Dịch giả: Cao Tự Thanh
Hồi 47
Mây điểm tinh kỳ thu tới ải
Gió truyền còi trống tối qua quan

     ột hôm, thuyền tới Đường Cô. Đoàn người bọn Vi Tiểu Bảo, Sách Ngạch Đồ lên bộ đi tiếp, qua Thiên Tân tới Bắc Kinh. Vi Tiểu Bảo vào tới cửa kinh đô, quả có cảm giác như vừa qua kiếp khác, trong lòng mừng rơn, lập tức vào yết kiến hoàng đế.
Khang Hy đang trong Thượng thư phòng, lập tức truyền kiến. Vi Tiểu Bảo bước tới trước mặt Khang Hy, quỳ xuống dập đầu, còn chưa đứng lên, trong lòng vui buồn xen lẫn, nhịn không được phục luôn xuống đất buông tiếng khóc lớn.
Khang Hy thấy Vi Tiểu Bảo tới, trong lòng nửa mừng nửa giận, nghĩ thầm “Thằng tiểu tử này vô pháp vô thiên, lại dám trái chỉ. Lần này tuy phái y đi làm việc nhưng cũng phải răn dạy y một phen, để y khỏi được sủng ái mà kiêu căng, lại không quản thúc được”. Nào ngờ Vi Tiểu Bảo vừa gặp mặt đã khóc lớn, Khang Hy trong lòng cũng mềm ra, cười nói “Con mẹ nó, thằng tiểu tử ngươi gặp lão tử, tại sao lại khóc?”.
Vi Tiểu Bảo khóc nói “Nô tài chỉ cho rằng suốt đời suốt kiếp không được thấy mặt hoàng thượng nữa. Hôm nay lại được gặp, quả thật rất vui mừng”. Khang Hy cười nói “Đứng lên đi, đứng lên đi! Để ta nhìn ngươi nào”. Vi Tiểu Bảo bò dậy, trên mặt đầy nước mắt nước mũi, nhưng khóe miệng lại hé nụ cười.
Khang Hy cười nói “Con mẹ nó, thằng tiểu tử ngươi cũng cao lên đấy”. Đột nhiên nổi ý trẻ thơ, bước xuống ngự tọa, nói “Chúng ta đo đo xem rốt lại là ngươi cao hơn hay ta cao hơn”, rồi bước tới đứng sóng vai với y. Vi Tiểu Bảo nhìn thấy y cao suýt soát mình, nhưng hoàng thượng muốn so cao thấp, há lại có thể cao hơn hoàng thượng, lập tức hơi khuỵu gối xuống một chút.
Khang Hy đưa tay đo đo trên đầu hai người, thấy mình cao hơn khoảng không đầy một tấc, cười nói “Chúng ta cao bằng nhau”, rồi bước ra mấy bước, cười nói “Tiểu Quế tử, ngươi sinh được mấy đứa con rồi?”. Vi Tiểu Bảo nói “Nô tài rất vô dụng, chỉ sinh được hai trai một gái”. Khang Hy hô hô cười rộ, nói “Thế thì ta hơn ngươi nhiều, ta đã có bốn con trai, ba con gái rồi”. Vi Tiểu Bảo nói “Hoàng thượng hùng tài đại lược, tự nhiên... tự nhiên rất cao cường”. Khang Hy cười nói “Mấy năm không gặp nhau, học vấn của ngươi cũng chẳng tiến bộ chút nào. Chuyện sinh con thì có liên quan gì với hùng tài đại lược chứ?”.
Vi Tiểu Bảo nói “Chu Văn vương trước kia có một trăm con trai, phàm là hoàng đế tốt thì nhất định đông con”. Khang Hy cười hỏi “Sao ngươi biết?”. Vi Tiểu Bảo nói “Hoàng thượng phái nô tài đi câu cá, chúng ta cũng giống như Chu Văn vương và Khương Thái công. Chuyện Chu Văn vương tự nhiên nô tài phải hỏi rõ, để lúc gặp hoàng thượng không đến nỗi không biết lấy gì mà trả lời”.
Mấy năm nay Khang Hy bận rộn lo đánh Ngô Tam Quế, ngày đêm vất vả lo lắng việc nước, bên cạnh không có gã bầy tôi thiếu niên Vi Tiểu Bảo này để cười đùa giải muộn, có lúc cũng cảm thấy rất tịch mịch, lúc ấy vua tôi trùng phùng, vô cùng vui mừng, nói chuyện phiếm hồi lâu, hỏi cuộc sống của y trên đảo Thông Ngật, lại hỏi tới phong thổ dân tình Đài Loan.
Vi Tiểu Bảo nói “Đài Loan đất đai màu mỡ, khí hậu ấm áp, có nhiều sản vật, bách tính sống rất sung sướng, biết hoàng thượng chuẩn cho họ được ở lại Đài Loan, ai cũng cảm kích hoàng ân hạo đãng, đều nói hoàng thượng đúng là Điểu Sinh Ngư Thang không bớt không trừ”. Khang Hy gật đầu nói “Làm chính sự thì lấy việc không quấy nhiễu dân làm đầu. Bách tính đã an cư lạc nghiệp ở Đài Loan, nếu bắt họ phải dời vào nội địa quả là quấy nhiễu dân rất lớn. Các đại thần trong triều không biết rõ tình hình Đài Loan, nghị luận bừa bãi, suýt lỡ mất việc lớn. Ngươi và Thi Lang ra sức can ngăn, công lao không nhỏ”.
Vi Tiểu Bảo phịch một tiếng quỳ xuống, dập đầu nói “Nô tài nhiều lần trái chỉ, có chém mười bảy mười tám cái đầu cũng đáng tội, bất kể có công lao gì cũng xin hoàng thượng không cần nhớ tới. Chỉ xin hoàng thượng ra ơn, tha mạng cho nô tài, cho ta được hầu hạ bên cạnh người”.
Khang Hy mỉm cười nói “Ngươi biết là chém mười bảy mười tám cái đầu cũng đáng tội, nhưng tiếc là ngươi không có mười tám cái đầu, nếu không thì ta nhất định đã chém mười bảy cái rồi”. Vi Tiểu Bảo nói “Vâng, vâng. Nô tài cũng không cần có nhiều đầu, chỉ cần giữ được một cái, có cái miệng để nói chuyện ăn cơm thì trong lòng cũng thỏa mân rồi”. Khang Hy nói “Cái đầu này có giữ được không thì còn phải xem từ nay trở đi ngươi có trung thành không, dám trái chỉ không”. Vi Tiểu Bảo nói “Nô tài Để chữ trung lên đầu, Lòng trung rỡ rỡ, Mật đỏ lòng trung, Tận trung báo quốc”.
Khang Hy nói “Ngươi nhớ được nhiều thành ngữ có chữ trung đấy, còn gì nữa không?”. Vi Tiểu Bảo nói “Nô tài trong lòng chỉ có một chữ trung, tự nhiên là nhớ rất nhiều. Ví dụ như... Ví dụ như Trung quân ái quốc, Trung thần không sợ chết, sợ chết chẳng trung thần, còn có Trung hậu thành thật...”. Khang Hy nói “Thôi đứng lên đi. Ngươi mà trung hậu thành thật thì trên đời không còn kẻ điêu ngoa xảo trá nữa”.
Vi Tiểu Bảo đứng lên, nói “Bẩm hoàng thượng, ta chỉ trung với một mình người thôi. Đối với người khác thì không trung gì lắm, có lúc biết đâu cũng gian gian một chút. Tính nô tài có chút lưu manh, chuyện đó hoàng thượng rất biết mà. Có điều ta đối với hoàng thượng rất biết trung thành, đối với bằng hữu thì rất biết nghĩa khí, lúc trung nghĩa đôi bề không thể trọn vẹn thì nô tài chỉ đành co đầu rụt cổ, câu cá trên đảo Thông Ngật thôi”.
Khang Hy nói “Ngươi không cần lo, không cần nói trước, ta không bắt ngươi đánh Thiên Địa hội đâu”. Rồi chắp tay sau lưng, đi đi lại lại, thong thả nói “Ngươi đối với bằng hữu rất biết nghĩa khí, đó là nết tốt, ta cũng không trách ngươi. Bậc thánh nhân hiểu rõ đạo trung thứ, chữ trung ấy cũng không chỉ nói chuyện thờ vua, mà hết lòng hết sức với bất kỳ ai cũng đều là trung. Hai chữ trung nghĩa, vốn là một mà hai, hai mà một. Ngươi thà chết không chịu phản bạn, không chịu vì vinh hoa phú quý mà bán đứng bạn bè, cũng kể là hiếm có, rất có phong thái cổ nhân. Ngươi đã không chịu phản bạn, tự nhiên sẽ không phản ta. Tiểu Quế tử, ta tha tội cho ngươi không phải chỉ vì những công lao trước đây của ngươi, không phải chỉ vì hai chúng ta từ nhỏ đã rất hợp nhau, mà còn vì ngươi coi trọng nghĩa khí thì hoàn toàn không có gì xấu”.
Vi Tiểu Bảo cảm kích rơi lệ, nghẹn ngào nói “Nô tài... nô tài chuyện gì cũng không biết, chỉ biết người khác thật lòng đối xử tốt với ta, thì quả thật... quả thật không thể... không thể có lỗi với y”.
Khang Hy gật gật đầu, nói “Nhiếp chính nữ vương nước La Sát đối với ngươi cũng không kém đâu, ta phái ngươi đi đánh thị thì thế nào?”.
Vi Tiểu Bảo phì một tiếng bật cười, nói “Cô ta bị ngươi ta giam cầm, suýt nữa không giữ được tính mạng, nô tài xúi cô ta dùng súng gây loạn, đoạt được ngôi cao, cũng tính là tốt với cô ta rồi. Cô ta phái quân định tới xâm chiếm giang sơn cẩm tú của hoàng thượng thì ngàn vạn lần không tha thứ cho cô ta được. Cô gái này tính tình lẳng lơ, hôm nay lẹo tẹo với người đàn ông này, ngày mai lẹo tẹo với người khác, không thể coi là thật lòng. Chỉ tiếc nước La Sát quá xa, nếu không nô tài đem một đội quân đi bắt nữ vương ấy về cho hoàng thượng xem thì cũng thú vị”.
Khang Hy nói “Năm chữ Nước La Sát quá xa rất quan trọng, chỉ bằng vào năm chữ ấy thì trận này chúng ta sẽ nắm chắc phần thắng. Nước La Sát tuy có hỏa khí lợi hại, kỵ binh kiêu dũng, nhưng họ ở xa, chúng ta ở gần. Họ vạn dặm xa xôi xuống nam, quân lính, ngựa chiến, súng ống, đạn dược, lương thực, quần áo, cái gì cũng không dễ tiếp tế. Hiện ta đã phái Thượng thư bộ Hộ Y Tang A tới Ninh Cổ Tháp xây dựng hai thành Ái Hồn, Hô Mã Nhĩ, tích trữ lương thảo đạn dược, lại đặt mười dịch trạm để việc cung ứng lương thực quân nhu được thông suốt, ùn ùn không dứt. Hôm trước lại đã truyền chỉ cho Mông Cổ sai không được buôn bán với người La Sát. Lại sai Tướng quân Hắc Long Giang là Tát Bố Tố phái kỵ binh túa ra các nơi, nếu thấy xe lương thảo của người La Sát thì phóng hỏa đốt con mẹ nó đi, thấy ngựa chiến của quân La Sát thì lập tức giết con mẹ nó đi”.
Vi Tiểu Bảo cả mừng, nói “Hoàng thượng điều động như thế, đúng là cái gì trong cái gì mà cái gì ngoài ngàn dặm, trận này đã nắm chắc bảy tám phần thắng rồi”.
Khang Hy nói “Không phải như thế. La Sát là nước lớn, theo Nam Hoài Nhân nói thì địa giới còn rộng lớn hơn cả Trung Quốc chúng ta, quyết không thể khinh địch. Nếu chúng ta thua trận, Liêu Đông mà mất, gốc nước sẽ lung lay. Họ mà thua thì cũng không quan hệ gì tới đại cuộc, chẳng qua là lui về phía bắc mà thôi. Vì thế trận này chỉ được thắng không được thua, nếu ngươi thua thì ta sẽ dẫn quân ra ngoài cửa quan thân chinh. Chuyện đầu tiên sẽ là chém đầu ngươi đấy”, lúc nói câut còn lại cũng kêu lên “Đại nhân trẻ con Trung Quốc, ta... ta là Tề Lạc Nặc Phu”. Vi Tiểu Bảo nhìn y chăm chú hồi lâu, thấy bộ râu của y bị cháy lỗ chỗ, trên mặt của bị bỏng vừa đỏ vừa sưng, nhưng cuối cùng cũng nhận ra được, cười nói “Phải rồi, ngươi là Trư La Nhụ Phu!”, Tề Lạc Nặc Phu cả mừng kêu lên “Đúng, đúng, đại nhân trẻ con Trung Quốc, ta là bạn cũ của ngươi”.
Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu là vệ sĩ của công chúa Tô Phi Á. Năm trước họ cùng đi với Vi Tiểu Bảo từ thành Nhã Khắc Tát lên Mạc Tư Khoa.
Hai người cùng quân hỏa thương trong Lạp cung tạo phản, lập được công lao không nhỏ. Sau khi công chúa Tô Phi Á chấp chưởng quốc chính, ban thưởng cho họ, tất cả vệ sĩ của mình đều được thăng làm Đội trưởng, trong đó có bốn người tới phương đông định lập công cướp bóc. Lúc thua quân mất thành, một người chết trận, một người chết cóng. Còn lại hai người rón rén chui vào địa đạo, định ra thành bỏ trốn, nào ngờ miệng địa đạo ngoài thành đã bị lấp kín, hai người tiến thoái đều khó, rốt lại hình tích bị bại lộ. Năm xưa Vi Tiểu Bảo gọi hai người bọn họ là Vương Bát Tử Kê và Trư La Nhụ Phu[56]. Hai người làm sao biết được ý tứ, chỉ nói là trẻ con Trung Quốc phát âm không đúng, gọi thì cũng lên tiếng. Nghe công chúa gọi y là “Trẻ con Trung Quốc”, lúc đầu cũng gọi theo như thế, đến khi Vi Tiểu Bảo lập công, công chúa phong tước vị cho y, các vệ sĩ lại gọi y là “Đại nhân trẻ con Trung Quốc”.
Vi Tiểu Bảo hỏi rõ chuyện đã qua, sai thân binh cởi trói, mang rượu thịt ra khoản đãi.
