Chương 2

I
Khối óc tò mò của em bé giàu thêm nhiều khái niệm mới.  Nhờ thính quan cực kỳ tế nhị, em dần dần đi sâu vào thiên nhiên  ở xung quanh. Trên đầu và quanh mình em bao giờ cũng thấy một  thứ đêm tối mịt mùng dày đặc. Những bóng tối như đám mây  nặng đè trĩu lên khối óc của em, mặc dầu bị như vậy ngay từ ngày  mới lọt lòng và hình như em đã phải quen đi với nỗi đau khổ ấy,  nhưng bản chất của em vâng theo một thứ bản năng cao đẳng,  luôn luôn cố gắng tìm cách vén cái màn mờ đục kia đi. Mối hăm hở vô ý thức của đứa trẻ ham muốn được thấy ánh sáng mà nó chưa  hề biết không bao giờ rời bỏ em và trên khuôn mặt em thấy hằn rõ một thứ cố gắng mơ hồ và đau xót.
Tuy nhiên em cũng có những phút vui vẻ trong sáng, những  phút ngây ngất hồn nhiên êm dịu, nhất là khi những ấn tượng bên  ngoài đến được với em, biến thành những cảm giác mới mẻ, mạnh  mẽ, giúp em hiểu được những hiện tượng mới của vũ trụ vô hình.  Thiên nhiên mênh mông và hùng vĩ không hoàn toàn đóng cửa em.  Cho nên, một hôm được dắt đến đứng trên một tảng đá ở trên bờ sông, em trầm ngâm, nghiêm nghị lắng nghe tiếng sóng nhỏ bập  bềnh vỗ nhè nhẹ dưới chân. Em cảm động, níu lấy vạt áo mẹ, lắng  nghe những viên sỏi dưới chân lả tả dồn dập rơi xuống nước. Từ đấy, em hình dung chiều sâu dưới hình thức tiếng nước rì rào nhè nhẹ dưới chân một tảng đá, hoặc tiếng lạo xạo kinh hãi của những  viên sỏi nhỏ dồn dập lăn xuống nước.
Không gian vang dội đến tai em như một bài ca tắt dần.  Nhưng khi tiếng sấm mùa xuân vang khắp bầu trời, làm toàn thể không gian huyên náo, rồi, sau một tiếng ầm ầm phẫn nộ tiếng  vang tắt dần vào trong những đám mây, em bé mù lắng nghe, trong lòng sợ hãi thành kính, tâm trí em hớn hở và trong đầu em  vụt nảy ra khái niệm huy hoàng về bầu trời bát ngát.
Xem thế, với em, âm thanh là biểu hiện chính, biểu hiện trực  tiếp nhất của cái thế giới bên ngoài. Những ấn tượng khác chỉ để bổ sung cho những ấn tượng của thính giác. Mọi quan niệm của  em đều khuôn nặn trên những ấn tượng âm thanh ấy.
Đôi khi, vào một buổi chiều nóng bức, bốn bề im phăng phắc,  không còn tiếng chân người đi lại và cảnh vật thiên nhiên chìm  trong vắng lặng, một thứ yên lặng trong đó người ta đoán chừng  chỉ có những sức sống đang lặng lẽ không ngừng vươn lên, những  lúc ấy khuôn mặt em bé nom đặc biệt lạ thường. Hình như do ảnh  hưởng của cái vắng lặng xung quanh, có những âm thanh mà chỉ  có em nắm được nhịp điệu, tự đáy tâm hồn em dâng lên, và em  trầm ngâm lắng nghe. Những lúc ấy nhìn em tưởng như có một ý nghĩ đang nảy ra, còn mơ hồ, bắt đầu rung động trong trái tim em  như một khúc nhạc bâng khuâng.
II
Em bé đã lên năm. Người mảnh dẻ, yếu ớt, nhưng em vẫn đi  lại và chạy khắp nhà. Nếu một người lạ nhìn em đi trong buồng,  chân bước vững vàng, gặp vướng là quay người tránh, cần đến gì là tìm được ngay, thì người ấy không bao giờ lại tin là mình đang  đứng trước mặt một đứa bé mù. Người ấy sẽ cho em là đứa bé trầm  mặc một cách kỳ quặc, một em bé có đôi mắt suy nghĩ đăm đăm  nhìn nơi xa thẳm. Nhưng ra sân, em đi lại rất khó khăn. Em phải  dùng một chiếc gậy nhỏ, khe khẽ đập xuống đất đằng trước mặt.
Lúc không có gậy, em thường thích bò xuống đất, gặp vật gì  cũng tỉ mỉ nắn bóp.
III
Một buổi chiều tối mùa hè đẹp đẽ. Cậu Mácxim ngồi trong  vườn. Cũng như mọi bữa, bố em bé còn bận việc ở ngoài đồng.  Trong sân và xung quanh, bốn bề im ắng. Thôn xóm ngủ yên.
Trong bếp cũng không còn thấy tiếng chuyện trò của mấy người  lao công và gia nhân đày tớ. Em bé đã được đặt ngủ trên giường  đến gần nửa tiếng.
Em đang thiu thiu ngủ. Từ ít lâu nay, trong người em có một  thứ hồi ức lạ lùng ăn nhịp với cái không khí êm dịu của giờ khuya  muộn này. Đành rằng em không nhìn thấy bầu trời xanh tối dần,  hoặc những đỉnh cây đen sẫm lung lay in rõ hình lên nền trời đầy  sao, em không thấy được những mái tranh của những ngôi nhà vây quanh sân nhăn nhúm lại, và những bóng tối xanh biếc trộn  với ánh trăng óng ả bao phủ mặt đất. Nhưng từ mấy hôm nay,  những lúc em nằm ngủ, có một cảm giác lạ lùng, quyến rũ, nó đến  xâm chiếm chế ngự em, và hôm sau, lúc thức dậy, em không sao  hiểu được.
Vào khoảng lúc tâm trí em thiu thiu ngủ, lúc tiếng xào xạc  mơ hồ ở lùm dẻ đã im bặt và em đã không còn phân biệt rõ tiếng  chó sủa ở xa xa trong làng, tiếng hót líu lo của con chim họa mi  bên kia sông, và tiếng nhạc lanh canh buồn bã của mấy con ngựa  đang gặm cỏ trong nội, khi tất cả các thứ tiếng động riêng lẻ ấy  nhỏ dần rồi mất hẳn trong không gian bát ngát, thì em bé bắt đầu  có ấn tượng như tất cả những cái đó quyện vào nhau, tạo thành  một hòa âm êm ái bay qua cửa sổ vào trong buồng em, nó bay lượn  mãi quanh giường em nằm và ru em vào một giấc mơ dịu dàng.  Sáng hôm sau, thức giấc, lòng bồi hồi cảm động, em ríu rít hỏi mẹ:
- Mẹ ơi, hôm qua có cái gì thế hả mẹ? Cái gì thếhả mẹ?  Bà mẹ không biết đầu đuôi ra sao, bà tưởng những giấc mơ  đến quấy đảo con bà. Bà ẵm nó đặt lên giường, làm dấu rồi đợi mãi  lúc em thiu thiu ngủ mới lui ra. Bà không thấy có gì lạ. Nhưng  sáng hôm sau, em bé lại hỏi mẹ như hôm trước. Em kể lại cho mẹ nghe những cảm giác làm em ngây ngất đêm qua.
- A, mẹ yêu quý của con ơi! Hay quá, hay quá mẹạ... Cái gì  thế hả mẹ?
Một buổi chiều, bà định ngồi nán lâu hơn với con để xem cái  bí mật lạ “Kôngtơra”1.  Không ai hiểu được cái con người cứng đầu cứng cổ ấy lại có thể là em trai bà Pôpenska, tức Iatsenkô, gia đình danh giá. Không ai  biết cư xử với cậu ta ra sao, làm thế nào cho cậu vừa lòng. Đáp lại  những câu chào đón ân cần của những người quý tộc, cậu tỏ ra rất  hỗn xược, còn mấy anh nông dân có điều gì thô lỗ kinh khủng với  cậu; dù có gặp tay thượng lưu hòa nhã nhất đời họ cũng được mấy  cái tát, thế mà cậu Mácxim lại bỏ qua. Về sau, thật là may mắn vô  cùng cho tất cả những người tai to mặt lớn là chẳng rõ tại sao cậu  Mácxim lại đi căm thù bọn Áo, cậu sang Ý kết bè với Garibanđi,  một tay cũng hay gây gổ, vô thần, vô đạo như cậu. Cứ theo những  người điền chủ đồn đại thì Garibanđi đang kết cánh với quỷ sứ,  bất chấp cả đức Giáo hoàng - Tất nhiên hành động như vậy, cậu  Mácxim vĩnh viễn mất cái đầu óc hiếu loạn vô đạo. Nhưng trái lại  những phiên chợ “Kôngtơra” từ đó cũng hết hẳn những vụ ẩu đả,  và trong những gia đình quý phái, nhiều bà mẹ cũng không còn  phải lo cho số phận những đứa con trai của họ.
