Tiếp Theo

Trướng loan trò chuyện đàm-hòa:

"Đã gương dù ngựa lại nhà trâm anh.
"Rồi đây gởi mối trao manh,
"Tuổi già được rể tài-tình cũng hay ".
425.- Duyên kia tơ đã trao tay!
Mà người khuê-khổn những say vị gì.
Sớm nhồi còn đẵm hơi chi,
Thăm hoa đã gọi Hương-tỳ vội sai.
Lá đầm lướt mướt sương mai,
430.- Líu lo trên liễu một vài tiếng chim.
Dạo quanh lũng hỏi, thung tìm,
Cửa đâu trổ thấy thâm-nghiêm một tòa.
Lại xem, thuận lối dần dà,
Giàn vi, giá thược lần qua cẩm-tường.
435.- Lét chừng khói ngất bóng dương,
Nẻo xa thấy một người nhường quen quen.
Sinh vừa dạo gót trước hiên,
Vừa trông ngang lại, vừa nhìn rõ nhau.
Đài-trang còn những đâu đâu,
440.- Hãy đem phong-bác con hầu thử xem.
Xa xa Hương vội lánh hiềm,
Sinh đà dạo trước êm êm sẽ bày:
"Cùng nhau chi nữa nhau đây,
"Dừng chân gạn một lời này chút nao.
445.- "Bên cờ từ nhác vẻ sao,
"Trước trăm năm ngẫm duyên nào hay không?
"Bấy lâu đắp nhớ, đổi mong,
"Trót lòng đeo-đẳng, trót công tìm tòi.
"Nghĩ cho nhỏ-mọn thiệt-thòi,
450.- "Đài gương may họa rõ soi dấu bèo.
"Vườn thơm mành rủ tranh treo,
"Hay đâu tường có bướm liều vì hoa.
"Bóng kiều mong gửi thân la,
"Biết đem rìu-búa để mà cậy ai?"
455.- Thưa rằng: "Lời nói như chơi,
"Biết đâu đáy bể đầy vơi mà lường.
"Song le ai dám đột-đường,
"Tiếc thay (cho?) cái dã-tràng luống công".
Gió đâu rụng tía rơi hồng,
460.- Ngập-ngừng lòng chạnh riêng lòng đòi khi.
Xiết bao mấy nỗi nằn-nì,
Thảm oanh khúc rối, sầu chia giọt tràn.
Lành lòng thấy khách châu-chan,
Xót chiều Hương lại thử bàn ướm chơi:
465.- "Hiếm gì ngòi bãng, doành khơi,
"Lá hồng bỗng đến chi nơi nổi chìm!"
Sinh rằng: "Khiến cải xui kim,
"Là trong tiếng ứng hơi tìm biết đâu.
"Ước ao nguyền nặng thề sâu,
470.- "Hoa đầy ổ, liễu đầy câu, sá nài.
"Cầu sương dặm tuyết chờ ai,
"Dịch xuân đành tỏ, tin mai những mừng;
"Hay đâu nước nhạt nhưng nhưng,
"Giấc hoa nỡ để chập-chừng dở say.
475.- "Dù chăng đoái chút nỗi này,
"Bên đào đành cũng như ngày chờ ai ".
Nghe lời Hương cũng êm tai,
Sợ nhà nể khách một hai ngần ngừ.
"Phép trong đâu chẳng e chừa,
480.- "Nể người vâng sẽ thử dò để xem,
"Họa khi gió cuốn mây đem,
Tấm thành cho thấu đá mềm biết đâu.
"Ví mà cá lạnh đông câu,
"Phận ai là vậy thôi dầu vậy thôi".
485.- Chợt nghe sầu, chợt dở vui:
"Ơn này biết trả đến đời nào xong".
Lặng nghe Hương cũng sượng-sùng,
Vội qua lối cũ, thẳng giong về lầu.
Vắng tanh mới đệ hoa hầu,
490.- Quở rằng: "Sao bỗng đi đâu chậm về?"
Tiện lời rón rén tỉ-tê,
Dở bề soát-sỉnh, dở bề mách-mao:
"Trót vì lạc lối vườn nào,
"Sương gieo để chịu biết bao tội-tình.
495.- "Người sao khéo khéo là xinh,
"Nói sao dơ-dáng dạng hình mới hay!
"Đong-đưa não-nuột chiều thay!
"Giấy kia dễ chép, trượng này khôn đo.
"Lẽ hằng gượng nhắn-nhe cho,
500.- "Chàng xui châu rã, tơ vò càng thương.
"Rẽ xem núi ngọc non vàng,
"Tinh-thành một tấm, sắt gang trăm rèn.
