Chương 4

Bà chánh ủy vào trong. Hoàng chánh ủy làm như mọi chuyện đã xếp đặt và tôi phải răm rắp nghe theo nên thầm thì với tôi: "Con nhỏ học lớp 12, rớt đại học. Ngoan lắm, xinh lắm, khó có cô nào bì. 5 điểm cộng Liên Xô. Cô bé thương vợ mình như chị ruột. Tôi mà giới thiệu cậu thì chắc như bắp."
Tôi chưa hết hoang mang vì những tiếng Uy-le, Pa-ke trong cuộc đối thoại vừa rồi thì lại ngạc nhiên về những cái tên. Sao mới vừa Quỳnh lại Thủy? Thì ông chánh ủy dõng dạc:
"Cô Thủy đâu ra đây tí!"
"Em bảo mãi cô ấy không chịu ra."
"Gì mà thẹn. Đây như gia đình!" Nói xong ông chánh ủy vào trong và kêu lên: "À, cô Quỳ!"
"Quỳ nào?" Bà chánh ủy lườm. "Cô Thủy đấy! Anh chưa già đã lẩm cẩm!"
Ông chánh ủy nắm bắp tay cô gái lôi ra và đặt cô ngồi vào chiếc ghế trống trước mặt tôi:
"Ngồi đi, ăn với anh chị bữa cơm xem nào. Có người muốn làm quen."
Tôi suýt bật ngửa. Cô nàng xinh thật. Tóc đen cuộn sóng mượt mà, mặt trắng như đầm lai. Gống như một màn kịch khéo hơn cả có bàn tay đạo diễn. Chẳng phải Quỳnh, Thủy nào cả! Cô Lý ở hiệu Quốc Văn! Vậy người đối thoại với bà chánh ủy lúc nãy là ai khác chớ không phải Lý. Tôi thầm nghĩ và thở phào. Mộng chưa thành nhưng chưa tan.
Cơm dọn ra. Mọi người ngồi vào bàn.
Chạm mặt tôi, cô Lý hơi sựng một tí rồi nhìn thẳng, không ngó tôi, với vẻ nghiêm trang như khi đứng sau quày hiệu sách Quốc Văn.
"Mời cầm đũa." Tiếng ông chủ nhà sỗn soãng một cách tự nhiên.
Thằng Điện Biên chê thức này vòi món kia và lần nào cũng được toại ý. Ông chánh ủy còn khéo dùng nó như một gạch nối giữa tôi và cô Quỳnh - không, cô Lý cơ!
"Con gắp chả lụa cho cô với chú đi con!"
Bà chánh ủy trừng yêu:
"Đã cô thì phải dượng. Anh đã ăn cơm Nam Bộ mòn răng mà vẫn nói lệch tiếng."
"Ừ ừ... cô dượng!"
Hai ông bà cười với nhau. Tôi cũng cười. Cô Lý hơi đỏ mặt. Nhưng ông bà chưa tha cho. Ông bảo:
"Cô bán sách của dượng, ủa của cậu, lâu nay mà chưa biết mặt tác giả đấy. Cậu có mang quyển nào đây không?"
Tôi không biết đáp sao cho phải bèn đưa đũa vào tô canh mộc cố giẽ cục thịt vò to tướng để tảng lờ câu hỏi của ông chánh ủy, nhưng ông lại xoay sang.
"Cô Quỳ, ủa cô Thủy, giúp cậu ấy tí! Đồng vợ đồng chồng,... xin lỗi, đồng hội đồng thuyền tát biển Đông cũng cạn!" Ông chánh ủy dường như tự cho mình cái quyền lẩm cẩm nên bà cũng thôi, không lườm ông nữa mỗi khi ông ủa.
Thức ăn tú ụ vung lù. Có lẽ chủ nhà không ngại khoe sang khoe giàu với khách nên cứ dĩa tô nào hơi vơi tí là ông giục bà:
"Rội thêm, em." inh ỏi cả lên. Đến lúc xong bữa ăn mà các thức vẫn như chưa được khách mó tới.
Ăn xong, ông lôi tôi sang nhà bạn ông vừa gặp lúc nãy:
"Sang đó uống nước cứt chồn cậu ạ!" Ông cười rinh lên. "Nói đùa, cà phê Moka của Tam Dảo. Nó bảo phải sang, nó chờ. Nó có nhiều đề tài lắm, kháng chiến lẫn hòa bình."