Cố nhiên người Áo cũng hết sức căm giận cậu Mácxim. Thỉnh  thoảng tờ “Tin tức”, là tờ báo mà những người điền chủ vùng này  thích đọc, có nêu tên cậu Mácxim trong số những nghĩa quân hăng  hái nhất của Garibanđi. Một sáng kia, cũng trên tờ “Tin tức” có đăng tin cậu Mácxim, cả người lẫn ngựa, đã bị gục trong một trận  đánh nhau. Bọn Áo vốn căm tức từ lâu cái con người điên cuồng dữ tợn ấy, cái con người đã giúp Garibanđi chống chọi lại được với họ (điều này ít ra cũng là ý kiến của đồng bào cậu Mácxim), nên họ đã lấy búa vằm nát cậu ra từng mảnh như thái xu hào.
Những người điền chủ láng giềng của cậu bảo nhau: 
- Cậu Mácxim thế cũng là chết khổ!
Họ cho cậu chết là tại thánh Phêrô đã đặc biệt bênh vực cho  người kế tục mình là Đức Giáo hoàng dưới hạ giới. Tất cả đều tin  là cậu Mácxim đã chết.
Nhưng thực ra, lưỡi gươm của bọn Áo không chém đứt được  cái linh hồn dẻo dai của cậu Mácxim. Linh hồn cậu cứ bám riết lấy  cơ thể, mặc dầu cái cơ thể ấy đã bị hư hại quá nặng. Nghĩa quân  của Garibanđi đã cứu được người bạn anh dũng của họ khỏi đám  hỗn quân, và đưa đến một bệnh viện. Mấy năm sau, bất ngờ cậu  Mácxim không biết ở đâu lừng lững trở về nhà bà chị, và ở hẳn đấy  không đi đâu nữa.
Từ đấy cậu Mácxim không nghĩ gì đến gây lộn đánh nhau.  Trái đùi bên phải bị cụt hẳn, nên đi đâu cậu cũng phải dùng một  chiếc nạng. Ngoài ra, cánh tay trái cũng bị thương nặng, chỉ còn có thể cố gắng chống tạm được chiếc can. Nói chung là nay cậu  Mácxim đã trở nên một con người nghiêm trang hơn, tính nết cậu  đã thuần, chỉ còn cái lưỡi sắc thép của cậu thỉnh thoảng tỏ ra cũng  bén như lưỡi gươm của cậu thời xưa. Cậu không đi chợ “Kôngtơra”  nữa. Dần dần những buổi hội họp đông người, cậu cũng ít đến, cả ngày chỉ nhốt mình trong thư viện, giữa những đống sách, tuy  không ai biết là sách gì, nhưng người ta đoán toàn là sách vô đạo  cả. Cậu cũng có viết lách cái gì nữa đấy, nhưng vì tác phẩm của  cậu không đăng trên tờ “Tin tức” nên cũng không ai chú ý đến  lắm.
Khi đứa bé lọt lòng ra trong căn nhà quê mùa nhỏ bé và bắt  đầu lớn lên, thì trên mái tóc húi ngắn của cậu Mácxim đã óng ánh  điểm nhiều sợi bạc. Đôi vai cậu lúc nào cũng chống nạng nên dô  cao hẳn lên, cả thân mình cậu như vuông lại. Cái hình thù kỳ quái  và rầu rĩ, đôi hàng lông mày cứ nhíu lại của cậu Mácxim, tiếng lộc  cộc đôi nạng nện xuống đất, và những đám khói thuốc luôn luôn  trùm kín người vì cậu hút píp luôn mồm, tất cả những cái ấy làm  cho người lạ ai cũng phải kinh hãi, chỉ có những người sống chung  với cậu mới biết trong cái thân hình tàn tật ấy, một trái tim cao  thượng, chứa đầy nhiệt huyết, đang đập mạnh và trong cái đầu to  lớn vuông vắn, tóc dựng chởm lên rậm rạp, có một tinh thần đang  làm việc không biết mệt.
Nhưng cả đến những người thân thích của cậu cũng không ai  biết được cậu đang mê mải suy nghĩ vấn đề gì. Ai cũng chỉ thấy  cậu Mácxim chìm lấp trong đám khói xanh, ngồi hàng mấy tiếng  đồng hồ không động đậy, trầm mặc, ủ ê, đôi mắt lờ đờ, đôi lông  mày nhíu lại. Người chiến sĩ tàn tật cho đời là một cuộc đấu tranh ác liệt không ngừng, trong đó không có chỗ đứng cho những kẻ tàn  phế. Cậu thấy mình từ nay vĩnh viễn bị gạt bỏ ra ngoài hàng ngũ những người chiến đấu và cậu, một hiệp sĩ đã bị cuộc đời quật ngã,  ném vào bụi bẩn, nay tiếp tục choán chỗ, làm bận cái thế giới này  cũng chỉ là vô ích. Giẫy giụa như con giun bị xéo nát trên mặt đất,  liệu có hèn mọn không? Cuộc sống nó cứ hớn hở đi lên, nay cố bám  lấy cái bàn đạp của nó, để xin nó chút ân huệ cuối cùng, như vậy  liệu có xứng đáng với cậu không?
Nhưng trong lúc cậu Mácxim đem hết can đảm, lạnh lùng và tập trung suy nghĩ về cái vấn đề nóng hổi, cân nhắc kỹ càng mọi lẽ phải trái, thì một sinh mệnh mới, tàn tật ngay từ thuở lọt lòng, bắt  đầu làm cậu bận tâm. Ban đầu, cậu không để ý gì đến đứa bé mù,  về sau, cậu lưu tâm thấy cái số phận của cậu và của đứa bé sao mà giống nhau đến thế.
Một hôm cậu liếc nhìn trộm đứa bé rồi trầm ngâm nghĩ: 
- Hừm... hừm... đứa bé tội nghiệp này cũng là mộtkẻ tàn  phế. Nếu gắn liền nó với ta có lẽ sẽ đúc nên một người khả dĩ cũng  giúp ích được cho đời ít nhiều chăng.
Từ đấy trở đi, càng ngày cậu càng chú ý quan sát nhìn đứa  cháu mù.
IV
Đứa bé lọt lòng ra đã bị mù. Lỗi ấy tại ai? Chả tại ai hết! Bên  trong việc này không hề có một “ý chí xấu ác” nào. Cái nguyên  nhân của tai họa này cũng giấu kín đâu tận trong chỗ uẩn áo của  những quá trình bí mật và phức tạp của cuộc sống. Mỗi lần nhìn  đứa bé mù, trái tim bà mẹ thắt lại, đau đớn, xót xa. Cố nhiên bà đau khổ, cái đau khổ của bà mẹ thấy con bị tàn tật và cảm thấy  trước một cách thảm thương cái tương lai đau khổ đang rình đợi  đứa bé. Nhưng thêm vào đấy, trong thâm tâm, thiếu phụ còn băn  khoăn day dứt về ý nghĩ có lẽ nguyên nhân đứa bé bị tàn tật là ở nơi những người đã sinh ra nó.
Như thế cũng đủ để cả gia đình chỉ xoay quanh đứa bé có đôi  mắt xinh đẹp mà lại bị mù, để cả nhà khuôn theo mọi ý muốn ỏe  họe của đứa bé tai ngược, thứ tai ngược chưa có ý thức.
Một đứa bé mà tật bệnh đã mở lối cho cái tính hay hờn giận  vô cớ, lại có đám người xung quanh quấn quít lấy, làm phát triển  những tính tình ích kỷ của nó, chẳng hay đứa bé đó sẽ ra sao nếu  không có cái số mệnh lạ lùng và lưỡi gươm bọn Áo buộc cậu  Mácxim phải về nông thôn náu mình trong gia đình bà chị.
Việc có đứa bé mù trong nhà đã dần dần hướng tư tưởng luôn  luôn hiếu động của người lính tàn tật đi theo một chiều khác hẳn  một cách hết sức tế nhị. Vẫn như trước kia, cậu thường ngồi yên  lặng hàng giờ, miệt mài hút thuốc, nhưng giờ đây, trong đôi mắt  cậu đã ánh lên vẻ suy nghĩ của một người đang lưu tâm quan sát  một vật gì chứ không còn có đau đớn âm thầm xót xa nữa. Cậu  càng suy nghĩ, trán cậu càng nhăn, mồm càng rít mạnh thuốc. Một  hôm cậu đánh liều can thiệp.
Nhả hết hơi thuốc này đến hơi khác, cậu Mácxim nói với chị: 
- Thằng nhỏ này sẽ còn đau khổ hơn tôi nhiều. Thà nó đừng  sinh ra lại hơn.
Bà Ana cúi đầu, một giọt nước mắt long lanh rơi xuống rổ khâu. Bà khe khẽ nói:
- Cậu Mác ơi, cậu nói thế đau lòng chị lắm, cậunói làm gì? 
- Nhưng là tôi nói thực với chị, hoàn toàn thực! Tôi mất một  cánh tay và một chân, nhưng còn đôi mắt. Đằng này đôi mắt cháu  nó bị hỏng, tức là nó sẽ không có chân tay, không có ý chí gì hết... - Tại sao?