Bọn thân binh sợ dưới địa đạo còn có gian tế, bèn xuống lục soát một lượt, biết rõ trong phòng ngoài chỗ này ra thì không còn địa đạo tường đôi nào khác, lúc ấy mới lui ra. Đội trưởng thân binh trong lòng sợ sệt, luôn miệng nhận tội, nghĩ thầm quả là may mắn bằng trời, nếu hai tên quân La Sát này nửa đêm từ địa đạo chui ra định trốn, đâm chết Vi đại soái, thì mình không bị cả nhà chết chém tịch biên gia sản không xong.
Hôm sau Vi Tiểu Bảo gọi Hoa Bá Tư Lạc và Tề Lạc Nặc Phu hai người tới hỏi han tình hình của công chúa Tô Phi Á gần đây. Hai người nói công chúa điện hạ tổng lý triều chính, vương công đại thần, tướng quân chủ giáo toàn nước La Sát ai cũng không dám chống đối. Hai vị Sa hoàng còn nhỏ tuổi, mọi chuyện đều nghe lời chị. Tề Lạc Nặc Phu nói “Công chúa điện hạ rất nhớ đại nhân trẻ con Trung Quốc, dặn bọn ta nghe ngóng tin tức của ngươi, bảo bọn ta gặp được ngươi thì mời ngươi tới Mạc Tư Khoa chơi, công chúa sẽ có trọng thưởng”. Hoa Bá Tư Cơ nói “Công chúa điện hạ không biết đại nhân trẻ con Trung Quốc đem quân tới đây đánh nhau, nếu không thì mọi người thân thiết, là bạn bè tốt, trận này cũng không cần đánh nhau nữa”. Vi Tiểu Bảo nói “Các ngươi bịa đặt, lừa dối!”. Hai người đều thề thốt, nói đó là sự thật, quyết không phải giả.
Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Hoàng thượng vốn muốn mình nghĩ cách giảng hòa với nước La Sát, không ngại gì sai hai thằng đầy tớ này về nói với công chúa Tô Phi Á”. Bèn nói “Ta muốn viết một lá thư, các ngươi đưa về cho công chúa, có điều ta không biết chữ La Sát ngoằn ngoèo như con giun, các ngươi viết thay ta thôi”. Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu ngớ mặt nhìn nhau, đều có vẻ khó khăn, hai người bọn họ chỉ biết cưỡi ngựa bắn súng, còn nói tới việc cầm bút viết chữ thì cũng một khiếu không thông. Tề Lạc Nặc Phu nói “Đại nhân trẻ con Trung Quốc muốn viết thư tình, thì hai người bọn ta không làm được. Bọn ta... bọn ta đi tìm giáo sĩ viết giúp”, Vi Tiểu Bảo ưng thuận, sai thân binh dắt hai người đi tìm trong bọn tù binh La Sát.
Qua không bao lâu, hai người dắt một giáo sĩ râu quai nón xồm xoàm tới. Lúc ấy phần lớn quân lính La Sát đều không biết chữ, giáo sĩ theo quân ngoài việc cầu nguyện Thượng đế, khích lệ sĩ khí, còn có một chức trách trọng yếu khác là viết giúp thư gửi về nhà cho tướng sĩ. Viên giáo sĩ kia mặc trang phục quân Thanh, quần áo quá chật, bó sát vào người, trông rất buồn cười. Y sợ sệt run rẩy, theo hai viên Đội trưởng tham kiến Vi Tiểu Bảo, nói “Thượng đế ban phúc cho đại tướng quân đại tước gia Trung Quốc, cầu cho đại tướng quân Trung Quốc cả nhà bình an”.
Vi Tiểu Bảo cho y ngồi, nói “Ngươi viết cho ta một lá thư, gửi công chúa Tô Phi Á của các ngươi”. Viên giáo sĩ luôn miệng vâng dạ. Thân binh đã bày văn phòng tứ bảo ra trên bàn. Viên giáo sĩ cầm bút lông, giở giấy ra, cong cong queo queo viết chữ La Sát lên, nhưng cảm thấy bút lông quá mềm, nét bút lúc to lúc nhỏ, nói không hết sự khó khăn, nhưng không dám có nửa câu bình luận về bút mực Trung Quốc, chỉ sợ vị tướng quân Trung Quốc này nổi giận.
Vi Tiểu Bảo nói “Ngươi viết thế này: Từ sau khi chia tay, thường nghĩ tới công chúa, chỉ mong cưới được công chúa làm vợ...”. Viên giáo sĩ hoảng sợ giật nảy mình, bàn tay lỏng ra, ngọn bút lông quẹt lên tờ giấy một vệt mực lớn. Tề Lạc Nặc Phu nói “Vị đại nhân trẻ con Trung Quốc này rất được công chúa điện hạ Tô Phi Á ưa thích. Công chúa điện hạ rất yêu thương y, thường nói người tình Trung Quốc hơn người tình La Sát gấp hàng trăm lần”. Y muốn lấy lòng Vi Tiểu Bảo, không khỏi có chỗ nói tăng thêm lên. Viên giáo sĩ luôn miệng vâng dạ, nói “Vâng, vâng, hơn gấp hàng trăm lần, hàng trăm lần”. Y tâm thần bất định, văn tứ bế tắc, nhưng lại không dám cầm bút ngẫm nghĩ, chỉ đành dùng lối ăn nói sáo rỗng thường ngày viết ra, đều là lời lẽ lẳng lơ của tướng sĩ La Sát gởi cho vợ con, người tình ở quê thường ngày. Nào là “Quả tim thân yêu”, “Đêm qua anh mơ thấy em”, “Hôn em một vạn cái”, không như nhau mà đầy đủ.
Vi Tiểu Bảo thấy y ngòi bút chạy như bay, vô cùng thỏa mãn, nói “Quân La Sát cô tới chiếm đất đai Trung Quốc, giết chết rất nhiều bách tính Trung Quốc. Đại hoàng đế Trung Quốc rất tức giận, sai ta đem quân tới, bắt sống hết quân tướng của cô. Ta muốn chặt họ ra từng mảnh từng mảnh, nướng lên làm món Hà thư ni khắc...”. Viên giáo sĩ lại giật nảy mình, a một tiếng, nói “Lạy Chúa tôi!” Vi Tiểu Bảo nói tiếp “Có điều nể mặt công chúa cô, tạm thời không cắt không nướng. Nếu cô ưng thuận từ nay về sau quân La Sát không xâm phạm cương giới Trung Quốc ta nữa, Trung Quốc và La Sát sẽ làm bạn tốt. Nếu ngươi không nghe lời, ta sẽ sai quân tới giết sạch đàn ông La Sát, cô sẽ không còn có người đàn ông La Sát nào để ngủ chung nữa. Cô muốn có đàn ông ngủ chung, thì thiên hạ chỉ có người Trung Quốc thôi”.
Viên giáo sĩ trong lòng rất không cho là đúng, nghĩ thầm “Thiên hạ ngoài đàn ông La Sát không phải chỉ có đàn ông Trung Quốc, câu này rất không có lý”. Lại cảm thấy loại ngôn ngữ vô lễ như thế quyết không thể nói với công chúa, quyết ý đổi viết thành mấy câu vừa cung kính vừa thân mật, đoán là vị tướng quân Trung Quốc này cũng không sao biết được. Nhưng y là người cẩn thận, sợ bị nhìn ra chỗ sơ hở, nên mấy câu ấy đều viết thành tiếng Lạp Đinh, viết xong bất giác trên mặt lộ nét tươi cười.
Vi Tiểu Bảo lại nói “Bây giờ ta sai Vương Bát Tử Kê và Trư La Nhụ Phu đưa thư này tới cho cô, lại tặng lễ vật cho cô. Cô muốn làm tình nhân hay địch nhân của ta, là do tự cô quyết định thôi”.
Viên giáo sĩ lại sửa câu cuối cùng thành cực kỳ cung kính, viết “Tiểu thần Trung Quốc nhớ nhung ngưỡng mộ hậu ân của điện hạ, kính cẩn dâng cống vật, để tỏ lòng trung. Tiểu thần còn sống năm nào, cũng đều là bề tôi trung thành của điện hạ. Chỉ mong hai nước hòa hiếu, những quân dân La Sát bị bắt làm tù binh được trở về nước cũ, thì đó là ân đức vô lượng của điện hạ”. Câu cuối cùng là xuất phát từ lòng riêng của y, nghĩ nếu hai nước hòa nghị không thành, thì mình và đám hàng quân La Sát thế ắt chết nơi đất khách quê người, vĩnh viễn không được về nước.
Vi Tiểu Bảo đợi y viết xong, nói “Hết rồi. Ngươi đọc lại một lượt cho ta nghe”. Viên giáo sĩ hai tay cầm tờ giấy đọc, đọc tới những câu mình sửa vẫn nói theo nguyên ý của Vi Tiểu Bảo. Vi Tiểu Bảo vốn cũng chỉ biết tiếng La Sát rất có hạn, nghe ra tựa hồ cũng không sai gì lắm, đâu ngờ tới việc y dám tùy ý sửa đổi? Bèn gật gật đầu nói “Tốt lắm”. Rồi lấy ấn vàng “Phủ viễn đại tướng quân chi ấn” ra đóng mực son lên lá thư. Lá thư này là thư tình không ra thư tình, công văn không ra công văn hợp thành.
Vi Tiểu Bảo sai giáo sĩ ra ngoài lãnh thưởng, sai sư gia trong đại doanh cho lá thư vào phong bì, trên phong bì viết tên công chúa Tô Phi Á bằng chữ Trung Quốc. Viên sư gia kia chấm đẫm mực ngòi bút, dòng thứ nhất viết “Đại Thanh quốc Phủ viễn đại tướng quân Lộc Đỉnh công Vi phụng thư”, dòng thứ hai viết “Ngạc La Tư quốc Nhiếp chính nữ vương Tô Phi Hà Cố luân trưởng công chúa điện hạ”. Hai chữ “La Sát” trong kinh Phật là ma quỷ, dùng gọi nước Nga là có ý khinh thường, nên trong văn thư đều gọi là “Ngạc La Tư”. Viên sư gia kia lại biết ba chữ “Tô Phi Á” rất không trang nhã, chữ Phi kia khiến người ta nghĩ tới câu “Phương thảo phi phi” (Cỏ thơm bời bời), tựa hồ châm chọc nàng toàn thân đầy lông, vì thế viết thành Tô Phi Hà, đã hợp với điển “Lạc hà dữ cô vụ tề phì” (Ráng chiều và cò lẻ cùng bay), lại có nghĩa “Phi hà phốc diện” (Ráng bay trùm mặt). “Cố luân trưởng công chúa” là phong hiệu tôn quý nhất của các công chúa nhà Thanh, chị hoàng đế là trưởng công chúa, con gái hoàng đế là công chúa, cô gái này là Nhiếp chính vương, lại là chị của hai vị Sa hoàng, tự nhiên là công chúa đứng đầu. Chỉ nghe Vi Tiểu Bảo cười nói “Công chúa La Sát có một chuyện với ta, mấy năm không gặp, không biết cô ta ra sao?”. Viên sư gia liền viết sau phong bì hai hàng “Phù hòa Nhung Địch, quốc chi phúc dã. Như lạc chi hòa, vô sở bất giai, thỉnh dữ tử lạc chi” (Phàm hòa với Nhung Địch, là phúc của nước vậy. Nếu vui chuyện hòa, không gì không hay, xin cùng người cùng vui), nghĩ đây là câu trong Tả truyện, chỉ tiếc La Sát là nước Nhung Địch, chưa chắc đã hiểu được kinh truyện của Trung Hoa thượng quốc mình, ý nghĩa song quan trong đó lại càng không hiểu được, lông mày đẹp cho thằng mù ngó, không khỏi có chỗ đáng tiếc ngọc sáng vứt ra chỗ tối.
Vi Tiểu Bảo không những không hiểu được hàm nghĩa của chữ Trung Quốc trong câu “Ngạc La Tư quốc Cố luân trưởng công chúa Tô Phi Hà”, mà ngay cả câu “Đại Thanh quốc Phủ viễn đại tướng quân Lộc Đỉnh công Vi”, ngoài chữ Vi họ của mình và chữ Đại thì không biết chữ nào, thấy viên sư gia viết sau phong bì hai hàng chữ, bèn nói “Đủ rồi, đủ rồi. Ngươi viết chữ rất đẹp, hơn cả gã râu xồm La Sát”.
Y dặn viên sư gia chuẩn bị một phần lễ vật trọng hậu, may là đều lấy được trong thành Nhã Khắc Tát, không phải tốn kém gì. Lại gọi hai viên Đội trưởng Hoa Bá Tư Cơ, Tề Lạc Nặc Phu tới bảo họ chọn trong đám hàng binh La Sát lấy một trăm người làm hộ vệ, lập tức đưa thư về Mạc Tư Khoa. Hai viên Đội trưởng mừng rỡ quá lòng mong mỏi, không ngừng khom lưng cám ơn, lại nắm tay Vi Tiểu Bảo, liên tiếp hôn vào mu bàn tay y. Vi Tiểu Bảo mu bàn tay bị râu hai người cọ vào vừa nhật vừa ngứa, nhịn không được hô hô cười rộ.
Thành Nhã Khắc Tát nhỏ, không đủ cho đại quân đóng, lúc ấy Vi Tiểu Bảo bàn bạc với Khâm sai và Sách Ngạch Đồ, sai hai người Lang Thân, Lâm Hưng Châu dẫn hai ngàn quân giữ thành, đại quân kéo về nam chia đóng ở hai thành Ái Hồn và Hô Mã Nhĩ chờ chỉ dụ. Vi Tiểu Bảo lúc lên đường trịnh trọng dặn hai tướng Lang Thân, Lâm Hưng Châu quyết không được đào giếng, đào địa đạo trong thành Nhã Khắc Tát.
Đại quân về nam. Bọn Vi Tiểu Bảo, Sách Ngạch Đồ, Bằng Xuân đóng ở thành Ái Hồn, Tát Bố Tố suất lãnh một cánh quân khác đóng ở thành Hô Mã Nhĩ. Vi Tiểu Bảo sai hàng binh La Sát đổi mặc trang phục quân Thanh, sai người dạy tiếng Trung Quốc cho, bắt họ học thật thuộc những câu “Hoàng đế vạn tuế vạn vạn tuế”, “Thánh thiên tử vạn thọ vô cương”, “Hoàng đế Trung Quốc đức ban bốn bể, hoàng ân hạo đãng”, sau đó sai quân áp giải về Bắc Kinh, muốn họ hô lớn trên đường phố ở kinh thành, lúc triều kiến Khang Hy lại càng phải lớn tiếng reo hò, nói nếu hô càng vang rền, hoàng thượng ban thưởng càng trọng hậu.