"Ngày xưa nhớ cữ dưới đèn,
"Đẫy-đà chắc giá, thanh-niên hiếm tày.
505.- "Bấy lâu tưởng võ trông gầy,
"Mười phần xuân độ còn nay nửa phần.
"Ấp cây một mực trần trần,
"Nặng tình đành nhẹ đến thân có ngày".
Nghe thôi lẳng-lặng canh chầy,
510.- Sẽ khoan khoan mới giãi-bày rỉ trao:
"Mảnh tiên từng thấy thơ nào,
"Ruộng tình dễ thấm nên hao bể lòng.
"Tiếc cho cửa tướng nhà dòng,
"Phong-tao tài-diệu rất cùng ai so.
515.- "Nẻo lầu mượn lối trao cho,
"Thì tròn gương nguyệt, lọ mờ bóng mây.
"Là điều thuận miệng vắng đây,
"Mạch rừng bưng-bít cho hay mới là ".
Chợt nghe truyền gọi tiểu-thư,
520.- Lánh sau Hương đã thừa cơ bảo chàng.
Bình mai đã lọt tin sương,
Rèm tương khác hãy mơ màng bàn mê:
"Thói quyền hổng-hểnh, lả-lê,
"Miệng hầu vắt-vẻo đi về không tin.
525.- "Vẽ lòng há chẳng nên thiên,
"Lại e giấu-giếm mà phiền tiếng-tăm".
Những là lo vẩn nghĩ vần,
Thôi chờ bóng nguyệt thì nhầm tin hoa.
Ngàn non ngậm kín bóng tà,
530.- Lá cây xào xạc, chiếc nha điểm sầu.
Giải là thấp-thoáng bên lầu,
Phải Hương đó chắc, nhìn lâu rõ chừng.
Hỏi chào lơi-lả tưng-bừng:
"Động xuân ắt có tin mừng đêm nay".
535.- Hương rằng: "Dại-dễ nhường nay,
"Sự trăm năm phải một ngày nên ru!
"Hãy coi vào số phong-lưu,
"Thì nhân-duyên biết là đâu chăng trời!
"Ừ là trót đã chịu lời!
540.- "Thử xem con tạo chiều người hay không?
"Trăng kia dẫu có soi lòng,
"Đã đâu dối bướm, dại ong nhường này.
"Vụng hèn xin khước từ đây,
"Tìm đâu chốn khác gửi mây cho đành">
545.- Thấy lời như gãy mối tình,
Sáng màu tô tỉnh dịu vành van-lơn:
"Chi điều liễu tủi hoa hờn.
"Một hai đã cậy, muôn vàn chẳng quên "
Người lại các, kẻ về hiên,
550.- Tình chung mấy đoạn, sầu riêng mấy phần.
Lầu trang vàng chặt rắc sân,
Đầu thu vừa gặp giữa tuần trăng thanh.
Rước trăng giục-giạo quấn mành,
Tớ thầy thơ thẩn tựa quanh triện-mồi.
555.- Gọi Vân Hương sẽ rỉ lời:
"Bốn mùa cảnh, bốn mùa trời, xinh thay!
"Thu đâu chừng nửa tháng này,
"Lạ trăng, lạ nước, lạ mây, thực là...
"Tiếc thay lục ố vàng pha,
560.- "Gốc dương trơ một cội già khói tan".
Chực bên Nguyệt cũng thở-than:
"Giục người phong-cảnh năm tàn lại năm.
"Nhớ ngày nào liễu đã giâm,
"Le-te bên vũng độ tầm ngang vai.
565.- "Chợt đâu bóng cả cành dài,
"Đã sương, đã khói, đã vài năm nay.
"Xuân sang lục mới khoe mày,
"Thu về vàng đã ố tay lạ gì.
"Tưởng người lấy liễu mà suy,
570.- "Người khi xuân cỗi, liễu khi thu cằn.
"Liễu kia thu lại còn xuân,
"Người kia đã dễ mấy lần xuân chăng".
Đỡ lời Hương lại thưa rằng:
"Gió mây khôn xiết nói-năng sự đời.
575.- "Biết chăng hãy nói trăng chơi,
"Vẻ thanh soi khắp cõi người mấy thung.
"Người thời trướng trập, uyên trùng,
"Người thời cầm dạo loan chung chưa từng.
"Người thời tựa bóng xem vừng,
580.- "Người e áo mảnh, người ngừng quê khơi.
"Người đương giấc bướm Dương-đài,
"Giấc tàn nhường thấy hiên cài ngẩn-ngơ.
"Cũng sầu song cũng vừa vừa,
"Riêng người gối chiếc tương-tư là sầu.
