Dịch giả: Hoàng Thiếu Sơn
Chương 28
Đêm lễ nữ thánh Valborg

     hứ sáu, 29 và thứ bảy, 30 tháng tư
Ngày hôm đó Nils trông thấy miền nam tỉnh Dalarna. Đàn ngỗng bay trên vùng mỏ Grängesbergs rộng lớn, những xí nghiệp to lớn ở Ludvika, và bay tiếp đến tận các cánh đồng Stora Tunas và sông Dalälv.[1] Lúc đầu, hễ còn thấy những ống khói nhà máy chĩa lên sau mỗi sống núi là Nils có thể tưởng rằng mình còn ở tỉnh Västmanland. Nhưng khi đến gần dòng sông lớn, thì một cảnh tượng mới hiện ra dưới mắt chú. Đó là con sông đầu tiên đáng gọi là sông mà Nils được gặp.
Chú ngạc nhiên khi trông thấy cái dòng nước rộng ấy chảy chầm chậm qua đất này.
Đến cầu phao Torsângs thì đàn ngỗng quay lại hướng tây-bắc, bay dọc sông, tựa hồ dòng nước làm hướng đạo cho chúng. Nils tha hồ ngắm hai bờ sông Dalälv, mà phần lớn san sát nhà cửa trên những quãng dài. Chú thấy các thác nước lớn Domnarvet và Kvarnsveden, và các nhà máy rộng lớn mà thác làm cho hoạt động. Chú thấy những cầu phao nổi trên mặt sông, những chiếc phà mà sông đưa đi, những bè gỗ dài mà sông quyến đi, những đường sắt chạy theo và băng qua dòng sông, và chú biết rằng đó là một con sông lớn và tuyệt diệu.
Có một đêm mà tất cả trẻ con tỉnh Dalarna trông đợi đến sốt ruột gần như đêm Giáng sinh, và đó là đêm lễ Nữ thánh Valborg, mà chúng có thể đốt lửa ở ngoài đồng.
Nhiều tuần trước đêm đó, con trai con gái chỉ nghĩ đến việc cóp nhặt củi cho cuộc đốt lửa đêm lễ Nữ thánh Valborg. Chúng vào rừng nhặt nhạnh những bó cành khô và những quả thông, chúng đi kiếm vỏ bào ở nhà ông thợ mộc, những mẩu vỏ cây và những đoạn củi khẳng khiu quá không thể bổ được ở nhà các ông thợ rừng. Không ngày nào mà chúng không quấy rầy ông chủ hiệu tạp hóa, hỏi mua thùng cũ; đứa nào mà có thể kiếm được một cái vỏ tô-nô đựng hắc ín thì giữ như một kho tàng bảo vật, và chỉ đem ra phô vào cái phút được nhen đống lửa. Những cọc đỡ cho đậu pơ-ti-boa và đậu cô-ve, cô-bơ leo, đều lâm nguy, cũng như những rào giậu bị gió thổi đổ, những dụng cụ hỏng gãy và những giàn phơi cỏ bỏ quên ngoài đồng.
Ngày long trọng đến, trẻ con mỗi làng dựng trên một ngọn gò hay bên bờ hồ, một giàn hỏa thực sự với những cây thông giáng sinh cũ, những cành khô và đủ các thứ chất đốt. Có khi một làng đốt những hai, ba đống lửa, vì trẻ con không thể đi đến chỗ đồng ý với nhau được.
Các đống củi thường đã xếp sẳn rất sớm từ chiều, tất cả trẻ con đều đi dạo chơi, bao diêm trong túi, chờ lúc tối trời. Cữ này trong năm, ở Dalarna trời sáng lâu ghê gớm. Đến tám giờ, hoàng hôn mới hơi bắt đầu. Đi dạo ngoài trời trong những ngày đầu xuân thế này, người rét cóng và rất khó chịu. Tuyết đã tan ngoài đồng và ở những nơi đất quang, và lúc giữa ngày mặt trời chiếu xuống thì người ta thấy gần như nóng. Nhưng mà rừng còn giấu kín những đống tuyết cao, băng còn phủ các mặt hồ, và về đêm lạnh nhiều độ dưới không. Bởi thế mà có thể nơi nọ nơi kia, một ngọn lửa đã đỏ lên trước giờ. Nhưng chỉ có những trẻ bé nhất, và những trẻ thiếu kiên nhẫn nhất, mới vội vàng như thế. Những trẻ khác đều chờ đến tối để cho các đống lửa cháy đẹp.