Qua hơn hai mươi ngày, Khang Hy ban chiếu thư xuống, khen ngợi tướng sĩ xuất chinh, thăng Vi Tiểu Bảo làm Nhị đẳng Lộc Đỉnh công, các tướng sĩ còn lại đều được thăng thưởng. Khâm sai truyền chỉ đưa một cái hộp gỗ sơn đen cho Vi Tiểu Bảo, là hoàng thượng ngự tứ. Vi Tiểu Bảo dập đầu tạ ơn, mở nắp hộp ra, không kìm được ngẩn người. Trong hộp là một cái bát ăn cơm bằng vàng, trên khắc bốn chữ “Công trung thể quốc”, chính là cái bát năm xưa Thi Lang tặng y, chỉ là hoa văn vết chữ đều bị sứt mẻ, lại được tu sửa hoàn chỉnh.
Vi Tiểu Bảo nhớ năm xưa cái chén vàng này để trong phủ Bá tước ở Đồng Mạo Nhi Hồ đồng, đêm ấy lúc hoảng sợ chạy trốn hoàn toàn không mang theo, vừa ngưng thần nhớ lại đã hiểu lý do. Nhất định là đêm ấy sau khi phủ Bá tước bị pháo bắn tan nát, quân sĩ Tiền phong doanh đã lập biên bản thu nhặt những đồ vật trong phủ trình lên hoàng đế. Cái bát vàng này tuy bị hư hại nhưng chưa vỡ nát. Khang Hy sai thợ tu bỗ, lại ban cấp cho y, ý tứ tự nhiên là nói: Cái bát vàng của ngươi đã bị vỡ một lần, lần này phải bưng cho khéo, đừng để vỡ nữa. Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Tiểu hoàng đế đối với mình rốt lại cũng có nghĩa khí, chúng ta có qua có lại, mình cũng không đào long mạch của y”. Đêm ấy mở đại yến khoản đãi Khâm sai, các tướng cùng ngồi bồi tiếp, ăn tiệc xong đánh bạc.
Lại qua hơn một tháng, Khang Hy lại có thượng dụ gởi tới, lần này thì nghiêm khắc quở phạt, nói Vi Tiểu Bảo làm việc bậy bạ, muốn quân La Sát hô lớn “Vạn thọ vô cương” thì rất vô vị. Trong thượng dụ nói “Làm bậc nhân quân chăn dân phải thể theo lòng trời, yêu thương lê dán. La Sát tuy là nước man di ngoài giáo hóa, nhưng tiểu dân cũng là người, đã hàng phục quy thuận, không nên khinh khi làm nhục. Ngươi là đại thần, phải khuyên nhà vua nhân đức thương dân. Nếu trẫm có ban ơn cho mọi người thì không đáng gọi là minh quân, nhưng nếu kiêu nịnh tàn ngược, thì vạn thọ vô cương chỉ làm khổ thiên hạ mà thôi. Đại thần xiểm nịnh, đặt nhà vua vào chỗ b dặn dò rất nhiều, huynh đệ nhịn lâu quá, quả thật không nhịn được nữa”.
Đa Long hô hô cười rộ, biết hoàng đế triệu kiến bề tôi, nếu không tỏ vẻ triệu kiến đã xong thì bề tôi không được cáo từ. Kẻ bề tôi mà buồn đi tiểu, quả là một chuyện vô cùng khó khăn. Chỉ có điều cũng chỉ có loại bề tôi được sủng ái như Vi Tiểu Bảo thì hoàng đế mới nói chuyện với y lâu như thế. Các đại thần khác thì chỉ nói năm câu ba chuyện là sai lui ra, cũng không tới lượt họ buồn đi tiểu. Đa Long và Vi Tiểu Bảo trước nay thân thiết, hôm nay xa cách lâu ngày gặp lại, trong lòng rất vui vẻ. lập tức kéo tay y, dắt y tới cửa nhà xí, đứng ngoài cửa chờ y rửa tay xong trở ra.
Hôm ấy Vi Tiểu Bảo để cứu mạng sư phụ và các huynh đệ trong Thiên Địa hội, không biết làm sao đành đâm Đa Long, nhưng nghĩ tới lúc ngày thường y đối xử với mình rất tốt, trong lòng cũng rất xấu hổ, không ngờ y vẫn không chết, lại không có chút gì trách móc mình, đi tiểu xong cảm thấy vô cùng sảng khoái, ra khỏi nhà xí, bèn hỏi han chuyện hôm ấy.
Đa Long nói “Hôm ấy lúc ta tỉnh dậy, thì đã nằm trên giường ba ngày bốn đêm. Quan Thái y nói may là tim ta nằm lệch về một bên, nhát đao ấy của thích khách chỉ đâm vào phổi chứ không trúng tim. Y nói loại người tim nằm lệch về một bên như ta thì trong mười vạn người cũng không có một người”. Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Thật xấu hổ, té ra là thế”, bèn cười nói “Trước nay ta chỉ nói đại ca là hảo hán có gan ruột, nào ngờ đại ca là người tim lệch. Đại ca tim lệch là đặc biệt sủng ái tiểu di thái hay thiên lệch với con cái thế?”. Đa Long sửng sốt, cười nói “Huynh đệ mà không nói thì ta cũng không nghĩ ra đâu. Ta đối với người tiểu thiếp thứ tám có thương yêu hơn một chút, chắc là vì tim ta nằm lệch”.
Hai người cười ầm một lúc. Vi Tiểu Bảo nói “Thích khách ấy võ công rất cao cường, y tới ám toán đại ca, trước đó huynh đệ cũng không phát giác được gì”. Đa Long nói “Đúng thế”, rồi hạ giọng nói “Vừa khéo lúc ấy công chúa Kiến Ninh điện hạ tới thăm huynh đệ. Chuyện ấy bọn ta làm nô tài thì không dám hỏi nhiều. Ta dưỡng thương ba tháng mới bình phục. Hoàng thượng xuống dụ, nói Vi huynh đệ ra sức cứu ta, chính tay giết chết thích khách. Những tình tiết bên trong, huynh đệ cũng không cần nói nữa, nói tóm lại là ca ca rất cám ơn ngươi”.
Vi Tiểu Bảo mặt dày tính ra cũng thứ nhất thứ nhì trong niên hiệu Khang Hy nhưng nghe mấy câu ấy cũng không khỏi hơi đỏ mặt, mới biết là hoàng đế che giấu cho mình. Một là hoàng đế đích thân nói ra, Đa Long tự nhiên tin cậy không hề ngờ vực, hai là có dính líu tới chuyện riêng tư của công chúa, người trong cung ai cũng biết rõ là càng ít nói tới càng hay, cho dù có mối nghi ngờ to bằng trời cũng chỉ đành giấu kín trong lòng. Nếu không như thế thì phải bịa ra một câu chuyện để che giấu, lại càng hao tổn tâm lực.
Vi Tiểu Bảo trong lòng xấu hổ, cảm thấy phải báo đáp cho con người trung hậu thành thật này một phen, liền nói “Huynh đệ có mang từ Đài Loan về một ít thổ nghi, để về tới nhà sẽ sai người đưa qua phủ đại ca”, Đa Long xua xua tay nói “Không cần đâu, không cần đâu. Chúng ta là người nhà, cần gì phải khách sáo như thế? Lần trước Thi Lang mang lễ vật của huynh đệ tới, đã quá nhiều rồi”.
Vi Tiểu Bảo đột nhiên nghĩ tới một chuyện “Chuyện này thì đúng là làm ơn mà không mất tiền, cho dù hoàng thượng biết được cũng không thể trách mình trái chỉ”. Bèn hỏi “Đa đại ca, sau khi thằng tiểu tử Trịnh Khắc Sảng quy hàng, sống ở Bắc Kinh thế nào?”. Đa Long nói “Hoàng thượng đối đãi với y không tệ, phong y làm Nhất đẳng công. Thằng tiểu tử ấy chẳng ra cái gì, nhờ vào phúc của ông cha mà tước vị còn cao hơn huynh đệ”.
Vi Tiểu Bảo nói “Hôm trước chúng ta đùa giỡn, vu cáo y thiếu các thị vệ một vạn lượng bạc, do huynh đệ trả lại. Chuyện ấy đại ca còn nhớ không?”. Đa Long hô hô cười rộ, nói “Nhớ chứ, nhớ chứ. Cô nương thân thiết ấy của huynh đệ về sau thế nào? Nếu vẫn theo Trịnh Khắc Sảng, thì chúng ta đi cướp về”. Vi Tiểu Bảo mỉm cười nói “Cô nương ấy đã là vợ ta rồi, sinh được con trai rồi”.
Đa Long cười nói “Chúc mừng, chúc mừng. Nếu không thì thằng tiểu tử Trịnh Khắc Sảng ấy đang ở trong kinh, mặc mẹ y là Nhất đẳng công hay Nhị đẳng công, cũng chỉ là một gã Tước gia không quyền không thế, chúng ta mà tìm tới chắc thằng tiểu tử ấy cũng không dám đánh rắm lấy một cái đâu. Loại phiên vương quy thuận đầu hàng ấy thì suốt ngày run run rẩy rẩy, sợ hoàng thượng nghi ngờ là trong lòng không phục, lại định tạo phản”.
Vi Tiểu Bảo nói “Chúng ta cũng không cần hà hiếp y. Chỉ có điều giết người phải đền mạng, thiếu nợ phải trả tiền, đó là chuyện thiên kinh địa nghĩa. Đừng nói y chẳng qua chỉ là Nhất đẳng công, cho dù là thân vương bối lặc cũng không thể mắc nợ mà chảy ra không trả”. Đa Long nói “Đúng, đúng. Hôm ấy y thiếu huynh đệ một vạn lượng bạc, không ít người trong bọn Ngự tiền thị vệ chúng ta đều nhìn thấy, chúng ta tới đòi nợ thôi”. Vi Tiểu Bảo mỉm cười nói “Thằng tiểu tử ấy rất không ra sao. Nếu chỉ là một vạn lượng bạc thì là chuyện nhỏ. Về sau y còn liên tiếp hỏi mượn không ít tiền của ta, có viết giấy nợ hiện trong tay ta. Họ Trịnh y ba đời làm vương gia ở Đài Loan, tiền bạc châu báu tích lũy được còn ít à? Nhất định đều phải mang cả tới Bắc Kinh. Trịnh Thành Công và Trịnh Kinh là người tốt, chắc không đến nỗi liếm láp máu mỡ của bách tính, nhưng chẳng lẽ thằng tiểu tử Trịnh Khắc Sảng này lại khách khí sao? Y làm vương gia một ngày ít nhất cũng liếm láp một trăm vạn lượng, hai ngày là hai trăm vạn, ba ngày là ba trăm vạn. Y làm vương gia tất cả bao nhiêu ngày, ngươi tính thử xem nào!”, Đa Long há miệng đớ lưỡi, nói “Lợi hại thật, lợi hại thật!”.
Vi Tiểu Bảo nói “Huynh đệ về nhà lấy giấy nợ đưa qua đại ca. Món tiền này thì riêng huynh đệ cũng không cần...”. Đa Long vội nói “Chuyện đó ngàn vạn lần không được, ca ca đòi nợ giúp ngươi, đảm bảo ngươi không thiếu một đồng bạc. Ta dắt bọn thị vệ thủ hạ tới cửa ngồi đòi nợ, cho dù y có gan to bằng trời cũng không dám không trả”. Vi Tiểu Bảo nói “Món nợ này lớn đấy, năm ấy thằng tiểu tử này trời hoa đất rượu, tiêu tiền như nước. Muốn trả hết một lần cũng không phải dễ đâu, thế này đi, đại ca dắt người đi đòi, nếu mười bữa nửa tháng y vẫn không trả thì cứ cho y biến nợ chẵn thành nợ lẻ, chia ra viết thành nhiều giấy nợ, chỗ tên chủ nợ cứ ghi tên của các anh em thị vệ. Mỗi tờ viết một ngàn lượng cũng được, hai ngàn lượng cũng được. Thị vệ nào đòi được, là của người ấy”.
Đa Long nói “Như vậy không được! Bọn thị vệ ai cũng là thuộc hạ cũ của ngươi, đi đòi nợ cho thượng ty cũ là chuyện nhỏ mà lại đòi thưởng thì còn ra gì nữa?”. Vi Tiểu Bảo nói “Họ đều là thuộc hạ cũ của ta, là anh em tốt, bạn bè tốt, mấy năm nay huynh đệ ngựa tốt thêm roi thăng quan tiến chức, mà trước nay không có gì hay đem cho mọi người, nghĩ lại cũng áy náy. Mấy trăm vạn lượng bạc này, các anh em thị vệ cứ chia nhau thôi”.
Đa Long giật nảy mình, run lên nói “Cái... cái gì mà có mấy... mấy trăm vạn lượng bạc?”. Vi Tiểu Bảo mỉm cười nói “Tiền vốn thì cũng không bao nhiêu, trong đó có thêm tiền lãi, có thêm tiền này nọ, lãi mẹ đẻ lãi con, con số không nhỏ. Món tiền này, đại ca cứ lấy vài phần”. Đa Long vẫn không tin, lẩm bẩm “Mấy trăm vạn lượng à? Như... như thế không khỏi quá nhiều sao?”. Vi Tiểu Bảo nói “Cho nên muốn y chia ra viết làm nhiều giấy nợ, đòi cũng tiện hơn”. Rồi hạ giọng nói “Chuyện này đừng lôi ta vào. Nếu để các quan Ngự sử biết được, dâng một tờ tâu, nói huynh đệ giao kết với ngoại phiên, cho vay lấy lãi, không lớn thì nhỏ cũng là có tội. Nhưng nếu các Ngự tiền thị vệ đòi nợ y, mỗi người đòi một ngàn hai ngàn lượng bạc thì hoàn toàn không hề gì. Nếu đại ca sợ Ngự tiền thị vệ ăn một mình quá lớn chuyện, thì không ngại gì hẹn với quan quân trong Kiêu kỵ doanh cùng đi. Họ cũng là thuộc hạ cũ của ta, cũng nên cho họ một ít cái hay”. Đa Long luôn miệng khen phải, quyết định chủ ý, nếu đòi được món nợ này, ít nhất cũng phải trả hơn một nửa cho Vi Tiểu Bảo, tuy y khảng khái rộng rãi nhưng không thể để y không thu hồi được chút tiền vốn nào.
