ rất thực tế, chịu trách nhiệm trực tiếp quản trị công việc trong đại gia đình. Nhưng một tháng trước khi bà chết, bà hoàn toàn thay đổi, một cách thực cảm động. Bà, mà thường ngày luôn luôn bận rộn như thế, bây giờ bỗng buông xuôi mọi sự, với một sự từ bỏ thản nhiên, không lo lắng. Bà có vẻ luôn luôn ở trong trạng thái thiền định, và không ngừng tụng lên những đoạn kinh bà thích, rút từ những trước tác của Longchenpa, bậc thánh về pháp đốn ngộ Dzogchen. Bà thường rất thích ăn thịt, nhưng trước khi chết, bà không muốn động đến một chút thịt nào. Bà thường sống như chúa tể trong thế giới của bà, ít ai ngờ được bà là một hành giả thiền. Nhưng khi chết, bà mới chứng tỏ cho mọi người biết bà là ai. Tôi không bao giờ quên vẻ an tịnh sâu xa toát ra từ nơi bà trong những ngày ấy.
Ani Pelu gần như là thiên thần hộ mạng cho tôi, ở nhiều phương diện. Tôi nghĩ bà thương tôi bởi vì bà không có con riêng. Cha tôi luôn bận rộn vì ông làm quản ý cho thầy Jamyang tôi, còn mẹ tôi cũng bận việc nhà bề bộn, và bà không bao giờ nghĩ tới những chuyện mà Ani Pelu không bao giờ quên. Ani Pelu thường hỏi thầy tôi: "Cái gì sẽ xảy đến cho thằng nhỏ này khi nó lớn lên? Nó có an toàn không? Nó có gặp trở ngại gì không?". Ðôi khi thầy trả lời cho bà, và nói những điều về tương lai tôi, mà nếu bà không hỏi thì chẳng bao giờ thầy nói.
Và cuối đời bà, Ani Pelu có một vẻ trong sáng dị thường trong con người bà, và sự kiên trì trong việc tu tập của bà. Thế mà ngay cả bà, khi gần chết, cũng yêu cầu rằng đừng để tôi hiện diện lúc đó, sợ rằng sự yêu mến của bà đối với tôi có thể gây cho bà một phút giây quyến luyến. Ðiều ấy chứng tỏ bà đã ghi nhớ nằm lòng lời khuyên tâm huyết của thầy Jamyang tôi như thế nào: "Vào lúc chết hãy từ bỏ mọi ý tưởng thương hoặc ghét".
Thể nhập sự tỉnh giác sáng suốt
Ani Rilu, em gái bà tôi, cũng dành trọn đời để tu tập, và cũng gặp được những bậc thầy vĩ đại như thế. Bà có một bộ kinh dày, và thường đọc kinh tu thiền suốt ngày. Thỉnh thoảng bà ngủ gật, và khi bà giật mình dậy, bà lại tiếp tục chỗ bà đã ngủ. Suốt ngày bà làm như vậy, đến nỗi bà không bao giờ ngủ trọn đêm, rốt cuộc là bà thường tụng kinh sáng vào buổi tối và tụng kinh tối vào buổi sáng. Chị của bà bà, bà Ani Pelu, là một người cả quyết và ngăn nắp hơn nhiều, và vào cuối đời bà không thể chịu được cái cảnh luôn luôn phá rối trật tự thông thường như vậy nơi người em, nên bảo: "Sao em không tụng kinh sáng vào buổi sáng, kinh tối vào buổi tối, rồi tắt đèn đi ngủ như mọi người khác?". Ani Rilu sẽ thì thầm: "Vâng... vâng...", nhưng rồi vẫn chứng nào tật ấy.
Vào thời ấy, tôi thường theo phe bà Ani Pelu, nhưng bây giờ tôi lại thấy bà Ani Rilu làm vậy là khôn. Bà luôn chìm đắm mình trong một dòng tu tập tâm linh, và trọn cuộc đời bà trở thành một dòng tương tục của sự cầu nguyện. Quả thế, sự tu tập của bà mạnh đến nỗi bà tiếp tục cầu nguyện ngay cả trong mộng, và bất cứ ai làm vậy sẽ có một cơ hội rất tốt để giải thoát trong các cõi Trung Ấm.
Cái chết của Ani Rilu cũng có tính chất thanh bình thụ động như sự sống của bà. Bà đau ốm một thời gian, và một buổi sáng mùa đông, vợ thầy tôi bỗng cảm thấy cái chết của bà đang đến gần. Mặc dù khi ấy Ani Rilu không nói được nữa, bà vẫn còn tỉnh táo. Người ta tức tốc đi mời Dodrupchen Rinpoche, một bậc thầy nổi tiếng ở gần đấy, đến để cho những chỉ dẫn cuối cùng và làm pháp chuyển di tư tưởng vào lúc chết.
Trong gia đình tôi có một ông già tên Apé Dorje, chết vào năm 1989 lúc ông 85 tuổi. Ông đã ở với gia đình tôi qua năm thế hệ và là một người có trí tuệ và khôn ngoan như một bậc tổ tiên. Ông có lòng tốt và sức mạnh tâm linh phi thường, và có biệt tài dàn xếp những cuộc cãi vả. Ðối với tôi, ông là hiện thân của tất cả những đức tính dân tộc: một con người chắc chắn, thực tiễn, bình dị, sống tự nhiên theo tinh thần giáo lý. Ông đã dạy cho tôi thật nhiều lúc tôi còn bé, nhất là sự quan trọng phải đối xử tốt với người khác, và không bao giờ ôm giữ ý tưởng xấu, dù có ai hại mình. Ông có một năng khiếu tự nhiên để san sẻ những giá trị tâm linh một cách giản dị nhất. Ông gần như bỏ bùa mê để cho bạn phải là cái tự ngã tốt nhất của bạn. Apé Dorje là một người có khiếu bẩm sinh về kể chuyện, và ông thường làm cho tôi mê mẩn vì những chuyện cổ tích và anh hùng ca của Tây Tạng, hoặc về những cuộc kháng chiến ở các tỉnh miền đông, khi quân Trung Quốc xâm nhập Tây Tạng vào đầu thập niên 1950. Bất cứ đi đâu ông cũng mang theo niềm vui, sự thoải mái, tính hài hước, làm cho mọi tình huống khó khăn cũng bớt vẻ rắc rối. Ngay cả lúc đã 80 tuổi, ông vẫn còn nhanh nhẩu vui tươi, gần như ngày nào cũng đi mua hàng cho tới lúc ông chết.
