Người lạ


Ma thuồng luồng

     ng Hội Cảnh lại kể chuyện ma thuồng luồng: “Hồi ấy, trên cái gò chơi vơi giữa hồ Ba Bể còn có một xóm nhỏ lác đác độ mươi nhà. Họ ở cách nhau hàng ba bốn trăm thước. Lắm khi, vì khuất rừng cây, nhà nọ không trông thấy nhà kia. Mỗi gia đình chỉ bằng ở tiếng chó sủa và tiếng loóng gạo mà còn có được cái cảm tưởng an ủi rằng vẫn gần nhau. Nhà nào cũng ruộng nương kề ngay chung quanh, vừa tiện hôm sớm đi về, vừa tiện giữ gìn màu vật khỏi cái hại hươu nai. Ông lạ gì, đường Trên người thưa đất rộng, mặc sức vẫy vùng.
Về phía Bắc cái gò đất ấy, có một túp nhà tranh tồi tàn. Mái nhà vẫn kín gió mưa, nhưng lá lợp lầu ngày nhiều chỗ đã ủi nát, gần thành một thứ đất màu. Những hột quả, chim tha về ăn để lại đấy, đã mọc thành những mầm cây nhỏ. Bốn bề vách nứa chống chếnh, lau lách bên ngoài mọc đâm cả vào trong nhà. Những trận gió lạnh đêm đông thường khi thóc mách vào tận buồng nằm.
Nhà có ba gian thì một gian làm buồng ngủ, gian đầu đằng kia kê bàn thờ và giường tiếp khách. Tôi xin nói rõ ngay để ông biết rằng chủ nhà làm nghề thầy cúng, tiếng chúng tôi gọi là ‘Sa thúng’. Và bàn thờ chẳng qua là tấm phên nứa đặt lên bốn gốc tre chôn một đầu liền xuống đất. Trên ‘bàn’, mấy cái bình hương tre tro tàn bề bộn, dăm cái chén đất, cái úp cái ngửa, một cái bát đựng nước cúng và một cái đĩa bày trầu, cau, hoa. Vài thẻ hương, giấy bao đã phai màu, và mấy quyển sách cúng viết bằng thứ chữ riêng, người thường không thể đọc được.
Trước ‘bàn thờ’, một cái giường tre giải manh chiếu cũ bày ngổn ngang mấy khúc gỗ gối đầu, một cái khay chén, một ấm chè đựng trong cái giỏ mây sơn màu gạch cua, một cái điếu cày dựa lên cái giá làm bằng một đoạn cành cây khòng khoèo. Gian giữa tức là bếp, là cái lò sưởi chung cho cả nhà về mùa đông. Vài cái đầu rau bằng đất thó, trên để chảo cám lợn luôn luôn đầy những món cùng chuối nấu nhừ, thành một thứ cháo xám đen, một cái ấm đất và mấy cái nồi đất con. Ngay chỗ ngọn lửa bếp lên, một cái gác tre lủng lẳng chứa mấy cặp thịt nai sấy, vài gói thuốc mán, dăm quả bầu già, dưa già làm giống, và một túm chân gà khô.
Cái khung cảnh ấy tiều tụy, lạnh lẽo và lấm láp những tàn hương bò hóng nhờ được những tiếng cười đằm thắm, những câu chuyện ái ân, những vẻ ngây thơ hóm hỉnh của đôi vợ chồng và đứa con nhỏ nọ, lắm khi thành ra linh động và tươi sáng.
Cả hai vợ chồng đều xấp xỉ ba chục tuổi.
Chồng, hơi thấp nhưng cả ngang; chân tay gân guốc, đi đứng mạnh dạn. Đầu anh ta vuông, tóc rễ tre, cổ to như cổ trâu, nét mặt tròn và đều đặn, nước da hung hung. Nếu chẳng có cái miệng cười thực thà thường phô hai hàm răng trắng nhởn, vẻ mặt anh chàng có lẽ dữ tợn vì cái trán gồ, cái mũi tèn tẹt, cặp lông mày chổi sể và đôi mắt ốc nhồi sáng quắc.
Vợ, trái lại, nom mảnh dẻ, chân tay nhỏ nhắn, dáng điệu mềm mại. Trên khuôn mặt bầu bầu, nước da trắng mịn, cặp mẳt bồ câu lóng lánh như nước hồ khi lặng gió. Cái mũi tuy nhòm mồm nhưng không giảm mất vẻ đẹp của nụ cười ý nhị thường nở trên cặp môi tươi.
Ngoài những lúc đi cúng, đi bói xa, chồng chỉ loanh quanh ở nhà bảo ban vợ làm ăn. Nhờ phong tục tốt, hàng xóm thường giúp đỡ thêm vào, vợ chồng cũng trù được một nương lúa to và cấy được hai mẫu ruộng nếp mây. Thóc gạo mỗi năm ngần ấy đủ cho ba miệng ăn và đổi chác dầu muối. Hai vợ chồng xử với nhau hòa hợp. Lại từ khi được chút con thơ, cái tình ân ái càng nồng nàn. Đứa bé sinh ra, thường hay quặt quẹo, thân thể gầy còm, chân tay ngẳng nghiu, nước da bung bủng, nổi cơ đồ nhất có chăng là cái bụng trái mít điểm cái rốn lồi. Tuy vậy, con vua vua dấu, con chúa chúa yêu, cái đầu cá trê lơ phơ mấy sợi tóc vấy ‘cứt trâu’, cái mặt ngơ ngác, cặp mắt lúc nào cũng như lòe lửa sốt và cái miệng cười mếu máo kia vẫn là cái vui sướng, cái thương yêu, cái hy vọng của hai cuộc đời tối tăm góp lại dưới mái lều tranh. Cái nghèo của vợ chồng bác thầy cúng, người ta có thể ví là cái khung mộc mạc, lồng bức tranh gia đình nên thơ...
Một ngày tháng Sáu, vào khoảng mặt trời gần lặn. Trong nhà, người vợ đang ngồi cạnh bếp thổi cơm. Đứa con thì bò lê dưới đất, đùa với nái lợn lang chộp choạp ăn ít cám đựng trong cái lon tre, mặt ngoài phất một lượt sơn đen. Người đàn bà hí húi làm cơm, chốc chốc nhoẻn miệng nhìn con. Ngay lúc ấy, chồng ở trên nương về. Anh ta vừa toan vào nhà, sau đứng sững lại ở ngưỡng cửa, ngắm cái cảnh êm đềm trước mắt. Vợ và con vẫn vô tình. Thốt nhiên, anh nhảy xổ vào và bế phắt đứa con lên tay. Vợ, giật mình quay lại, cười pha chút sợ hãi:
- A lối!... Làm người ta giật nẩy mình... hôm nay về muộn nỏ?
Anh chồng cười hê hè, xốc nách con giơ lên giơ xuống. Thằng bé, hoặc có lông buồn hoặc thích chí, cũng cười sằng sặc.
- Pú lỷ mì cần mà doọng pi né (Ông Lý có người về gọi anh).
- Doọng lầu việc lăng nẩy? (Gọi ta việc gì thế?)
- Pú lỷ chảo pi quá pại mo hở me lỷ te pân khẩy (Ông Lý bảo anh sang cúng cho bà Lý ốm).
- Cà ling ò? Lầu quá pại ngòi đu (Thật à? Ta sang xem nào).
Chồng nói đoạn, trao con cho vợ rồi vào buồng quấn khăn thay áo và lại bàn thờ lấy sách cúng. Lúc anh ta sắp ra cửa, trời bỗng đổ cơn mưa. Anh ta càu nhàu:
- Bôn đin ọ! (Trời đất ạ!). Phân tằng vằn nhằng mi đo! (Mưa cả ngày chưa đủ sao!)
- Bôn mí phân hẹt lừ khẩu pân? (Trời không mưa, làm sao lúa tốt?)
Anh chồng lườm yêu vợ rồi chụp nón ra ngoài. Trước khi khép cửa anh còn ngoái dặn vợ:
- Kin cón hở lục pây nòn ná (Ăn xong cho con đi ngủ nhé) vằn chục lầu chắng mửa (mai ta mới về).
- Đảy giá (Được rồi).