Vi Tiểu Bảo mười phần đắc ý, nghĩ thầm Đa Long mà dắt bọn Ngự tiền thị vệ và quan quân Kiêu kỵ doanh như sói như cọp tới đòi nợ thì Trịnh Khắc Sảng không khỏi không đau đầu. Tuy ngại vì hoàng thượng đã dặn dò trước, không thể tự mình tới làm khó Trịnh Khắc Sảng để báo thù cho sư phụ, nhưng giở trò thế này, ít nhất cũng phá tán được một nửa gia sản của y. Chuyện này thì Trịnh Khắc Sảng có quá nửa giống như thằng câm ăn phải ớt, không dám la lớn, cho dù bị người ta biết được thì cũng là Ngự tiền thị vệ và quan quân Kiêu kỵ doanh đòi nợ, chỉ là chuyện riêng, người ta chỉ có thể nói Trịnh Khắc Sảng là hạng tử đệ khố gấm, hành sự không cẩn thận, tới kinh sư vẫn còn cờ bạc bừa bãi, không ai có thể trút tội lên đầu Vi Tiểu Bảo y.
Vừa ra khỏi cung, các đại thần Mãn Hán là bọn Khang thân vương Kiệt Thư, Lý úy, Minh Châu, Sách Ngạch Đồ, Lặc Đức Hồng, Đỗ Lập Đức, Mã Phổ, Đồ Hải, Vương Hy, Hoàng Cơ, Ngô Chính Trị, Tống Đức Nghi đã chờ ngoài cửa cung, nhao nhao bước tới chúc mừng, đưa y về Đồng Mạo Nhi Hồ đồng.
Về tới trước ngõ, chỉ thấy một tòa phủ đệ to lớn sừng sững ở đó, so với phủ bá tước cũ còn lớn hơn nhiều. Trên cổng lớn treo một tấm biển ngạch sơn đen, nhưng không có chữ nào. Vi Tiểu Bảo thì chữ to b;?”. Đông Quốc Cương nói “Người này mười phần giảo hoạt, trà trộn trong đám quân sĩ, hoàn toàn không động thanh sắc. Hôm ấy hoàng thượng thẩm vấn đám hàng binh, có một giáo sĩ truyền giáo người Hà Lan làm thông dịch, hỏi tới đoạn sau, hoàng thượng nói mấy câu bằng tiếng Lạp Đinh với viên giáo sĩ. Trong bọn hàng binh La Sát có một tên trên mặt đột nhiên có vẻ kinh ngạc. Hoàng thượng hỏi y có biết tiếng Lạp Đinh không, tên quân ấy không ngừng lắc đầu. Hoàng thượng dùng tiếng Lạp Đinh nói: Lôi tên này ra chém đầu. Tên lính ấy biến sắc, quỳ xuống xin tha, nhận là biết tiếng Lạp Đinh”.
Vi Tiểu Bảo hỏi “Tiếng Lạp Đinh là tiếng gì? Lời người La Sát bọn họ nói lúc kéo trang đinh[58] gánh quân lương thì làm sao hoàng thượng biết được?”. Đông Quốc Cương nói “Hoàng thượng thông minh trí tuệ, không gì không biết. Lời người La Sát nói lúc kéo trang đinh cũng biết”. Vi Tiểu Bảo nói “Tại sao tiếng người La Sát nói lúc bình thời thì hoàng thượng không biết, mà lúc họ kéo trang đinh hoàng thượng lại biết?”.
Đông Quốc Cương không sao trả lời, cười nói “Đạo lý ở trong đó thì chúng ta đều không hiểu. Lần sau đại soái triều kiến hoàng thượng, cứ tự mình dập đầu thỉnh vấn thôi”. Vi Tiểu Bảo gật gật đầu, hỏi “Vậy người La Sát ấy về sau thế nào?”, Đông Quốc Cương nói “Hoàng thượng thẩm vấn tỉ mỉ, người ấy cuối cùng không sao che giấu, lần lượt thổ lộ tất cả. Nguyên là người ấy tên Á Nhĩ Thanh Tư Cơ, là Đô Tổng đốc của cả hai thành Ni Bố Sở, Nhã Khắc Tát”.
Mọi người nghe thấy đều không kìm được cùng a một tiếng. Vi Tiểu Bảo nói “Chức quan của thằng đầy tớ ấy không nhỏ đâu”. Đông Quốc Cương nói “Chứ không phải sao? Trong những quan lại nước La Sát phái tới phương đông thì y là lớn nhất. Hôm thành Nhã Khắc Tát bị hạ, nhất định là y đổi mặc y phục quân sĩ, đến nỗi bị y qua mặt”, Vi Tiểu Bảo lắc đầu cười nói “Hôm hạ thành Nhã Khắc Tát, tướng quân, quân sĩ, quan lớn, quan nhỏ người La Sát đều cởi hết quần áo, nhìn đi nhìn lại thì người nào cũng thế, quả thật không có gì khác nhau. Không biết được là làm quan lớn nhỏ thế nào, nói năng cũng như nhau. Huynh đệ... huynh đệ không nhận ra được đại quan của họ, cũng không phải là lỗi lầm của bọn ta”.
Các tướng hô hô cười rộ, giải thích cho Đông Quốc Cương biết tình hình hôm hạ thành Nhã Khắc Tát.
Đông Quốc Cương cười nói “Té ra là thế, thế thì cũng không trách được. Hoàng thượng nói: Vi Tiểu Bảo bắt được Đô Tổng đốc hai thành Ni Bố Sở, Nhã Khắc Tát, công lao không nhỏ, có điều y lại cho rằng người này là quân sĩ bình thường, làm việc cũng quá hồ đồ, lấy công trừ tội, chuyện này không thưởng cũng không phạt”. Vi Tiểu Bảo đứng lên, cung kính nói “n điển của hoàng thượng, nô tài vô cùng cảm kích”
Đông Quốc Cương nói “Hoàng thượng thẩm vấn A Nhĩ Thanh Tư Cơ, hỏi liên tiếp sáu ngày, quân chính đại sự, cương vực vật sản của nước La Sát đều hỏi tỉ mỉ. Hoàng thượng quả thật là trời sinh anh minh, lại phát hiện được trên người A Nhĩ Thanh Tư Cơ một bí mật. Theo Vi đại soái nói, người ấy lúc bị bắt, trên không có mảnh vải nào, không ngờ y lại có cách giấu giếm một văn kiện bí mật”.
Vi Tiểu Bảo chửi “Con bà nó, con gà chết này thật là quỷ kế đa đoan, lần sau mà gặp y, không nhìn kỹ y không được. Văn kiện bí mật ấy là cất giấu ở chỗ nào, chẳng lẽ ở... Ở...”.
Đông Quốc Cương nói “Trước khi hàng binh La Sát triều kiến hoàng thượng, tự nhiên đều bị Ngự tiền thị vệ lục soát khắp người, râu tóc đều bị sờ hết, tất cả quần và giày cũng đều phải cởi ra. Người Phiên bang lòng dạ khó lường, nếu giấu giếm hung khí trong người, thì làm sao được? Gã Á Nhĩ Thanh Tư Cơ này đương nhiên cũng bị lục soát, trên thân thể cũng không có vật gì lạ. Nhưng hoàng thượng quan sát tỉ mỉ, thấy trên vai phải y có một khối lồi lên, lại thỉnh thoảng liếc mắt vào đó, bèn hỏi y trên tay trái có vật gì. A Nhĩ Thanh Tư Cơ kéo tay áo lên, trên tay băng bó, nói là bị thương lúc ở thành Nhã Khắc Tát. Hoàng thượng bảo y bước tới gần, dùng sức bóp cánh tay y một cái. A Nhĩ Thanh Tư Cơ ối chao một tiếng, nhưng trong thanh âm lại không tỏ vẻ đau đớn gì lắm”.
Vi Tiểu Bảo cười nói “Thú vị thật, thú vị thật! Vậy thì gã La Sát ấy bị thương chỉ là giả”. Đông Quốc Cương nói “Chứ không phải sao? Hoàng thượng lập tức sai thị vệ cởi lớp băng trên cánh tay y ra. A Nhĩ Thanh Tư Cơ mặt xám như tro, hoảng sợ run bắn cả người. Vi đại soái, ngươi đoán trong lớp băng là giấu vật gì?”. Vi Tiểu Bảo nói “Ngươi vừa nói là văn kiện bí mật, chẳng lẽ là bó trong lớp băng ấy sao?”. Đông Quốc Cương vỗ tay cười nói “Đúng thế. Chẳng trách hoàng thượng thường khen ngươi thông minh, quả nhiên đoán một lần là đúng ngay. Dưới lớp băng của gã Á Nhĩ Thanh Tư Cơ rõ ràng là một văn kiện, là mật dụ của Sa hoàng nước La Sát gởi y. Hoàng thượng bảo giáo sĩ Hà Lan dịch ra, phó bản của bản sao ở đây”, rồi rút trong bọc ra một tờ công văn, cao giọng đọc:
“Ngươi nên nói với hoàng đế Trung Quốc: Đại quân chủ hoàng đế thống trị Đại Nga La Tư, Tiểu Nga La Tư, Bạch Nga La Tư kiêm đại vương nhiều nước Nga hoàng bệ hạ, oai danh vang tới nơi xa, đã có quân vương nhiều nước chịu thần phục dưới sự thống trị của đại quân chủ hoàng đế bệ hạ. Hoàng đế Trung Quốc y cũng nên xin nhận ân huệ của đại quân chủ thống trị Đại Nga La Tư, Tiểu Nga La Tư, Bạch Nga La Tư, thần phục dưới sự thống trị của đại quân chủ hoàng đế bệ hạ. Đại hoàng đế bệ hạ nhất định sẽ thương yêu hoàng đế Trung Quốc trong hoàng ân hạo đãng, lại che chở cho, để khỏi bị địch nhân xâm chiếm, hoàng đế Trung Quốc y cứ một mình thần phục đại quân chủ bệ hạ, chịu ở dưới sự thống trị tối cao của Nga hoàng bệ hạ, vĩnh viễn không thay đổi, tiến cống phú thuế cho đại quân chủ, đại quân chủ hoàng đế bệ hạ sẽ ưng chuẩn cho những người thần thuộc tự do buôn bán ở Trung Quốc và trong hai nước, vì thế hoàng đế Trung Quốc y nên để cho sứ thần của đại hoàng đế bệ hạ đi lại không ngăn trở, lại gửi thư phúc đáp cho đại hoàng đế bệ hạ”[59].
Đông Quốc Cương đọc một câu, Vi Tiểu Bảo chửi một tiếng “Đánh rắm!”. Đến khi y đọc xong, Vi Tiểu Bảo đã chửi hơn mười tiếng “Đánh rắm”.
Đông Quốc Cương nói “Hoàng thượng dụ rằng: Người La Sát dã tâm sôi sục, rất là vô lễ. Hoàng đế gởi đạo mật dụ ấy là cha của hai Sa hoàng hiện nay, y đã chết rồi. Lúc ấy y không biết người Trung Quốc chúng ta lợi hại. Bây giờ người La Sát đã nếm mùi đau khổ, chắc không còn dám ngông cuồng như trước nữa. Có điều lúc họ nghị hòa, nhất định sẽ vừa cứng vừa mềm, không thể coi thường”. Vi Tiểu Bảo nói “Đúng thế. Hoàng thượng đã dặn dò rồi, chúng ta hung dữ đánh vài tát, đá vài cước, rồi sẽ vỗ vỗ vai, vuốt vuốt lưng họ”. Đông Quốc Cương nói “Nhiếp chính nữ vương gì đó rất giảo hoạt, cô ta giả như không biết thành Nhã Khắc Tát đã bị chúng ta hạ, nói đã hạ lệnh cho quân La Sát không được giao phong với chúng ta. Nhưng trong quốc thư lại để lòi đuôi, xin hoàng thượng giao lại những người La Sát bị bắt cho họ chính pháp”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Làm gì có chuyện tiện nghi như thế? Cô ta đưa tới cho ta mấy tấm da điêu, mấy viên bảo thạch, mà lại muốn chúng ta thả hết quan quân của cô ta à?”.
Đông Quốc Cương nói “Hoàng thượng dặn người La Sát đã xin giảng hòa thì nghị hòa với họ cũng không hề gì, có điều chúng ta phải mang đại quân tới, thề ước dưới thành”. Vi Tiểu Bảo hỏi “Cái gì là thề ước dưới thành?”. Đông Quốc Cương nói “Hai nước giao binh, quân chúng ta bao vây thành trì Phiên bang, Phiên bang cầu hòa, soạn thảo hòa ước ngay dưới thành, như thế gọi là thề ước dưới thành. Bọn Phiên bang tuy nói đầu hàng nhưng vẫn không chịu nhận thua đâu”. Vi Tiểu Bảo nói “Té ra là thế. Thật ra nếu chúng ta ra quân đánh thành Ni Bố Sở, cũng không phải chuyện khó”.
Đông Quốc Cương nói “Hoàng thượng dụ rằng đánh thắng La Sát thêm vài trận nữa vốn là việc đã nắm chắc. Có điều La Sát là nước lớn hiện nay, thống hạt rất nhiều nước nhỏ. Nếu họ thua to ở phương đông, mất hết oai phong, các nước nhỏ thần thuộc sẽ không phục. Đến lúc ấy thì nước La Sát không mang đại quân tới báo thù không xong, sẽ chiến tranh liên miên, gây ra tai họa, không biết đánh nhau đến năm nào tháng nào mới xong. Hoàng thượng tra hỏi Á Nhĩ Thanh Tư Cơ, biết phía tây nước La Sát có một nước lớn khác, gọi là Thụy Điển, hiện có thế đụng nhau là đánh lớn với nước La Sát. Nếu nước La Sát đồng thời đánh nhau với cả hai phía đông tây thì rất đau đầu. Chúng ta nhân cơ hội này buộc họ ký hòa ước thì nhất định có thể chiếm phần tiện nghi, ít nhất cũng có thể giữ cho phương bắc thái bình được một trăm năm”.
Vi Tiểu Bảo sau khi đại thắng, rất muốn một hồi trống thừa thế hạ luôn thành Ni Bố Sở, nghe hoàng thượng ưng thuận cho La Sát cầu hòa, thấy không thỏa mãn, nhưng đây là quyết sách của hoàng đế, cũng là anh vợ mình, y muốn cái gì đó trong cái gì đó mà cái gì đó ngoài vạn dặm, mình cũng khó có thể trái chỉ, lại xoay chuyển ý nghĩ “Ngươi là cậu hoàng thượng, cũng là cậu vợ ta, tính vai vế thì là bậc trưởng bối của ta, ngươi là Nhất đẳng công, ta chỉ là mới được thăng Nhị đẳng công. Lần này nghị hòa với La Sát, hoàng thượng lại phái ngươi làm phó cho ta, thì hoàng thượng đã cho ta có thể diện nhiều lắm rồi”.
