Chữa Bệnh Không Thành

Quan Chính Đường bảo tôi rẳng: “Ông nên gấp trở về nhà chuẩn bị áo mũ; sáng hôm sau vào chầu sớm để nhận ban thưởng. Việc hệ trọng chẳng phải tầm thường, chẳng nên coi là việc nhỏ. Nếu ngày mai vào chầu lại ăn mặc như cũ, ấy là coi thường ơn vua, tội đáng chết!”. Tôi sắp ra đi còn tái tam dặn dò. Tôi cảm ơn mà rằng: “Đâu có dám trái lệnh”. Tôi mới từ biệt ra về. Ý quan Chính Đường biết rõ lòng tôi vốn không lấy việc được ban lộc làm vinh hạnh, lại chính ông đã tiến cử tôi, nên ông để tâm che chở. Tôi nghĩ: - Mình tuy không có chí may áo lá sen lá ấu[231] mà đem trao vật tại cửa đông thì sao lại không được? - Tôi mới sai người đến chỗ thân bằng mượn áo mũ. Tối hôm ấy thấy dịch mục của quan Chính Đường mang mười quan tiền đến chỗ tôi trú ngụ; đến đêm vào canh hai lại thấy lính thị trù[232] mang ngự soạn[233] ban cho đến nhà. Bọn này có vẻ hoảng sợ, nói rằng: “Bọn chúng tôi đi tìm chỗ ngụ khắp nơi, cho nên đến chậm, xin quý sư tha thứ cho”. Tôi theo lệ thường cho chúng tiền, chúng vì có lỗi mà chẳng dám nhận thưởng) mà ra đi.
Sáng hôm sau, tôi đội mũ mẳc áo vào phủ. Quan Chính Đường thấy tôi có cái quan dạng ấy thì như có vẻ mừng, bảo tôi rằng: “Vào khoàng tối đêm, cơn nóng của Thánh Thượng đã hết, nước giải đã hơi trong, bụng bớt đầy nhiều, tiểu tiện vàng đục tạm ngưng. Đêm qua đã dâng ba lần thuốc cao”. Tôi nghe vậy cũng mừng thầm, rồi cùng ông vào chầu xem mạch. Lúc ấy Thánh Thượng ngự trên võng, ngồi lên nệm gấm, cười bảo quan Chính Đường và quan Tham Đồng rằng: “Hôm nay cử động thấy nhẹ nhõm, có lẽ nhờ sức quế phụ[234] mới vận động dược mạnh mẽ, và bụng thấy đói. Nếu đúng thế thì từ trước đến giờ dùng bừa bãi thuốc lạnh, chẳng hóa ra lầm lẫn sao?”. Quan Chính Đường trình rằng: “Bọn thần thấy dùng quế phụ là lấy làm sợ hãi, có biết đâu giả nhiệt gặp quế phụ là hết”. Thánh Thượng nói: “Người này dùng thuốc có kinh nghiệm mới dùng những thứ ấy”. Quan Chính Đường lại thưa rằng: “Thần vốn có nhiều bệnh, tự dùng thuốc của nhà, sau lại tìm thầy khắp nơi để trị bệnh. Mãi đến khi thần phụng mệnh vào Hoan Châu mới được biết nhau. Người thôn dã, nói năng thô nhưng về y lý thì uyên bác, thầy thuốc hiện nay trong thiên hạ không ai hơn được”. Lúc ấy tôi nghe vị quan này nói vậy thì lông tóc dựng ngược, thầm kêu khổ rằng: “Ta quả như dầu tẩm bột gạo vậy, không có kỳ hạn nào ra khỏi nữa”. Tâu xong mọi người đều đi ra, đến điếm Thị Ky. Quan Tri Binh là Hầu Cầu chắp hai tay nói rằng: “Ngày hôm nay lòng tôi được thư thái vậy”. Quan Tri Hộ là Hầu Diệm trách quan Chính Đường rằng: “Có người như thế sao nay mới tiến cử?”