585.- "Thanh-cao soi dễ thấu đâu,
"Nên soi đâu cũng một màu thanh-cao.
"Làm người nên nghĩ với nao,
"Một năm một tuổi nỡ nào luống qua.
"Dù vui dù tẻ cũng là,
590.- "Bóng đưa trăng mọc, trăng tà đợi ai"!
Đàn đâu réo-rắt bên tai,
Lửa đâu chất-chứa nhường khơi trận hằng.
Sầu đâu dở-dói biếng rằng,
Nhủ Hoàn khép cửa, đẩy trăng trả trời.
595.- Thủng-tha loan lánh về đài.
Mặt nhồi lau sạch, mối cài rũ tung.
Buông màn nhẹ bước vào trong,
Gối tiên trằn-trọc luống dong canh dài.
Bàn riêng những sự mới rồi:
600.- "Mấy lời Hương, Nguyệt thực lời nói ngay.
"Lân-la mười sáu thu nay,
" kia quấn, bóng kia xoay mấy mà?
"Xót thay cho kẻ vì ta,
"Liễu gầy trăng lạnh sa-đà bấy lâu.
605.- "Giá nào, nào dễ mấy đâu,
"Duyên nào, nào biết về sau nhường nào?"
Dập sầu nhịn suốt tàn sao,
Tiếng gà đã gọi lầu cao dậy nằm.
Trang thôi nhè-nhẹ nưng cầm,
610.- Bóng doành lặng ngắm, chiều đăm-đăm chiều.
Hương đà lén trước phòng thêu,
Tình hôm nay hẳn vì điều hôm qua.
Gửi rằng: "Vườn mới thêm hoa,
"Êm cơn phải buổi hay là dạo chơi"
615.- Thực lòng nàng cũng tin lời,
Một Hương theo gót vội dời sân ngô,
Chòm chòm sương điểm khói tô,
Đầu cây rắc phấn, mặt hồ lau gương.
Dần dà rén bước lần sang,
620.- Cửa son bỗng nhác thấy chàng đến sau.
Tiếng vàng vội gọi con hầu,
Gót sen nhè-nhẹ dạo mau về nhà.
Cố tình ép liễu nài hoa,
Lối về sinh đã rẽ qua theo đoàn.
625.- Nước thu lóng lánh một làn,
Môi đào e-ấp, vẻ lan dạn-dày;
Định tình sinh mới giãi-bày:
"Duyên chi may lại phen này gặp nhau.
"Tấm riêng đặng-đột bấy lâu,
630.- "Tiện lân phỏng thấu bên lầu chút chăng?
"Ngày xanh đã dễ đâu rằng,
"Luống thay cử gió tuần trăng hỡi người".
Ngại-ngùng e tiếng lệ hơi,
Gọi Hương mau bước liệu lời cho nao.
635.- Rằng: " Nay sửa mũ dưới đào,
"Vả trong lễ cấm, phép nào chẳng kiêng".
"Ngập-ngừng sinh mới thưa chiềng:
"Lẽ chung đành vậy, tình riêng sao mà?
"Đeo-đai trót một tiếng đà,
640.- "Đài linh hổ có trăng già chứng-lâm.
"Thề phai nguyền nhạt khôn cầm,
"Cũng liễu đầu bạc, dám lầm tuổi xanh".
Nặng lời nỡ nhẹ làm thinh,
Rằng: "Trong cửa cửi phòng canh biết gì?"
645.- "Vả trong nền lễ sân thi,
"Cùng nhau đôi lứa cũng tùy nơi xe.
"Rẽ đường hãy lánh cho về,
"Lẽ thường hẳn chẳng e-nề chút ru?"
"Nể lời có lẽ cầm lâu,
650.- Lánh ngang sinh lại theo sau gạn nài:
"Lời vàng ý ngọc dám sai,
"Lửa gần lại bảo cho bài nước xa.
"Tin kinh diệu-vợi tin nhà,
"Thưa chừng, những sợ hoặc là sao chăng?
655.- "Chút chi gắn-bó gọi rằng,
"Cho đành mối gió tin trăng sau này".
Tai nghe vội dạo gót giày,
Mắt đưa ai luống trông ngay tận lầu.

Chú thích:

    dù ngựa:do chữ Cái Mã.Cái lọng dù.Mã là ngựa.Nghĩa nhà sang-quí đi lọng, cỡi ngựa.
    trâm anh
    :Trâm là trâm dắt trên mão.Anh là giải mão.Trâm anh tức là nhà quyền-quí,
    khuê-khổn
    :nơi cửa phòng đàn bà con gái.
    chi
    :tiếng nói tắt của chữ Yên-chi, là sáp đỏ để thoa môi phụ-nữ đời xưa.