Đông Đồ Lại cha Đông Quốc Cương là cha Hcute;c ấy đánh nhau với nước La Sát, bất kể chuyện lớn nhỏ gì cũng đã sắp xếp ổn thỏa, đại quân còn chưa rời kinh mà đã đoán trận này ắt thắng, so với lúc đánh nhau với Ngô Tam Quế năm xưa lúc nào cũng nơm nớp lo sợ quả thật khác hẳn.
Vi Tiểu Bảo phải lập tức xuất chinh, không dám tới gọi các huynh đệ trong Thiên Địa hội, nghĩ thầm “Hoàng thượng không bảo mình đi tiêu diệt Thiên Địa hội, đó là y đầu hàng mình, đã nể mặt mình nhiều rồi. Nếu mình không biết điều, lại tụ họp với bọn Lý Lực Thế, Từ Thiên Xuyên, để hoàng thượng biết được, lại nhắc tới chuyện cũ, đó là Vi Tiểu Bảo tự vác đá đập chân mình, làm người đã quá chậm hiểu lại còn ngu lâu”.
Khâm thiên giám chọn ngày hoàng đạo cát nhật, đại quân bắc chinh. Hôm ấy Khang Hy ban yến ở cửa Thái Hòa, ngoài Ngọ môn bày đủ nghi vệ, dưới bệ giăng lều vải vàng, đặt ngự tọa, bày sắc ấn, vương công bá quan đều tụ họp. Khang Hy lên bục, Phủ viễn đại tướng quân Lộc Đỉnh công Vi Tiểu Bảo dẫn bọn võ tướng xuất chinh là Bằng Xuân, Tát Bố Tố, Lang Thân, Lâm Hưng Châu, quan vận lương là Sách Ngạch Đồ quỳ xuống. Đại thần nội viện đọc sắc thư bằng ba thứ tiếng Hán Mãn Mông, trao sắc ấn đại tướng quân, ban cho áo giáp, ngựa chiến, cung tên, bội đao. Các tướng xuất chinh chia nhau ngồi phía bắc cầu Kim Thủy, hai bên tấu nhạc diễn trò. Khang Hy gọi đại tướng quân tới trước ngự tọa dặn dò phương lược, đích thân ban cho ngự tửu, đại tướng quân quỳ xuống đón lấy uống cạn, bọn Đô thống, Phó Đô thống nối nhau tiến vào, hoàng đế sai thị thần ban rượu, sau đó sai bá quan mời rượu các tướng, ban cho tiền lụa. Bá quan và chúng tướng tạ ơn, đại quân lên đường, Khang Hy đích thân tiễn ra cửa Ngọ môn. Đại tướng quân và các tướng quỳ xuống xin hoàng đế hồi giá, sau đó thủy lục đại quân theo đường lên bắc.
Các đại thần nhìn thấy Vi Tiểu Bảo thân mang giáp trụ mà miệng cười toe toét, không hề có nửa điểm oai vũ của đại tướng quân thống soái, vốn biết người này bất học vô thuật, là một gã vô lại ở chợ búa, mang quân xuất chinh có quá nửa sẽ làm hỏng việc lớn, làm mất thể diện quốc gia, nhưng biết Khang Hy rất sủng ái y, ai dám khuyên can nửa câu? Không ít vương công đại thần ngoài mặt tươi cười, trong lòng lo lắng. Đúng là:
Thừa tướng ngu ngơ lo giữ hốt,
Tướng quân nhảy nhót bước lên đàn.
Vi Tiểu Bảo vâng lệnh hoàng đế làm việc, trước nay chưa lần nào oai phong như thế này, trong lòng đắc ý thế nào không cần phải nói, biết lần này việc có quan hệ rất lớn, trong quân cố gắng kìm chế, không dám mở sòng bạc, dọc đường lúc buồn bực, cũng chẳng qua mời mấy viên đại tướng tới gieo xúc xắc vài ván, người thua bị phạt rượu mà thôi.
Một hôm, đại quân ra tới Sơn Hải quan, tiến lên Liêu Đông phía bắc. Đây là nơi Vi Tiểu Bảo từng đi qua, chỉ là năm xưa cùng Song Nhi trong rừng bắt hươu để ăn, trốn đông núp tây, vô cùng thảm hại, làm gì có oai phong ra ải bắc chinh như hôm nay?
Lúc ấy khí thu mát mẻ, trời quang muôn dặm, đại quân dần dần đi lên phía bắc, gió bấc ngày càng mạnh. Hôm ấy còn cách thành Nhã Khắc Tát hơn một trăm dặm, tiên phong Hà Hựu tới đại doanh bẩm báo quân xích hậu được bách tính ở địa phương cho biết, quân La Sát đổ ra bốn phía quấy nhiễu nhân dân, giết người đốt nhà, cướp bóc hãm hiếp, không chuyện ác nào không làm, cứ qua mười ngày lại kéo ra một lần, chắc vài hôm nữa sẽ lại ra cướp bóc.
Vi Tiểu Bảo đã được Khang Hy chỉ thị cơ nghi, cho đại quân đóng lại không tiến, sai Hà Hựu thống suất mười đội một trăm quân chia ra mai phục cách thành Nhã Khắc Tát ba mươi dặm. Nếu đại quân La Sát kéo ra thì núp kín tránh không giao chiến, nếu gặp toán nhỏ ít người thì hoặc giết hoặc bắt, tiêu diệt tất cả, không cho tên nào về thành. Hà Hựu vâng lệnh kéo quân đi.
Qua vài hôm, trước giờ Ngọ nghe ở xa văng vẳng có tiếng súng nổ, chỗ này lắng xuống chỗ kia vang lên, hồi lâu không dứt, đoán là đội tiên phong đã giao chiến với quân La Sát. Đến sau giờ Ngọ, Hà Hựu sai người về đại doanh báo tiệp, nói là giết được hai mươi lăm tên, bắt được mười hai tên quân La Sát. Vi Tiểu Bảo được tin cả mừng. Đến xế chiều, tướng tiên phong giải hai mươi tên tù binh La Sát vào đại doanh.
Vi Tiểu Bảo lên trướng, đích thân thẩm vấn. Mười hai tên quân La Sát nghe Vi Tiểu Bảo nói tiếng La Sát vô cùng kinh ngạc, nhưng người nào cũng mười phần quật cường, nói là bị trúng mai phục, quân Thanh đông người, có thắng cũng không vinh dự.
Vi Tiểu Bảo cả giận, gọi hai tên quân La Sát tới, móc xúc xắc trong bọc ra, nói “Hai người các ngươi gieo xúc xắc đi!”.
Trò gieo xúc xắc này, ở Tây dương từ xưa đã có, trong mộ cổ ở Ai Cập cũng đã khai quật được, cũng không khác gì xúc xắc ở Trung Quốc, quân La Sát cũng quen chơi, hai tên quân La Sát nhìn nhau ngạc nhiên, không biết vị tướng quân trẻ nhà Thanh này giở trò gì, nhưng cũng theo lời gieo xúc xắc. Hai người gieo xúc xắc, một người được bảy điểm, một người được năm điểm.
Vi Tiểu Bảo chỉ tên quân La Sát gieo được năm điểm nói “Ngươi thua rồi, tử man cơ!”. Trong tiếng La Sát “Tử man cơ” là có ý “tử vong”. Y quay đầu gọi thân binh “Lôi ra chém!”, bốn tên thân binh kéo tên quân La Sát ấy ra ngoài trướng, một đao chém chết, đem thủ cấp vào dâng lên. Mười một tên còn lại vừa nhìn thấy, ai cũng biến sắc.
Vi Tiểu Bảo chỉ hai tên La Sát khác nói “Hai người các ngươi ra gieo xúc xắc”, hai người này đời nào còn dám gieo, không hẹn mà cùng nói “Ta không gieo!”. Vi Tiểu Bảo nói “Được, các ngươi không gieo”, nói với thân binh “Lôi cả hai ra chém!”, trong khoảnh khắc lại giết chết hai người.
Vi Tiểu Bảo lại chỉ vào hai tên La Sát nói “Hai người các ngươi ra gieo”, hai người biết nếu không gieo sẽ lập tức bị giết, gieo xúc xắc một lần thì còn một nửa cơ hội sống sót. Một người run rẩy cầm xúc xắc lên đang định gieo, người kia giơ tay giật lấy nói với Vi Tiểu Bảo “Ta gieo với ngươi!”, thần sắc vô cùng ngạo mạn.
Vi Tiểu Bảo cười nói “Giỏi lắm, ngươi lại lớn mật dám khiêu chiến với ta. Ngươi gieo trước đi”. Tên La Sát ấy gieo được bảy điểm, Vi Tiểu Bảo gieo được mười điểm, cười nói “Thế nào?”. Tên La Sát ấy thần sắc thê thảm, nói “Ta không may, chẳng có gì để nói cả”. Vi Tiểu Bảo nói “Ngươi tới Trung Quốc bọn ta, đã giết bao nhiêu người Trung Quốc rồi?”. Tên La Sát ấy ngang nhiên nói “Không nhớ rõ, nhưng ít nhất cũng là mười bảy mười tám người. Ngươi giết ta đi, dù sao ta cũng không bị thiệt”. Vi Tiểu Bảo sai kéo y ra chém, rồi chỉ vào một tên La Sát nói “Ngươi gieo đi”.
Tên La Sát ấy cầm lấy xúc xắc, bàn tay run lên, hai hạt xúc xắc một trước một sau rơi xuống bàn, ra mười một điểm, cơ thắng rất lớn. Vi Tiểu Bảo muốn giở trò để gieo ra mười hai điểm, nào ngờ lâu quá không luyện tập, thủ pháp không linh, hai hạt xúc xắc mặt sáu đều không lật lên mà cùng úp xuống, biến thành chỉ có hai điểm. Y sửng sốt rồi hô hô cười rộ, nói “Ta thắng rồi!”. Tên La Sát kia vội nói “Ta được mười một điểm, ngươi chỉ có hai điểm, tại sao lại là ngươi thắng?”. Vi Tiểu Bảo nói “Lần này điểm ít hơn là thắng, điểm nhiều hơn là thua”. Tên La Sát kia không phục, nói “Tự nhiên điểm lớn là thắng, quy củ của người La Sát bọn ta trước nay là thế”. Vi Tiểu Bảo làm mặt lạnh, nói “Đây là đất Trung Quốc hay đất La Sát?”. Tên La Sát kia nói “Là... là đất Trung Quốc”. Vi Tiểu Bảo nói “Đã là đất Trung Quốc, tự nhiên là phải theo quy củ Trung Quốc. Ai bảo các ngươi tới Trung Quốc làm gì? Lần sau nếu ta tới đất La Sát, lại gieo xúc xắc với ngươi, thì sẽ tuân theo quy củ của nước La Sát là được. Ngươi tử man cơ!” rồi quay qua gọi thân binh “Lôi ra chém!”.
Y lại gọi một tên quân La Sát ra, tên này tâm tư cũng tinh tế, trước hết là hỏi rõ “Theo quy củ Trung Quốc thì lần này điểm nhiều hơn là thắng hay điểm ít hơn là thắng?”. Vi Tiểu Bảo nói “Theo quy củ Trung Quốc thì người Trung Quốc thắng. Người Trung Quốc điểm nhiều hơn thì điểm nhiều thắng, người Trung Quốc điểm ít hơn thì điểm ít thắng”. Tên La Sát ấy tức tối nói “Ngươi thật quá ngang ngược, không biết đạo lý”. Vi Tiểu Bảo nói “Quân La Sát các ngươi tới Trung Quốc giết người cướp của chứ không phải người Trung Quốc bọn ta tới nước La Sát giết người cướp của, rốt lại người Trung Quốc ngang ngược hay người La Sát ngang ngược?”. Tên La Sát ấy im lặng. Vi Tiểu Bảo nói “Gieo mau đi, gieo mau đi!”. Tên La Sát ấy nói “Dù sao ta cũng thua, còn gieo làm gì?”. Vi Tiểu Bảo nói “Không gieo thì tử man cơ! Lôi ra chém!”.
Y lại gọi một tên quân La Sát ra, tên này thân hình cao lớn, trên mặt đầy râu, cao giọng nói “Thằng tiểu tử Trung Quốc, ngươi không cần giở trò, cứ sảng khoái giết ta là được. Lần này các ngươi đông người, mai phục trong tuyết, đột nhiên xông ra, có thắng cũng không vinh dự. Quân nước La Sát bọn ta tới, sẽ giết hết tất cả các ngươi”. Vi Tiểu Bảo nói “Ngươi bị ta bắt, thua cũng không phục, phải không?”. Tên quân La Sát ấy nói “Tự nhiên là không phục!”. Vi Tiểu Bảo nói “Nếu bọn ta số người bằng nhau, đối diện giao phong, thì các ngươi nhất định thắng, phải không?”.
Tên La Sát ấy ngạo nghễ nói “Cái đó tự nhiên. Người La Sát bọn ta một người đánh thắng năm người Trung Quốc, nếu không thế bọn ta đã không tới Trung Quốc. Ta đánh cuộc với ngươi, các ngươi gọi năm người ra đây đánh nhau với ta. Các ngươi mà thắng thì cứ giết ta, nếu ta thắng thì phải lập tức thả ta ra”. Tên này là dũng sĩ nổi tiếng trong quân La Sát, sinh ra có thần lực, nhìn thấy tướng sĩ thân binh trong doanh Vi Tiểu Bảo so với y đều thấp hơn ít nhất là một cái đầu, lấy một chống năm thì mình vẫn nắm nhiều phần thắng hơn.
Song Nhi nãy giờ vẫn đứng bên cạnh, lúc ấy nghe y nói năng ngạo mạn, liền nói “Người La Sát vô dụng. Phụ nữ Trung Quốc cũng thắng được ngươi”, nói xong bước ra đứng bên cạnh Vi Tiểu Bảo. Tên La Sát ấy thấy nàng thân hình thấp nhỏ, dung mạo xinh đẹp, nhịn không được cười phá lên, nói “Ngươi muốn tỷ võ với ta à?”. Vi Tiểu Bảo sai thân binh cởi trói cho y, mỉm cười nói “Song Nhi ngoan, cho y biết phụ nữ Trung Quốc chúng ta lợi hại đi”. Tên La Sát kia nói “Nữ nhân Trung Quốc lại biết tiếng La Sát, giỏi lắm, giỏi lắm!”.
