Chương 1

Chuyện chúng tôi kể xảy ra ở nước Anh vào những năm cuối ngôi vua Richard Coeur de Lion Đệ nhất, trong một vùng đất đẹp đẽ trải ra giữa Sheffield và thành phố mơ mộng Don-caster.
Một cánh rừng rộng lớn bao phủ phần lớn núi đồi và thung lũng vùng này. Truyền thuyết kể: nơi đây con rồng huyền thoại Wan-tley đã ra công phá hoại; cũng là nơi diễn ra một vài trận giao tranh đẫm máu nhất trong những năm nội chiến giữa hai phái hoa hồng bạch và hoa hồng điều; lại cũng là nơi những băng nhóm của những người tù biệt xứ can trường phát triển mạnh: những kỳ tích của họ, được phổ vào các bài hát cổ của nước Anh và đã trở thành quen thuộc với dân chúng.
Richard đệ nhất đi chinh chiến ở Đất thánh, mang theo các tướng lĩnh, tinh hoa của kỵ-sĩ-đạo nước Anh; vận mệnh xoay vần không mấy mỉm cười với ông và các thần dân của ông đã buồn bã lại còn nghe tin ông bị quận công nước áo giam giữ nữa. Tuy nhiên điều này không làm sự thù hằn giữa hai dân tộc Normands và Saxons dịu bớt đi. Thật vậy, khi vua vắng mặt, những người Normands cư xử càng tàn bạo hơn đối với người Saxons.
ở đây, muốn để bạn đọc hiểu rõ câu chuyện, chúng tôi thấy cần phải đi ngược thời gian hơn một trăm năm về trước, vào năm 1066. Guil-laume le Conquérant, quận công xứ Norman-die, chiến thắng quân Saxons, ở Hastings, và chiếm lấy ngôi vua nước Anh. Nắm quyền bính trong tay, quý tộc người Normanrd tha hồ lợi dụng làm nhục người Saxons, ra tay cướp bóc và tàn phá đất nước của họ. Những lãnh chúa Sax-ons nào còn giữ được nguyên vẹn gia sản của họ là rất hiếm. Bốn thế hệ qua chưa đủ để hòa chung hai dòng máu thù địch Normanrd và Anglo-Sax-ons, cũng không đủ để hòa giải, trong cùng một ngôn ngữ và các quyền lợi chung, hai dân tộc đối địch nhau, một đằng hãy còn đang say sưa trong chiến thắng, một đằng đang rên xiết vì tủi nhục và chiến bại. Tất cả các vị vua gốc Nor-manrd đều thiên vị rõ nét nhất đối với thần dân gốc người Normanrd. ở triều đình và trong lâu đài các quý tộc, người ta chỉ nói tiếng Pháp.
Tiếng Anglo-Saxons bị bỏ rơi, chỉ có dân vùng nông thôn và hạng cùng đinh nói.
Đó là tình trạng các sự việc xảy ra khi câu chuyện của chúng tôi bắt đầu.
Ai biết được những cây cao bóng cả nọ không là những vật chứng kiến lặng lẽ những cảnh man rợ diễn ra giữa những người sống đầu tiên trên mảnh đất này? Ai biết những mô đá còn lại nằm rải rác trên mặt đất kia, trong những thời kỳ đầu lịch sử, không là nơi đặt các nạn nhân sẽ bị thiêu sống làm lễ vật dâng lên các vị thần độc ác. Trong những vật chứng lâu năm kia mà sấm sét hay bão táp hãy còn nhường lại ấy, chúng ta bắt gặp hai người cùng ngồi trên một mô đất ở cánh rừng thưa. Bề ngoài trông họ dữ dằn và thô kệch: người thứ nhất mặc một cái áo che thân làm bằng da thú dài từ cổ đến đầu gối; chân xỏ dép, quai làm bằng da lợn lòi; thắt lưng đeo một cái túi nhỏ, một cái tù và đồng và một con dao găm mài sắc hai cạnh. Người cùng đi kém vài tuổi mặc một chiếc áo như người trên nhưng bằng vải và vẽ màu một cách kỳ dị. Dép đi cũng thế nhưng hai chiếc khác màu nhau, một chiếc màu vàng, một chiếc màu đỏ. Trái với anh bạn đầu trần, anh đội một chiếc mũ không vành có đeo khánh nhạc làm anh dễ bị phát hiện mỗi bước chân đi.