*

Bác thầy cúng sang đến nhà ông Lý thì áo quần đã ướt hầu hết. Bác ta phải ngồi vào cạnh bếp hong một lúc lâu. Bác ta bói xem vợ chủ nhà phải ma gì làm, đoạn sai sắp lễ vật để cúng. Bác đọc xong quyển sách cúng thì đêm đã khuya. Chủ nhân hối dọn rượu mời ông thầy. Bác ta nhân lúc ấy chạy ra ngoài có chút việc...
Mưa đã ngớt. Trời tối đen như mực. Tiếng sóng hồ rào rạt trong khoảng mịt mù gợi cho tâm hồn những cảm giác đìu hiu man mác. Vụt cái bác thầy bắt rùng mình... Tự xa xa về phía nhà bác ở, vẳng có tiếng trẻ khóc đưa lại. Bác lắng nghe. Tiếng khóc the thé như những nhát dao sắc rạch mạnh vào cái lặng lẽ đêm khuya... Tấm lòng cha tựa hồ đoán biết có sự phi thường. Bác thầy cúng hốt hoảng chạy vào. Chủ nhân hỏi:
- Cái gì thế?
- Lầu mí chắc!... Trẻ con ở nhà sao khóc quá! Tôi về xem thế nào!
- Ừ, ông thầy về xem. Tôi cũng sang ngay.