Ông thường đi chợ vào khoảng 9 giờ sáng. Ông đã nghe tin bà Ani Rilu sắp chết, nên đến phòng bà. Ông có thói nói hơi lớn, gần như hét: "Ani Rilu!". Ông gọi to. Bà dì tôi mở mắt. Ông mỉm cười rạng rỡ nhìn bà với một nụ cười thương mến: "Con ơi, bây giờ chính là lúc để chứng tỏ lòng can đảm của con. Ðừng do dự, đừng lung lay. Con đã có phước được gặp và thụ giáo nhiều bậc thầy kỳ diệu. Không những thế, con lại còn được cơ hội quý báu để thực hành Pháp. Con còn đòi gì hơn được nữa? Bây giờ con chỉ việc ghi nhớ tinh yếu của lời dạy trong tim, nhất là những chỉ dẫn về lúc chết mà các thầy đã dạy cho con. Nhớ kỹ điều ấy, đừng xao lãng. Ðừng lo gì cho chúng ta, chúng ta sẽ không sao đâu. Ta đi mua hàng cái đã, có lẽ lúc về ta sẽ không gặp con. Bởi thế, xin chào". Ông nói với một nụ cười. Ani Rilu vẫn còn tỉnh táo nên bà mỉm cười khẽ gật.
Apé Dorje biết điều cốuộc về phần quan trọng nhất của Phật giáo.
 Câu chuyện về Tonglen và năng lực tâm đại bi
Các học trò tôi thường đến hỏi tôi: “Nỗi đau đớn của bạn tôi, bà con tôi, làm cho tôi rất khó chịu, tôi rất muốn giúp đỡ. Nhưng tôi thấy tôi thực sự không có đủ tình yêu để giúp họ. Lòng bi mẫn của tôi bị tắt nghẽn. Tôi có thể làm gì?". Ðương nhiên ai trong chúng ta cũng đã từng biết đến nỗi bất bình sầu não vì không thể tìm ở trong tim ta đủ lòng từ bi đối với những người đau khổ quanh ta, và do đó không đủ sức mạnh để giúp họ.
Một trong những đức lớn lao của của Phật giáo là có nhiều pháp tu tập rất ích lợi trong những tình huống ấy. Một phương pháp trong đó là Tonglen, Tạng ngữ có nghĩa là "cho và nhận". Ðấy là phương pháp hữu hiệu nhất. Khi bạn cảm thấy mình bị khóa kín trong tự ngã của mình, thì Tonglen mở ra cho bạn sự thật về nỗi khổ của người khác ; khi tim bạn bị bế tắt, nó phá hủy những năng lực đang bít lấp, và khi bạn cảm thấy xa lạ với người đang đau đớn trước mặt mình, hoặc cảm thấy cay đắng tuyệt vọng, thì phương pháp này giúp cho bạn tìm thấy trong chính mình, để rồi tỏa ra, ánh sáng từ bi lớn rộng của tự tâm bạn. Hơn pháp môn nào hết, pháp này rất hiệu lực để phá trừ ngã chấp, ngã ái, nguồn gốc của mọi đau khổ của ta và cũng là gốc rễ của mọi sự nhẫn tâm, vô cảm.
Một trong những bậc thầy vĩ đại của pháp môn Tonglen ở Tây Tạng là Geshe Chekhawa sống vào thế kỷ 11. Ngài rất đa văn và đã thành tựu được nhiều hình thức thiền quán. Một hôm, khi đang ở trong phòng của bậc thầy mình, ngài tình cờ đọc thấy hai dòng chữ trên một quyển sách mở:
Hãy cho mọi người khác tất cả lợi lộc
Hãy nhận vào mình tất cả thiệt thòi.
Lòng đại bi bao la khó thể tưởng ở trong hai dòng chữ ấy làm ngài kinh ngạc. Ngài khởi hành tìm xem bậc thầy nào đã viết câu ấy. Một ngày, trên đường đi ngài gặp một người cùi cho biết là bậc thầy đó đã viên tịch. Nhưng Geshe Chekhawa vẫn kiên trì tìm kiếm và gặp được đồ đệ chính thức của bậc thầy đã chết. Ngài hỏi vị ấy: "Ông nghĩ tầm quan trọng của lời dạy trong câu đó là thế nào?". Người đệ tử đáp: “Dù ông thích hay không, ông vẫn phải thực hành lời dạy ấy nếu muốn thành Phật". Câu trả lời này làm Geshe Chekhawa ngạc nhiên không khác khi ông đọc câu ấy lần đầu. Ngài ở lại bên vị đệ tử ấy 12 năm để học hỏi giáo lý ấy và thuộc nằm lòng pháp môn cho và nhận, tức Tonglen. Trong thời gian ấy, ngài phải đương đầu với nhiều thử thách, chịu đủ thứ gian khó, chỉ trích, chê bai. Nhưng lời dạy quá hiệu nghiệm, sự kiên trì của ngài quá mãnh liệt, đến độ sáu năm sau, ngài đã nhổ tận gốc rễ ngã chấp, ngã ái. Sự thực hành Tonglen cho và nhận đã chuyển hóa ngài thành một bậc thầy của lòng từ mẫn.
Lúc đầu Geshe Chekhawa chỉ giảng dạy pháp môn Tonglen cho một vài đệ tử gần gũi, vì nghĩ rằng nó chỉ công hiệu đối với những người có lòng tin vào pháp môn ấy mà thôi. Rồi ngài bắt đầu giảng dạy cho một nhóm người cùi. Bệnh cùi vào thuở ấy khá phổ biến ở Tây Tạng, không bác sĩ nào chữa khỏi. Nhưng có nhiều người cùi nhờ thực hành pháp Tonglen mà khỏi bệnh. Tin đồn lan rộng rất nhanh, nhiều người cùi đến nhà ngài, dần dà trông  như một bệnh viện.
Nhưng Geshe Chekhawa vẫn không giảng dạy rộng rãi pháp môn Tonglen. Chỉ khi để ý hiệu nghiệm của nó trên người em trai, ngài mới khởi sự phổ biến rộng rãi pháp môn ấy. Người em của Geshe Chekhawa là một kẻ hoài nghi thâm căn cố đế, luôn nhạo báng mọi sự tu hành. Tuy nhiên, khi ông ta trông thấy những gì xảy đến cho những người cùi thực hành Tonglen, ông không khỏi cảm khái, lạ lùng. Một hôm ông nấp sau cửa để nghe Geshe Chekhawa giảng dạy Tonglen, và ông bí mật khởi sự thực hành, một mình ông biết. Khi Geshe Chekhawa để ý thấy tính tình người em bắt đầu thuần lại, thì ngài cũng đoán đã xảy ra chuyện gì.