Chú Mácxim dịu giọng nói: 
- Chị Ana! Chị cố gắng hiểu ý của em. Không baogiờ em đi  nói với chị những điều làm chị đau lòng để cho sướng miệng. Hệ thần kinh của cháu rất tế nhị. Giờ đây còn đủ thời giờ và mọi  thuận tiện để làm phát triển mọi khả năng của cháu để bù đắp  phần nào cho đôi mắt thiệt thòi của nó. Nhưng muốn như vậy,  phải cho nó luyện tập. Còn tất cả những thứ nuông chiều ngu  xuẩn chỉ làm đứa bé không bao giờ phải cố gắng, sẽ giết hết mọi  khả năng tạo cho nó một cuộc sống đầy đủ hơn.
Vốn thông minh, bà Ana dằn lòng ngăn được mối xúc động  đột nhiên nó thường khiến bà khi nghe tiếng đứa bé khóc rền rĩ là cuống cuồng chạy lại.
Mấy tháng sau đứa bé đã biết một mình bò tự do, nhanh  nhẹn quanh khắp nhà. Thoáng có tiếng động, nó lại lắng tai nghe,  gặp vật gì nó cũng hăm hở sờ nắn, cái hăm hở chưa từng thấy ở các  trẻ em khác.
V
Đứa bé nhận ra được mẹ nó rất nhạy, chỉ cần bước chân đi,  tà áo sột soạt và nhiều dấu hiệu khác của người mẹ, những dấu  hiệu hết sức nhỏ nhặt, người ngoài không thể thấy được. Dù trong  buồng có bao nhiêu người, mặc họ đi lại hay đứng yên, bao giờ em  cũng đi được về phía mẹ, không hề lầm lẫn. Mẹ em có bất chợt bế em lên, em cũng nhận ra được ngay. Nếu là người lạ khác, em khẽ lấy đôi bàn tay nhỏ nhắn lanh lẹ sờ mặt người bế và nhận ngay ra  người đó là u già, là bố hoặc là cậu Mácxim. Nếu được người lạ bế,  em xem xét thong thả hơn, vẻ mặt dè dặt và chăm chú, em đưa đôi  bàn tay xinh xắn lên sờ nắn khuôn mặt lạ, lúc ấy nhìn nét mặt em  thấy rõ bên trong em đang suy nghĩ căng thẳng, như thể em  “nhìn” với mấy đầu ngón tay.
Bản chất em lanh lẹn và hiếu động. Nhưng ngày tháng trôi  qua, đôi mắt mù dần dần đã ảnh hưởng rõ rệt đến thể chất của  em, cái thể chất đã bắt đầu có bản sắc rõ rệt. Cử chỉ của em ngày  một kém phần hoạt bát. Em hay ngồi một mình ở những chỗ vắng  vẻ, ngồi mấy giờ liền không động đậy, nét mặt thừ ra như nghe  ngóng cái gì. Khi trong buồng không có ai và những tiếng động  xung quanh không đến làm rộn, những lúc ấy hình như em chìm  đắm trong suy nghĩ và trên khuôn mặt, lộ vẻ ngạc nhiên ngơ ngác,  cái khuôn mặt xinh xắn nhưng quá ư nghiêm nghị đối với cái tuổi  thơ ấu của em.
Cậu Mácxim đã đoán đúng. Hệ thần kinh cực kỳ phong phú và tế nhị của em đã thắng thế, hình như trong một chừng mực  nào, nhờ thính quan và xúc giác rất nhạy cảm, nó cố gắng bù đắp  lại để các tri giác được đầy đủ. Ai cũng phải ngạc nhiên nhất về đôi bàn tay rất tinh tế của em. Đôi khi, người nhìn có cảm tưởng em  nhận rõ được cả màu sắc. Lúc đôi tay em nắm những màu vải sặc  sỡ, ngón tay mảnh dẻ của em ngừng lại lâu lâu, nét mặt em chăm  chú. Tuy nhiên, về sau dần dần càng thấy rõ rệt là ở em, giác quan  phát triển tinh tế nhất là thính giác.
Chẳng bao lâu, nghe tiếng động riêng của mỗi thứ, em đã biết được một cách rõ ràng kỳ lạ mọi đồ đạc trong nhà. Em phân  biệt được tiếng chân đi của cha mẹ em và của những người ở trong  nhà. Em nhận ra được tiếng ghế cót két của cậu Mácxim tàn tật,  tiếng sàn sạt khô khan và đều đặn của sợi chỉ mẹ em cầm trên tay,  tiếng tíc tắc đều đều của chiếc đồng hồ. Thỉnh thoảng trong lúc bò men theo bức tường, em vểnh tai lắng nghe một tiếng động nhẹ nhàng các người khác không thể nghe thấy, em giơ bàn tay nhỏ bé lên không chỉ về phía con ruồi đang bò trên bức tường. Khi con vật  kinh hãi bay đi, khuôn mặt em bao giờ cũng lộ ra vẻ khó chịu, ngơ  ngác. Em không hiểu nổi được con ruồi bí mật biến đi ra sao.  Nhưng về sau, gặp những trường hợp tương tự, mặt em nom có vẻ chăm chú, một thứ chăm chú có ý thức. Em ngoảnh mặt theo  hướng con ruồi bay: đôi tai thính nhạy của em nhận thấy rõ cả tiếng cánh con vật nhỏ đập nhẹ nhàng trên không.
Vũ trụ sáng chói chuyển động và xào xạc ở chung quanh  thâm bên trong,  khoét sáu lỗ tròn thẳng hàng và thêm một lỗ thứ bảy khoét chếch  đi.
Anh lấy nút gỗ bịt vào một đầu ống tiêu, để chừa ra một khe  nhỏ, đoạn lấy chỉ buộc treo lủng lẳng phơi nắng gió suốt một tuần.  Về sau anh gọt giũa, lấy kính nạo, lấy miếng len kỳ cọt chau  chuốt. Mặt trên ống tiêu tròn trặn. Giữa có mấy khoảnh mặt con  con rộng bằng nhau, đánh nhẵn bóng. Iokhim lấy những miếng sắt  mỏng cong queo nướng đỏ áp lên trên những mặt nhẵn, khắc  thành những hình thù chạm trổ cầu kỳ. Sau khi thử vài nốt,  Iokhim cảm động gật gật đầu, lẩm bẩm mấy tiếng, ra chiều thích  thú và vội vã đem giấu kín chiếc tiêu vào một xó gần giường. Anh  không muốn thổi thử tiếng tiêu đầu tiên trong không khí ồn ào ban ngày. Nhưng chiều tối vừa buông xuống, từ tàu ngựa đã vọt ra  những tiếng sáo dịu dàng ngân nga, vô cùng êm ái khiến người  nghe ngây ngất mơ màng. Iokhim hết sức vừa lòng với chiếc tiêu  mới, coi nó khác nào xương thịt của mình. Tiếng tiêu réo rắt như  từ trong trái tim, ấm áp và xúc động của anh ngân ra, vì tiếng tiêu  thần diệu ấy đã nói lên được những khía tình cảm tinh vi, những  run rẩy nhỏ nhất của mối buồn trong lòng anh. Những tiếng sáo  rung động theo nhau bay vào trong đêm tối đang chăm chú lắng  nghe.
V
Giờ đây, Iokhim say mê chiếc tiêu. Người và tiêu cùng nhau  vui hưởng tuần trăng mật. Ban ngày, anh làm hết sức chu đáo bổn  phận người hầu ngựa, dắt ngựa đi uống nước, đóng ngựa vào xe,  đánh xe cho bà chủ hay cậu Mácxim đi dạo chơi. Đôi khi có việc đi  qua làng bên, nơi cô bé Maria độc ác ở, anh thấy lòng se lại, nhưng  chiều đến, anh lại quên tất cả. Ngay đến hình ảnh cô bé có đôi  hàng lông mày đen láy tuyệt đẹp kia, cũng bị phủ một lớp sương  mù. Cái hình ảnh ấy không còn có cái cụ thể, nóng cháy của nó.  Trước mắt anh nó hiện ra trên một nền mơ hồ, vừa đủ thấy để làm  tiếng sáo du dương kỳ diệu nghe thêm mơ màng buồn bã.
Chiều hôm ấy, cũng như mọi hôm, Iokhim nằm trong chuồng  ngựa, ngây ngất vì điệu nhạc, và đang lắng mình thổi những khúc  nhạc ai oán. Anh nhạc sĩ đã quên cô gái độc ác, quên cả cuộc sống  của chính mình. Thốt nhiên anh rùng người đứng nhổm dậy.
Vào lúc cảm động nhất, anh thấy một bàn tay nhỏ bé lanh  lẹn đưa ngón tay vuốt nhẹ nhàng mặt anh, rồi lùa trên tay sờ vội  ống tiêu anh đang thổi. Cùng một lúc anh nghe bên cạnh mình có hơi người thở rộn ràng, cảm động.
Tưởng bị ma ám, anh vội làm dấu và quát lên: “Quỷ sứ hay  Thượng đế sai mày đến đây hả?”. Anh muốn xem có phải mình bị  ma quái ám ảnh hay không?
Nhưng một tia ánh trăng vừa lọt qua cửa tàu ngựa còn bỏ ngỏ, anh biết mình lầm. Đứng gần sát giường, em bé mù đang giơ  đôi bàn tay nhỏ nhắn về phía anh.