Thế là tôi lại phải đi. Tôi đi theo ông chánh ủy mà trong bụng chơm chỡm mọc lên những cái dấu hỏi: "Quỳnh hay Quỳ? Mình có nghe nhầm không? Sao ông chánh ủy lại nhầm tên một cách hồn nhiên vậy? Sao đã Quỳ lại còn Thuy? Làm như có mật thám theo dõi nên cô ta phải đổi tên liền liền.
Ông bạn vui chuyện. Vừa uống cà phê vừa nhắc Sông Lô, Đoàn Hùng, Lũng Vày với nhiều chi tiết thật ly kỳ. Tôi nghe rất thú vị, nhưng tâm trí không tập trung được. Tuy vậy tôi cũng xin phép đi lấy sổ tay để ghi.
"Phải ghi mới nhớ hết! Cậu ấy sắp kể tới vụ bắt bọn Charton Lepage." Ông Hoàng xoa tay. "Tha hồ viết. Đề tài ở đây chớ đâu mà phải đi tìm. Nhà văn các cậu hỡ hỡ cái là đi thực tế nông thôn trong khi Hà Nội là một thực tế phong phú nhất mà chẳng anh nào động tới cả. Cái hội văn sĩ quốc doanh của cậu rõ thật lẫn thẫn!" (ông tưởng nhầm hội nhà văn cũng như các cơ quan khác như mậu dịch quốc doanh hoặc quốc doanh vận tải. Tôi muốn đính chính nhưng lại thôi)
Tôi phập phồng trở lại nhà số 5. Nhưng đi được một quãng ngắn thì tôi cảm thấy hình như những cái dấu hỏi kia thúc giục tôi hơn lúc mới ra đi. Cho nên mặc dù sực nhớ ra rằng cái xắc của tôi còn nằm trên xe, tôi vẫn đi như Xắc-Cô đi tìm hạnh phúc.
Quả thật bên trong lại có một cuộc đối thoại mà thoạt tiên tôi nhận ra chính hai cái giọng lúc nãy nhưng lần này cánh cửa mở rộng ra nên nghe rõ hơn. Tôi đứng lại.
"Quỳnh này, em nên nghe chị, em phải ngoan như lâu nay em vẫn ngoan ngoãn."
"Em không muốn dấn sâu vào ngõ cụt."
"Hừm, lối thoát mà em gọi là ngõ cụt. Đúng, cái ngõ cụt đó đã cứu em!"
"Em tự tử mất chị ạ, nếu ở bên Liên Xô anh ấy hay được... thì anh ấy hết học hành."
Bỗng bật ra tiếng khóc ri rỉ, to dần, tiếp theo tiếng nấc nghẹn, rồi một giọng chua lè nhói lên:
"Xí! Liên với chả Xô! Đồng hồ to bằng cái cối đá! Đeo như đeo gông!"
"Hi hi hỉ ỉ... Em là lao động tiền tiến chị ạ!"
"Đi bên đó cả năm mới gởi về cho vợ chưa cưới một cái quạt tai tượng chỉ bán được hơn chục bạc, chẳng bằng đi dạo mát với mấy thằng chà chóp này mươi phút, nửa tiếng, sống cả năm. Ừ thì đi mà lao động tiền tiến lãnh bằng cấp về nấu canh."
"Em nhục quá chị ạ! Hu hu...u hu."
"Không có nhục gì sất! Chịu thì đi, không chịu tao có đứa khác...! Quỳ, ủa Quỳnh này, em có nghe chị không? Chị thương em như em ruột vậy."
"Anh ấy mới là người cần chị thương hại!"
"Ối giời! em ngây thơ thế hả Quỳnh! Em không biết là tụi con gái Liên Xô nó dễ dãi kinh khủng hay sao? Chỉ cần một ổ bánh mì là đưa nhau vô rừng thông."
Ngưng một chốc. Hoặc màng nhĩ tai tôi bị chọc thủng. Rồi lại:
"Mất mối này thì mai mốt em đừng có đến chị mà than: em khổ quá nhờ chị giúp nữa nhé!"
"Con bạn em xinh lắm. 5 điểm Liên Xô, em đã giới thiệu cho chị!"
"Em hứa mãi rồi, em có đưa hình cho chị coi đâu. Mua trâu vẽ bóng, tụi ôn dịch đó đâu có chịu chi tiền bông lông cho mình."
"Bạn em hứa tối nay sẽ có, để em đến lấy, sáng mai em đem lại văn phòng cho chị."