Điều đáng chú ý ở hai người là họ đều đeo ở cổ một chiếc vòng bằng đồng y như vòng đeo cổ chó. Một vài chữ saxons ghi rõ: "Đây là nô lệ của ngài Cedric de Rotherwood".
Những chiếc vòng đó khá rộng nên không làm người đeo khó thở hoặc cử động khó khăn.
Chúng làm liền một mảnh, chỉ có giũa mới tháo ra được.
Lúc này, hai người ngồi nói chuyện với nhau dưới vòm cây; họ như không hề chú ý chút nào đến thân phận khốn khổ của họ ghi trên cổ.
Người thứ nhất làm nghề chăn lợn, người thứ hai thuộc loại hề mà các lãnh chúa hồi đó thường mang theo để làm vui cho họ những lúc buồn chán..Gurth, tên người chăn lợn, tính tình hay cáu gắt. Anh thổi tù và nhiều lần để giục đàn lợn vào hàng nhưng không ăn thua. Anh đứng dậy nói:
- ôi, Thánh địa ơi! Những con vật khốn nạn này! Quỷ tha ma bắt chúng mày đi! Từ sáng đến giờ chúng mày đã không nhá khá nhiều quả sồi dại rồi sao? Wamba này, hãy nhìn xem này, chúng không nghe tao, vẫn dầm mình trong bùn kìa!
Đối tượng nghe anh nói những lời trên không trả lời chỉ vươn vai ngáp dài. Đầu anh ta ngả ra đằng sau và lắc lắc khiến các quả chuông con phát ra vài tiếng kêu dè dè.
- Fang, lại đây Fang! - Gurth nói tiếp với con chó to lớn đang chạy đi dồn đàn lợn.
Nhưng Fang chỉ nghe theo bản năng nó, nhảy lung tung làm đàn lợn càng thêm rối loạn.
- Trời đất ơi! Hãy vật chết con chó ngớ ngẩn này đi! - Gurth kêu lên. - Wamba, anh bạn ơi, hãy giúp tôi một tay, dồn các con lợn này lại!
- Chân tay tôi sinh ra không phải để làm những việc đó, - anh hề trả lời, - và quần áo tôi sẽ chịu thương tổn vô cùng nếu tôi dùng nó để đi đuổi lợn cho anh. Vì nó che thân tôi nhưng nếu tôi cởi ra là tôi phạm phép lịch sự nên anh bạn ạ, tôi không dại gì mà nhấn chân xuống bùn xua lợn cho anh!
- Không rút ra được điều gì gọi là lẽ phải ở cái đầu to của thằng rồ này! - Gurth thở dài nói.
Nói xong anh đi đuổi lợn vào hàng. Fang dáng chừng đã hiểu chủ muốn gì nên một vài phút sau nó đã lùa đàn lợn đâu vào đấy vào một trong những con đường dài khúc khuỷu xuyên qua rừng,.
Hai người đi sau, tiếp tục trò chuyện bằng tiếng saxons là thứ tiếng, như chúng tôi nói ở trên, chỉ để cho dân hạ lưu và một số lãnh chúa saxons hiếm hoi còn gắn bó với phong tục tập quán của tổ tiên nói.
- Chúng ta hãy mau chóng ra khỏi vùng này đi, - Gurth nói; - chúng ta đã đi sát địa thổ nhà ông Philippe de Malvoisin quá nhiều rồi đấy; ông ấy và ông chủ Cedric tốt bụng nhà ta không hòa hợp với nhau đâu; ông ấy có thể gây rắc rối cho chúng ta và đàn lợn đấy... Nhất là lại có cơn giông đang đe dọa kia kìa, mình chẳng muốn bị ướt chút nào..- Nước càng giội mát đầu óc chúng ta, anh Gurth ạ, - Wamba vừa trịnh trọng nói, vừa giơ một ngón tay chỉ lên bầu trời tối đen trên đầu họ.