Cuối cùng rồi cũng đến lúc bất cứ người nào cũng đều có mặt và mang đến góp một cành củi mọn trong đống củi. Chú con trai lớn nhất đám đốt lên một cây đuốc rơm, đem đút vào dưới đống củi. Những ngọn lửa phụt lên, những cành cây nổ lốp bốp và kêu răng rắc; những cành mảnh mai cũng đỏ rực lên, trông như là trong suốt; khói tràn ra và tỏa cuồn cuộn thành những vòng đen rộng. Sau cùng, lửa từ ngọn đống củi vút lên, cao và sáng; lửa vọt cao lên trên không, khắp nơi trong vùng đều trông thấy.
Chỉ đến lúc ấy đám trẻ con mới có thì giờ nhìn ra chung quanh. Kia một ngọn lửa! Lại kia một ngọn lửa nữa! Người ta đốt một ngọn trên đồi đằng kia, và một ngọn tận trên đỉnh núi! Tất cả đám trẻ đều mong rằng lửa của mình to nhất và đẹp nhất; chúng cứ sợ lửa của mình không hơn được tất cả các lửa khác, và đến phút cuối cùng vẫn chạy về nhà, khẩn khoản xin thêm vài bó củi hay gỗ vụn nữa.
Khi lửa đã cháy to, người lớn và cả người già, đều đến xem lửa không phải chỉ nhìn đẹp, mà còn tỏa nhiều hơi ấm trong buổi tối trời lạnh, và người ta ngồi khắp chung quanh lửa, trên những tảng đá. Người ta ngồi đấy, mắt nhìn vào lửa, cho đến khi một người nào đó có ý kiến pha một tí cà phê, vì người ta có một ngọn lửa đẹp như thế. Và thường thì trong khi nước pha cà phê đang sôi, một người nào đó kể một câu chuyện; xong là người khác kể tiếp.
Người lớn nghĩ đến cà phê và truyện nhiều hơn, còn trẻ con thì chỉ nghĩ đến việc làm cho ngọn lửa bốc lên thật cao và cháy thật lâu. Mùa xuân với băng lở và tuyết tan, đến muộn như thế cơ mà! Đám trẻ muốn giúp sức mùa xuân bằng ngọn lửa của mình. Nếu không, hình như xuân không tài nào làm đâm chồi và nẩy lộc được.
Đàn ngỗng trời đã đổ xuống mặt băng của hồ Siljan để ngủ, và vì gió bắc thổi dọc theo hồ, lạnh như băng, Nils đã chui ngay xuống dưới cánh con ngỗng đực. Vừa mới thiu thiu ngủ, chú đã bị một tiếng súng nổ đánh thức dậy. Từ dưới cánh ngỗng chú vội vàng chui ra và nhìn chung quanh rất lo sợ.
Trên mặt băng tất cả đều yên lặng. Rình mãi nhưng vô hiệu, chú chẳng trông thấy kẻ đi săn đâu cả. Nhưng phóng mắt nhìn lên các bờ hồ, chú sửng sốt và tưởng đến một ảo cảnh quái dị như ở Vineta vậy.[2]
Chiều hôm ấy, đàn ngỗng đã bay qua bay lại nhiều lần trên hồ trước khi đỗ xuống. Dọc đường bay, ngỗng đã chỉ cho chú những nhà thờ to lớn và những làng mạc ở trên bờ hồ Siljan. Chú đã trông thấy Leksand, Rättvik, Mora, đảo Sollerưn. Toàn thể vùng này xem ra bình yên và vui tươi hơn chú đã tưởng nhiều. Chú chẳng thấy có chút gì là hung gở và khủng khiếp cả.