"Có thêm bạn em càng vui chớ sao. Em thấy đó, đâu phải dễ gì tìm đến cái ngõ cụt này. Chị bảo cho em biết, vừa có một lô ở bên nước mới sang. Túi còn đầy. Chúng nó ham muốn biết Việt Nam. Còn một tụi sắp về nước nó lại muốn mang theo một kỷ niệm. Mình phải nhè cái tâm lý đó mà bó...óp...!
Tôi hình dung ra khuôn mặt bà chánh ủy, môi ngoai chặt, mắt long lên. Bất giác tôi thối lui rồi trở lại, bụng bảo dạ: may quá, mà chữa biết là may gì.
Đúng rồi! Kẻ đối thoại với bà chánh ủy là Quỳnh mà ông chánh ủy nhầm là Quỳ lúc nãy. Đời có những cái không nên nhầm mà người ta vẫn cứ nhầm một cách hồn nhiên vậy đó. Nhưng mặc Quỳ, hay Quý, Quỳnh hay Quỷnh gì cũng chẳng sao miễn đừng Lý thì thôi. Lý đã về sau bữa cơm rồi. Còn cô Quỳnh nấp ở đâu bên trong lại trở tra đối thoại tiếp. Tự phong mình chức đạo diễn, tôi sắp xếp lớp lang như thế.
Tuy tự cưỡng bách mình sắp xếp thứ lớp sự ra vào của nhân vật nhưng bụng tôi vẫn không yên. Cái giọng của Quỳ hay Quỳnh gì đó nghe hơi giống giọng Lý. Từ lúc tao ngộ với tôi đến lúc ăn xong, Lý không nói một câu nào. Tôi chỉ nghe cô đấu nhau với bà Tím ở hiệu Quốc Văn thôi. Giọng cô tôi chỉ nhớ man mác, khó mà đem ra so sánh với giọng của Quỳnh. Hơn nữa Quỳnh vừa khóc, tiếng nói nhòe ra không thật. Cho nên tôi không thể cả quyết hoặc phủ nhận một điều gì. Đúng ra tôi không muốn tin ở sự thực. Tôi trở lại nhà bạn ông chánh ủy. Ông này kêu lên:
"Anh ấy đang kể đến chỗ hay nhất đây này. Mau lên! Ơ kìa, sổ tay đâu?"
"Tôi không có đem sổ tay theo anh ạ! Cần gì ghi ra giấy! Cái chuyện này thì tôi sẽ nhớ đời đời!"
"Tôi đã bảo mà! Đề tài ở ngay đây, còn phải đi thực tế mò tìm cái gì nữa."
"Vâng! Đề tài ở ngay đây. May quá! Tôi khỏi phải mò, tự nhiên nó đến!"
Tôi ngồi nghe chuyện mà nhớ bộ ria mép tinh nghịch của nhà đạo diễn và cái mo. Đến hai cái lận cơ! L'amour cũng là một cái mo, dày hơn cả cái la vie.
Ông chánh ủy và tôi trở lại nhà. Cô gái vẫn còn ở đó, đầu gục trong tay: Cô Lý. Lạ vậy, tưởng về rồi lại còn đây. Tôi cố ép tôi nghĩ như thế. Cô Quỳ hay Quỳnh mới nghe khóc đã biến rồi! Còn cô Thủy đâu? Các cô đến đây xin việc hơi nhiều! Ố giời, tên với chả tuổi, ra ra, vào vào. Màn lớp gì lộn tùng phèo lên thế? Giá nhà đạo diễn ở đây có phải đỡ hơn không? Tôi hoang mang đến cực độ.
Bà chánh ủy nhân đức với kẻ khốn quẩn.
"Mình phải tìm cách giúp cho cô ấy mới được anh ạ!"
"Tùy em... định liệu!" Ông chánh ủy rùn vai một cách rất xét lại.
Chiếc xe jeep đã hiện ra ngoài đường với cặp mắt điện chọc vỡ màn đêm trong tôi. Ông chánh ủy chu đáo:
"Lúc nãy cô Quỳnh ủa Thủy đến với em hay đi xe đạp?"
"Em rước đấy chứ, xe cô ấy hỏng."
"Tốt lắm. Em rước, bây giờ thì anh đưa!"
"Thủy, vào lấy nửa khúc giò chị gói để trên bàn. Đem về cho các em kẻo muộn."