- Đầu cậu đã rạn rồi, anh rồ ạ, - anh chăn lợn lẩm bẩm nói, - óc cậu sẽ càng hứng đầy nước thôi!
Dường như Wamba không nghe thấy những lời nói vừa rồi: anh còn chú ý nghe một tiếng động xa xa, những tiếng vó ngựa tới gần của nhiều kỵ mã.
- A, có quân! - Anh kêu lên. - Hãy gượm đã, anh Gurth, để xem có chuyện gì nào.
- Mặc kệ! - Người bạn đồng hành nói. - Cậu không thấy cơn giông đe dọa kia à, mình thì chẳng quan tâm đến...
- Suỵt! Có lẽ ông Philippe de Malvoisin và tên hầu đáng sợ Réginal Front-de-Boeuf đến gây sự với ông chủ chúng ta chăng? Ai biết...
Wamba ngừng nói, vì đã thấy các kỵ mã phóng nước kiệu xuất hiện. Gurth quát chó đang sủa gầm gừ.
Đi đầu là hai lãnh chúa; nhìn vào cách ăn mặc và ngựa cưỡi ta biết họ là ở đẳng cấp cao:
một là giáo sĩ cấp cao mặc một bộ áo dạ rất đẹp vùng Flandre; ông thuộc dòng Citeaux; quân hầu gồm hai frères tạp vụ và hai tu sĩ. Cũng như ông tu sĩ cấp cao, ông đi cùng mặc một áo choàng nhà đạo màu hồng điều và như vậy là ông ta không thuộc vào một trong bốn dòng đạo chính quy. Trên vai phải đeo một thập tự màu trắng, hình dáng đặc biệt chứng tỏ ông thuộc vào dòng Templiers. Mặt ông có một vết sẹo dài và nước da ngăm ngăm đen. Có thể ông đã ở lâu ngày ở các nước phương đông. Mắt ông nhìn rắn rỏi và nghiêm khắc. Ai gặp ông đều phải công nhận ông quen giáp mặt với nguy nan và không chịu lùi bước trước một kẻ thù nào. Thoạt tiên, hai tên giữ ngựa theo sau, một tên dắt con ngựa chiến của ông, một tên cầm ngọn giáo buộc một miếng vải mỏng trên vẽ một chữ thập quốc hiệu
Sau đến, khép hậu, là hai kỵ sĩ da nâu, đầu quấn khăn trắng. Họ cưỡi hai con ngựa ả Rập. ông chủ lấy họ làm quân hầu trong một cuộc chinh phạt bên châu Phi.
Wamba và Gurth chưa hết bàng hoàng trước một đoàn người ngựa kỳ lạ như vậy thì ông giáo sĩ cao cấp đã nói với hai anh bằng tiếng Pháp:
- Chúa ban ơn lành cho các con! Ta xin các con hãy chỉ cho chúng ta, những người lữ hành đã mệt vì một chặng đường dài, một chỗ dừng chân gần nhất.
Wamba hình như không nghe thấy vì vẫn mải nhìn ông tu sĩ dòng Templier và những người tháp tùng của ông, còn Gurth hoặc không hiểu hay không muốn hiểu tiếng nói của những kẻ tiếm quyền nên hai anh chàng chày cối này chẳng nói câu nào.
Ông thầy tu nhắc lại câu hỏi nhưng lần này nói bằng thứ tiếng pha giữa Saxons với tiếng Pháp mà người Normanrd lẫn người Saxons thỉnh thoảng có dùng.
- Xung quanh đây có nhà lãnh chúa nào ta có thể xin nghỉ và uống chén nước được không?
- Thưa cha kính mến và các ngài cùng đi, muốn tìm một nơi trú chân thì có tu viện Brinx-worth gần đây và...