. Quan Chính Đường cười mà đáp rằng: “Đã hai tháng nay tiến cử vào hầu Thế tử, nhưng chẳng dùng mà thôi”. Nói xong, mọi người đều vào điếm Thị Ky cùng ngồi. Lúc ấy trong phủ ai cũng nghe danh tôi. Trong lúc ngồi luôn luôn có người dòm ngó tôi. Quá giờ ngọ thấy quan Nội Sai truyền chỉ cho tôi vào hầu thuốc Thế tử, lại truyền cho quan Chính Đường rằng: “Từ nay chỉ cho lão y hầu thuốc, không được cho đem vào dùng một hào ly[235] thuốc nào khác!”. Quan Chính Đường được lệnh, mới đưa tôi vào cung, đến tẩm thất của Thế tử. Tôi thấy lầu gác liên lu, tẩm thất của Thế tử cùng gần ngự tẩm mà ở về phía tả. Tôi đi theo quan Chính Đường vào coi mạch. Lúc đó tôi thấy thân hình Thế tử rất gầy ốm, bụng lớn da mỏng, gân xanh, rốn lồi hơn tấc, khi xuyễn muốn thoát, mạch chìm mà chạy nhanh, lại vô thần. Tôi nghĩ mình xưa coi Thế tử còn có da thịt, mạch còn hồng huyền, nay đến như thế này thì hẳn không còn làm gì được nữa. Người xưa coi bốn chứng[236] làm khó chữa, chính là đây vậy. Nhưng tôi chì nói là bệnh cam, cái tiếng cổ thì kiêng chẳng dám nói đến. Tôi xem xét xong, bái tạ đi ra (lệ nhập kiến cũng có bái). Quan Chính Đường truyền bảo tôi đến Sở Thập Tự, ghé vào tai tôi nói nhỏ rằng: “Ông thấy thế nào?”. Tôi đáp: “Thể chất và tinh thần suy kiệt và mệt mỏi quá rồi, thế không thể trổi dậy được nữa!”. Quan Chính Đường nghe nói thế thì buồn hiu, thở dài một tiếng, nằm vật xuống giường. Tôi biết Thánh Thượng tin dùng ông, lấy ông làm người tâm phúc, nhờ ông làm vây cánh, vốn muốn thác cô[237] vào ông, bỗng nghe lời tôi nói như vậy nên mới có quang cảnh ấy. Ông lại hỏi tôi rằng: “Đem hết cái sức ông ra mà chữa trị, liệu có hy vọng gì không? “. Tôi thưa: “Đã từ lâu dùng thuốc công phạt để đến nỗi tinh huyết khô kiệt, đó là bị thuốc làm hại, chứ không phải bệnh khiến đến nỗi ấy. Nay dùng thuốc bổ thì khác nào khô nắng từ lâu mà gặp mưa rào; sau vài ba ngày, cát hung mới có thể biết được”. Quan Chính Đường nói rằng: “Nếu vậy nên gấp rút chế thuốc!”.
Tôi đem cái đơn thuốc ngày trước ra, tăng bội lên, thêm chút trầm hương[238]:
Bạch Truật - 4 lạng (tẩm mật sao)
Thục địa - 1 lạng (nướng khô)
Can hương - 6 đồng cân (sao đen)
Ngũ vị - 4 đồng cân
Sinh trầm hương - 2 đồng cân
Tất cả nấu thành keo, đun to lửa, dùng Bắc sâm làm thang.
Đơn thuốc viết xong, quan Chính Đường trao cho quan Tri Hộ A Bảo theo phép nấu cao. Tối đến, tôi xin về nhà. Quan A Bảo nói rằng: “Lão sư am thục việc chế thuốc, nên ở lại đây giúp việc”. Tôi nói thác là có bệnh ở lá lách, ở đây mà đi ra ngoài chẳng tiện. Ông ta đáp rằng: “Thày thuốc thì biết lo bệnh, ai mà tin được; hiện có nơi đi giài ở cuối thành rất rộng rãi lại tịch mịch; đằng trước có một cái ao, cứ đến đó thì thật là tiện”. Tôi chỉ muốn về nhà, mới xin cho người học trò của tôi là Hồ Tuy thay tôi mà coi việc thuốc. Vị quan này ưng thuận. Tôi trở về chỗ ngụ, ngày hôm sau lại đến.