Cô Lý uể oải đứng dậy, mắt còn ngấn lệ, thẫn thờ bước ra cửa. Bà Hoàng vào bếp lấy gói giò đi theo ấn vào tay Lý:
"Của ngon thế mà cứ đùn ra. Em nhớ sáng mai đem hình lại văn phòng cho chị nhé."
Ông chánh ủy đi giữa, một tay nắm bắp tay Lý, một tay gác hờ trên vai tôi. Cả ba cũng rảo bước giữa hai hàng hoa huệ trên con đường lát gạch lành lạnh. Sương đêm xuống làm cho mùi hương nhạt ra và tanh tanh.
Bà chánh ủy ném theo:
"Chừng nào cô dượng ăn giầu cau nhớ cho anh chị hay, sẽ có tí quà!"
Ông chánh ủy vừa đi vừa nói luôn mồm, thỉnh thoảng lại ủa vì nhầm tên rồi tiếp tục nói, rồi lại ủa, có đến ba bốn lần, tính đến lúc ra đến xe.
Ông bắt chúng tôi phải ngồi cả ở băng sau, ông chồm qua vỗ vai tôi rồi nắm bắp tay cô Lý.
"Chúc cô cậu hạnh phúc!"
Gã tài xế như hận thủ trưởng từ đời nào - (gã tài xế nào mà chẳng hận thủ trưởng!) - đạp mạnh ga. Chiếc xe phóng làm bàn tay ông chánh ủy đang bấm vào bắp tay cô bạn đường của tôi lắc lắc nhịp nhàng với những lời dặn dò rủ rĩ tưởng không bao giờ dứt phải giật ra như phỏng lửa. Như vẫn còn tiếc của đời, ông giơ lên vẫy vẫy theo, không biết cho tôi hay cho nàng.
Tuy đã cắt lưỡi cắt tay của thủ trưởng rồi, gã tài xế vẫn chưa hết hậm hực. Ở những khúc quanh, đáng lẽ phải tốp chậm, gã vẫn chạy vun vút. Gã bẻ lái gắt, bánh xe như nghiến nát sỏi, cào tróc mặt đường. Cả tôi lẫn nàng đều phải bám thành xe mỗi bên để khỏi phải nghiêng ngã vào nhau trên chuyến xe đêm hạnh phúc bắt đắc dĩ. Xe vẫn lướt nhanh.
Tôi cố tìm ra một câu gì để xã giao nhưng sao tối dạ thế. Câu nào đến cũng bị gạt đi vì tôi cho là không xài được. Thì may quá! Xe vừa vọt ngang Phủ chủ tịch. Tôi chợt nhớ một câu văn trong tiểu thuyết vừa xuất bản được một nhà phê bình có tiếng khen là rất tốt. Tôi bèn trỏ vào Phủ mà nói:
"Khuya rồi mà Bác vẫn chưa ngủ em nhỉ!"
Tôi nói xong thì ân hận tràn lòng. Tôi há chẳng biết nàng là sâu gặm các lá sách Quốc Văn hằng ngày ư? Mang danh là nhà văn mà chẳng viết nỗi một câu như thế để phải mượn của đồng nghiệp. Rõ đáng thẹn!
Cô nàng lặng thinh. Có lẽ cô đang nhếch mép. Chắc cô thừa hiểu tôi giật tạm câu ấy ở đâu! Còn gã tài xế suốt đời chỉ ôm vô-lăng nên chẳng cần biết xuất xứ của câu văn. Nhưng gã vụt quay lại, có lẽ vì cái tiếng em tôi mượn mà gã tưởng là sản phẩm của tim tôi. Cái hạnh phúc mà ông chánh ủy vừa chúc bỗng trở nên đông đặc giữa đêm hè. Tôi thấy tự ái một cách giả tạo như cái hạnh phúc kia.
Con đường Cột Cờ quá nhiều ổ gà. Xe dằn xốc liên miên, nhưng tôi không đến dổi phải nhăn mặt như Dacha.
"Sách nội hay sách ngoại bán chạy hơn, cô Quỳ, ủa Lý, cô... Lý?"
"Cố nhiên là sách ngoại, ủa nội, chạy hơn!"
Tôi và cô hàng sách lại bị nhiễm cái tật ủa của ông chánh ủy hồi nào không hay. Đáng lẽ cô phải nói ngược lại nghe mới xuôi. Còn tôi vốn đã nghe những lời nói ngược thành xuôi theo kiểu đó quen tai, lâu ngày trở thành bản tính, nên không cãi lại mà chỉ tỏ vẻ hơi ngạc nhiên:
"Sách Tolstoi mà ế hơn sách ta à?"