Ngài nghĩ: "Nếu pháp môn này có thể công hiệu đối với em ta, cải hóa được y, thì cũng có thể công hiệu và cải hóa được bất cứ người nào khác". Ðiều này làm cho ngài thêm tin tưởng để giảng dạy pháp môn này rộng rãi hơn. Bản thân ngài không bao giờ ngưng thực hành nó. Vào cuối đời, Geshe Chekhawa bảo các học trò rằng, từ lâu ngài đã tha thiết cầu tái sinh vào các địa ngục để có thể giúp đỡ tất cả những chúng sanh đau khổ ở đấy. Rủi thay, ngài nói thêm, gần đây ngài có nhiều giấc mộng rõ ràng cho biết ngài sẽ tái sinh vào cõi Phật. Ngài vô cùng thất vọng, nước mắt ràn rụa, ngài nhờ các đệ tử cầu xin chư Phật cho chuyện ấy đừng xảy ra, để ngài được mãn nguyện cứu giúp chúng sanh ở địa ngục, ước nguyện tha thiết nhất của ngài.
Làm sao để đánh thức tâm đại bi
Trước khi thực hành "cho và nhận", bạn cần phải khơi dậy tâm đại bi trong bạn. Ðiều này khó hơn ta tưởng, bởi vì suối nguồn của từ và bi nơi ta đôi khi bị che khuất, chúng ta có thể không đạt đến được. May thay Phật giáo có nhiều kỹ thuật đặc biệt để đào luyện tâm đại bi, giúp ta khơi mở khả năng thương yêu bị khuất lấp ấy. Trong vô số phương pháp, tôi đã chọn ra những pháp sau, và sắp xếp chúng theo cách đặc biệt để có được lợi ích lớn nhất cho người hiện đại.
1- Lòng từ: khơi nguồn
Khi chúng ta tin rằng trong ta không có đủ tình yêu, thì có một phương pháp để tìm ra và hô triệu nó lên. Hãy trở lại trong tâm bạn và tạo lại, quán tưởng một tình yêu mà một người nào đã cho bạn, làm bạn thực cảm động, vào thuở ấu thời chẳng hạn. Thông thường người ta bảo bạn hãy nhớ đến mẹ và một đời tận tụy hy sinh của bà, nhưng nếu bạn thấy điều ấy không ổn với mình, thì có thể nghĩ đến bà ngoại, ông ngoại, hay bất cứ ai đã từng rất tốt với bạn trong đời. Hãy nhớ lại một ví dụ đặc biệt lúc họ thực sự chứng tỏ tình yêu thương của họ cho bạn, và bạn cảm thấy tình yêu ấy một cách mãnh liệt.
Bây giờ, hãy để cho cảm thức ấy sống dậy trong tim bạn, làm cho bạn tràn ngập niềm tri ân. Khi làm thế, tình yêu của bạn sẽ tự nhiên hướng đến người ấy. Bạn sẽ nhớ rằng, mặc dù bạn không luôn luôn thống Dzogchen:
Ví dụ thứ nhất, hành giả được khuyên nên nằm theo dáng nằm sư tử. Rồi họ được bảo phải tập trung ý thức vào đôi mắt, và dán chặt cái nhìn vào bầu trời trước mặt. Cứ để tâm họ không thay đổi, an trú trong trạng thái ấy, để cho tính giác Rigpa của họ hòa vào không gian nguyên sơ của chân lý. Khi Ánh sáng Căn bản của cái chết sanh khởi, họ lướt vào đó một cách hoàn toàn tự nhiên và đạt giác ngộ. Nhưng điều này chỉ có thể thực hiện đối với một người do tu tập đã an trú vững vàng trong sự trực nhận bản tâm.
Ðối với những người chưa đạt tới trình độ này, và cần một phương pháp trịnh trọng hơn để tập trung, thì có một pháp thực hành khác: Quán tâm thức của họ như một chữ A màu trắng, và phóng nó qua huyệt đạo từ tim, rồi thoát ra trên đỉnh đầu để đi vào cõi Phật. Ðây là một pháp Chuyển di tâm thức mà thầy tôi đã giúp Lama Tseten thực hành khi ông chết.
Những người làm thành công một trong hai phương pháp nói trên thì vẫn phải kinh quá tiến trình chết của thể xác, song họ sẽ không kinh quá những trạng thái Trung Ấm sau đó.
Phowa: Pháp chuyển di tâm thức
Bây giờ, khi giai đoạn Trung Ấm chết bắt đầu xuất hiện cho tôi,
Tôi sẽ từ bỏ mọi bám víu, khát khao và quyến luyến
Thể nhập không tán loạn vào ý thức sáng suốt về giáo lý
Và chiếu tâm thức tôi vào khoảng không gian của Tự tánh vô sanh
Khi tôi từ bỏ hợp thể máu thịt này
Tôi biết nó chỉ là một ảo ảnh phù du.
"Chiếu tâm thức vào không gian của tự tánh vô sanh" là ám chỉ pháp chuyển di tâm thức gọi là Phowa - một pháp thực hành thông thường nhất khi chết - và chỉ dẫn đặc biệt liên hệ đến Trung Ấm của sự chết. Chuyển di tâm thức là một phép yoga và thiền đã được xử dụng qua nhiều thế kỷ để giúp người sắp chết và để chuẩn bị cho cái chết. Nguyên tắc là, vào lúc chết, hành giả chiếu cái tâm của mình ra và hòa nhập với tâm giác ngộ của chư Phật, mà Padmasambhava gọi là "không gian của tự tánh vô sanh". Pháp này có thể thực hiện bởi cá nhân người sắp chết, hoặc bởi một vị thầy đủ tư cách, hoặc một hành giả thiện xảo làm thay cho người chết.
Có nhiều loại Chuyển di tương ứng với khả năng kinh nghiệm và sự luyện tập của từng người. Nhưng pháp Chuyển di thông dụng nhất là pháp "Chuyển di với ba nhận thức”: nhận ra huyệt đạo trung ương kể như con đường, nhận ra tâm thức như kẻ lữ hành, và nhận ra cảnh Phật như đích đến.