Từ đó, mỗi lần vào xem mạch ở ngự tẩm cho Thánh Thượng, lại đến xem mạch cho Thế tử. Tôi nhận thấy thuốc cao đã nấu xong, mà sao cho thấy dùng. Nguyên có người nói với Chính cung (tức là bà sinh ra Thế tử) rằng: “Từ trước đến nay thuốc của Thế tử dùng, tuyệt nhiên chẳng dám cho bạch truật, thục địa; chẳng qua truật làm bế khí, thục làm trệ tì, nay dùng tới ba, bốn lạng thật là kinh hoàng. Nếu dùng như vậy thì đại tiểu tiện đều bí”. Chính cung mới cho vời Bắc Nhẩn (tên chú Bẩy) đến mà hỏi ý kiến. Nguyên người Trung Hoa là gia nhân của Chính cung, vợ y ra vào nơi Chính cung mà không bị ngăn cấm gì, vì là thị tỳ yêu dấu của người. Bởi lẽ đó mà Chính cung vời người chồng lại hỏi. Người này thưa rằng: “Lâu nay dùng thuốc tiêu lợi mà bệnh trướng tăng, bụng đã trướng thấy rõ rồi, nay dùng thuốc bồi bổ chính là phương pháp làm cho hết bệnh trướng. Ý thần cũng giống thế, xin đem thuốc tiến ngự, không cần phải nghi ngờ; nếu vạn nhất có làm sao, thần xin đem toà n gia chịu tội”. Chính cung nghe vậy mới dám cho dùng thuốc. Người Trung Hoa đến điếm Thị Dược, kể lại đầu đuôi câu chuyện cho tôi nghe. Tôi lấy làm bất bình, mới cất to tiếng mà nói với các thày thuốc trong Viện rằng: “Thế tử thật là ng ười nhà Trời vậy, ruột gan bằng sắt đá; tưởng một năm nay, các thứ thuốc dùng nhiều biết là bao, mà thần sắc còn giữ được, nếu là con nhà tầm thường thì sau một ngày ắt là chẳng lưu lại được. Điều cốt yếu là bệnh có chứng thực nếu không thì là chứng hư, phép chữa bệnh không công thì bổ. Khắc phạt đã không thành công mà bồi bổ cũng chẳng muốn. Vậy dùng phương pháp gì đây? Vả lại từ một năm nay, đã gắng sức đến cùng mà cũng không làm gì được để cứu chữa, sao lại có thể ghen tài ganh công, lại còn phỉ báng nữa? Người làm thuốc lấy việc cứu người làm điều tâm niệm, trong cái nhân thuật[239] cũng vốn sẵn có cái tầm lòng trung của bọn thần tử, tấm lòng đó ở đâu?” - Các y sĩ nghe nói đều cười nhạt. Nguyên kẻ xàm báng tôi, cậy mình đắc sủng, khinh miệt lời tôi nói, đều bị mọi người oán giận. Lại ngày thường kẻ ấy coi thiên hạ là không ai bằng mình, đến khi thấy tôi có chút công lao, cho nên không tránh được điều ghen tị. Người Trung Hoa nói rằng: “Tôi được nghe Thánh Thượng lấy làm hối tiếc đã dùng thuốc lạnh mát, nếu thuốc của lão sư thành công thì kẻ dùng thuốc khắc phạt, tội đáng phải chết”. Tôi cùng y đều nói: “Ý chừng cũng đến thế”. Y còn nói trong vài ba ngày gần đây, Thế tử dùng cao dược, tiểu và đại tiện được thông lại, bụng mềm, biết đói, cho nên những lời nói vui mừng truyền ra tận bên ngoài. Lúc ấy người Bắc quốc dương dương đắc ý, ngôn ngữ rặt một mùi châm chích. Kẻ kia sắc mặt bẽ bàng, cáo bệnh, không đến nữa. Người Bắc quốc nói kín với tôi rằng: “Chính cung rất vui mừng, ý muốn ban trọng thưởng”. Tôi sợ bệnh chữa chưa được giảm nhiều, chưa hẳn đã thành công, mới khẩn khoản nói với Bắc nhân rằng: “Mong anh hết lòng bẩm xin, đợi lúc đã lập công vẹn toàn, mới dám nhận trọng thưởng”. Việc này khỏi phải nói.