"À không, con đường đau khổ thì bán vèo ngay!"
"Thế mới biết người Hà Nội ta sành nghệ thuật lắm nhỉ!"
"Vâng!" Cô đáp, nhưng tiếng vâng có vẻ như có nghĩa ngược lại.
Còn tôi, tôi không cảm thấy hạnh phúc cho lắm với những câu đối thoại vừa trỏng vừa cộc, nhưng nếu chúng dịu dàng thì chắc tôi sẽ đau khổ hơn. Xe bị xốc mạnh vì một cái hố ở mặt đường. Có lẽ do đó nguồn mỹ cảm cũng văng đi. Tôi cố tìm cách bắt nó lại. Tôi đã thất bại hai lần kể từ khi lên xe, lần này thì phải thành công.
Tôi nói:
"Cái bà gì ấy chắc hồi còn trẻ đẹp lắm, cô... Lý nhỉ?"
"Vâng bà ấy khoe với em là hồi chưa lấy ông chánh ủy bà ấy là hoa khô... khô... ôi."
"Không, tôi nói bà môi tím cơ."
"Bà nào ở Hà Nội mà môi chẳng tím. Có vui gì đâu mà... hồng được."
Chết chữa, tôi lại tối dạ nữa rồi. Nhưng vẫn bươn tới:
"Tôi nói cái bà Xắc-Cô cơ!"
"Vâng. Bà ấy đẹp lắm, đẹp nhất Hà Nội, đến trai cũng còn tán bả nữa đấy!"
Thôi, bỏ mạng rồi. Lần này tôi lại tối dạ hơn hai lần trước. Ai lại đi khen một người đàn bà với một người đàn bà? Cầm bằng như độp vào mặt người ta vậy.
Tôi còn đang tìm cách vớt vát lỗi lầm thì cô nàng đã quay sang tôi. (Từ nãy giờ nàng nói với tôi mà chỉ ngó thẳng hoặc ngó ra ngoài, bây giờ mới trực diện). Nàng nói:
"Bà ấy đã tìm cho ông được con đường đau khổ..."
"Trong khi chúng tôi muốn mời bà đi..."
"... tìm Hạnh Phú... úc!"
"Hạnh phúc đi trước đau khổ theo sau."
"Đau khổ đi trước hạnh phúc theo..."
"Nhưng thường là hạnh phúc chẳng theo."
"Bất công thế đó!" Cô nàng lặng thinh giây lâu rồi đột nhiên nói: "Bà ta cay cú tôi kinh khủng."
"Ơ kìa! Sao lại thế?"
"Trâu buộc ghét trâu ăn ủa ủa..."
"Trâu nào ăn trâu nó buộc? Buộc ở đâu và ăn gì?"
Cô nàng khựng lại một chút rồi đáp:
"Bà ấy muốn đem cô em dâu vào chỗ của em mà không được cho nên lúc nào cũng xỏ xiên tôi."
Gã tài xế lại quay lại rồi tự nhiên hắc hơi, có lẽ để đánh dấu tiếng em bất ngờ của nàng, nhưng cô nàng không cho cái cử chỉ ấy là khiếm nhã nên nói tiếp:
"Hôm ấy ông có đứng ở đấy mà! Tôi dằn lắm, nếu không tôi đã gọi Công An ngay rồi! (Tiếng em nàng vừa dùng mà không ủa ở câu trước đã không được lưu dụng ở câu sau như công chức Hà Nội cũ được cách mạng dùng xài sau Hòa Bình). Cái đám chim cò đến hỏi sách kiểu đó là do bà ta giàn cảnh cả đấy để phá tôi."
"Ra bà ta có cả tài đạo diễn."
"Ông đạo diễn râu Ảng Lê đã nhiều lần lấy vé Xắc-Cô với bà!" Cô nàng đã trút sự căm tức bà môi tím lên tôi. Cô tiếp: "Vâng, nhìn bên ngoài thì đẹp chẳng ai bằng nhưng đi sâu vào thì chẳng bằng ai."
Có lẽ để trả thù một lần cho trọn vẹn, cô nàng rủ rỉ kể thêm:
"Bà ta cũng đi xem phim Xắc Cô với ông thủ trưởng cơ quan. Chả là chồng bà ta làm thủ quỹ mà đi Mông Cổ. Ông ta bèn bắt vợ thế vào. Đi Mông Cổ là thụt két ông hiểu không?"