Tiếng La Sát của Song Nhi so với Vi Tiểu Bảo thì kém xa, nói ra lời không tỏ được ý, không muốn nói nhiều với y, tay trái vung ra, đánh hờ vào mặt y một chưởng. Tên La Sát ấy vội ngửa đầu ra, vung tay đỡ gạt. Song Nhi chân phải phi ra, chát một tiếng đá trúng bụng dưới y. Tên La Sát ấy bị đau, gầm lớn một tiếng, hai quyền cùng phát. Y là hảo thủ quyền thuật của nước La Sát, ra quyền mau lẹ, lực đạo trầm trọng. Song Nhi thấy lợi hại, lách người ra sau lưng y ra chiêu Tả hữu phùng nguyên, chát chát hai tiếng, đá trúng eo lưng y hai đá. Tên quân La Sát ấy đau quá ngồi thụp xuống, kêu lên “Ngươi dùng chân, phạm quy, phạm quy!”. Nguyên là người La Sát đấu quyền, quy định không được dùng chân.
Vi Tiểu Bảo cười nói “Đây là đất Trung Quốc, đánh nhau cũng phải theo quy củ Trung Quốc”.
Song Nhi kêu lên “Người La Sát, ta thắng rồi” rồi lách người chuyển ra trước mặt y, quyền phải đánh vào bụng dưới y, tên quân La Sát ấy vung tay gạt ra. Song Nhi một quyền ấy là hư chiêu, không chờ y đỡ, quyền phải đã rút lại, chưởng trái đã đánh vào ngực y, tên La Sát ấy lại vung tay gạt ra. Song Nhi trái một quyền, phải một quyền, liên tiếp đánh ra mười hai quyền, quyền nào cũng là hư chiêu, chiêu này trong võ thuật Trung Quốc có một cái tên gọi là Hải thị thần lâu, ý tứ đều là hư ảo, chỉ vì chiêu nào cũng không đánh thật, không để lâu, nên so với quyền pháp bình thường còn nhanh hơn mấy lần.
Tên La Sát kia đỡ liên tiếp mấy cái đều gạt vào khoảng không, hô hô cười rộ cười nói “Con gái đùa giỡn, chỉ vô dụng...”. Câu nói chưa dứt, chát chát hai tiếng, hai má liên tiếp bị trúng hai chưởng. Tên La Sát ấy lớn tiếng quát tháo, hai tay đánh thẳng ra.
Song Nhi đảo người tránh qua, ngón trỏ tay phải phóng ra đã điểm trúng huyệt Thái dương bên phải của y. Tên La Sát choáng váng, thân hình lảo đảo. Song Nhi sấn lên, vung chưởng chém trúng huyệt Ngọc chẩm sau gáy y, đây là đại huyệt trên thân thể con người, tên La Sát ấy tuy to khỏe nhưng cũng không chi trì được, ngã vật xuống đất không bò dậy nổi.
Vi Tiểu Bảo cả mừng, nắm tay Song Nhi, đá vào gáy tên La Sát ấy một đá, hỏi “Ngươi có phục hay không?” tên La Sát ấy mơ mơ hồ hồ nói “Nữ nhân Trung Quốc... dùng yêu pháp... là bà đồng...”. Vi Tiểu Bảo chửi “Con heo thối tha, yêu pháp cái gì? Lôi ra chém! Bọn La Sát các ngươi có ai không phục, muốn ra tỷ võ nữa không?”.
Năm tên tù binh La Sát còn lại ngớ mặt nhìn nhau, nhìn thấy đại lực sĩ như thế còn thua thì mình quyết không phải là đối thủ, không ai dám lên tiếng. Vi Tiểu Bảo nói “Các ngươi nhận thua đầu hàng thì sẽ tha không giết, nếu không thì tới đây gieo xúc xắc với ta, mọi người theo quy củ Trung Quốc, thắng được ta thì sống, thua thì tử man cơ!”, nói xong vung tay phải một cái ra hiệu chém đầu. Năm người kia đều nghĩ “Theo quy củ Trung Quốc thì bất kể đổ được bao nhiêu điểm cũng phải thua y”. Liền có một người khom lưng nói “Đầu hàng!”. Vi Tiểu Bảo mừng rỡ nói “Tốt lắm! Mang rượu thịt ra thưởng cho y”. Bọn thân binh đi vào sau trướng bưng ra một bát rượu lớn, một bát thịt lớn, cởi trói cho tên La Sát ấy, cho y ăn uống.
Nước La Sát khí hậu lạnh lẽo, ai cũng thích rượu. Vi Tiểu Bảo tuy không thích uống rượu, nhưng trong quân có sẵn rượu cao lương cực phẩm, vừa bưng ra lập tức bốc mùi thơm phức cả trướng. Bốn người còn lại vừa ngửi thấy mùi rượu, đã sớm chảy nước bọt, lại nhìn thấy tên La Sát kia uống rượu rất vui vẻ, trong lòng ngứa ngáy không sao chịu nổi, từng người lần lượt nói “Đầu hàng, đầu hàng! Muốn uống rượu”.
Vi Tiểu Bảo sai cởi trói cho bốn người, bảo thân binh lấy bốn phần rượu thịt ra chia cho họ. Quân La Sát uống hết rượu cũng chưa thỏa mãn, Vi Tiểu Bảo lại sai thưởng thêm cho mỗi người một phần rượu. Năm tên tù binh La Sát uống đến lúc ngà ngà say, nắm tay nhau hát, hát được một lúc, nghĩ tới giữa cái chết lại được sống, lại còn được ăn to uống lớn vui vẻ thế này, đều khom ngưén nữa”, rồi nói “Nói thế thì hai nước thông thương là công chúa vì chuyện riêng chứ không phải vì chuyện công à?”. Tề Lạc Nặc Phu nói “Vâng, vâng, hoàn toàn là vì đại nhân trẻ con Trung Quốc”. Vi Tiểu Bảo nói “Hiện ta đã không phải là trẻ con, các ngươi không được gọi là đại nhân trẻ con Trung Quốc gì đó nữa”. Hai người nhất tề khom lưng thật thấp, nói “Vâng, vâng, đại nhân các hạ Trung Quốc”. Vi Tiểu Bảo cười khẽ một tiếng, nói “Được, các ngươi lui ra nghỉ ngơi đi. Bọn ta định tới Ni Bố Sở, các ngươi đi cùng là được”.
Hai người cùng giật nảy mình, nhìn nhau một cái, nghĩ thầm “Đại quân Trung Quốc tới Ni Bố Sở làm gì? Chẳng lẽ là tới đánh thành sao?”. Vi Tiểu Bảo nói “Các ngươi yên tâm. Ta đáp ứng công chúa, hai nước hòa hiếu, không đánh nhau nữa là được”. Hai người nhất tề khom lưng, nói “Đa tạ đại nhân trẻ..., không phải, các hạ Trung Quốc”.
Hoa Bá Tư Cơ lại nói “Công chúa nghe nói cầu ở Trung Quốc xây dựng rất tốt, bất kể mặt sông lớn rộng thế nào cũng có thể dùng đá lớn xây cầu, bên dưới không cần trụ đá. Công chúa yêu thích đại nhân các hạ Trung Quốc, cũng yêu thích đồ vật của Trung Quốc, nên xin đại nhân phái vài kỹ sư giỏi xây cầu tới Mạc Tư Khoa xây vài chiếc cầu đá Trung Quốc thần kỳ. Công chúa điện hạ hàng ngày nhìn thấy cầu đá Trung Quốc, đi lại tản bộ trên cầu, cũng như hàng ngày được thấy mặt đại nhân các hạ”.
Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Thuốc La Sát cứ đổ hết chén này tới chén khác, uống nữa thì mình phải ói ra mất. Công chúa đặc biệt vừa ý cầu đá Trung Quốc chúng ta, vì lý do gì? Trong này ắt có chuyện kỳ lạ, không thể mắc lừa con hồ ly La Sát này được”. Liền nói “Công chúa nhớ nhung ta thì không cần xây cầu đá, công trình lớn quá. Để ta gởi cô ta mấy cái chăn, mấy cái gối bằng gấm Trung Quốc là được, cho cô ta hàng đêm ôm ấp nằm ngủ, giống như đêm nào cũng có đại nhân các hạ Trung Quốc bầu bạn với cô ta”.
Hai viên Đội trưởng La Sát nhìn nhau một cái, trên mặt đều có vẻ nhăn nhó. Tề Lạc Nặc Phu nói “Như thế... giống như...”. Hoa Bá Tư Cơ đầu óc mau lẹ hơn, nói “Chủ ý của đại nhân các hạ rất cao minh, ôm chăn ôm gối Trung Quốc ngủ cũng rất hay. Có điều chăn gối bằng gấm qua vài năm sẽ cũ rách, không vững chắc bằng cầu đá, vì thế mới xin đại nhân phái kỹ sư tới xây dựng cầu đá”.
Vi Tiểu Bảo nghe khẩu khí của hai người thì triều đình La Sát có nhu cầu rất cấp thiết về kỹ sư xây dựng cầu đá, đoán ắt là có âm mưu quỷ kế. Y không biết đương thời kỹ thuật xây cầu của Trung Quốc đứng đầu thiên hạ, người ngoại quốc tới Trung Quốc nhìn thấy cầu đá quy mô bề thế ắt tặc lưỡi khen lạ, tán thưởng không thôi, làm sao có thể bắc cầu qua mặt sông rộng mà phía dưới không cần trụ cầu, càng cảm thấy thần kỳ không lường được. Người La Sát mong mỏi học được cách thức xây cầu ấy rốt lại là xuất phát từ lòng hâm mộ khoa học kỹ thuật Trung Quốc chứ hoàn toàn không có âm mưu gì[62].
Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Các ngươi càng cần thì lão tử càng không cho”, bèn nói “Biết rồi, lui ra đi!”
Hai viên Đội trưởng không dám nói nữa, làm lễ lui ra.
*

*

Chẳng bao lâu, Khâm sai đại thần nước La Sát là Phí Yếu Đa La ở thành Ni Bố Sở được tin quân Thanh kéo tới, vội sai người đưa thư, xin quân Thanh đóng lại ở chỗ cũ, y sẽ lập tức tới gặp[63].
Vi Tiểu Bảo nói “Không cần khách khí, cứ để bọn ta tới chào khách thôi!”. Quân Thanh ùn ùn cuồn cuộn kéo tới dưới thành Ni Bố Sở. Tát Bố Tố, Bằng Xuân, Mã Lạt chia nhau thống lãnh người ngựa, đi vòng quanh đóng giữ các đường yếu đạo phía bắc, phía nam, phía tây thành Ni Bố Sở, đã chặn đường rút lui của quân La Sát, lại cản trở viện binh phía tây. Vi Tiểu Bảo đích thân thống lãnh trung quân đóng ở phía đông thành. Pháo lưu tinh trong trung quân bắn lên không, pháo hiệu bốn phía cùng vang lên ầm ầm.
Đại thần, võ quan, sĩ tốt La Sát trong thành Ni Bố Sở thấy quân Thanh đông nghịt như mây vây thành, quân dung hùng tráng, không ai không mất hết khí thế. Phí Yếu Đa La lập tức sắp xếp lễ vật sai người đưa tới quân Thanh, lại gởi thư cho Khâm sai đại thần Trung Quốc nói hoàng đế hai nước đã quyết định bãi binh nghị hòa, lần này gặp nhau cốt để bàn định hòa ước, quân đội hai bên không nên cách nhau quá gần, để tránh dẫn tới xung đột, làm tổn thương tới ý hòa hiếu của hai nước.
Vi Tiểu Bảo bàn bạc với các đại thần. Mọi người đều nói Trung Hoa thượng quốc không thể ngang ngược, phải nên tiên lễ hậu binh. Lúc ấy Vi Tiểu Bảo ra lệnh lui lại vài dặm, đóng từ sông Thập Nhĩ Khách qua phía đông, lại sai quân Thanh ở ba phía bắc, tây, nam thành Ni Bố Sở lui vào rừng núi chờ lệnh.
Phí Yếu Đa La thấy quân Thanh lui lại, cũng hơi yên tâm, lại viết một văn thư đề ra bốn điều kiện khi hội kiến: thứ nhất là chỗ hội kiến phải ở giữa thành Ni Bố Sở và sông Thập Nhĩ Khách, thứ hai là hôm hội kiến Khâm sai mỗi nước đều dắt theo bốn mươi tùy viên, thứ ba là hai nước đều đem năm trăm quân ra, quân Nga đóng ở ngoài thành Ni Bố Sở, quân Thanh đóng ở bờ sông Thập Nhĩ Khách, thứ tư là thân binh tùy tùng nghi vệ của Khâm sai mỗi nước mang theo chỉ giới hạn trong số hai trăm sáu mươi người, ngoài đao kiếm không được mang theo hỏa khí. Sở dĩ y đề ra bốn điều kiện ấy, vì quân Thanh thế mạnh, quân Nga ít người, nếu hai bên không giới hạn nhân số, thì quân Nga sẽ rơi vào thế hạ phong. Nhưng hỏa khí của quân La Sát lợi hại, nếu so sánh đôi bên thì quân Nga chiếm ưu thế, đoán là đối phương không chịu, nên đề ra trước, quy định vệ binh chỉ được mang theo đao kiếm. Trong văn thư lại đề nghị hôm sau sẽ hội kiến.
Vi Tiểu Bảo bàn bạc với các đại thần xong, đều thấy là được, lập tức tiếp nhận, sai quân liền đêm dựng trướng làm chỗ hội kiến.
Sáng sớm hôm sau, bọn Khâm sai Vi Tiểu Bảo, Sách Ngạch Đồ, Đông Quốc Cương dẫn các tùy viên, mang theo hai trăm sáu mươi quân khiên mây tới chỗ hội sở. Chỉ thấy chỗ cổng thành Ni Bố Sở mở ra, có hơn hai trăm kỵ binh Ca Khắc Tát cầm trường đao hộ tống một đám quan viên La Sát phi ngựa tới.
Đội kỵ binh này người cao ngựa lớn, oai phong lẫm lẫm, quân khiên mây Trung Quốc đều là bộ binh, so ra thanh thế kém xa.
Đông Quốc Cương chửi “Con bà nó, bọn quỷ La Sát giảo hoạt thật, bước đầu tiên chúng ta đã mắc lừa rồi. Đã nói rõ là mỗi bên chỉ mang theo hai trăm sáu mươi vệ binh, chỉ là quên nói kỵ binh hay bộ binh. Họ nhiều hơn chúng ta hai trăm sáu mươi con ngựa”. Sách Ngạch Đồ nói “Chuyện này nhắc nhở chúng ta, lúc bàn bạc với người La Sát phải dốc hết hai trăm vạn phần tinh thần, chỉ sơ suất nửa phần là mắc lừa đấy”.