*

Trên con đường lầy lội, hai bên cỏ mọc trùm ra lối đi, bác thầy cúng, tay giơ cao ngọn đuốc, tất tả chạy về. Những giọt mưa đọng trên ngọn cỏ, bị động, trút xuống rào rào như đuổi theo người.
Tiếng trẻ khóc mỗi lúc một gần, một rõ thì sự lo của người cha càng tăng gấp lên.
Bác thầy cúng thoạt bước lên thềm thấy cánh cửa mở toang lại càng tin chắc có sự gì ghê gớm. Cái tiếng the thé tự trong buồng đưa ra lúc ấy đã không còn là tiếng trẻ con khóc nữa. Nó chỉ là tiếng kêu của con vật gần hấp hối. Ném bó đuốc xuống sân, bác thầy cúng đâm xổ vào đến cửa buồng bỗng đứng sững lại, suýt lộn mửa vì cái mùi tanh sặc mũi...
Trong buồng, dưới ánh đèn lờ mờ, hiện ra một cảnh quái lạ...”
Ông Hội Cảnh, theo thói quen, ngừng lại một lúc lâu và ung dung làm mấy hơi thuốc lá.
Suốt mình thấy lạnh lẽo, tôi ngơ ngác nhìn quanh... Thần trí tôi lúc ấy, đối với hoàn cảnh, hệt như tia sáng mặt trời soi xuống làn nước đục.
“Trên giường, vợ bác thầy cũng nằm đờ ra như một cái xác: váy áo rách mướp; thân thể trần truồng. Đứa bé thì lăn lóc bên mình mẹ, hai mắt trợn ngược, chân tay chới với, tiếng kêu đuối dần. Khắp giường, nhớt nheo ướt át, mùi tanh nồng nực.
Người đàn ông khốn nạn giương mắt nhìn cái thảm trạng mà thực tình chẳng hiểu gì cả.
Mãi sau, tiếng nước rỏ lách tách gần đâu đấy làm cho bác ta chú ý và đưa mắt tìm tòi. Thốt nhiên bác thấy cũng choáng người... Cái gì kia?... Ừ, cái gì mà người chẳng ra người, thú chẳng ra thú, mình trần như nhộng, tóc tai không có, da dẻ nhợt nhạt như kẻ chết trôi, nhớt dề dề rỏ xuống, chân tay ngắn ngủi chẳng tày gang. Nó ngồi vắt vẻo trên xà nhà mắt nhìn sớn sác như muốn tìm đường trốn.
Người đàn ông sợ lắm, nhưng mà thương vợ xót con, nên bác ta quát rằng:
- Mày là yêu quái ở đâu dám vào hại vợ con tao?
Cái quái nghe hỏi chỉ nhe bộ răng nhọn hoắt cười nhăn nhở. Bác thầy cúng lùi ra ngoài, vớ lấy cái chày loóng gạo đứng chắn ngang cửa buồng, đoạn cầm chiếc tù và rúc lên một hồi dài...
Một lát sau, hàng xóm kẻ dao người gậy kéo đến rất đông.
- Anh em... có ma... vào đây xem nè!...
Mọi người kéo vào trong buồng. Ai nấy đều kinh dị vì cái mùi tanh quái gở. Chủ nhà vặn to đèn, giơ tay trỏ vợ trỏ con rồi lại trỏ lên xà nhà. Tuy đông mà mọi người cũng đều sởn tóc gáy. Sự xảy ra không thấy bao giờ.
- Đây, chính cái quái này, đã nhân lúc tôi vắng nhà, vào cưỡng hiếp vợ tôi. Xin anh em giết chết nó đi...
Thoạt tiên, họ còn ngần ngại. Nhưng sau, thấy người đàn ông bất hạnh nọ hăm hở giơ chày đánh quái vật, thì họ cũng ùa nhau kẻ câu liêm, kẻ dựa phát móc tuột con yêu xuống và đánh chém tơi bời...”
Cha tôi nóng ruột hỏi:
- Sau ra làm sao?
-... Chỉ chớp mắt nó ườn ra thành một con thuồng luồng cực lớn, nằm chật cả gian buồng. Cái xác nó, người ta lôi ra vùi ở cạnh bờ nước. Và, nếu cái gò đất ấy về sau không bị sụt xuống đáy hồ, nấm mả thuồng luồng dễ đến nay vẫn còn. Việc này xảy ra là vì người dân trong xóm đã cả gan giết thịt một con bò dưới thủy tề lạc lên... vua Thủy giận, làm sụt gò để phạt kẻ táo bạo...
Tôi hỏi ông già:
- Thế còn vợ con bác thầy cúng thì sao, cụ?
Ông Hội Cảnh nhìn tôi. Ông lẳng lặng hút đến tàn điếu thuốc mới thủng thẳng đáp:
- Chết cả... Người chồng thì điên rồ lên một dạo, sau chẳng rõ là đi đâu...

Truyện Người lạ ---~~~cungtacgia~~~---

8 Tác phẩm