"Thế sao bà ta vẫn bán sách mà không làm thủ quỹ?"
Nàng đáp lại tôi bằng sự im lặng.
Khổ thân chưa? Tôi lại càng tối dạ thêm lên. Hồi lâu nàng lại bật ra:
"Xí! Bà ấy mà thủ quỹ thì càng thụt nặng!"
"Thì bắt ông ấy ra thế bà ấy chứ gì!"
Tôi pha trò, tưởng là có duyên lắm, nhưng nàng lại không hưởng ứng.
Bỗng nhiên tôi như bị đẩy bật ngửa ra thành băng. Thì ra gã tài xế thắng gấp. Xe đã tới nơi sau khi chạy ngoằn ngoèo không biết bao nhiêu đường quanh nẻo tắt. Cô nàng nhảy xuống như trốn nợ, tay vẫn ôm tro tro cái gói giò. Gã tài xế hiệp sĩ không cần tiếng cám ơn, vọt xe tới một ngõ thật hẹp, dường như gã rất quen, rồi lùi lại, quành đầu trở ra đường cái.
Gã chạy như bay. Đến một ngã tư, gã hãm chậm lại và bảo tôi:
"Anh lên ngồi trên này với em!"
Thật là kỳ quặc, cái tiếng em của cô nàng! Rồi bây giờ của một thằng đàn ông xưng em với thằng đàn ông mới quen. May cho nó, vừa bị nàng quẳng ra lại được gã khoèo trở lại xài ngay. Tôi lên ngồi song song với gã. Gã cười:
"Bà chánh ủy giới thiệu anh với cô ấy là cô gì?"
"Cô Thủy ủa cô Quỳnh, cô Quỳ."
"Có giời biết được tên cô ấy! Em lái xe cho cổ mà còn chưa biết nữa là anh. Chừng nào anh chị ăn giầu cau nói em biết để..."
"Biết chừng nào mua được mà ăn."
"Bà đó là bà chánh quỷ, chánh hiệu con quỷ cái!"
"Bà nào cơ?" Câu nói của gã tài xế như mũi dao nhọn rạch phăng cả cái màn mây đen quanh tôi, nhưng tôi giả vờ không biết gì.
"Còn bà nào nữa! Em sắp bị cho nghỉ việc rồi."
"Bộ anh có phạm khuyết điểm gì à?" Tôi cố giữ tự nhiên.
"Khuyết điểm là em biết nhiều cái thối của Cục Hàng Không ăn vụng này. Đúng là một cái cục... to nhất nhì Hà Nội. Tụi thổ táo Càri cay và Gà đãy nó cười thối nước mình vì cái cục hàng đen dâm dục đó." Trong một câu anh ta chơi chữ ba bốn lần.
Đường ban đêm rộng mênh mông không có xe mà cũng chẳng có người. Gã chạy nghêng ngang chẳng cần phải chú tâm nên cứ nói oang oang:
"Em sẽ tung hê tất cả. Em sợ gì nữa mà giữ mồm giữ miệng. Anh còn nhớ hồi năm ngoái báo Quân đội Nhân dân có đăng một vụ án tham ô hủ hóa không?"
Bị hỏi bất ngờ tôi chẳng biết đấy là đâu vả lại tờ báo này tôi chẳng bao giờ ngó đừng nói đọc, nhưng đoán là có chuyện gì hay hay nên tôi cứ đưa đà cho gã khui tiếp. Gã nói:
"Đó là một vụ đại tham ô chứ không phải tham ô, đại hủ hóa chứ không phải chỉ hủ hóa. Tham ô là như cái ông chồng bà gì cô ấy kể lúc nãy kia, tức là tiền công quỹ mà moi bỏ túi phải không anh? Còn đằng này thì không những bỏ túi của công mà còn dùng công tác để mua bán đổi chát gì đó, nghĩa là tham ô bằng cả hai tay.
"Ai tham ô cơ?"