Lúc này Thánh Thượng dùng thuốc cao đã được sáu, bảy ngày, các bệnh dường như đã hết, chỉ có điều không ăn uống gì, tứ chi mỏi mệt, ít muốn nói năng. Quan Chính Đường hỏi kín tôi rằng: “Bệnh đã lui mà tinh thần lại mỏi mệt hơn, thế là duyên cớ gì?”. Tôi ú ớ chẳng dám nói thật. Ông hỏi lại tôi hai ba lượt, tôi thưa: “Hết bảy ngày thì ngũ tạng chuyển biến, một khi gặp những thuận lợi thì phải khá lên dần dần. Nay thấy bệnh suy, có lẽ thuốc dùng công phạt quá nhiều, nguyên khí đã bại rồi. Lời sách nói rằng: Cái khí ở dạ dầy đã bại rồi thì trăm thứ thuốc cũng khó đem dùng”. Ông nghe nói vậy thì sợ hãi rụng rời chân tay, bảo tôi rằng: “Làm sao được bây giờ?”. Tôi đáp: “Cái việc ngày nay là tạm hoãn thuốc cao mà cứu gấp cái vị khí”. Ông bảo tôi biên đơn thuốc, tôi kê ra như sau:
Bắc sâm - 2 lạng
Bạch truật - 1 lạng 5 đồng cân
Đại phụ - 8 đồng cân
Đun lửa to thỉnh thoảng cho uống
Được vài ba ngày, bệnh thế không chuyển. Được hai ngày nữa, tức là ngày mười một tháng chín, Thánh Thượng yến giá[240].
Tôi cứ như trước, ngày ngày đến Đông cung trông nom thuốc thang. Ngày hôm sau, Thế Tử kế vị, ra ngự tại phủ đường để cho các quan liêu chào mừng. Lúc ấy cũng cho tôi đi theo hầu giữ việc điều trị. Trong lúc còn mang bệnh, Thế Tử phải kiêng gió, nắng; nhất thời ra ngoài, bị cảm phong hàn, khi về cung thì hơi phát rét, vời tôi vào coi mạch. Tôi dùng bát vị, bỏ mẫu đơn, giảm trạch tả, cho thêm mạch môn, ngũ vị, ngưu tất mà tiến ngự. Các chứng đều giảm bớt, mà hơi thở gấp tựa mắc xuyễn, còn tăng hơn khi bệnh đã lùi trước kia. Các chứng lại nổi lên. Tôi thấy thế nguy chẳng làm gì hơn được, mới kêu có bệnh chẳng vào hầu. Ba ngày sau lại sai người hỏi đơn thuốc. Lúc ấy may có thầy thuốc người Sơn Tây mới được tiến cử, vào hầu. Tôi muốn dược chút nhàn hạ, tự nghĩ rằng nên thừa dịp mà ra đi. Tôi đến gặp quan Chính Đường, nói dối là trong nhà có bệnh kịch, nhiều lần được thư nhà thôi thúc, nhưng chưa dám hé răng, nay sự thế đã quá gấp, mong đại nhân thương tình. Quan Chính Đường có ý ngần ngại. Tôi lại nói rằng: “Xin tạm cho về thăm, coi việc hay dở ra sao, rồi sẽ trở lại”. Quan Chính Đường nói rằng: “Ngày nay sự thế đã khác, ông nên vào phủ thỉnh cầu các quan thụ mệnh, rồi vào bái tạ mới có thể ra đi”. Tôi y lời làm. Các quan thụ mệnh, người thì thuận, người thì chẳng thuận. Tôi nghĩ rằng: “Số người ưng thuận đã quá bán, vậy tôi cứ bỏ đi”. Tôi đến cung Cấm bái tạ thì gặp người Bắc quốc. Y cầm tay tôi mà nói rằng: “Lão sư đi xa để cho tôi ngày đêm lòng buồn bã”. Y lại nói: “Bọn thày thuốc dốt nát có cứu giúp ai được, bọn chúng ta nên tự mình xuất lực, ngõ hầu vãn hồi”. Tôi nói: “Tôi ra đi bất nhật[241] sẽ quay lại”. Bắc khách cười đáp: “Đã đi rồi thì lẽ nào còn trở lại”. Tôi cười nói rằng: “Sao anh lại nói mơ hồ vậy?”