Những người tại gia ở Tây Tạng bận rộn với trách nhiệm, công việc gia đình không thể dành suốt đời để học pháp và tu tập, nhưng họ có lòng tin kiên cố vào giáo lý. Khi con cái họ lớn lên và họ gần đến cuối đời - như tuổi về hưu ở Tây phương - họ thường đi hành hương, hoặc gặp những bậc thầy và tập trung vào sự tu hành ; họ thỉnh thoảng lại sự một khóa tu về Chuyển di tâm thức để chuẩn bị cho cái chết. Pháp này được giáo lý xem là một phương pháp đạt giác ngộ mà không cần phải tu thiền suốt cả đời.
Trong pháp Chuyển di tâm thức, hình ảnh chính được triệu thỉnh là đức Phật A Di Ðà, vị Phật với ánh sáng vô lượng. Ðức Phật này rất phổ thông đối với thường dân ở Trung Hoa và Nhật Bản, cũng như ở Tây Tạng và dãy Hy Mã Lạp Sơn. Ngài là vị Phật nguyên ủy thuộc dòng họ Hoa sen, nhân loại thuộc vào dòng họ vị Phật này. Ngài tượng trưng cho bản tánh thanh tịnh của chúng ta, và tượng trưng sự chuyển hóa của dục vọng, cảm xúc mạnh nhất nơi cõi người. A Di Ðà còn là bản chất sáng suốt vô hạn của tâm. Khi chết, bản tánh chân thật ấy của tâm sẽ hiển lộ vào lúc Ánh sáng Căn bản hiện ra, nhưng không phải ai trong chúng ta cũng có được sự quen thuộc để nhận ra ánh sáng ấy. Quả thực chư Phật đã đầy từ bi và phương tiện thiện xảo xiết bao khi truyền lại cho chúng ta một phương pháp để triệu thỉnh chính cái nhập thể của ánh sáng ấy, tức là đức Phật A Di Ðà với hào quang chói lọi.
Ở đây không phải chỗ để giải thích chi tiết pháp Chuyển di tâm thức cổ truyền, một pháp cần phải thực hành dưới sự hướng dẫn của một bậc thầy tư cách. Bạn đừng bao giờ cố tự tập pháp này nếu không có người hướng dẫn.
Vào lúc chết, giáo lý giải thích, tâm thức chúng ta được đặt lên một ngọn “gió”, bởi thế cần một chỗ mở để thoát ra khỏi thân xác. Nó có thể từ bỏ thân xác qua bất cứ một chỗ mở nào trong 9 chỗ. Con đường mà nó đi sẽ định đoạt chính xác cõi hữu nào ta sẽ tái sinh đến. Người ta nói, khi nó thoát ra từ đỉnh đầu, thì chúng ta sẽ tái sinh vào một cõi đất tịnh, ở đấy chúng ta có thể tiến dần đến giác ngộ.
Pháp này tôi cần phải nhấn mạnh lần nữa, chỉ có thể thực hiện dưới sự hướng dẫn của một bậc thầy đủ tư cách, có được ân sủng để truyền thừa thích nghi.
Muốn thành công trong pháp Chuyển di tâm thức này, không cần phải có một tri thức rộng hay sự chứng đắc sâu xa, chỉ cần lòng sùng kính, từ bi, nhất tâm quán tưởng, và một cảm giác sâu xa về hiện diện của Phật A Di Ðà. Người học sau khi nhận chỉ giáo sẽ thực hành theo đó cho đến khi có những triệu chsinh, và những tâm trạng do tham dục, gồm 40 thứ tất cả, ngưng hoạt động. Giai đoạn này gọi là "Tăng trưởng".
Khi hai tinh chất đỏ trắng gặp gỡ ở tim, tâm thức được kèm theo trong ấy. Tulku Urgyen Rinpoche, một bậc thầy lỗi lạc ở Nepal, nói: "Kinh nghiệm ấy giống như bầu trời và trái đất gặp nhau". Bên ngoài, chúng ta thấy xuất hiện một màu "đen" giống như một bầu trời trống rỗng chìm trong màn đêm dày đặc. Tướng bên trong là một trạng thái tâm thức không có tư tưởng. Bảy trạng thái tâm do ngu si và vọng tưởng đi đến chấm dứt. Ðiều này được gọi là "Thành tựu". Khi chúng ta hơi tỉnh giác trở lại, Ánh sáng Căn bản lóe lên như một bầu trời vô nhiễm không mây mù. Ðôi khi đấy gọi là "tâm với ánh sáng trong của sự chết". Ðức Dalai Lama nói: "Tâm thức này là tâm thức sâu xa nhất. Chúng ta gọi nó là Phật tính, suối nguồn thực sự của mọi thức. Dòng tương tục của tâm thức này kéo dài ngay cả đến khi thành Phật quả.
Cái chết của “các độc tố”
Thế thì cái gì xảy ra khi ta chết? Nó giống như ta trở về trạng thái nguyên ủy của ta, mọi sự đều tan rã, khi thân và tâm đã được gỡ rối. Ba độc tham, sân, si cùng chết, có nghĩa là tất cả những cảm xúc tiêu cực, gốc rễ của sinh tử, thực sự chấm dứt, và khi ấy có một khoảng hở.
Và tiến trình ấy đưa chúng ta đi đâu? Ði trở về nền tảng nguyên ủy của tự tánh tâm, trong tất cả vẻ đơn giản tự nhiên và thuần khiết của nó. Bấy giờ mọi thứ che mờ nó đã bị dời bỏ, và bản lai diện mục của chúng ta hiển lộ.
Một trạng thái tương tự có thể xảy ra như đã giải thích ở chương 5 "Ðưa tâm về nhà", khi chúng ta thực hành thiền quán và có những kinh nghiệm hỷ lạc, trong sáng, vô tưởng: điều này chứng tỏ tham, sân, si đã tạm thời tan rã.
Khi tham, sân, si chết, thì chúng ta càng trở nên thanh tịnh. Một vài bậc thầy giải thích rằng, đối với một hành giả Dzogchen thì những giai đoạn xuất hiện, tăng trưởng và thành tựu là những dấu hiệu của của sự biểu hiện dần dần của Rigpa hay Tính giác (Tâm bản nhiên). Khi những gì che mờ bản tánh của tâm chết đi thì ánh sáng của Rigpa dần khởi sự xuất hiện và tăng trưởng. Toàn thể tiến trình trở nên một tiến trình phát triển của trạng thái ánh sáng gắn liền với sự nhận chân của hành giả đối với ánh sáng ấy, sự sáng suốt của Tính giác hay tâm bản nhiên.