"Thì một bà lớn... Bà ta công tác giỏi thế nào không biết mà có trong nhà cả trăm đồng hồ Thụy Sĩ và bút Parker Canada. Công An tới xét nhà bắt được rồi cho quân đội hay. Ấy là báo tường thuật, không phải tôi bịa đâu nhé. Tôi còn giữ tờ báo kia. Quân đội bèn gởi phái viên tới điều tra tại nhà. Một ông tá đến lớ quớ thế nào lại bị bắt mất hồn thư cho nên cuộc điều tra không có kết quả gì mà ông đại tá lại tụt chức. Rồi một ông khác cũng tá, được gởi tiếp tới. Ông này cũng đi không về rồi, nhưng báo nói rõ hơn là bà lớn lừa ông tá vào buồng ngủ rồi trương cái hoa hồng h éo ra để cho ông tha hồ khám. Còn hơn cái cô gái Hàng Đào hồi bác đảng mới về thủ đô bắt các chủ tiệm tư đăng ký hàng hóa, cô ta cũng giơ cái hoa hồng ra, anh nhớ không?"
"Tôi nhớ ra rồi! Có phải là sau đó một cuộc học tập toàn quân?"
"Chứ còn gì nữa. Nhưng anh biết bà lớn đó là ai không?"
"Ai vậy?"
"Còn ai trồng khoai đất này!" Như sợ tiếng máy át, gã quát vào tai tôi. "Còn ai?" Rồi tiếp: "Nhưng mà ổng chạy chọt làm sao đó, bà ta vẫn y nguyên không mất tí uy tín! Anh coi có ớn không kia chứ. Vậy mà bây giờ ổng sắp chỉ huy một Cục to hơn cái cục này. Sắp lên ga-lông rồi!"
"Lông gì?" Tôi bật cười. "Cục gì?"
"Lông gì ai biết lông gì, cục gì ai biết cục gì! Nhưng nếu chỉ có thế cũng chưa ớn lắm! Năm ngoái bả đi nhà thương Xanh Pôn nằm cử. Ổng mừng quýnh khi được gọi vào rước bà về. Ổng bảo là ổng sẽ đặt tên Hòa Bình nếu là con gái. Em lái xe đưa ổng vào. Nhưng ba giờ sau ổng mới dìu bà ra, mà chỉ có mình bà, không có bế bồng gì sốt."
"Sao vậy?"
"Thấy bả cúi gằm, còn ổng thì hầm hầm, em không dám hỏi. Nhưng sau đó người người đều biết bà lớn đẻ ra một cô công chúa oẳng-tà-roằng con."
"Trời đất!"
"Tôi lái xe hằng ngày! Nếu tôi nói gian cho tôi chết thảm thiết."
Tôi nghe tê tái cả tâm can. Tưởng mình biết tỏng chuyện đời hơn người, chẳng ngờ đời đang thế này mà mình tưởng nó thế kia. Hồi lâu tôi mới hỏi:
"Thế rồi ổng làm sao?"
"Ai biết! Nhưng anh thấy đó! Ổng bả vẫn anh anh em em rất là Sông Đông êm đềm."
Từ sau khi nghe đối thoại ở nhà ông chánh ủy thì cái sự đời đã quá rõ, nhưng tôi cố tình hiểu khác đi. Bây giờ lại nghe gã tài xế kể. Thôi đành bay cái điểm 5 mình đuổi bắt, chỉ nên giữ cái có trong tay cho chắc.
Khi xe chạy về phía nhà tôi, bỗng nhiên tôi bảo gã rẽ thẳng đến nhà hát rồi vòng ra phía sau. Gã vui vẻ:
"Bộ đón cô nào hả?"
"Đêm nay kịch Liên Xô nghe nói hay lắm. Chắc còn màn chót. Tôi muốn xem nó thế nào."
Gã trề môi:
"Kịch bên trong ăn nhằm mẹ gì. Kịch vòng ngoài mới hay. Anh vô coi đi. Em ở ngoài này đợi anh ra, em đưa cho về nhà luôn một thể." Gã trở lại xưng "em" ngọt ngào.
Tôi nhảy xuống đất. Cái bầu tâm sự nghe chừng nặng nề sau bữa cơm sang trọng. Giờ này ai muốn vô bên trong phải đi cổng sau. Tôi đi dọc hông nhà hát. Quả thật gã tài xế nói đúng. Trong kịch, ngoài cũng kịch. Trong kịch giả, ngoài kịch thật. Trong vùng ánh sáng mờ mờ ảo ảo, những cặp, những đôi, quờ quạng, thầm thì, đứng chết hoặc di chuyển dưới bóng cây, ven rìa bãi cỏ, trên ghế đá, tựa vào tường, lọt thỏm vào những ổ tò vò của hông tường nhà hát. Một vệt bóng nhỏ đủ làm nên sân khấu, loại sân khấu kỵ ánh sáng, kỵ tiếng động, kỵ nhất là khán giả.