Một giờ sau, bà mẹ muốn vào ngó thăm con ngủ, bà không  thấy con trên giường. Thoạt tiên bà giật mình sợ hãi nhưng bản  năng người mẹ đã giúp bà đoán biết ngay con bà đi đâu. Lúc  ngừng thổi tiêu để lấy hơi, Iokhim thấy chính bà chủ đứng trên  bậu cửa tàu ngựa, anh luống cuống thẹn thùng. Bà đứng đấy từ nãy, lắng nghe anh thổi tiêu và nhìn cậu con trai đang khoác chiếc  áo bông ngắn của Iokhim ngồi trên giường mê mải nghe điệu nhạc  bị cắt đứt.
VI
Từ bữa đó, ngày nào cũng cứ chiều chiều chú bé lại xuống  tàu ngựa. Không bao giờ em nài Iokhim thổi tiêu ban ngày. Em có cảm giác vào buổi ban ngày xáo động, người đi lại ồn ào, không sao  thổi được những điệu nhạc êm ái như vậy. Nhưng khi bóng chiều  chớm buông, Pie đã bắt đầu thấy nóng lòng nóng ruột. Bữa cơm  chiều chỉ để báo cho em biết là sắp đến cái giờ phút sung sướng mà thôi; còn bà mẹ theo bản năng, vốn không thích lối nghe thổi tiêu  như vậy, nhưng cũng không sao cấm được cậu con trai yêu quý đến  thăm anh nhạc sĩ quê mùa, hoặc cấm em ngồi suốt hai tiếng đồng  hồ trong tàu ngựa trước khi đi ngủ. Những giờ nghe thổi tiêu như  vậy trở thành những giờ phút sung sướng nhất trong ngày của em.  Lòng ghen tức nung nấu bà mẹ, bà biết rõ những cảm giác du  dương ban đêm này sẽ làm em bé suy nghĩ suốt ngày hôm sau. Bà nhận thấy mấy hôm nay em bé không vồn vã âu yếm đáp lại  những lúc bà vuốt ve em như trước. Ngồi trên gối mẹ, ôm hôn mẹ mà em vẫn trầm ngâm tưởng nhớ đến những tiếng tiêu Iokhim  thổi đêm trước.
Bà nhớ lại hồi bà theo học ở ký túc xá nữ sinh của bà Rađétska ở Kiép, trong các nghệ thuật giải trí bà có học dương  cầm. Nói thực ra, những kỷ niệm hồi đó của bà không có gì là cực  kỳ thú vị cho lắm, vì những kỷ niệm ấy gắn bó với hình ảnh cô  Klap, một nữ giáo viên người Đức, một cô giáo già, gầy gò, tính nết tầm thường và nhất là rất ác. Cô ta hay cau có gắt gỏng lạ thường.  Cô ta có thể bóp nát ngón tay học trò để uốn nắn cho nó được mềm  mại. Cô thực đã hoàn toàn thành công trong việc bóp chết mọi  nhạc cảm trong người đám học trò cô ta dạy. Cô Klap có một quan  niệm thực kỳ dị về phương pháp sư phạm. Cứ đứng trước mặt cô là đủ để cái nhạc cảm nhút nhát biến mất hết chứ khoan nói đến  phương pháp dạy của cô ta. Cho nên sau khi học xong và đi lấy  chồng, bà Ana Mikhailốpna không bao giờ nghĩ đến chuyện tập  luyện lại nhạc nữa. Nhưng giờ đây, lắng nghe anh chàng Ukren  thổi sáo, tuy vẫn thấy ấm ức trong lòng, bà cảm thấy trái tim dần  dần trở nên dễ rung động trước thứ âm nhạc chân chính, còn hình  ảnh cô giáo Klap người Đức kia mờ hẳn đi. Bà Pôpenska năn nỉ  chồng gửi mua cho một chiếc dương cầm tận ngoài tỉnh.
Ông Pôpenski, một ông chồng gương mẫu, bảo vợ: 
- Mợ muốn thì tôi cũng mua. Nhưng nếu tôi khônglầm, thì  xem như mợ cũng không thích âm nhạc cho lắm.
Ngay hôm ấy, ông viết thư gửi ra tỉnh, nhưng cũng phải vài  ba tuần mới có dương cầm đưa về tận nhà quê đây được.
Trong khi đó, chiều nào tiếng tiêu du dương cũng từ tàu  ngựa réo rắt bay lên. Em bé mù không kịp xin phép mẹ, hấp tấp  chạy xuống.
Mùi thơm cỏ khô lẫn với mùi đặc biệt của tàu ngựa và mùi  nồng nặc của bộ dây cương. Mấy con ngựa như thong thả, mồm  ngoạm rơm để ở máng cỏ nghe xào xạo. Khi Iokhim ngừng lấy hơi  để thổi, tiếng thì thầm của đám cây lá dẻ xanh ngoài vườn bay vào  nghe rõ mồn một. Em Pie lắng tai nghe, mê mệt, say sưa.
Không bao giờ em ngắt tiếng tiêu. Chỉ khi Iokhim tự ý ngừng  thổi được vài ba phút, mặt em mới không còn lặng lẽ mơ màng, mà lại có vẻ háo hức lạ lùng như muốn được nghe nữa. Em với lấy ống  tiêu, hai tay run rẩy, đưa lên môi. Nghẹn ngào vì cảm xúc quá mạnh, tiếng tiêu đầu tiên em thổi ngập ngừng, không rõ. Nhưng  lâu dần, em cũng làm quen được với chiếc nhạc cụ thô sơ. Iokhim  dạy em đặt tay lên các miệng lỗ tiêu. Ngón tay xinh xắn của em  tuy che chưa kín, nhưng em thuộc nốt nhạc rất mau. Với em, mỗi  nốt nhạc có một tính cách riêng, một diện mạo riêng. Em đã biết  chỗ nốt nhạc nào ở đâu, thổi ra sao và đôi khi, theo tiếng sáo rất mộc mạc của Iokhim ngân nga, mấy ngón tay của em cũng bắt đầu  buông bắt theo nhịp hát. Em hình dung rất rõ các nốt nhạc xếp  liên tiếp theo thứ tự lên hay xuống.
VII
Đúng ba tuần sau, chiếc dương cầm đặt mua ở tỉnh được  mang về. Pie đứng ngoài sân, lắng tai nghe mấy bác người làm  nhộn nhịp khuân chuyển “Cái nhạc” vào trong nhà. Chiếc đàn  chắc nặng lắm nên lúc nhấc nó lên, chiếc xe lăn kêu răng rắc, mấy  người khiêng phải rên lên, mồm thở hổn hển. Họ bước nặng nề,  mỗi bước lại có cái gì vo vo, rung lên rầm rầm ở phía trên đầu. Khi  đặt chiếc đàn xuống sàn nhà trong phòng khách, có tiếng gầm lên  như chiếc đàn đùng đùng giận dữ dọa nạt ai. Tất cả làm em bé có cảm giác gần như khiếp sợ và có ác cảm ngay với cái “người khách  lạ” quái ác tuy nó chỉ là vật vô tri. Em đi ngay ra ngoài vườn,  không nghe người ta kê đàn, và cũng chẳng đợi nghe thợ lên dây  đàn ra sao. Người thợ này bố mẹ em thuê riêng từ tỉnh về để sửa  phím và căng lại dây. Khi mọi việc xong xuôi, bà mẹ cho gọi Pie  đến.
Cậy có cây đàn do tay một nhà chuyên môn bậc nhất ở thành  Viên chế tạo, bà Ana cầm trước sẽ thắng chiếc sáo thô sơ quê mùa.  Bà chắc mẩm từ nay con trai bà sẽ quên cái tàu ngựa, quên cả anh  chàng thổi tiêu. Bà sẽ là nguồn vui độc nhất của nó. Bà tươi cười  nhìn con đang rụt rè cùng cậu Mácxim và Iokhim bước vào. Anh  Iokhim cũng xin cho đứng nghe chiếc đàn lạ. Anh ngượng nghịu  đứng ở ngưỡng cửa, mặt cúi nhìn xuống đất, chòm tóc rủ dài trên  trán. Khi cậu Mácxim và Pie ngồi xuống đi văng, đột nhiên bà Ana  ấn phím đàn.
Bà dạo một bản nhạc mà trước kia hồi trọ học ở nhà bà Rađepska, cô Klap đã luyện cho bà đến nơi đến chốn. Bản nhạc có cái gì hết sức ầm ĩ và phức tạp, ngón tay người dạo phải hết sức  mềm mại. Chính hồi thi đàn, cô Ana dạo bài này và đã làm người  nghe không ngớt lời khen, nhưng phần nhiều là ngợi khen người  dạy. Không ai biết rõ lắm, nhưng nhiều người cho là cái ông  Pôpenski lầm lì kia chắc đã say mê cô Iátsenkô đúng trong cái khắc đồng hồ ngắn ngủi cô dạo bài nhạc cực khó đã làm thính giả ngây ngất. Giờ đây dạo lại bản nhạc, trong lòng thiếu phụ hy vọng  một chiến thắng mới: bà cố gắng giành lại trái tim nhỏ nhắn của  đứa con trai đang mê mệt về chiếc sáo Ukren tầm thường.