Trong Mật tông có một lối thực tập khác trong tiến trình tan rã. Trong pháp thực hành yoga về tinh khí thần, hành giả Mật tông chuẩn bị cho tiến trình chết bằng cách kích thích những thay đổi tâm thức trong quá trình tan rã, mà cao điểm là kinh nghiệm về ánh sáng hay "Ðiểm Linh Quang". Hành giả cũng tìm cách duy trì sự tỉnh giác đối với những đổi thay ấy khi ngủ. Vì điều quan trọng cần nhớ là chuỗi trạng thái tâm thức tuần tự sâu dần này không những chỉ diễn ra khi chúng ta chết. Nó còn xảy đến mà ta thường không để ý, trong khi ta ngủ, hoặc khi ta du hành từ những tầng tâm thức thô đến tế, trong thiền định. Một vài bậc thầy lại chứng minh rằng nó còn xảy ra ngay trong tiến trình tâm lý của trạng thái tỉnh thức hàng ngày.
Sự kể chi tiết tiến trình tan rã có vẻ phức tạp, nhưng sẽ có lợi ích lớn nếu ta thực sự quen thuộc với nó. Ðối với những hành giả Mật tông, có một loạt những thực tập đặc biệt để làm vào mỗi giai đoạn của quá trình tan rã. Chẳng hạn, bạn có thể chuyển tiến trình chết thành một pháp tu Ðạo sư Du-già. Với mỗi giai đoạn của sự tan rã bên ngoài, bạn phát khởi tâm sùng kính và cầu nguyện với bậc thầy, quán hình ảnh thầy trong các trung tâm năng lượng (luân xa) khác nhau. Khi địa đại tan rã, hiện tượng ảo ảnh xuất hiện, bạn quán thấy trong tim bạn. Khi thủy đại phân tán và dấu hiệu khói xuất hiện, bạn quán thấy nơi luân xa ở rốn. Khi hỏa đại phân tán và tướng đom đóm xuất hiện, bạn quán thấy nơi luân xa ở trán. Và khi phong đại phân tán, tướng ngọn đuốc xuất hiện, bạn tập trung hoàn toàn vào sự chuyển di tâm thức bạn vào tâm giác ngộ của thầy.
Về các giai đoạn chết, có nhiều mô tả hơi khác về chi tiết và thứ tự. Những gì tôi giải thích ở đây là theo mô tả thông thường, nhưng nó cũng có thể đổi khác tùy từng cá nhân. Tôi nhớ khi Samten, thị giả thầy tôi chết, chuỗi tiến trình rất rõ rệt. Nhưng những thay đổi có thể xảy ra do hậu quả chứng bệnh đặc biệt của người chết, và tình trạng các huyệt đạo, khí lực và tinh thần. Các bậc thầy nói rằng, tất cả chúng sanh, cho đến loài côn trùng nhỏ nhất cũng trải qua tiến trình này. Trong trường hợp chết bất ngờ hay chết vì tai nạn, tiến trình này cũng vẫn xảy ra, nhưng cực kỳ nhanh chóng.
Tôi đã thấy rằng cách dễ nhất để hiểu cái gì xảy ra trong tiến trình chết, với sự tan rã bên trong và bên ngoài của nó, là xem nó như một phát triển tuần tự và sự sinh khởi của những tầng lớp tâm thức càng lúc càng vi tế dần. Mỗi tầng lớp nổi lên trên sự tan rã liên tục của hợp thể thân tâm, khi tiến trình tuần tự di chuyển về hướng ở đấy có sự hiển lộ cái tâm vi tế hơn tất cả: Ánh sáng căn bản hay Ðiểm Linh Quang.
 

Truyện TẠNG THƯ SỐNG-CHẾT Lời giới thiệu của đức DALAI LAMA Lời Nói Đầu 1. TRONG TẤM GƯƠNG CỦA CÁI CHẾT 2. VÔ THƯỜNG 3. TƯ DUY VÀ THAY ĐỔI có thịt và máu tươi".
"Ai có thể cho nó thịt và máu để cứu sống nó và đàn con nó?"
"Quả thế, ai nhỉ?". Các anh trả lời.
Ðại hữu tình rất xúc động trước nỗi đau đớn của con hổ cái và đàn con. Ông nghĩ: "Ðã bao lâu ta lang thang không mục đích qua dòng sanh tử, hết đời này đến đời khác, và vì tham sân si ta đã không làm được gì để giúp đỡ chúng sanh. Ðây là một cơ hội lớn cho ta".
Các hoàng tử sắp trở về lại chỗ cha mẹ, nhưng Ðại hữu tình nói: "Hai anh đi về trước đi, em sẽ theo kịp”.
Lặng lẽ, Ngài bò tới con hổ đói, đến thẳng nơi nó, nằm xuống trước mặt nó để hiến mình làm thực phẩm cho hổ. Hổ cái nhìn Ngài nhưng quá yếu đến nỗi không thể mở miệng. Bởi thể, vị hoàn tử tìm một cây gậy nhọn, chọc thủng một lỗ sâu nơi thân mình cho máu vọt ra. Con hổ liếm máu ấy rồi mới đủ sức há miệng ra mà ăn thịt Ngài.
Ðại hữu tình đã đem thân cho con hổ cái ăn thịt để cứu sống bầy con nó, và do công đức của tâm đại bi ấy, Ngài đã tái sinh lên các cõi cao hơn, và cuối cùng đạt giác ngộ, thành Phật. Nhưng không phải qua hành vi ấy Ngài chỉ làm lợi ích cho chính Ngài thôi ; năng lực đại bi nơi Ngài còn tịnh hóa con hổ cái và bầy con của nó thoát khỏi ác nghiệp, và khỏi nợ nghiệp mà chúng có thể mắc Ngài do Ngài cứu chúng. Vì hành vi bi mẫn quá mãnh liệt ấy đã tạo một dây nối lâu xa về sau: mẹ con hổ đã thác sinh làm 5 đệ tử đầu tiên của Ngài sau khi Ngài thành đạo. Câu chuyện này cho ta thấy năng lực của tâm đại bi thật bao la mầu nhiệm xiết bao.