Trong lúc nói chuyện, quân La Sát đã phi ngựa tới. Đông Quốc Cương nói “Chúng ta tuân lời hoàng thượng dặn dò, chuyện gì cũng phải nghĩ tới Trung Hoa thượng quốc là nước lễ nghĩa, mọi người xuống ngựa đi”. Vi Tiểu Bảo nói “Được, mọi người xuống ngựa”. Mọi người nhất tề xuống ngựa, chắp tay đứng nghiêm. Khâm sai La Sát Phí Yếu Đa La nhìn thấy tình hình như thế, lập tức ra lệnh một tiếng, các quan viên cũng đều xuống ngựa, khom lưng làm lễ, đôi bên đi tới gần nhau.
Phí Yếu Đa La nói “Khâm sai Nga La Tư Phí Yếu Đa La, phụng mệnh Sa hoàng, kính chúc hoàng đế nước Đại Thanh thánh thể an khang”. Vi Tiểu Bảo bắt chước y, cũng nói “Khâm sai nước Đại Thanh Vi Tiểu Bảo, phụng mệnh đại hoàng đế, kính chúc Sa hoàng nước La Sát thánh thể an khang”, lại thêm một câu “Lại chúc Nhiếp chính nữ vương Tô Phi Á công chúa điện hạ xinh đẹp sung sướng”. Phí Yếu Đa La cười khẽ một tiếng, nghĩ thầm “Hoàng đế Đại Thanh chúc công chúa của bọn mình xinh đẹp sung sướng, câu chúc này kể cũng kỳ lạ hiếm có, có điều nếu công chúa nghe được, chắc sẽ rất vui vẻ”. Hai bên chúc tụng qua lại xong, giới thiệu Phó sứ. Người phiên dịch của hai bên dịch ra.
Vi Tiểu Bảo thấy quan viên La Sát nghiêm trang kính cẩn đứng nghe, lễ số cũng đầy đủ, nhưng hai trăm sáu mươi tên kỵ binh Ca Tát Khắc vẫn ngang nhiên ngồi trên lưng ngựa, tay cầm trường đao, bày thành đội hình có dáng vẻ từ trên nhìn xuống, thấp thoáng có thế uy hiếp, càng nhìn càng tức giận, nói “Bọn vệ binh của các ngươi vô lễ quá, nhìn thấy đại nhân các hạ Trung Quốc, tại sao không xuống ngựa?”. Y nói đảo lộn ngữ pháp tiếng La Sát, từ ngữ lầm lẫn, nhưng trong cơn tức giận, không kịp chờ người phiên dịch, tiếng La Sát tuôn luôn ra miệng. Phí Yếu Đa La nói “Theo quy củ của tệ quốc, kỵ binh trong đội hình, cho dù gặp Sa hoàng bệ hạ, cũng không cần xuống ngựa”.
Vi Tiểu Bảo nói “Đây là đất Trung Quốc, tới Trung Quốc thì phải theo quy củ Trung Quốc”. Phí Yếu Đa La lắc đầu nói “Xin lỗi, các hạ lầm rồi. Đây là lãnh địa của Sa hoàng Nga La Tư, không phải là đất Trung Quốc”. Vi Tiểu Bảo nói “Đây rõ ràng là đất Trung Quốc, là các ngươi dùng sức mạnh chiếm đoạt thôi”. Phí Yếu Đa La nói “Xin lỗi, Khâm sai đại thần Trung Quốc các hạ lầm rồi. Đây là lãnh địa của Sa hoàng Nga La Tư. Thành Ni Bố Sở là người Nga La Tư xây lên”.
Lần này hai nước họp bàn vốn là để chia vạch địa giới, chỗ ấy thuộc Trung Quốc hay Nga La Tư có quan hệ then chốt rất lớn. Hai viên Khâm sai đại thần vừa gặp mặt, còn chưa vào trướng bắt đầu đàm phán, đã tranh cãi rồi.
Vi Tiểu Bảo nói “Người La Sát các ngươi xây một ngôi thành trên đất Trung Quốc là nơi ấy kể như của các ngươi, trên đời có đạo lý nào như thếu la hoảng sợ vang lên. Đồ Nhĩ Bố Thanh đứng lên yên ngựa, lấy kính thiên lý nhìn ra, chỉ thấy cách vài dặm có một toán quân Trung Quốc đang nhao nhao chạy trốn, cờ xí nghiêng ngả, hàng ngũ rối loạn. Đồ Nhĩ Bố Thanh cả mừng kêu lên “Đuổi mau!” rồi tuốt mã đao ra, chém gió trên không, quát lớn “Xông lên, giết!”. Y suất lãnh binh tướng xông mau tới, dọc đường nhìn thấy hơn hai mươi con ngựa của quân Thanh ngã chết trên đường. Bọn binh tướng mừng rỡ kêu lên “Ngựa của bọn Man tử kiệt sức rồi!”. Bèn ra sức thúc ngựa, càng đuổi càng gần, nhìn thấy quân Thanh chạy vào một đường sơn đạo nhỏ hẹp.
Đồ Nhĩ Bố Thanh đuổi tới cửa núi, thấy địa thế hiểm trở, thoáng sửng sốt “Nếu quân địch mai phục ở đây thì rất không hay”. Chợt nghe trong sơn cốc phía trước có người kêu lên bằng tiếng La Sát “Bọn Man tử Trung Quốc, các ngươi đầu hàng rồi, tốt lắm, tốt lắm!”, lại có người kêu lên “Hô hô, lần này bọn Man tử Trung Quốc thảm bại rồi”, đúng là tiếng của quan binh bản quốc, không hề sai chạy. Đồ Nhĩ Bố Thanh cả mừng, lúc ấy càng không nghi ngờ gì nữa, thúc ngựa xông vào, hơn hai ngàn kỵ binh cũng theo sau xông vào sơn cốc. Đồ Nhĩ Bố Thanh quát lớn “Phía trước là đội nào đấy? Các ngươi ở đâu thế?”. Chỉ nghe sau vách núi có hơn mười người đồng thanh kêu lên “Bọn ta ở đây! Bọn Man tử Trung Quốc đầu hàng rồi!”. Đồ Nhĩ Bố Thanh kêu lên “Hay quá!”, vừa giật cương ngựa, chợt nghe sau lưng có tiếng súng nổ ầm ầm.
Đồ Nhĩ Bố Thanh giật nảy mình, quay lại nhìn, chỉ thấy chỗ cửa sơn cốc khói bay mù mịt, trong rừng cây trên vách núi hai bên đường sơn đạo ánh lửa lóe lên, hàng loạt hỏa thương bắn xuống. Binh tướng La Sát hoảng sợ kêu la. Đồ Nhĩ Bố Thanh kêu lên “Quay ngựa lại, lui ra khỏi sơn cốc”.
Chợt nghe hai bên vách núi có tiếng mấy ngàn người đồng thanh quát lớn “Quân La Sát, đầu hàng đi, đầu hàng đi!”, kế đó có vô số đá lớn, lôi mộc lăn xuống, trong khoảnh khắc đã lấp tắc đường sơn đạo. Quân La Sát đều bị vướng trong đường sơn đạo nhỏ hẹp, ngươi xô ta đẩy, người kêu ngựa hí, ầm ầm một tràng. Quân Thanh trên cao đánh xuống, cung tên súng đạn không ngừng bắn ra.
Đồ Nhĩ Bố Thanh thầm kêu khổ, biết đã trúng kế địch nhân, thấy đường về đã bị chặn, chỉ còn cách quay ngựa lại, quát lớn “Mọi người xông về phía trước!”. Vừa xông lên được vài trượng, chợt nghe bình bình vang rền, đạn pháo bắn tới, giết chết mấy mươi binh sĩ. Đồ Nhĩ Bố Thanh hoảng sợ hồn phi phách tán, không ngờ hỏa khí của quân Thanh lại lợi hại như thế, mà trong chỗ đường núi gập ghềnh này lại mai phục được đại pháo. Y vội nhảy xuống ngựa, kêu lên “Bỏ hết ngựa, tập trung hỏa lực, theo đường cũ xông ra”.
Quân La Sát nhao nhao xuống ngựa, bò lên mớ cây đá lấp đường sơn đạo, hậu đội bắn lên vách núi hai bên để yểm hộ. Hỏa lực súng ống của quân La Sát rất lợi hại, bắn đi rất xa, cũng bắn chết không ít quân Thanh. Nhưng quân Thanh đại pháo không ngừng bắn xuống, thế rất mãnh liệt.
Mấy trăm binh tướng La Sát bò qua khỏi mớ cây đá lấp đường, đột nhiên ầm một tiếng vang rền, dưới đất nổ tung lên, mấy trăm binh tướng tung lên mười mấy trượng, có người đứt đầu cụt tay, máu thịt bắn tung tóe, số may mắn không chết vội vàng bò trở lại.
Đồ Nhĩ Bố Thanh thấy trước sau đều không có đường, bó tay không còn cách nào. Một tên binh sĩ rất kiêu dũng, suất lãnh mấy mươi tên cảm tử leo lên vách núi phía bắc, định mở đường máu. Nhưng vách núi dựng đứng, lại nhẵn bóng không có chỗ đặt chân, leo lên được vài trượng đã có cơn mười tên ngã xuống, không chết thì bị thương. Lúc ấy quân Thanh lại không ngừng bắn đại pháo xuống, trên vách núi vang lên tiếng quân La Sát kêu gào thê thảm.
Nhìn thấy nếu lại qua một lúc nữa, thế ắt toàn quân tan vỡ, Đồ Nhĩ Bố Thanh kêu lên “Đừng đánh nữa, ngừng bắn, ngừng bắn!”, nhưng tiếng pháo và tiếng binh sĩ kêu la át mất tiếng y. Bọn quân sĩ đứng gần y đồng thanh kêu lớn “Ngừng bắn, ngừng bắn!”. Số quân còn lại cũng kêu lên theo.
Pháo của quân Thanh ngừng bắn, có người kêu lên bằng tiếng La Sát “Ném hết súng ống đao kiếm xuống, tất cả cởi hết quần áo ra!”. Đồ Nhĩ Bố Thanh cả giận, quát lớn “Chỉ ném võ khí xuống, không cởi quần áo đâu!”. Quân Thanh có người quát “Ném hết súng ống đao kiếm xuống, cởi hết quần áo ra, sợ gì bị cười chứ! Ra ngoài uống rượu. Không cởi quần áo, thì tử man cơ!”. Đồ Nhĩ Bố Thanh kêu lên “Không cởi quần áo đâu!”.
Câu ấy vừa buông ra, tiếng ầm ầm vang lên, đại pháo của quân Thanh lại bắn tới. Trong quân La Sát có nhiều kẻ sợ chết, lập tức nhao nhao vứt súng ống xuống, bắt đầu cởi quần áo. Đồ Nhĩ Bố Thanh giơ súng ngắn lên, bắn chết một tên binh sĩ đang cởi áo, quát “Ai cởi quần áo đều bị xử tử!”. Nhưng dưới làn đạn pháo của quân Thanh ầm ầm bắn xuống, chỉ đành không đếm xỉa gì tới nghiêm lệnh của tướng quân, hơn mười tên binh sĩ trần truồng như nhộng, bò lên đống gỗ đá chặn đường. Quân Thanh hai bên vách núi vỗ tay cười lớn, kêu lên “Cởi quần áo ra mau!”. Đám binh sĩ cởi quần áo để được sống sót càng lúc càng nhiều, Đồ Nhĩ Bố Thanh súng ngắn liên tiếp bắn ra, lại bắn chết hai người, nhưng làm sao cản được?
Đại pháo của quân Thanh tạm ngừng bắn, trên đỉnh núi có người quát “Muốn sống thì mau cởi quần áo ra”. Lúc ấy binh tướng La Sát đã không còn lòng dạ nào đánh nhau, mười người có tới tám chín cởi giày ra.
Đồ Nhĩ Bố Thanh thở dài một tiếng, kề miệng súng vào thái dương đang định tự sát. Viên Phó quan đứng bên cạnh đè khẩu súng trong tay y xuống, nói “Tướng quân, không được! Chim ưng già giữ lại lông cánh, mới có thể bay qua núi cao”. Câu này là thành ngữ La Sát, cũng có ý nghĩa như câu “Non xanh còn giữ được, lo gì thiếu củi đun” của Trung Quốc.
Chỉ nghe trong quân Thanh có người kêu lên bằng tiếng La Sát “Mọi người cởi hết quần áo của Đồ Nhĩ Bố Thanh ra, thì tất cả cùng ra, nếu không sẽ nổ pháo”, câu ấy nói bằng tiếng La Sát rất đúng giọng, chính là quân La Sát đầu hàng phát thoại.
Đồ Nhĩ Bố Thanh tức giận không sao nén được, chỉ thấy mấy tên bộ thuộc trợn mắt nhìn mình, rõ ràng không có ý tốt, bèn đưa tay rút bội đao đeo ở lưng ra. Ngón tay y vừa chạm vào chuôi đao, một tên quân sĩ sau lưng đã sấn tới cặp cổ y, năm sáu người khác cùng xông vào đè y xuống đất, bảy tay tám chân lập tức cởi hết quần áo của y, vác lên bước ra.
Quân tướng La Sát cứ một người bước ra là có hai tên quân Thanh bước tới, trói quặt hai tay ra sau lưng, giải đi vài dặm, tới một bãi đất rộng. Trận ấy hơn hai ngàn quân La Sát ngoài sáu bảy trăm người chết và bị thương, hơn một ngàn tám trăm người còn lại đều bị trói quặt hai tay ra sau lưng, trần truồng đứng xếp hàng, gió thu nổi lên, không kìm được run lên cầm cập.
Quân Thanh áp giải Đồ Nhĩ Bố Thanh tới đứng phía trước hàng quân La Sát. Quân tướng La Sát vốn ai cũng cúi đầu rũ rượi, trong lòng run sợ, đột nhiên thấy vị tướng quân lúc bình thời oai nghiêm dữ tợn lại trở thành như thế, đều cảm thấy buồn cười, trong đó có mấy mươi người nhìn thấy cái mông nhồng nhộng của chủ tướng, nhịn không được bật cười. Tiếng cười càng lúc càng lan ra, không bao lâu hơn một ngàn quan binh đều cười ha hả.
Đồ Nhĩ Bố Thanh cả giận, quay lại cao giọng quát “Đứng thẳng, nghiêm! Cười cái gì?”. Y trên người không có một mảnh vải mà làm ra vẻ oai nghiêm như thế, lại càng vô cùng buồn cười. Đám quan binh ngày thường tuy rất sợ sệt y, nhưng lúc bấy giờ làm sao nhịn cười được?