Nhưng lần này bà đã hy vọng lầm: Chiếc đàn thành Viên  không đủ tài địch lại với một mẩu sậy Ukren. Đành rằng chiếc  dương cầm lạ kia có nhiều cách để làm người nghe phải say mê:  nào gỗ quý, nào dây đàn vào hạng tốt nhất, người chế tạo lại là một nhà chuyên môn bậc thầy ở thành Viên, âm vực của nó lại vô  cùng rộng rãi phong phú. Nhưng trái lại, chiếc sáo xoàng xĩnh nọ cũng có những đồng minh của nó, vì nó sinh trưởng ngay nơi quê  nhà, trên đất nước quê hương, trong khung cảnh thiên nhiên  Ukren thân thuộc.
Trước khi Iokhim lấy dao cắt và lấy sắt nung đỏ đốt trái tim  nó, nó vẫn rung rinh ở gần đây, trên mặt con sông nhỏ quen thuộc  và yêu mến của em. Mặt trời Ukren vuốt ve và sưởi nắng cho cây  sậy, gió Ukren uốn cây nghiêng ngả cho đến lúc con mắt sắc sảo  của
anh chàng thổi sáo Ukren nhận ra nó đang phập phồng trên  bờ sông nước soi mòn nham nhở. Chiếc đàn mới khó mà địch nổi  chiếc sáo con con quê mùa, vì tiếng sáo đến với em bé vào những  giờ êm ái, lúc em thiu thiu ngủ. Nó đến với em trong bầu không  khí mê li huyền ảo buổi chiều, giữa tiếng xào xạc của đám dẻ gai  cũng đang thiu thiu ngủ, và tiếng rì rầm quen thuộc của cảnh vật  Ukren.
Vả lại, bà Pôpenska không sao đọ được với Iokhim. Đành  rằng, những ngón tay xinh xắn của bà mềm dẻo và lanh lẹ hơn,  khúc nhạc bà dạo có phức tạp và phong phú hơn, và xưa kia cô  Klap đã tận tâm dạy bảo cô học trò sử dụng được rất tinh thông  chiếc đàn khó khăn này, nhưng mặt khác, Iokhim lại có khiếu về nhạc từ thuở lọt lòng. Anh đã yêu đương, đã đau khổ, và tình yêu,  nỗi buồn, anh đem gửi cả vào điệu nhạc mà anh thuộc lòng từ ngày còn thơ ấu. Những điệu nhạc hết sức giản đơn nọ, anh học  được ở cảnh vật thiên nhiên vô cùng thân thuộc, ở tiếng rừng xào  xạc, tiếng cỏ thì thào trong thảo nguyên và ở câu hát cổ nơi quê hương mà anh được nghe từ ngày còn nằm trong nôi, những câu  hát mơ màng và gần gũi quá.
Phải, chiếc đàn thành Viên khó mà thắng nổi chiếc sáo  Ukren. Được một lát, cậu Mácxim nện mạnh chiếc nạng xuống sàn  nhà. Bà Ana quay lại, trên mặt con trai vẫn lại cái vẻ ngơ ngác  như buổi dạo chơi đầu tiên mùa xuân nọ, lúc em lăn ra nằm ngất  trên bãi cỏ.
Iokhim nhìn em bé thương hại. Anh ngước mắt nhìn “chiếc  nhạc Đức” nọ, cái nhìn khinh miệt. Anh quay mình đi ra, đôi giầy  quê mùa nặng nề nện mạnh xuống đất.
VIII
Lần thất bại này đã làm bà mẹ tội nghiệp mất bao nước mắt  và tủi hổ. “Bà lớn” Pôpenska, một người đã được đám “thính giả ưu  tú” hoanới em bé mù, thiên nhiên bao giờ cũng chỉ là một đêm dài  vô tận, xao động khác thường, cái đêm tối luôn luôn chuyển động,  nó gầm thét, ngân nga như tiếng chuông và đang bước lại gần em.  Những cảm giác lạ lùng kỳ dị đến vây kín lấy em, nó đầy dẫy tràn  ngập, làm trái tim non nớt của em hồi hộp đập rất đau đớn.
Khi những tia nắng chiếu rọi vào mặt và sưởi nóng làn da  mềm mại, em bé theo bản năng, tự nhiên quay mặt về phía mặt  trời. Em cảm thấy mặt trời là trung tâm, mọi vật quanh em đều  xoay về đấy. Với em, không có những vùng xa xa mờ ảo, không có bầu trời xanh ngắt, cả những chân trời mênh mông bát ngát cũng  không. Em chỉ thấy có một cái gì cụ thể nóng ấm như một bàn tay  vuốt ve, khẽ lướt qua mặt. Rồi, một cái gì mát mẻ, nhẹ nhàng, tuy  nhiên vẫn không nhẹ bằng cái ấm nóng của tia nắng mặt trời, nó thổi vào mặt em, mát rượi, khoan khoái. Ở trong nhà, em bé đã quen đi lại tự do và biết được khoảng trống xung quanh mình.  Nhưng ra đây, em ngạc nhiên thấy các làn sóng thay đổi mau lẹ lạ lùng, lúc vuốt ve êm dịu, lúc kích thích bồn chồn. Những cái hôn  ấm áp của mặt trời bị làn gió hiu hiu lướt qua xua đi rất mau  chóng. Một luồng gió xào xạc bên tai, phủ lấy mặt và hai bên thái  dương, lùa từ đầu đến gáy, xoắn quanh người em như cố nhấc bổng em lên, mang em đến một nơi nào đó trong không gian mà em không nhìn thấy; cơn gió ru ngủ tâm hồn em, lôi kéo em vào  lãng quên ủy mị. Em liền siết chặt thêm tay mẹ. Trái tim em lịm  đi, có lúc tưởng chừng sắp ngừng đập hẳn.
Lúc bà mẹ đặt em ngồi xuống đất, em có vẻ bình tĩnh hơn.  Giờ đây, mặc cho cái cảm giác lạ lùng tràn ngập trong người, em  vẫn phân biệt được các âm thanh. Những làn sóng ấm áp và êm  dịu vẫn cứ dồn dập mạnh mẽ, em cảm thấy nó thấm vào tận trong  cơ thể em vì những tiếng đập của máu bị đảo lộn trong người em  cũng tùy theo nhịp những làn sóng đó mà đập nhanh hay chậm.  Nhưng bây giờ, những làn sóng đưa lại lúc tiếng hót thánh thót rõ ràng của một con sơn ca, lúc tiếng thầm thì nghẹn ngào của cây  bạch dương nhỏ vừa lại mới đâm chồi xanh tươi, hoặc tiếng nước  vỗ bập bềnh khe khẽ ngoài sông. Một con én bay qua, cánh đập  vun vút, nó lượn quanh gần đấy mấy vòng ngoắt ngoéo, đàn ruồi  nhỏ vo ve, và át lên tất cả, thỉnh thoảng có tiếng bác thợ cày giục  bò kéo cày ngoài cánh đồng, tiếng lê dài, buồn bã.
Nhưng em bé không sao hiểu hết được tất cả những tiếng  động ấy, tất cả những âm thanh ấy, em không ghép lại được,  không phối hợp được chúng. Hình như lúc xuyên vào cái đầu bé nhỏ tối om của em, thì những âm thanh ấy, lẻ tẻ rơi xuống đáy, lúc  êm ái bâng khuâng, lúc vang vang ầm ĩ. Đôi khi những âm thanh  ấy dồn cả lại phát ra cùng một lúc, và xáo lộn với nhau tạo thành  một thứ âm lỗi điệu vừa chối tai, vừa khó hiểu. Gió từ ngoài cánh  đồng thổi lại vẫn vun vút bên tai, em cảm thấy những làn sóng lúc  này đã chạy mau hơn, tiếng nó ồn ào, dập tắt mọi tiếng động khác  mà lúc này chỉ còn văng vẳng như từ thế giới xa lạ đưa lại, như đã trở thành những kỷ niệm ngày hôm qua. Và khi mọi âm thanh dịu  dần, thì một cảm giác uể oải kích thích thấm vào lồng ngực em bé mù. Mặt em chốc chốc lại nhăn nhó từng nhịp, mắt lúc nhắm  nghiền, lúc mở to, đôi lông mày lúc nhíu lại, lúc giương lên sợ sệt,  rõ là em muốn hỏi han điều gì mà không nói, và em đã cố gắng  đau đớn trong suy nghĩ và tưởng tượng. Ý thức của em còn non nớt  mà đã tràn ngập những cảm giác mới mẻ nên bắt đầu bị đè xuống.  Ý thức non nớt ấy đã đấu tranh không lại được với những cảm giác  ở khắp nơi tràn vào, nó muốn chống chọi lại, phối hợp những cảm  giác ấy để chế ngự rồi chinh phục chúng, nhưng công việc ấy quá nặng đối với khối óc tối om của em, một đứa bé thiếu hẳn những  biểu tượng mắt nhìn thấy để làm một việc như vậy.
Và những âm thanh lần lượt đến vây hãm em phức tạp quá,  ầm ĩ quá. Những làn sóng từ những vùng tối tăm, náo động tràn  ngập vào em, mỗi lúc một vang mạnh hơn, để thoáng lại biến ngay  vào đêm tối như trước, nhường chỗ cho những làn sóng mới, những  âm thanh mới. Những làn sóng đung đưa em, nâng em lên mỗi lúc  một nhanh, mỗi lúc một cao, với một cái đà làm em phải khó chịu.  Một âm điệu dài và buồn của tiếng người nói to lại một lần nữa  vượt lên trên cái mớ âm thanh hỗn độn đang tắt dần, rồi thốt  nhiên bốn bề im bặt.