- Anh bạn tốt bụng ơi, - ông cha đạo nghe nói thế thì lắc đầu trả lời, - nếu khánh nhạc ở mũ anh không kêu lanh canh liên hồi làm rối loạn đầu óc anh thì anh ắt hiểu những người nhà thờ chúng ta không xin ở nhờ nhà lẫn nhau. Họ muốn trú chân ở nhà những người vô đạo để những người này có dịp làm đẹp lòng Chúa bằng cách phục vụ và tôn vinh những giáo sĩ nô bộc của Chúa.
Wamba cũng như bạn mình không muốn chủ mình phải chứa trong nhà những kẻ lạ mặt có dáng điệu quá kênh kiệu và nói một thứ tiếng thật kinh tởm này, liền nói:
- Tuy nhiên, thưa các ngài, tôi thấy tu viện này rất thích hợp. Mặc dầu các quả chuông có kêu đến rạn đầu tôi và có ảnh hưởng chút ít trí óc tôi thì không phải các tu sĩ ở tu viện này không là những người vui sướng nhất và đón tiếp niềm nở nhất một vị phẩm tước cao trong giới đạo đó sao?.- Có câm ngay đi không, cái thằng vớ vẩn này! - ông bạn đi cùng vị cố đạo dõng dạc mắng.
- Hãy mau chỉ đường cho chúng ta nếu mi không muốn nếm nhát dao của những người chăn ngựa của ta đấy nhá!
Gurth tiến lên một bước nói:
- Xin ngài lãnh chúa chưa quen hãy nhẹ lời một chút. ông chủ chúng tôi, ngài Cedric de Saxon, là người biết bảo vệ quyền của mình. Kẻ nào chạm đến nô lệ của người là không yên đâu!
- Cám ơn anh bạn tốt bụng đã cho ta biết điều đó. ông Cedric de Saxon ở đâu? Liệu ông ấy có sợ làm nhiệm vụ đỡ đầu một người nhà thờ và có từ chối không cho ăn đối với một templier quang vinh như ngài Brian de Bois-Gulbert, bạn tôi đây, vừa ở Đất Thánh về không?
Tức thì Wamba trả lời:
- Các ngài cứ theo con đường trước mặt mà mà đi. Các ngài sẽ tới một nơi gọi là chữ thập Đảo ngược vì ở đó chỉ còn mỗi cái bệ. Có bốn con đường giao nhau: các ngài hãy đi theo đường rẽ trái.
Các kỵ sĩ cho ngựa đi nước kiệu; họ không chú ý đến nụ cười hóm hỉnh của hai gã nô lệ ranh ma đang trao đổi với nhau.
- Cầu trời cho ông templier nóng như lửa ấy không gặp lại cậu trên đường đi, - Gurth thốt lên. - Nhưng cậu chỉ lối sai cho những người không biết đường đi thì có hay không đấy?
- Tôi làm điều gì không đúng hở anh Gurth?
Tôi không chỉ đúng đường đi sao? Đường nào cũng là đúng cả vì đường nào cũng dẫn đến Rome cả thôi. Mưa rơi trên những cành lá; mây đen che phủ bầu trời, màn đêm buông xuống. Gurth và Wamba rảo bước, tay xua, miệng hét, đuổi đàn lợn chạy mau.
Các kỵ sĩ cũng đi gấp gáp và họ đã đi xa.
- Cái ý khó khăn không muốn chỉ nhà chủ của hai tên nô lệ là nghĩa làm sao, thưa cha Ay-mer?
- ông dòng templier hỏi.
- Chúng đáng mặt là đầy tớ đấy, frère Brian ạ, - cha Aymer trả lời. - Tôi biết tay Cedric này, hắn tự xưng là cháu đích tôn của Hereward và tự hào thuộc về một dòng họ mà kẻ khác không dám nói ra sợ làm phật ý những người thắng trận đang cai quản đất nước. Cái tên chăn lợn y hệt chủ hắn và không gì buộc hắn phải trả lời chúng ta cả, cậy thế càng không được, còn tên thứ hai là một thằng rồ!
- Thằng rồ chỉ là bề ngoài thôi...
Đêm bây giờ thật là tối đặc và các kỵ sĩ khi đến Chữ thập Lộn ngược chỉ thấy có ba con đường.
- Hai tên gian giảo đã lừa chúng ta! - ông dòng templier nguyền rủa. - Chỉ có ba đường.