. Rồi cùng dắt tay nhau đi vào. Khi ấy, quan Phó A Bảo ẵm tiểu chúa trong lòng. Tôi lạy bốn lạy. Tiểu vương nói rằng: “Trà của lão sư thật ngọt dễ uống, ta thích uống lắm!”. Tôi nghe nói thì than thầm: “Đã bị thuốc lạnh làm hại nhiều rồi!”. Đoạn tôi đi ra, đến bái biệt quan Chính Đường. Ông đưa cho năm mươi quan tiền làm hành lý. Tôi từ chối, chỉ lĩnh mười quan. Tôi đến từ giã Quận hầu. Hai người đều tỏ ra buồn bã. Quận hầu đem thuốc, tiền cùng những phẩm vật trong mùa ra tặng. Cùng nhau nói chuyện một lát, uống trà xong, tôi đứng dậy tạ biệt. Quận hầu đi bộ, bước trong nước bùn mà tiễn chân tôi ra khỏi cửa dinh. Quận hầu biết là tôi ra đi sẽ không trở lại nữa, mới cầm tay tôi mà nói rằng: “Tôi cùng lão sư biết đến bao giờ mới gặp lại nhau!”. Hai người nhìn nhau, đều muốn ứa nước mắt.
-------------------
[231] May áo lá sen lá ấu: nguyên văn, phân hà liệt ky - Sở Từ có câu: liệt ky hà dĩ vi y, có nghĩa cắt lá ấu, lá sen để may áo (lời nói thác về y phục của kẻ ở ẩn) - Ky là cây thuộc loài thảo, lá nổi trên mặt nước, quả (trái) chia ra bốn góc, gọi là quả ấu.
[232] Lính thị trú: bọn lính trông coi việc bếp núc.
[233] Ngự soạn: đồ ăn của vua chúa.
[234] Quế phụ: hai dược phẩm có tính chất tăng nhiệt độ.
[235] Hào ly: hào là một phần mười trong một ly - Ly là một phần mười trong một phân. Nghĩa rộng, hào ly là một tí, một chút.
[236] Bốn chứng: bốn thứ bệnh. Theo thuyết y học xưa, có bốn thứ bệnh không chữa được là phong (bệnh điên), lao (lao phổi), cổ (bệnh nhiễm độc vật), lại (bệnh hủi). Chữ cổ ở đây mà chúa Trịnh Cán mắc phải được viết ra với ba chữ trùng (trùng là con sâu) trên chữ húc.
[237] Thác cô: gửi trẻ mồ côi. Khi nhà vua có con còn nhỏ tuổi thì thường gửi gấm cho một hoặc nhiều đại thần tín cần, để sau ngày vua băng, các người này phù tá con vua mà giữ vững ngôi báu.
[238] Trầm hương: thứ gỗ ngâm lâu ngày dưới nước, chỉ còn lõi, sắc đen, thường dùng để làm thuốc.
[239] Nhân thuật: nghề làm thày thuốc.
[240] Yến giá: băng (Yến có nghĩa là yên nghỉ, giá là được chở đi bằng xe hay thuyền). Đây nói chúa Trịnh Sâm mất.
[241] Bất nhật: thế nào cũng có ngày mà không biết đích ngày nào.