Em bé khẽ rên và nằm vật xuống bãi. Bà mẹ quay lại nom  thấy, kêu thét lên: em bé mặt tái nhợt, nằm mê man trên đám cỏ.
VIII
Việc xảy ra làm cậu Mácxim rất lo sợ. Ít lâu nay cậu tìm tòi  nghiên cứu các sách nói về sinh lý học, tâm lý học và khoa sư  phạm. Cậu đem hết nghị lực sẵn có vào việc nghiên cứu tất cả những điều khoa học nói về sự trưởng thành huyền bí và sự phát  triển của tâm hồn các trẻ em.
Dần dần công việc nghiên cứu làm cậu say mê. Những ý nghĩ  đen tối cho mình đã tàn phế, không còn sức để đấu tranh cho cuộc  sống, những suy nghĩ chua chát về thân phận “con sâu bò trong  đám cỏ bụi” vân vân... tất cả đã dần dần bay khỏi cái đầu vuông  cạnh của người chiến sĩ kỳ cựu. Thay vào đấy, lúc này óc cậu lại  xáo động về những ý nghĩ khác do kết quả của một cuộc suy nghĩ  lâu dài, thậm chí đôi khi trong trái tim đang cằn dần đi ấy, còn  nảy ra những giấc mơ hồng tươi đẹp. Cậu Mácxim tin chắc tạo hóa  đã không cho đứa trẻ đôi mắt để nhìn, quyết không nỡ cướp nốt cả các giác quan khác của nó. Đứa bé đáp lại hết sức đầy đủ và với  một nghị lực phi thường, tất cả những cảm giác bên ngoài mà các  quan năng em thu nhận được. Cậu Mácxim bắt đầu tin tưởng cậu  được tạo hóa giao cho cái nhiệm vụ làm phát triển mọi năng khiếu  tự nhiên của đứa bé, cậu sẽ gắng đem tinh thần và ảnh hưởng của  mình để bù đắp cho bớt nỗi bất công của số mệnh. Trong hàng ngũ những người chiến đấu cho lý tưởng cao quý, tên lính mới này sẽ thay cậu, một tên lính mà nếu cậu, một người tàn tật tội nghiệp  không can thiệp vào, trong tương lai sẽ không làm được việc gì có ích cho ai hết.
Người bạn già của Garibanđi nghĩ bụng:  “Biết đâu đấy. Người ta rất có thể không cần gươm giáo mà vẫn đấu tranh được. Rất có thể đứa trẻ bị số mệnh bất công làm  thương tổn này, một ngày kia sẽ giơ cao thứ vũ khí hợp với năng  lực của nó để bảo vệ những kẻ đau khổ cùng bị cuộc sống hắt hủi.  Và như vậy, ta đây, một tên lính già tàn tật, ta cũng sẽ không đến  nỗi là kẻ sống thừa, trong cái thế giới này...”.
Vào thời buổi ấy, ngay đến những nhà tư tưởng tự do tiền  tiến nhất cũng không thoát khỏi điều mê tín cho là vũ trụ này bị  những “Ý muốn huyền bí” của tạo hóa chi phối. Cho nên, cậu  Mácxim trong lúc theo sát từng bước trưởng thành của đứa bé, cậu  thấy ở nó mỗi ngày một lộ rõ những khả năng ít có; cuối cùng cậu  tin chắc rằng đứa bé bị mù cũng chỉ là do một trong những “Ý muốn huyền bí” ấy gây nên.
Cậu Mácxim sớm tặng cậu học trò yêu của mình câu châm  ngôn: “Một kẻ chịu thiệt thòi cho tất cả những con người bất  hạnh”.
IX
Sau lần dạo chơi đầu tiên vào buổi mùa xuân nọ, em bé bị mê  sảng mất mấy ngày. Có lúc em nằm lịm, yên lặng trên giường, có lúc em trằn trọc, mồm nói lảm nhảm, tai lắng nghe tiếng động ở tận đâu đâu. Lúc nào nom mặt em cũng ngơ ngác kinh hãi.
Bà mẹ nói: 
- Trời ơi, hình như con tôi nó cố gắng tìm hiểu mộtcái gì mà không làm sao hiểu nổi.
Cậu Mácxim ngồi trầm ngâm, đầu lắc lắc. Cậu biết rõ đứa bé bị xúc động quá mạnh và ngất đi như vậy là do những cảm giác  tràn ngập vào nó nhiều quá, nên cậu quyết định chỉ cho những  cảm giác ấy từ từ đến với đứa bé mới mệt dậy, đến từng cảm giác  một. Cửa sổ buồng em bé ốm nằm đóng kín mít. Về sau dần dần  khi em bình phục, mới thấy mở đôi lúc. Em được dắt đi chơi trong  buồng, ra ngoài bậc cửa, ra sân, ra vườn. Mỗi khi thấy mặt em bé có vẻ lo lắng, mẹ em lại giảng giải cho em hiểu rõ bản chất những  âm thanh vừa làm em kinh ngạc.
Đây là tiếng tù và của chú bé chăn cừu tít tận đằng kia, phía  sau mé rừng. Còn tiếng này là tiếng chim bông lau hót giữa những  tiếng chim sẻ ríu rít... Và bây giờ là tiếng con cò đậu trên bánh xe(2) đang kêu. Nó vừa mới ở miền xa xôi bay về tổ cũ.
Em bé hớn hở quay mặt về phía mẹ, tỏ vẻ biết ơn. Em cầm  lấy tay mẹ, đầu gật gật, tai vẫn lắng nghe, vẻ mặt suy nghĩ, ra  chiều đã hiểu rõ.
X
Bắt đầu từ đó, thấy cái gì đáng chú ý em lại hỏi han để biết.  Hễ có tiếng động nào, là mẹ, hay thường thường là cậu Mácxim, lại  bảo cho em biết âm thanh ấy là do những đồ vật hoặc những con  vật nào đã phát ra. Lời bà mẹ giảng nghe sinh động và nhiều hình  ảnh hơn làm em có ấn tượng mạnh mẽ hơn, đôi khi ấn tượng ấy rất  đau đớn. Mắt đầy đau khổ và niềm ai oán không nhờ cậy vào đâu  được, bà mẹ chăm chú giảng giải cho con nghe những khái niệm về hình thể và màu sắc. Em bé hết sức tập trung chú ý, đôi lông mày  nhíu lại, thậm chí vừng trán trong trắng của em hằn lên mấy nếp  nhăn nhè nhẹ. Chắc cái đầu nhỏ bé của em đang gặp phải một  công việc quá phức tạp. Những lúc như vậy, cậu Mácxim cau mặt  lại, khi đôi mắt bà mẹ rưng rưng lệ, và mặt em bé tái đi vì những  cố gắng quá sức, người lính già liền xen vào, gạt chị ra và kể những câu chuyện khác cho cháu nghe; trong câu chuyện, cậu cố hết sức chỉ dùng những khái niệm về không gian và âm thanh.  Nét mặt em liền dịu lại.
Em bé hỏi về con cò gõ trống trên chiếc cột:  - Cậu ơi, con cò nó thế nào hở cậu? Nó có to không?  Vừa hỏi, em vừa dang hai cánh tay ra. Mỗi lần hỏi những cái  tương tự như vậy là em lại dang hai tay ra. Lúc nào thấy vừa vặn  đúng là cậu Mácxim bảo thôi. Giờ đây em dang rộng cả đôi cánh  tay bé nhỏ, nhưng cậu vẫn bảo:
- Không cháu ạ, con cò nó còn lớn hơn thế nhiều.Nếu bắt bỏ vào buồng và đặt nó xuống đất, đầu nó nghển sẽ cao quá lưng  chiếc ghế dựa. Cháu hiểu chưa?
Em bé vẻ mặt trầm ngâm nói:  - Thế ra nó lớn quá cậu nhỉ? Thế con chim bônglau to thế này chứ? - Em bé nhích đôi bàn tay nhỏ xíu cách nhau một chút.
- Phải, con bông lau to đúng như vậy... Nhưngchim lớn  không bao giờ hót hay bằng con nhỏ. Khi con bông lau hót, nó cố hót hay để cho ai nghe cũng phải thích. Còn con cò là một giống  chim nghiêm nghị, trong tổ, nó chỉ đứng có một chân, mắt luôn  luôn nhìn xung quanh y như một lão chủ hà khắc đứng ốp thợ làm,  quát tháo, mắng chửi, chả sợ gì làm phiền hàng xóm mà cũng  không chút xấu hổ về cái tiếng khàn khàn của mình.
Nghe cậu tả, đứa bé bật cười và quên khuấy được một lát  những cố gắng khó nhọc của em lúc này để hiểu được câu chuyện  bà mẹ kể. Nhưng câu chuyện của bà mẹ hấp dẫn, nên em vẫn  thường thích hỏi mẹ hơn là hỏi cậu Mácxim.
---------
1 Kôngtơra là tên chợ ngày xưa nổi tiếng ở Kiép.
2 Ở Ukren và ở Ba Lan, người ta thường cắm những chiếc cột thực cao cho cò đậu.  Trên đầu cột có lắp những chiếc bánh xe cũ để cò làm tổ.