Chúng ta sẽ đi đường nào đến nhà Cedric de Saxon đây?
- Chẳng có đường nào đâu ạ. - Một tiếng nói như chính ở bệ đá phát ra.
Những kẻ theo hầu giật mình sợ hãi; nhưng chủ của họ, nhất là ông thầy dòng templier, rất hoài nghi nên chẳng tin có thần linh ma quỷ nào hiện hình ra cả.
- Ngươi là ai đó hả? - Brian giật ngựa về phía bệ đá hỏi. - Nào, hãy trả lời đi không thì vó ngựa ta sẽ xéo nát mi ra bây giờ.
- Chẳng phải tốn công làm thế các ngài ạ, -một bóng người hình như từ trong bệ đá nhảy ra nói. - Tại sao các người đến quấy rầy ta đang nhập địch?
- Chúng tôi chỉ là những người đi lạc đường thôi, - cha đạo trả lời, - chúng tôi tìm đường đến nhà ông Cedric de Saxon ở Rotherwood.
- Nếu tôi có ngựa tôi sẽ dẫn các ngài đi, -người lạ mặt trả lời, - vì chính tôi cũng đến đấy.
- Thế thì hay quá, - cha đạo nói. - Frère Benoit đâu, hãy cho anh này mượn con ngựa dắt tay của tôi; rồi tôi sẽ thưởng cho anh ta con ngựa đó nếu chúng ta đi được đến nơi đến chốn.
Người lạ mặt nhẹ nhàng nhảy lên ngựa và đi hướng ngược lại con đường Wamba chỉ. Phải nói rằng con đường bị lá cây che kín, nếu không phải là người địa phương thì không tài nào tìm thấy..Người dẫn đường đi khẩn trương trên con đường rộng khúc khuỷu quanh co, thỉnh thoảng có những con đường nhỏ xen qua. Con ngựa do anh ta chắc tay điều khiển chạy không chút ngập ngừng theo hướng đi anh định.
- Cậu phải gần nhà lắm mới nhận ra đường đi trong đêm tối thế này, đến thánh cũng chịu chẳng lần ra đâu nhỉ! - Brian de Bois-Guilbert nhận xét như vậy.
Bây giờ mưa đã tạnh, gió đuổi những đám mây cuối cùng bay đi. Các kỵ sĩ đi theo con đường hai bên là những cây to cành lá giao nhau thành vòm.
- Đến rồi. - Người lạ mặt nói ngắn gọn.
Thật vậy, trước mặt anh ta là một khu nhà lớn xám xịt; các kỵ sĩ dừng ngựa trước một hàng rào cao bảo vệ thường thấy ở thời kỳ đó. ông dòng templier lấy tù và ra thổi.
Cha Aymer hài lòng đã đến nơi bởi vì cưỡi ngựa giữa đêm tối trên những con đường lầy lội chẳng làm ông vui thích chút nào. Thấy được thoải mái trở lại, ông bắt đầu hỏi chuyện anh chàng may mắn gặp ở ngã ba Chữ thập Đảo ngược.
Thoạt tiên ông hỏi:
- Anh ở đâu?
- Thưa cha kính mến, tôi là người hành hương từ Đất Thánh trở về.
- Tốt hơn là anh cứ ở đấy. - ông dòng tem-plier lẩm bẩm nói.
- Tôi có việc phải về nước Anh, - người đi đường ưỡn ngực trả lời. - Với lại, những kẻ khác, không phải là tôi đâu nhé, đã tuyên thệ đi bảo vệ Đất Thánh lại không đến, không đến cái nơi mà bổn phận kêu gọi họ phải đến ấy, hình như cũng không có một lý do đứng đắn nào thì phải!
Khi nói những lời đó một cách tự hào, người lữ hành quay sang nhìn ông dòng templier, đối với người lữ hành ông không phải là xa lạ.
Brian thấy bị chọc ngòi, nổi nóng sắp trả lời thì họ nghe thấy ở cổng có tiếng chân người lẫn tiếng chìa khóa và then mở cửa kêu lẻng xẻng.