5- Làm sao để thiền quán tâm Bi
Nhưng như tôi đã nói, khơi dậy năng lực tâm bi mẫn này trong ta không phải luôn luôn dễ dàng. Tôi tự thấy những cách đơn giản nhất lại là cách trực tiếp và hiệu nghiệm nhất. Mỗi ngày, cuộc sống đem lại cho ta vô số cơ hội để mở lòng ra, chúng ta chỉ cần tóm lấy chúng: một bà già đi qua trước mặt bạn với vẻ cô đơn buồn bã, gân chân bong lên, hai tay khó nhọc xách hai túi đầy ; một ông già đang lê gót trước mặt bạn vào bưu điện ; một bé trai chống nạng đang bối rối cố băng qua đường trong một buổi chiều kẹt xe ; một con chó chảy máu gần chết nằm trên đường ; một cô bé ngồi khóc nức nở trong tàu hầm. Bật truyền hình lên có lẽ bạn sẽ thấy ngay một bà mẹ ở Beyrut quỳ bên xác con, một bà ngoại ở Moscou chỉ vào bát cháo duy nhất trong ngày, đang lo ngày mai không được như thế ; hoặc một em bé mắc phải Sida ở Roumanie đang nhìn bạn với đôi mắt cạn hết sức sống. Bất cứ một cảnh nào trên đây cũng có thể mở con mắt lòng bạn ra trước thực trạng khổ đau lớn rộng của loài người. Ðừng xao lãng tình thương, nỗi buồn đau mà cảnh ấy gợi cho bạn. Trong lúc bạn cảm thấy lòng bi thương dâng trào, thì đừng có dẹp nó xuống, rũ sạch nó đi, và cố quay về thật nhanh trạng thái "bình thường" của bạn. Ðừng sợ cảm xúc, đừng lúng túng vì nó, hoặc làm khuây lãng nó, để trở thành vô cảm. Hãy bén nhạy với nỗi thương tâm: hãy xử dụng sự dâng trào tâm xót xa ấy, tập trung vào nó, thiền quán thật sâu về nó. Khi làm thế, bạn sẽ nhận thấy lâu nay mình thật đui mù trước cảnh khổ đau làm sao, rằng cái khổ đau bạn kinh quá hay trông thấy, chỉ là một phần bé nhỏ của nổi khổ nhân loại. Tất cả mọi loài ở khắp nơi đều khổ, hãy để lòng bạn đi ra, đến với tất cả trong niềm bi mẫn tự nhiên và vô lượng, và hướng sự bi mẫn ấy, cùng với ân sủng chư Phật, đến việc giảm bớt thống khổ ở khắp nơi.
Ðức bi mẫn là một điều lớn lao cao cả, hơn sự thương hại rất nhiều. Lòng thương hại có gốc rễ trong nỗi sợ hãi và cảm thức kiêu căng, bề trên, đôi khi là một cảm giác nhẹ nhõm ngụ ý "may thay ta không bị". Stephen Levine nói: “Khi bạn chạm xúc nỗi đau của người nào với sự sợ hãi, thì đó là lòng thương hại ; với tình thương thì đó là lòng bi mẫn". Tập luyện đức bi mẫn là ý thức rõ mọi loài chúng sanh đều bình đẳng và đau khổ như nhau, tôn trọng những người đau khổ, và biết bạn không khác gì, không hơn gì bất cứ ai.
Bởi vậy, phản ứng đầu tiên của bạn khi thấy người nào đau khổ, trở thành - không chỉ là thương hại - lòng bi mẫn sâu xa. Bạn còn cảm thấy niềm kính trọng, tri ân đối với họ, vì họ giúp bạn phát triển cái đức tính mà bạn cần nhất trên đường tiến đến giác ngộ. Bất cứ ai với sự đau khổ của họ đã nhắc nhở bạn phát tâm đại bi, thì quả là họ đem cho bạn một món quà quý nhất. Bởi thế, ở Tây Tạng chúng tôi nói người ăn xin xin bạn tiền, hay bà già ốm đau làm bạn thương tâm, có thể là Phật trá hình hiện ra để giúp bạn tăng trưởng tâm đại bi, và nhờ thế mà tiến đến cõi Phật.
6- Làm sao hướng tâm đại bi của bạn
Khi bạn thiền quán sâu xa về đại bi tâm, thì trong bạn sẽ phát sinh một quyết định mạnh mẽ muốn làm nhẹ bớt khổ đau cho muôn loài, và một ý thức trách nhiệm mãnh liệt đối với mục tiêu cao quý ấy. Vậy có hai cách để hướng tâm đại bi và làm cho nó trở nên tích cực.
Cách thứ nhất là cầu nguyện với chư Phật và các bậc giác ngộ, tự tâm khảm sâu xa của bạn, rằng mọi sự bạn làm, nói và nghĩ đều đem lại lợi ích, hạnh phúc cho hữu tình. Lời một bài kinh có câu: "Cho con được hữu ích". Hãy cầu nguyện sao cho bạn làm lợi lạc mọi người nào tiếp xúc bạn, và giúp họ chuyển hóa được nỗi khổ và cuộc đời của họ.
Cách thứ hai và cách phổ quát, là hướng tâm đại bi đến tất cả hữu tình bằng cách hồi hướng tất cả thiện nghiệp của bạn, sự tu tập của bạn, cho sự an vui hạnh phúc của hữu tình, và nhất là cho họ tiến đến giác ngộ. Vì khi thiền quán sâu xa về tâm đại bi, bạn sẽ nhận chân rằng cách duy nhất để bạn có thể giúp đỡ trọn vẹn chúng sanh là chính bạn phải đạt giác ngộ. Từ đó phát sinh một quyết định và tinh thần trách nhiệm đại đồng, và ước nguyện đại bi khởi lên nơi bạn - mong muốn đạt giác ngộ để lợi lạc tất cả hữu tình.
Ước nguyện đại bi ấy, Phạn ngữ gọi là Bồ-đề tâm (Bodhicitta). Bodhi là tính giác của chúng ta, còn citta là tâm. Vậy có thể dịch là "cái trọng tâm hay trái tim của tâm giác ngộ". Ðánh thức và phát triển trọng tâm của tâm giác ngộ đó tức là làm cho chín mùi hạt gi pho tượng phát ra: "Ðừng. Ðể lại chỗ cũ. Ta đang canh chừng giùm Ben của xứ Kongpo".