    Giàn vi, giá thược
    :Giàn: là cái giá, Thược là hoa thược-dược, cành thường yếu nên phải dùng đến cái giá để đỡ hoa.
    Đài-trang
    :tức Trang-đài: ghế để đồ nữ-trang.Đây sự Xưng-hô của phụ nữ.
    phong-bác
    :là những sự xem-xét coi đáng làm hay đáng bỏ.
    vẻ sao
    :bởi chữ Tinh-thai là cái vẻ sáng có màu sắc của các ngôi sao. Nghĩa bóng là dung-mạo của nàng Giao Tiên.
    Bóng kiều
    :là bóng cây cao.Bởi chữ kiều-mộc ví người cao-sang.
    ngòi bãng, doành khơi
    :ngòi bãng:ngòi nước rộng và thẳng. Doành khơi:vùng nước rộng khơi.
    tiếng ứng hơi tìm
    :do chữ đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu: cùng tiếng thì hưởng ứng nhau, đồng hơi thì tìm nhau. Nghĩa bóng có tình-ý như nhau
    gió cuốn mây đem
    : do chữ vân bằng phong dẫn: nhờ sự tự-nhiên mà xui nên.
    cá lạnh đông câu
    :do chữ thủy hàn ngư bất nhị. Nghĩa: nước lạnh cá không ăn câu. Tục ngữ thường dùng để ví việc làm không ăn thua với ý-muốn.
    Sương gieo
    :là sương rơi xuống làm cho cây cỏ điêu tàn. Đây ví sự tai-vạ, bị quở-trách.
    Ấp cây
    : do chữ Thủ châu là giữ khư khư lấy gốc cây. Sách Hàn-phi tử lời ngụ-ngôn: có người nước Tống đi cày nhân thấy con thỏ chạy va vào gốc cây mà chết, anh liền bỏ cày lại gốc cây đê73 đợi con thỏ khác. Ví người si-mê mà bất thông.
    Ruộng tình
    :do chữ tình-điền.Nghĩa mượn chữ ở sách Lễ Ký nói rằng đức Thánh-vương đặt lễ nghĩa để trị tình người, cho nên tình của người ta là ruộng của Thánh-vương.
    Rèm tương
    : rèm bằng tre đồi-mồi.
    chiếc nha điểm sầu
    : con quạ có sắc đen như một chấm mực nó điểm vào nơi phong-cảnh buổi chiều, khi bóng tà dương đã khuất núi, thêm một điểm buồn rầu.
    mây
    : do chữ Vân, tức là tờ thư.
    tô tỉnh
    : làm tỉnh thức dậy.
    lục ố vàng pha
    :sắc lá đến mùa thu, lục đã ố lần mà vàng đã pha lần vào lục vậy. Đây tả cảnh hết hạ sang thu,
    khoe mày
    : do chữ my là lông mày.
    ố tay
    : đây dùng chữ ố tay cốt đối với chữ khoe mày ở trên.
    trướng trập, uyên trùng
    :là nơi màn-trướng trập trùng nhiều lớp tứ là nơi vợ chồng chung-chạ với nhau.
    cầm dạo
    :là dạo cây đàn cầm đàn sắt.
    xem vừng
    : tức vừng trăng.
    Dương-đài
    : là giấc mộng của Sở Tương-vương thấy Thần-nữ ở núi Vu-sơn.
    đẩy trăng trả trời
    : là đẩy mặt trăng trả lại cho ông trời.
    loan
    : là chim loan. Ví Giao Tiên là chim loan.
    : do chữ liễu-ty: tơ liễu, cành liễu dủ nhỏ như tơ,
    Tiếng vàng
    : là tiếng quí-báu như vàng như ngọc, tức là tiếng của người mỹ-nhân.
    Gót sen
    : là gót giày đàn-bà con gái.
    Nước thu
    : bởi chữ thu-thuỷ là đôi mắt đẹp của đàn-bà.
    Môi đào
    : là cái miệng đẹp như hoa đào, Vẻ lan: là vẻ đẹp của con gái như cành hoa lan.
    sửa mũ dưới đào
    : do chữ Lý hạ bất chỉnh quan. Nghĩa: dưới cội cây mận chớ nên sửa mũ, vì phòng sự hiềm nghi bẻ trọm quả.
    nền lễ sân thi
    : Thi, Lễ là hai tên sách ở trong 5 kinh (Thi, Thư, Lễ, Dịch, Xuân-thu) dạy người ta lễ-nghĩa, đạo-đức.