Truyện Người nhạc sĩ mù và túp tàu ngựa của Iokhim. Từ gian nhà trái tối om lợp dạ, tiếng  sáo réo rắt êm đềm bay ra gặp tiếng dương cầm nhịp nhàng vọt ra  từ mấy khung cửa sổ mở toang trên lầu sang trọng, đang phản  chiếu ánh trăng lấp lánh qua vòm lá dẻ.
Lúc đầu, cả em bé lẫn Iokhim không ai muốn nghe thứ “nhạc  giảo hoạt” mà hai người vốn có thành kiến. Thấy Iokhim ngừng  thổi lắng tai nghe, em bé cau mày gắt:
- Kìa! Thổi nữa đi!
Nhưng hai hôm sau, Iokhim chốc chốc lại ngừng tiếng sáo,  càng về sau càng năng ngừng hơn. Anh đặt ống tiêu xuống một  bên để lắng nghe tiếng dương cầm, mỗi lúc một chăm chú. Pie  cũng lắng nghe, quên không gắt bạn nữa. Một chiều kia, Iokhim  trầm ngâm nói:
- Hay!... Thế mới tuyệt!...
Rồi, lơ đãng trầm ngâm như bất kỳ ai khi chăm chú lắng  nghe, Iokhim bế em bé đi qua vườn đến cạnh cửa sổ phòng khách  đang bỏ ngỏ.
Anh tưởng bà chủ dạo đàn chơi, không để ý đến anh và Pie.  Nhưng những lúc ngừng tay, bà Ana nhận thấy chiếc sáo địch thủ của bà im tiếng. Biết mình đắc thắng, tim bà đập rộn lên vì sung  sướng.
Đồng thời, bà không còn thấy giận anh Iokhim chút nào. Bà sung sướng và biết rằng diễm phúc ấy chính nhờ Iokhim bà mới có:  anh đã dạy bà cách chinh phục được đứa con yêu, và nếu từ nay bà có thể cho đứa con trai yêu dấu của bà, kho tàng vô tận những cảm  giác mới, thì cả hai mẹ con bà phải biết ơn anh chàng thổi sáo quê  mùa, ông thầy chung cho cả hai người.
X
Băng đã tan. Hôm sau, em bé rụt rè bước vào phòng khách  mà từ ngày có chiếc đàn lạ kỳ dị ở tỉnh đến, em thôi không bước  chân đến. Em coi chiếc đàn như một vật gì bướng bỉnh và ầm ĩ.  Hôm vừa qua, tiếng đàn này em nghe thấy hay quá, nên em không  còn ghét nó như trước. Tuy nhiên, em vẫn còn hơi rụt rè, men dần  lại chỗ đặt chiếc dương cầm, đứng xa nó một quãng, nghển cổ lắng  tai nghe. Không một ai trong phòng. Mẹ em ở buồng bên đang ngồi  đan áo trên chiếc đi-văng. Bà nín hơi nhìn, ngắm nghía từng cử động, từng thay đổi nhỏ trên nét mặt hàm xúc ý tứ của đứa con.
Pie đưa tay sờ mặt đàn đánh si nhẵn bóng, rồi sợ hãi rụt  ngay tay lại. Hai lần như vậy, em nhích lại gần chiếc đàn thêm  một chút, để ý xem xét kỹ lưỡng. Em cúi sát xuống tận sàn nhà, sờ nắn chân đàn, nắn vòng quanh chiếc đàn một lượt. Sau cùng tay  em đặt lên những phím đàn nhẵn bóng.
Một tiếng đàn êm ái e lệ rung lên trong không gian. Pie lắng  nghe mãi những âm rung mà người mẹ không nghe thấy. Rồi, dồn  hết tâm tư, em ấn một phím khác. Đoạn mấy ngón tay em lướt  khắp mặt đàn, một nốt nhạc cao lanh lảnh vang lên. Em lắng nghe  rất lâu từng nốt nhạc. Tiếng đàn nối nhau vang lên rồi tan vào  trong không gian. Nhìn vẻ mặt, biết em thích thú, nhưng đồng  thời trí óc em hết sức căng thẳng. Em nghiền ngẫm từng tiếng  đàn. Chỉ xem em chú ý cao độ đến những âm thanh giản đơn,  những phần cơ bản của mỗi bản nhạc, ta đủ thấy ở em có thiên tư  của một nghệ sĩ.
Nhưng ngoài ra, em bé mù như còn thấy ở mỗi âm thanh có những đặc tính riêng. Một nốt nhạc cao vui vẻ, trong sáng vọt ra  dưới ngón tay em, em liền vui vẻ ngửa mặt như dõi theo tiếng đàn  đang nhẹ nhàng lan trong không trung. Trái lại, mỗi lần tiếng đàn  rung lên trầm nặng, chỉ thoáng nghe thấy, em liền nghiêng đầu  ghé tai lắng nghe. Em thấy hình như tiếng đàn nặng nề đó chắc  phải lan ra dưới sát mặt đất, tản mạn trên sàn nhà rồi biến vào  những xó tối om.
XI
Cậu Mácxim thấy cháu thử đàn chỉ đứng lặng im thương hại.  Có một điều kỳ quặc là những thiên hướng sớm lộ ở em bé mù ấy  lại làm nảy ra trong óc cậu Mácxim những cảm giác trái ngược  nhau. Một mặt, thấy Pie có khiếu về âm nhạc, cậu mừng thầm cho đứa  cháu có một tài năng chắc chắn như vậy, có thể có tương lai.  Nhưng mặt khác, trong thâm tâm người lính già còn có một cảm  giác mơ hồ thất vọng.
Cậu nghĩ thầm: “Đành rằng âm nhạc là một sức mạnh phi  thường giúp người ta chinh phục được trái tim quần chúng. Nó mù, nhưng sau này nó vẫn có thể làm trăm nghìn các bà các cô  quý phái và những tay thượng mã phong lưu xô nhau đến. Nó sẽ dạo những điệu vansơ, những bản dạ khúc, làm họ phải lấy mù xoa ren lau nước mắt (cần nói rõ là kiến thức về âm nhạc của cậu  Mácxim không xa quá những điệu “vansơ” và mấy bản “dạ khúc”).  Trời ơi! Ta đâu muốn cho cháu ta như vậy, nhưng biết làm thế nào? Thằng bé tội nghiệp bị mù, thôi thì sống ở đời, nó làm được gì  thì làm, có lẽ nó học hát lại hơn? Hát không những chỉ làm rung  động người nghe, nó còn khêu gợi những hình ảnh, buộc trí óc phải  suy nghĩ, giúp tâm hồn thêm can đảm.
Một buổi chiều cậu Mácxim theo Pie vào tàu ngựa. Cậu bảo  Iokhim:
- Này Iokhim! Vứt cái sáo của mày đi. Cái đó đểcho trẻ ngoài phố hay đứa chăn bò ngoài đồng chơi. Mày lớn rồi, là một  anh mu-dích hẳn hoi còn gì. Dù con bé Maria có làm mày ngây dại,  cũng thôi đừng thổi nữa. Xì! Xấu hổ chưa! Con gái nó mới quay  lưng một cái đã đờ đẫn ra. Cứ rít lên suốt đêm như con chim bị  nhốt lồng ấy!
Nghe chủ mắng gắt một tràng, Iokhim cười trong bóng tối về cơn giận vô cớ ấy. Duy có điều cậu Mácxim so bì anh với trẻ ngoài  phố và trẻ chăn bò là làm anh hơi mếch lòng.
- Cậu đừng nói thế. Một ống tiêu như ống tiêu củatôi, không  một đứa chăn cừu nào ở xứ Ukren này có được, chứ đừng nói đến  lũ chăn bò. Chúng nó chỉ có những ống sáo tầm thường, còn ống  tiêu của tôi... Cậu hãy lắng nghe xem...
Lấy ngón tay bịt tất cả các lỗ tiêu, anh thổi hai nốt nhạc lên  cao rồi gật gù khoái hưởng cái âm thanh tuyệt diệu. Cậu Mácxim  khạc nhổ xuống đất.
- Trời ơi, mày ngốc quá!... Dễ tao cần ống tiêu củamày lắm  đấy! Ống tiêu, đàn bà, kể cả con Maria của mày, cùng một giuộc  cả! Mày cứ hát một bài cho tao nghe lại hơn. Một bài hát cổ ấy!
Cậu Mácxim, cũng người Ukren, cậu giản dị và thẳng tính.  Đối với người ăn làm và những người mu-dích cậu cư xử bình  đẳng. Nhiều lúc cậu có la mắng họ, nhưng trong lời la mắng vẫn có một cái gì tốt bụng, nên không ai giận. Với cậu, mọi người tuy  không phải câu nệ, nhưng ai cũng kính trọng.
- Sao lại không? Trước kia tôi đã từng hát và hátcũng không  tồi lắm. Nhưng thưa cậu, có lẽ bài hát của người mu-dích chúng  tôi, sẽ không làm vừa lòng cậu? - Iokhim nói có ý giễu nhẹ nhàng  cậu Mácxim.
- Hát đi! Hát đi! Đừng vớ vẩn nữa! Thổi tiêu bì saođược với  hát hay, tất nhiên là phải đem hết tâm hồn vào câu hát. Này Pie,  cậu cháu ta hãy lắng tai nghe Iokhim hát nhé. Nhưng cậu không  biết liệu cháu có hiểu được không?