"Sau đó Ben trở lại để lấy ủng. Nhìn lên gương mặt pho tượng, vẫn nụ cười an lạc đang tỏa chiếu xuống ông ta. “Thật ông đúng là một vị Lạt-ma rất tốt. Sao ông không xuống chỗ chúng tôi chơi? Tôi sẽ quay một con heo và nấu rượu thết ông". Lần thứ hai, pho tượng Jowo Rinpoche lại cất tiếng, hứa sẽ đi thăm Ben.
"Ben trở về nhà ở Kongpo, kể cho vợ nghe mọi sự, dặn nàng hãy canh chừng để đón Jowo Rinpoche vì không biết chừng nào ông ta đến. Năm ấy trôi qua, một hôm vợ ông chạy về nhà báo tin đã trông thấy một cái gì sáng rực như mặt trời, đang ở dưới nước. Ben bảo nàng pha trà, và vội vã chạy ra sông. Ông thấy Jowo Rinpoche đang lấp lánh trong nước, và nghĩ có lẽ ngài đã rớt xuống sông đang chết đuối. Ông lao ngay vào nước vớt ngài lên. Khi họ cùng trở về nhà Ben, vừa đi vừa trò chuyện, họ đi ngang một tảng đá to, Jowo Rinpoche nói: “Thực sự là tôi không thể vào nhà được". Nói xong, ngài biến mất vào tảng đá. Cho đến ngày nay vẫn còn hai nơi hành hương danh tiếng ở Kongpo: một là Jowo Ðá, gương mặt trên đá, ở đấy người ta có thể trông thấy hình dạng một vị Phật ; và Jowo Sông, ở đấy hình dạng Phật có thể thấy dưới sông. Người ta bảo năng lực ban phước và chữa bệnh của hai nơi này cũng giống như pho tượng Jowo ở Lhasa. Và đấy là do lòng tin tưởng vô biên của Ben đối với Phật.
"Ta muốn con cũng có lòng tin như thế. Hãy để tim con tràn ngập niềm sùng kính đối với Padmasambhava và Dilgo Rinpoche. Hãy tưởng như con đang ở trước mặt các ngài, toàn thể không gian xung quanh con là ngài. Rồi hãy niệm ngài luôn luôn. Hãy hợp nhất tâm con với tâm ngài, và nói từ đáy tim con: "Bây giờ ngài cũng thấy đó, con không thể nào tu tập kiên trì được nữa. Con phải hoàn toàn nương tựa vào ngài. Xin ngài che chở con". Hãy làm pháp Ðạo sư Du-già, tưởng tượng ánh sáng nơi bậc thầy đang tuôn tràn vào con để thanh lọc con, đốt sạch mọi cấu uế bệnh tật trong con, chữa con lành ; thân con tan thành ánh sáng ; và cuối cùng hãy hòa nhập tâm con vào tâm giác ngộ của bậc thầy, trong niềm tin tưởng tuyệt đối.
"Khi thực tập như vậy, con chỉ cần tin tưởng và cảm thấy điều ấy trong tim con. Mọi sự bây giờ đều tùy thuộc vào cảm ứng, vì chỉ có điều ấy làm thư giãn sự lo lắng và đánh tan cơn thác loạn thần kinh nơi con. Hãy giữ một hình tượng của thầy con, hay Phật, trước mặt con. Tập trung nhẹ nhàng vào đó, rồi thư giãn vào trong tia sáng của nó. Hãy tưởng giờ này bên ngoài nắng đang lên, và con có thể lấy hết y phục ra mà tắm trong mặt trời ấm áp: tước hết mọi tính dè dặt và thư giãn trong ánh sáng ân sủng. Và từ tâm khảm sâu xa, con hãy buông xả mọi sự.
"Ðừng lo lắng gì. Không có một vật gì con cần bám víu. Hãy buông ra và trôi bồng bềnh trong ý thức về ân sủng đó. Ðừng để cho những câu hỏi nhỏ nhặt quấy rối tâm con, chẳng hạn hỏi: "Ðó có phải là Rigpa không?". Cứ để cho tâm con càng lúc càng tự nhiên. Hãy nhớ Rigpa luôn ở đấy, trong tự tánh tâm con. Nhớ lời Dilgo Rinpoche thường nói: “Nếu tâm con không thay đổi, thì chính con đang trong trạng thái Rigpa". Vì con đã thụ giáo nên con cũng đã được khai thị tự tánh tâm, hãy thư giãn, trong đó không có nghi ngờ.
"Con đã khá may mắn có vài bạn đạo gần bên con. Hãy khuyến khích họ tạo một môi trường tu tập quanh con, và tiếp tụ tu tập như thế cho đến khi con chết, và sau đó. Bảo họ đọc cho con nghe một bài thơ mà con thích, hay một lời chỉ dẫn của bậc thầy, hay giáo lý làm con lên tinh thần. Bảo họ cho con nghe băng giảng của thầy con, hoặc băng tụng kinh, hay băng nhạc mà con ưa chuộng. Ta cầu nguyện mỗi khi con thức tỉnh, hãy hòa tâm con với ân sủng của sự tu tập, trong bầu không khí sáng sủa đầy cảm hứng. Khi nhạc hay lời dạy trong băng từ đang tiếp tục, con cứ an nghỉ trong đó, ngủ và ăn với nó. Hãy để cho bầu không khí tu tập thấm nhuần toàn thể đoạn cuối đời con, như bà dì Ani Rilu của ta. Ðừng làm gì ngoài ra tu tập, để cho sự tu tập tiếp diễn ngay cả trong mộng của con. Hãy để cho nó trở thành hoài niệm cuối cùng mãnh liệt nhất đời, ảnh hưởng đến tâm con, thay thế cho những thói quen thường ngày trong dòng tâm thức con. Và khi con cảm thấy gần chết, hãy chỉ nghĩ đến thầy con trong từng hơi thở, từng nhịp tim đập. Bất cứ ý tưởng gì con nghĩ tới vào lúc chết, sẽ là ý tưởng trở lại mãnh liệt nhất khi con thức dậy trong trạng thái Trung Ấm sau khi chết".
Từ giã thân xác
Bây giờ khi Trung Ấm cái chết xuất hiện
Tôi sẽ từ bỏ mọi bám víu khát khao chấp thủ
Thể nhập không tán loạn vào tinh yếu của giáo lý
Và chiếu tâm tôi vào không gian của tự tánh vô sanh.