Thế mà, đang đêm thế này, cũng trên những bờ hồ ấy lại rực sáng lên một vòng lửa. Chú thấy lửa cháy ở Mora phía bắc hồ, trên các bờ của đảo Sollerưn, ở trong Vikarbyn, ở những ngọn đồi trên làng Sjurberg, ở mỏm đất có nhà thờ Rättvik, ở trên ngọn núi Lerdalsberg, trên tất cả các đồi và mũi đất cho đến tận Leksand. Chú đếm được hơn trăm đống lửa, và chú không hiểu như thế nghĩa là thế nào.
Các ngỗng trời cũng bị tiếng nổ làm cho tỉnh dậy, nhưng tức khắc, trông thấy cái cảnh đang diễn ra, Akka kêu lên: "Đó là trẻ con của loài người, chúng vui chơi". Và tất cả đàn ngỗng đều ngủ lại ngay, đầu chui xuống dưới cánh.
Nils nhìn kỹ hồi lâu những đống lửa trang hoàng cho bờ hồ như một chuỗi dài những đồ nữ trang bằng vàng. Chú bị ánh sáng và hơi ấm thu hút như một con muỗi, và chú rất muốn đến gần các đống lửa. Chú nghe súng nổ hết tiếng này đến tiếng khác, cái ấy cũng thu hút chú vì chú hiểu rằng chẳng có chút nguy hiểm nào cả.
Những người ở đằng kia, chung quanh các đống lửa, hình như vui thích quá chừng, đến mức hò hét, kêu gọi nhau chưa cho là đủ, lại còn dùng đến cả súng nữa. Và kìa, quanh một đống lửa cháy rực tận trên đỉnh một ngọn núi, người ta đang bắn pháo hoa. Người ta đã có một đống lửa to và đẹp, bốc cháy rất cao, nhưng người ta còn muốn hơn thế nữa; niềm vui của người ta còn cần bay bổng lên trời.
Dần dần Nils đến gần bờ; bỗng những âm điệu của một bài hát lọt đến tai chú. Thế là chú liền chạy về phía đất liền.
Ở bờ trong cùng của vùng Rättvik, có một cái đập dài tiến ra phía nước. Tận đằng mút đập, một nhóm người đứng hát, tiếng họ vang lên trong cảnh đêm yên tĩnh của mặt hồ. Có thể nói là mùa xuân đối với họ dường như đang ngủ như những con ngỗng trời trên mặt hồ Siljan và họ muốn đánh thức mùa xuân dậy.
Họ đã mở đầu bằng câu: "Ta biết một xứ rất xa trên phía bắc" và họ kết thúc rằng: "Dalarna xưa đã ở; Dalarna nay vẫn ở...". Trên đập, chẳng có chút lửa nào, và những người hát không thể nhìn thấy xa. Nhưng cùng với những âm điệu, đang hiện lên trước mắt họ và trước tất cả mọi người, hình ảnh của đất nước họ, rực rỡ hơn và dịu dàng hơn ngay trong ánh sáng của ban ngày. Dường như họ muốn làm cho mùa xuân phải xiêu lòng! "Hãy nhìn đất nước đang chờ xuân! Xuân chẳng đến giúp chúng ta sao? Xuân còn cứ để mùa đông áp bức một đát nước xinh đẹp đến thế này sao?"
Còn tiếng hát là Nils Holgersson còn lắng tai nghe; sau đó chú chạy vụt về phía đất liền. Một đống lửa cháy ngay trên bãi. Chú tiến đến gần, đến mức có thể nhìn thấy những người ngồi hay đứng chung quanh đống lửa. Lại lần nữa, chú tự hỏi đó có phải là một ảo ảnh không. Chú chưa bao giờ được thấy những kẻ ăn mặc như thế. Đàn bà đội những mũ đen, nhọn, mặc những áo chẽn ngắn bằng dạ trắng; quàng những khăn thêu hoa lá quanh cổ, diện những yếm bằng lụa màu lục và những váy màu đen phía trước thêu những sọc trắng, đỏ, lục và đen. Đàn ông đội mũ tròn và thấp, mặc áo ngoài màu xanh rất dài, các đường may đều viền đỏ, những quần bằng da màu vàng, ở đầu gối buộc những ruy băng màu đỏ trang trí những quả cầu bằng len lòng thòng. Có phải vì những bộ y phục ấy mà Nils dường như thấy những người đó không giống cư dân của tỉnh khác; họ có vẻ cao lớn hơn và cao quý hơn. Nils nhớ lại những bộ quần áo cổ mẹ chú giữ tận đáy chiếc hòm to của bà, và từ lâu rồi chẳng có ai ở tỉnh Skâne mà còn mặc nữa. Vậy ra chú được duyên may trông thấy những con người ngày xưa, đã sống cách ngày nay trăm năm rồi sao?