Tôi vừa đi vừa ngó những chiếc xe đạp, xe bình bịch dựng rải rác khắp phía sau nhà hát và tựa vào gốc cây. Bỗng tôi thấy hai chiếc niệc chùm với nhau, cả bánh trước lẫn bánh sau. Như thế có nghĩa là hai người có một thời dụng biểu giống nhau về đêm kịch này. Và là xe của diễn viên. Vì xe của khán giả thì có người giữ xếp hàng dài dằng dặc mãi ở ngoài mép đường chứ không được hân hạnh vào tới đây. Một chiếc của tôi. Còn chiếc kia? Chắc của gã híp py bị nàng báo cáo cấp trên kiểm thảo. Hồi trưa, lúc ở nhà, trước mặt nàng tôi tỏ vẻ quân tử, nhưng bây giờ tôi hơi bực. Đã báo cáo hắn sao còn khóa xe chung? Nhưng rồi tôi sực nhớ rằng mình có chung thủy gì với người ta mà bắt người ta chung thủy với mình. Mình hoạt động liên miên suốt từ lúc nàng ra đi. Vì không phản bội được nên phải thủy chung. Người đời thường theo cái luân lý đó.
Nghĩ vậy tôi đi đến cửa hậu của nhà hát.
"Anh đến đón cô nào hả?" Một tiếng vọng ra.
"A không... Tôi muốn xem màn chót." Tôi giật mình vì không thấy ai.
"Chưa chót đâu. Kịch này tới năm màn. Bây giờ mới bắt đầu màn bốn."
Tuy không thấy ai nhưng tôi biết đó là lão già gác cửa nhà hát, cửa trước lẫn cửa sau. Dù đông hay hè lão vẫn úp cái mũ nồi trên đầu và khoác chiếc áo pa-li-ô cũ hai bên cổ ốp vào. Tôi vốn quen nhiều người trong các đoàn hát nên thường tới lui cổng sau. Lão biết tôi không xem kịch, chỉ đến chơi ở hậu trường nên để tôi tự do. Bù lại, tôi thường biếu lão hào bạc mua được sáu điếu lẽ Điện Biên. Lão trấn giữ cửa nhà hát này từ thời diễn vở Kim Tiền của Vi Huyền Đắc do Nguyễn Tuân thủ vai chính và vở Lôi Vũ của Tào Ngu mà Trúc Quỳnh thủ vai Phồn Y đầu tiên trên sân khấu này, nên người ta cứ gọi lão là lão Gác.
Nghe lão nói kịch còn dài tôi chưa muốn vào vội. Mới có hơn mười giờ. Vậy mà tôi tưởng cả một quãng đời. Mấy giờ đồng hồ qua tôi sống thật, sống nhiều, sống những gì tôi không ngờ nỗi.
Lần này tôi biếu lão năm hào. Lại vẫn con số 5! Con số mà tôi bắt đầu thấy kỳ cục.
"Anh miền Nam phúc đức thế! Năm nay thế nào anh cũng đẻ một hoàng tử!" Cái tiếng hoàng tử làm tôi chợt nhớ cô công chúa Oẳng tà roằng, tôi bật cười:
"Cháu là thằng cu ế (#20) đây cụ ạ!
"Thế thì năm nay lấy được vợ!"
"Cảm ơn cụ!"
Lão nhét tờ bạc vào túi áo trên rồi nói:
"Tôi gác cổng nhà hát cho Tây mấy chục năm, cho đến chế độ ta tám năm. Trước, ông Tây bà đầm, ông huyện bà phủ hay dúi tiền thằng gác cổng hèn hạ. Chế độ ta các đồng chí bộ trưởng, thứ trưởng, các tướng tá nguyên tắc chính trực quá, nên không làm thế! Chỉ có anh mới cho tiền tôi thôi. Ấy, tôi nói thế anh đừng nghĩ khác, tôi biết các anh rộng rãi. Người Bắc chúng tôi cũng nhận vậy mà, phải riêng tôi đâu! Thôi anh vào đi, kịch đang hồi căng. Hay là chờ cô nào (Tôi nói tên). Lão trừng mắt: "Ai thì tôi không biết chứ chờ cô ấy thì không có ở đây. Cái tên lạ quá, tôi chưa từng nghe, hay là đoàn của cô diễn ở rạp nào khác?"
Chú thích:
(20-) Nhân vật cải cách ruộng đất của Kim Lân thường được dân gian dùng để chế diễu những gì bị ế.