Pie hỏi: 
- Bài hát mu-dích ư? Lối hát đó cháu hiểu lắm! 
Mácxim thở dài. Cậu vốn là tay lãng mạn. Xưa kia cậu đã từng ước mơ làm sống lại những phong tục phóng khoáng của  người Côdắc.
- Cháu ạ! Đây không phải là những bài hát củabọn nông nô  xưa đâu. Trái lại, đây là những bài hát của một dân tộc hùng  mạnh và tự do. Các cụ bên ngoại nhà cháu xưa kia thường hát nó trên những cánh thảo nguyên, dọc bờ sông Niép, Đanuýp và bờ biển Hắc Hải... Những cái đó một ngày kia cháu sẽ hiểu. Rồi cậu  mơ màng nói thêm: nhưng bây giờ, bây giờ cậu sợ một điều khác...
Quả thực, cậu Mácxim ngại Pie lại một lần nữa không hiểu.  Cậu nghĩ muốn làm rung cảm trái tim, những hình ảnh mạnh mẽ của bài ca hùng tráng nhất định đòi hỏi người nghe phải hình  dung lại những cái mắt đã nhìn thấy được từ trước. Cậu sợ khối óc  tối mò của đứa cháu không thể nào hiểu được ngôn ngữ đẹp đẽ của  những bài dân ca. Cậu quên khuấy rằng ngày xưa, các thi sĩ dân  gian, những ca sĩ Ukren và những nghệ sĩ chơi đàn băng-đu-ra  phần lớn cũng là những người mù. Thực ra, nhiều khi cũng là do  tai họa hay vì tàn tật mà họ phải ôm đàn đi ăn xin. Nhưng không  phải tất cả họ đều là những người hành khất có cái giọng khàn  khàn và cũng không phải là người nào cũng về già mới bị mù. Đôi  mắt mù gói cả vũ trụ trong một tấm màn đen đặc, tấm màn đè nặng xuống khối óc, nó đè ép và ngăn cản sự hiểu biết của người  xấu số. Nhưng nhờ những khái niệm di truyền, nhờ những ấn  tượng do những giác quan khác thâu lượm được, nên khối óc người  mù trong bóng tối cũng tự tạo cho mình một vũ trụ riêng, một vũ trụ tối tăm, buồn bã, tẻ ngắt, nhưng vẫn không phải không đượm  một thứ thi vị mơ hồ, đặc biệt.
XII
Cậu Mácxim và Pie ngồi trên đống rơm. Iokhim ngả mình  trên thành giường (nằm như thế rất phù hợp với tâm hồn nghệ sĩ  của anh). Anh suy nghĩ một lát rồi hát.
Không hiểu do ngẫu nhiên hay do bản năng nghệ sĩ, bài anh  chọn hát rất hay, nó nhắc lại một trang lịch sử:
 Trên kia, trên ngọn đồi xanh,
Cùng nhau gặt lúa nhanh nhanh một đoàn... 
Tất cả những ai đã được nghe hát cho ra hát bài dân ca đẹp  đẽ này, sẽ khắc sâu vào trong trí nhớ cái âm điệu cổ kính, khi lanh  lảnh, lúc ngân nga và như phủ một mối buồn man mác vấn vương  về những kỷ niệm xa xôi trong lịch sử. Bài ca không kể lại những  biến cố lớn lao, tiếng tăm vang dội, những cuộc giao tranh đẫm  máu, những chiến công oanh liệt, nó cũng không phải là lời một  chàng thanh niên Côdắc từ biệt người yêu, một cuộc tấn công gan dạ hoặc một cuộc viễn du trên biển xanh và trên sông Đanuýp.  Đây chỉ là hình ảnh những kỷ niệm của một chàng trai Ukren vụt  hiện ra nhanh chóng như làn chớp nhoáng, một giấc mộng mơ hồ,  một mảnh giấc mơ làm sống lại cái quá khứ xa xôi. Trong ngày  buồn tẻ, lòng nặng trĩu những phiền muộn vẩn vơ, thốt nhiên  trong trí tưởng tượng của anh chàng, bức tranh nọ hiện ra mờ mờ,  hỗn độn, đượm vẻ buồn của thời đại cổ xưa vô cùng thân mến và đã biến vào dĩ vãng. Phải, cái thời đại ấy đã biến đi nhưng không  phải là không còn để lại chút dấu vết gì. Chính cái thời đại đã qua  ấy, ngày nay những đống gò cao ngất, nơi những đống xương  Côdắc yên nghỉ, vẫn còn nhắc lại cho chúng ta, và cứ nửa đêm ở nơi đây lại lập lòe những đốm sáng huyền bí và nổi lên những  tiếng rền rĩ, âm âm...
Câu chuyện cổ tích và bài hát dân gian đang tắt dần nọ chính là nhắc nhở chúng ta đến những thời xa xôi ấy:
Trên kia, trên ngọn đồi xanh,
Cùng nhau gặt lúa nhanh  nhanh một đoàn.
Dưới kia chân quả đồi xanh, Đoàn người Côdắc hành binh  trùng trùng,
Đoàn người Côdắc hành binh trùng trùng...
Lắng nghe lời ca buồn thấm thía, cậu Mácxim ngây ngất cả người. Bức tranh do khúc nhạc êm đềm gợi ra sao mà ăn nhịp với  đề tài câu hát đến thế, bức tranh vụt hiện ra trong óc cậu như  được rọi sáng bởi những ánh phản chiếu buồn bã của buổi chiều tà.  Trên cánh đồng yên tĩnh, trên ngọn đồi xanh xanh, đám thợ gặt  đang khom khom lặng lẽ cắt lúa. Dưới chân đồi, từng đoàn chiến sĩ  nối đuôi nhau lặng lẽ đi qua, để rồi biến vào trong bóng tối buổi  chiều đang buông xuống trùm lên cả vùng thung lũng.
Tiếng hát ngân dài, phập phồng, rung động, lặng tắt trong  không trung để rồi lại vang lên và làm sống lại trong buổi hoàng  hôn những hình ảnh luôn luôn mới mẻ.
XIII
Pie lắng nghe, mặt rầu rầu buồn bã. Khi Iokhim hát đoạn  nói đến đám thợ gặt trên ngọn đồi thì óc tưởng tượng đưa ngay em lên tận đỉnh tảng đá quen thuộc. Em nhận ra bởi tiếng sóng vỗ nhẹ nhàng, khe khẽ đập vào chân tảng đá to lớn. Em cũng đã biết  người thợ gặt ra làm sao: em nghe rõ tiếng hái xén xoèn xoẹt, tiếng  bông lúa đổ xuống rào rào. Khi bài hát gợi đến cảnh ở dưới chân  đồi, óc tưởng tượng lại đưa ngay em xuống tận thung lũng.
Tiếng hái lách cách tắt bẵng, nhưng em biết đám thợ gặt vẫn  còn ở trên kia, trên lưng chừng trái đồi, và nếu em không còn nghe  thấy gì nữa là do họ ở quá cao, cao bằng ngọn những cây phi lao  mà em thường nghe tiếng rì rào những lúc em ngồi dưới chân tảng  đá. Và dưới kia, theo dọc con sông, vang lên tiếng vó ngựa đều đều,  mau bước... Đoàn kỵ mã đông người: trong bóng mờ mờ tối dưới  kia, dưới chân đồi có tiếng rầm rầm hỗn độn. Đấy là “Đoàn người  Côdắc hành binh trùng trùng...”
Em cũng đã biết thế nào là “người Côdắc”. Ông già Phếtcô  thỉnh thoảng vẫn lại thăm gia đình em. Ai cũng biết ông lão là một  “ông già Côdắc” và đều gọi ông như vậy. Ông thường bế em, đặt  em lên đầu gối, tay ông lão run run, vuốt ve mái tóc em. Khi theo  thói quen, em đưa tay nắn nắn mặt ông lão, ngón tay thành thạo  của em sờ thấy những nếp nhăn sâu, những chiếc ria mép rủ quặp  xuống và mấy giọt nước mắt già nua lăn trên đôi má hóp.
Nghe tiếng hát ngân nga, em hình dung đoàn người Côdắc  đang đi dưới chân đồi là những người như vậy. Họ đều cưỡi ngựa,  cũng râu ria, lưng còng và cũng già như ông lão Phếtcô, họ tiến  quân như những bóng mờ mờ trong đêm tối và y như ông Phếtcô,  họ cũng khóc, có lẽ vì trên ngọn đồi và trong thung lũng chập chờn  bay những tiếng rền rĩ rầu rầu, não ruột của bài ca mà hôm nay  Iokhim đang hát, bài ca của anh chàng Côdắc nông nổi nọ đã đem  đổi vợ lấy chiếc điếu cày và lấy những vinh nhục của chiến tranh.
Chỉ thoáng nhìn, cậu Mácxim biết ngay đứa cháu yêu quý tuy mù, nhưng bản chất đa cảm của nó rung động mạnh mẽ trước  những hình ảnh nên thơ của bài ca.
--!!tach_noi_dung!!--

NGUYỄN VĂN SỸ dịch
Được bạn: Mọt Sách đưa lên
vào ngày: 20 tháng 5 năm 2004

--!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!--