Đó chỉ là một ý nghĩ thoáng hiện ra trong óc chú. Trước mặt chú là những người đàn ông và những người đàn bà đang sống thật; nhưng những người dân tỉnh Dalarna đã giữ lại trong ngôn ngữ của họ, phong tục của họ và y phục của họ, nhiều cái của quá khứ đến nỗi không nên ngạc nhiên vì cái ảo tưởng ngắn ngủi của chú.[3]

Quanh các nhà thờ

Chúa nhật, mồng một tháng năm
Sáng hôm sau khi thức dậy và tụt xuống mặt băng, Nils không thể không cười. Đêm qua tuyết rơi nhiều quá, và vẫn còn rơi; không khí đầy những túm tuyết to tướng, đang quay cuồng. Có thể nói là cánh của những con bướm đã bị cái lạnh giết chết, đang rơi xuống. Trên hồ Siljan, tuyết đóng một lớp dày mấy centimét. Bờ hồ phủ kín tuyết; các ngỗng trời lưng đầy tuyết, đến nỗi trông như những đống tuyết nhỏ.
Chốc chốc Akka hay Yksi, hay Kaksi, cựa mình một tí, nhưng thấy tuyết cứ rơi không ngớt, lại chui đầu vào dưới cánh. Tất nhiên là các ngỗng đều đồng ý với nhau rằng thời tiết như thế này thì chẳng có gì tốt hơn là ngủ, và Nils không cho là họ sai chút nào cả.
Vài giờ sau chú thức giấc; các chuông nhà thờ ở Rättvik đang gọi người đi lễ thánh. Tuyết đã ngừng rơi, nhưng gió bắc thổi rất mạnh, và ở trên mặt hồ rét ghê gớm. Nils mừng thấy đàn ngỗng giũ mình, và được theo đàn đi về phía đất liền. Ngỗng đến đấy để kiếm ăn.
Hôm đó là ngày lễ nhận thánh thể ở nhà thờ Rättvik, và những người được ban thánh thể, đến rất sớm, túm năm tụm ba từng nhóm nhỏ, kháo chuyện với nhau trước nhà thờ. Tất cả mọi người đều mặc y phục quê hương, và áo quần họ đều rực rỡ màu sắc. "Mẹ Akka thân mến, bay chầm chậm lại một tí cho tôi xem đám thanh niên", Nils khẩn khoản như thế. Ngỗng đầu đàn xét rằng yêu cầu ấy là phải chăng: dám bay thấp đến đâu là ngỗng hạ xuống đến đấy, và lượn ba vòng quanh nhà thờ. Trông gần thì cũng khó nói là họ như thế nào, nhưng nhìn từ trên cao thế này thì những con trai, con gái kia đối với Nils là đám thanh niên đẹp nhất trần đời mà chú chưa từng gặp bao giờ. "Tôi tin là trong cung vua cũng không có những hoàng tử khôi ngô hơn và những công chúa xinh đẹp hơn thế’‘, chú kêu lên như vậy.
Ở Rättvik tuyết phủ kín tất cả các cánh đồng, Akka không thể tìm ra chỗ nào để đỗ xuống được. Chẳng do dự lâu, ngỗng bay về hướng nam, phía Leksand.