Khi từ bỏ tập hợp máu thịt thân xác này
Tôi biết nó chỉ là ảo ảnh phù du.
Hiện giờ, thân ta có lẽ là trung tâm của vũ trụ. Chúng ta liên kết nó với tự ngã của ta, với cái tôi của ta, và sự liên kết sai lầm ấy cứ tăng cường cái ảo tưởng về hiện hữu cụ thể bất khả phân này. Bởi vì thân ta dường như hiện hữu, nên cái tôi cũng dường như có, và "anh" cũng dường như có, và cái toàn thể thế giới nhị nguyên huyễn hóa mà ta không ngừng chiếu ra quanh ta, có vẻ tuyệt đối chắc thực. Khi ta chết, toàn thể tập hợp này tan rã thành từng mảnh vụn một cách thảm hại.
Nói giản dị thì điều xảy ra là tâm thức ở tầng sâu xa vi tế nhất của nó vẫn tiếp tục không cần thân xác và kinh quá chuỗi trạng thái gọi là "Trung Ấm". Giáo lý dạy ta rằng: chính vì ta không còn có một thân thể trong các trạng thái Trung Ấm, nên không cần phải sợ bất cứ một kinh nghiệm nào, dù ghê rợn tới đâu, có thể xảy ra sau khi chết. Có gì có thể làm hại một cái không-thân? Tuy nhiên điều rắc rối là trong các trạng thái Trung Ấm, phần đông người ta vẫn tiếp tục chấp thủ một ý thức sai lầm về tự ngã, cùng với sự níu kéo ma quái vào vật thể chắc chắn ; và sự tiếp diễn của ảo tưởng này, vốn đã là gốc rễ mọi đau khổ trong đời, bây giờ lại làm cho người ta khổ thêm vào lúc chết, nhất là trong những cõi "Trung Ấm của sự tái sanh".
Bạn có thể thấy điều thiết yếu là ngay bây giờ trong lúc còn cái thân xác sống, ta cần phải nhận ra rằng tính bền vững rõ ràng của nó chỉ là một ảo tưởng. Cách hiệu nghiệm nhất để nhận ra điều này là tập trở thành "một đứa con của ảo tưởng”: đừng củng cố cái nhận thức về tự ngã và thế giới, như chúng ta luôn luôn làm, mà phải tiếp tục cái thấy như trong thiền định, rằng mọi hiện tượng  đều như mộng như huyễn. Nhận thức về thân huyễn này là nhận thức sâu sắc nhất giúp ta buông xả.
Ðược trang bị bằng tri thức ấy, thì khi vào lúc chết, đối mặt với sự kiện rằng thân ta là một ảo tưởng, ta sẽ nhận ra ngay được tính chất huyễn hóa của nó mà không hãi sợ, bình thản thoát khỏi mọi bám víu thân xác, và vui vẻ bỏ nó lại sau lưng, lại còn cảm ơn khi biết rõ mặt thật của nó. Quả thế, khi ấy ta có thể, một cách thực sự và trọn vẹn, chết khi ta chết, và nhờ vậy hoàn toàn giải thoát.
Vậy, hãy nghĩ đến lúc chết như một vùng biên giới lạ lùng của tâm thức, một vùng đất không của ai, trong đó một mặt nếu không hiểu bản chất như huyễn của thân xác, thì khi chết ta có thể kinh hoảng vô cùng vì phải mất nó ; mặt khác chúng ta có thể thấy cái chết đem lại khả năng giải thoát vô giới hạn, một sự giải thoát tuôn phát từ chính sự vắng mặt của xác thân ấy.
Khi chúng ta cuối cùng thoát khỏi cái thân xác đã thống trị quá lâu sự hiểu biết của ta về chíùnh ta như vậy, cái thấy do nghiệp của cả một đời bây giờ hoàn toàn kiệt quệ, nhưng nghiệp có thể tạo trong tương lai thì chưa khởi sự kết tinh. Bởi thế, điều xảy ra trong cái chết là, có một khe hở, một khoảng trống đầy những khả tính vô biên ; đó là một thời điểm có tiềm năng ghê gớm, trong đó điều duy nhất đáng kể là tâm của ta đang là cái gì. Khi cởi bỏ thân xác vật lý, tâm đứng chơ vơ và hiển bày một cách dễ sợ bộ mặt nguyên ủy của nó, luôn luôn vẫn là: kiến trúc sư của đời ta.
Vậy nếu khi chết ta đã có một nhận thức vững chãi về tự tánh của tâm, thì trong một nháy mắt có thể thanh lọc tất cả nghiệp. Và nếu chúng ta tiếp tục cái thấy vững chãi ấy, thì ta có thể thực sự chấm dứt tất cả nghiệp, bằng cách thể nhập sự trong sáng sơ nguyên của tự tánh, và đạt giải thoát.
Padmasambhava giải thích điều này như sau:
Bạn có thể tự hỏi, tại sao trong trạng thái Trung Ấm, ta có thể giải thoát chỉ nhờ một thoáng trực nhận tự tánh tâm? Trả lời như sau: hiện tại tâm ta bị nhốt trong một cái lưới của "gió nghiệp", và gió nghiệp lại bị nhốt trong một cái lưới là xác thân vật lý của ta. Kết quả là ta không có được tự do tự chủ. Nhưng vừa khi thân xác ta đã chia lìa thành tâm và vật, trong khoảng hở trước khi nó bị nhốt một lần nữa trong cái lưới của một thân sau, cái tâm, cùng với những trình diễn ảo thuật của nó, bây giờ không có chỗ y cứ vật lý cụ thể. Trong khi nó còn thiếu một cơ sở vật chất như thế, thì chúng ta còn tự do - và ta có thể nhận ra được.
Khả năng đạt an trú chỉ nhờ nhận chân được tự tánh tâm, là ví như một bó đuốc trong chớp mắt có thể xua tan bóng tối ngàn kiếp. Bởi thế, nếu chúng ta có thể nhận ra tự tánh tâm trong cõi trung gian như bây giờ, khi bậc thầy khai thị, thì chắc chắn sẽ đạt giác ngộ. Bởi vậy, ngay từ bây giờ trở đi, ta phải tập quen với tự tánh tâm nhờ thực hành thiền định.
 
--!!tach_noi_dung!!--

Đánh máy : Hải Hạnh, Ngọc Sương
Nguồn: Buddhismtoday
Được bạn: NHDT đưa lên
vào ngày: 8 tháng 2 năm 2005

--!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!--