Ở Leksand, cũng như thường lệ trong mùa xuân, đám thanh niên đã đi kiếm công ăn việc làm. Chỉ còn những người già ở nhà: khi đàn ngỗng bay qua thì một đoàn dài những bà lão kéo nhau đi nhà thờ,[4] dọc con đường tuyệt đẹp hai bên trồng cây bạch dương. Họ đi trên mặt đất trắng, mặc những chiếc áo chẽn ngắn bằng da cừu một màu trắng rực rỡ, những cái váy bằng da trắng, những áo ngoài màu vàng hoặc soọc trắng và đen, đội những khăn trắng viền quanh những mái tóc trắng.
"Mẹ Akka thân mến, bay chậm lại cho tôi xem các bà già ấy", Nils yêu cầu như thế. Ngỗng đầu đàn xét rằng ý muốn ấy là phải chăng; dám bay thấp đến đâu là ngỗng hạ xuống đến đấy, và lượn ba vòng quanh con đường trồng cây bạch dương. Trông gần thì cũng khó nói là họ như thế nào, nhưng nhìn từ trên cao thế này thì những bà già kia xem ra đường hoàng, trang trọng tuyệt vời. "Có thể nói rằng con trai các bà là những quốc vương, và con gái là những vương hậu cả". Nils nghĩ bụng như vậy.
Ở Leksand tuyết cũng nhiều như ở Rättvik. Akka liền quyết định bay xa hơn nữa về hướng nam, phía Flưda.
Ở Flưda, người đang lễ nhà thờ khi đàn ngỗng đến, nhưng vì sau lễ thánh sẽ có đám cưới, nên đoàn người dự đám cưới đã tề tựu trước thánh đường. Cô dâu đội một vòng vàng trên mái tóc bỏ xõa, đeo đầy nữ trang, hoa và những dải ruy băng sặc sỡ; tất cả lộng lẫy đến nỗi làm nhức cả mắt. Chú rể mặc chiếc áo lễ dài màu xanh, quần chẽn ngắn và đội mũ mềm màu đỏ. Người ta 
nhận ra các cô phù dâu nhờ những chuỗi hoa hồng và hoa uất kim hương thêu quanh thân áo của họ và ở phần dưới váy của họ. Hai họ và hàng xóm láng giềng đi theo sau, cũng đều mặc bộ y phục sặc sỡ của giáo xứ họ.
"Mẹ Akka thân mến, bay chậm lại cho tôi xem cô dâu, chú rể’’, Nils yêu cầu như thế.
Dám bay thấp đến đâu là ngỗng đầu đàn hạ xuống đến đấy, và lượn ba vòng quanh tường thánh đường. Trông gần thì cũng khó nói là họ như thế nào, nhưng nhìn từ trên cao thế này thì chưa bao giờ thấy cô dâu nào thùy mị hơn, chú rể nào hiên ngang hơn, cũng như đám cưới nào lộng lẫy hơn. "Mình chẳng biết là trong cung đình, quốc vương và vương hậu quần áo có đẹp hơn thế này không", Nils tự hỏi như vậy.
Sau cùng thì ở Flưda đàn ngỗng tìm được những cánh đồng quang đãng và có thể dừng lại để kiếm ăn.
Chú thích :
[1] Sông Dalälv là một trong những sông dài của Thụy Điển, chảy ra biển Baltic qua suốt tỉnh Dalarna, đào ra những thung lũng rất đẹp làm cho tỉnh này có thiên nhiên ngoạn mục nhất Thụy Điển. Tên Dalarna có nghĩa là "những thung lũng".
[2] Xem lại chương XIII.
[3] Ở Thụy Điển có phong tục rất lâu đời: người ta tin là đêm thứ bảy của tuần lễ thánh, tức là đêm hôm trước lễ Phục sinh, tất cả mọi mụ phù thủy đều đến khai hội ở Bläkulla, bởi vậy khắp nơi đều đốt lửa lên để làm cho các phù thủy khiếp sợ.
[4] Dalarna là tỉnh nổi tiếng có nhiều nhà thờ đẹp; nhà thờ ở Rättvik được đặt tên là "cô dâu quỳ gối", nhà thờ ở Leksand tường toàn lát gỗ sơn màu thanh thiên được coi là xinh đẹp nhất thế giới.