Trong tiếng cười lớn, đột nhiên có tiếng súng bình bình bình, trống hiệu vang lên, một đội quân Thanh từ sau núi xông ra, giương cờ vàng đứng xếp hàng ở phía đông, kế đó lại có ba đội quân Thanh mang cờ ba màu đỏ, trắng, lam chia đứng ở ba phía nam, tây, bắc, vây quân La Sát vào giữa. Quân La Sát thấy quân Thanh người cầm trường thương, người cầm đại đao, người giương cung tên, người chĩa hỏa thương, giáp trụ sáng loáng, binh khí sắc bén, mình thì trên người không mảnh vải, liền cảm thấy bị khí thế của địch quân uy hiếp, không ai dám cười nữa, trong lòng vô cùng run sợ.
Quân Thanh xếp hàng xong, sau núi lại vang lên ba tiếng pháo lớn, kế đó nhã nhạc trỗi lên, hai lá cờ giương lên tiến ra, lá bên trái đề “Phủ viễn đại tướng quân Vi”, lá bên phải đề “Đại Thanh Lộc Đỉnh công Vi”, mấy trăm đao thủ xúm xít đưa một vị tướng quân trẻ cưỡi ngựa đi tới. Vị tướng quân trẻ này đầu đội mũ chóp đỏ, thân khoác áo choàng vàng, vẻ mặt rạng rỡ, hai mắt láo liên, tay trái phẩy nhẹ quạt lông, giống hệt Gia Cát Lượng, tay phải cắp ngược đại đao, giống hệt Quan Vân Trường, chính là Vi công Vi Tiểu Bảo.
Y thúc ngựa xông ra trước, hô hô hô ngẩng đầu lên trời cười lớn ba tiếng, bắt chước Tào Tháo trên sân khấu, chỉ tiếc bên cạnh thiếu mất một người đưa đẩy, không ai hỏi câu “Tại sao tướng quân lại cười?”.
Lúc ấy Đồ Nhĩ Bố Thanh nỗi giận đầy lòng không nơi phát tiết, đã sớm nảy ý ương ngạnh, đặt việc sống chết ra ngoài, cao giọng mắng “Thằng tiểu quỷ Trung Quốc, ngươi dùng quỷ kế bắt được ta, không phải là anh hùng. Muốn giết thì giết, tại sao còn làm nhục ta thế này?”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Ta làm nhục ngươi cái gì?”. Đồ Nhĩ Bố Thanh tức giận nói “Ta... ta như thế này, chẳng lẽ... chẳng lẽ không phải bị làm nhục à?”. Vi Tiểu Bảo cười hỏi “Quần của ngươi là ai cởi thế?”. Đồ Nhĩ Bố Thanh lập tức ;.
Vi Tiểu Bảo vừa nghe thấy, lại lên cơn tức giận, hỏi “Trong thành Nhã Khắc Tát có một hòn núi nhỏ, ngươi biết tên là gì không?”. Phí Yếu Đa La quay lại hỏi tùy viên, rồi đáp “Là núi Cao Thư Lược”. Vi Tiểu Bảo biết trong tiếng La Sát Cao Thư Lược có nghĩa là Lộc, liền nói “Trong tiếng Trung Quốc bọn ta gọi là núi Lộc Đỉnh. Ngươi biết ta được phong tước gì không?”. Phí Yếu Đa La nói “Các hạ là Lộc Đỉnh công, nói theo tiếng La Sát của bọn ta thì là Công tước Cao Thư Lược”. Vi Tiểu Bảo nói “Như thế, thì ngươi có ý không tốt với ta rồi. Đã biết ta là Lộc Đỉnh công, lại muốn chiếm núi Lộc Đỉnh của ta, há không phải là muốn ta không làm được công tước nữa phải không?”. Phí Yếu Đa La vội nói “Không, không, quyết không có ý ấy”.
Vi Tiểu Bảo hỏi “Ngươi là tước gì?”. Phí Yếu Đa La nói “Tệ nhân là Hầu tước Lạc Mạc Nặc Sa Phạt”. Vi Tiểu Bảo nói “Được, vậy thì Lạc Mạc Nặc Sa Phạt là thuộc đất Trung Quốc”. Phí Yếu Đa La giật nảy mình, lập tức mỉm cười nói “Lạc Mạc Nặc Sa Phạt đất phong của tệ nhân ở phía tây Mạc Tư Khoa, làm sao là đất Trung Quốc được?”.
Vi Tiểu Bảo nói “Ngươi nói đất phong của ngươi gọi là Lão Miêu Lạp Thỉ Pháp...”[64]. Phí Yếu Đa La nói “Lạc Mạc Nặc Sa Phạt”. Vi Tiểu Bảo không đếm xỉa gì tới y, tiếp tục nói “Từ kinh thành Bắc Kinh của bọn ta tới Lão Miêu Lạp Thỉ Pháp tất cả bao nhiêu đường đất, phải đi trong bao lâu?”. Phí Yếu Đa La nói “Từ Lạc Mạc Nặc Sa Phạt tới Mạc Tư Khoa tất cả hơn năm trăm dặm, đi mất năm ngày. Từ Mạc Tư Khoa tới Bắc Kinh, tất cả phải đi hơn ba tháng”. Vi Tiểu Bảo nói “Nói như thế thì từ Bắc Kinh tới Lão Miêu Lạp Thỉ Pháp thì phải đi ba tháng năm ngày, đường đi thật là xa quá”. Phí Yếu Đa La nói “Rất xa, rất xa”. Vi Tiểu Bảo nói “Đường sá như thế thì Lão Miêu Lạp Thỉ Pháp tất nhiên không thuộc Trung Quốc ta rồi”. Phí Yếu Đa La mỉm cười nói “Lời công tước thật không gì đúng hơn”.
Vi Tiểu Bảo nâng chén rượu lên, nói “Mời uống rượu”. Người La Sát thích rượu như tính mạng, chén rượu đặt trước mặt Phí Yếu Đa La đã lâu, mùi rượu từng trận từng trận bốc lên, chủ nhân chưa bưng chén nên y không dám tùy tiện, lúc ấy thấy Vi Tiểu Bảo nâng chén trong lòng cả mừng, vội vàng uống cạn một hơi.
Tùy viên bên phía nước Thanh rót rượu cho y, lấy thức ăn trong hộp ra, đều là do các đầu bếp nổi tiếng ở Bắc Kinh nấu nướng. Lúc ấy nước La Sát khai hóa chưa lâu, phải tới về sau lúc Bỉ Đắc đại đế lớn lên, giành được quyền lực từ tay công chúa Tô Phi Á chị mình, giam Tô Phi Á vào nhà tu kín, sau đó mới tiến hành du nhập văn hóa Tây u rầm rộ. Thời Vi Tiểu Bảo tất cả khí vật chế độ, văn minh giáo hóa của nước La Sát đều thua kém Trung Quốc rất xa, còn như sự nấu nướng tinh tế thì đến hiện nay nước Nga vẫn còn thua Trung Quốc mười vạn tám ngàn dặm. Năm ấy ở ngoài thành Ni Bố Sở, Phí Yếu Đa La lần đầu tiên được nếm món ngon Trung Hoa, tự nhiên là trợn mắt há miệng, cơ hồ nuốt luôn cả lưỡi của mình vào bụng. Vi Tiểu Bảo bồi tiếp y nếm qua mấy món thức ăn, giải thích thế nào gọi là vây cá, thế nào gọi là yến sào, làm sao để biến chân vịt thành món ngon, làm sao để biến gân gà thành mỹ vị, chỉ khiến Phí Yếu Đa La vui mừng tán thưởng, vô cùng thích thú.
Vi Tiểu Bảo thuận miệng hỏi “Lần này quý sứ rời khỏi Mạc Tư Khoa hôm nào?”. Phí Yếu Đa La nói “Ngày mười hai tháng tư tệ nhân vâng lời dụ của công chúa điện hạ, lên đường từ Mạc Tư Khoa”. Vi Tiểu Bảo nói “Hay lắm. Nào, uống thêm chén nữa. Vị Đông công gia kia của bọn ta tửu lượng rất cao, hai người các ngươi uống với nhau vài chén”. Lúc ấy Đông Quốc Cương hướng về phía Phí Yếu Đa La mời rượu, uống liền ba chén.
Vi Tiểu Bảo nói “Quý sứ tới thành Ni Bố Sở trong tháng này à?”. Phí Yếu Đa La nói “Tệ nhân tới đây ngày mười lăm”. Vi Tiểu Bảo nói “Ờ, từ ngày mười hai tháng tư đến ngày mười lăm tháng bảy, đi đường mất hơn ba tháng”. Phí Yếu Đa La nói “Vâng, đi mất hơn ba tháng. May mà trời ấm, trên đường cũng không khó đi lắm”. Vi Tiểu Bảo giơ ngón tay cái lên, khen ngợi “Hay lắm! Lần này quý sứ nói rất thành thật, rốt lại đã thừa nhận Ni Bố Sở không phải thuộc đất La Sát”.
Phí Yếu Đa La uống hơn mười chén rượu, đã hơi ngà ngà, ngạc nhiên nói “Ta... ta thừa nhận lúc nào?”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Từ Bắc Kinh tới Lão Miêu Lạp Thỉ Pháp đi hơn ba tháng, đường đi rất xa, vì thế Lão Miêu Lạp Thỉ Pháp không thuộc đất Trung Quốc. Từ Mạc Tư Khoa tới Ni Bố Sở, ngươi cũng đi hơn ba tháng, đường đi cũng rất không gần, Ni Bố Sở tự nhiên cũng không thuộc đất La Sát”.
Phí Yếu Đa La mở tròn mắt, nhất thời không biết trả lời thế nào, ngẩn ra suốt nửa ngày mới nói “Nước Nga La Tư bọn ta rất rộng lớn, chuyện này khác chứ”. Vi Tiểu Bảo nói “Nước Đại Thanh bọn ta cũng không nhỏ đâu”. Phí Yếu Đa La cười gượng nói “Quý sứ hay nói đùa quá, hai... hai chuyện này là... là không thể coi như nhau được”.
Vi Tiểu Bảo nói “Quý sứ nhất định nói Ni Bố Sở là đất La Sát, vậy chúng ta đánh đổi một phen. Để ta tới Mạc Tư Khoa, xin công chúa phong ngươi làm Bá tước Ni Bố Sở, phong ta làm Công tước Lão Miêu Lạp Thỉ Pháp. Thành Lão Miêu Lạp Thỉ Pháp ấy kể như thuộc đất Trung Quốc”. Phí Yếu Đa La mặt mũi đỏ bừng, vội nói “Như thế... như thế thì làm sao được?”, không kìm được vô cùng lo sợ, nghĩ thầm công chúa là người tình của y, nếu bị y đổ thuốc mê Trung Quốc trên gối lại đồng ý trao đổi thì thật hỏng bét. Lại nghĩ “Đất Lạc Mạc Nặc Sa Phạt của mình là ấp phong tổ tiên truyền lại, sản vật giàu có, nếu lại bị công chúa đổi phong ở Ni Bố Sở, chỗ này khí hậu lạnh lẽo, nhân đinh thưa thớt, thì xong cái mạng già của mình rồi. Huống hồ hiện tại mình là hầu tước, đổi phong là bá tước Ni Bố Sở, há không phải là bị giáng sao?”
Vi Tiểu Bảo thấy y có vẻ vô cùng lo lắng, cười nói “Ngươi muốn chiếm cả thành Nhã Khắc Tát đất phong của ta, cho ta không làm được Lộc Đỉnh công, thì ta còn cách nào? Chỉ có cách đi làm Công tước Lão Miêu Lạp Thỉ Pháp. Tuy tên đất phong của ngươi rất là khó nghe, cái gì mà mèo già kéo phân, chó con vãi đái, nhưng cũng chỉ còn cách gắng chịu gắng chịu thôi”.
Phí Yếu Đa La nghĩ thầm “Trung Quốc ngươi định chiếm Lạc Mạc Nặc Sa Phạt của ta à? Có điều Vi Tiểu Bảo ngươi đã nhận tước phong của đế quốc Nga La Tư bọn ta, nếu lại tính cướp đất phong của ta thì cũng phiền phức. Bọn ta cũng không thật sự muốn có thành Nhã Khắc Tát, Nhã Khắc Tát đã bị các ngươi chiếm rồi, nếu muốn các ngươi rút lui, tất nhiên không chịu”. Lúc ấy lộ vẻ tươi cười, nói “Nếu thành Nhã Khắc Tát đã là đất phong của quý sứ, thì bọn ta có thể nhường một bước, lấy Hắc Long Giang làm ranh giới, có điều thành Nhã Khắc Tát và khu vực mười dặm quanh thành là thuộc Trung Quốc. Đây là hoàn toàn vì nể mặt quý sứ, đã nhượng bộ rất nhiều rồi”.
Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Các ngươi thua trận, lại còn ra vẻ. Nếu trận này người La Sát các ngươi mà thắng, chỉ e ngay cả thành Bắc Kinh cũng muốn chiếm làm đất của các ngươi luôn rồi”. Bèn nói “Chúng ta đánh nhau một trận, không biết các ngươi thắng hay bọn ta thắng?”. Phí Yếu Đa La cau mày nói “Mới đụng độ nhỏ, cũng không thể nói ai thắng ai thua. Công chúa điện hạ của bọn ta đã sớm có nghiêm lệnh, là để chu toàn sự hòa hiếu giữa hai nước, không cho đánh nhau, vì thế lúc quân đội của quý quốc tấn công, tướng sĩ của tệ quốc đều không đánh trả. Nếu không thì cục diện đã khác hẳn rồi”. Vi Tiểu Bảo nghe thấy cả giận, nói “Té ra quân La Sát súng ống cùng bắn, không phải là đánh trả à?”. Phí Yếu Đa La nói “Bọn họ chẳng qua chỉ là bảo vệ đất đai của bản quốc, không thể kể là đánh trả. Người La Sát mà đánh nhau thật sẽ không có chuyện chỉ thủ mà không công. Nếu hai nước đại chiến thì hỏa thương thủ và kỵ binh Ca Tát Khắc của nước La Sát có thể tiến chiếm cả thành Bắc Kinh kia”.
Vi Tiểu Bảo giận quá, nghĩ thầm “Con bà ngươi, con quỷ lông vàng nhà ngươi lại còn lớn lối dọa người. Ta mà bị ngươi dọa, thì ta theo họ ngươi, làm con ngươi, chứ không phải là Vi Tiểu Bảo, mà gọi là Tiểu Bảo Phí Yếu Đa La”. Y từng qua Mạc Tư Khoa, biết tập quán của người La Sát gọi tên trước gọi họ sau, nhưng Phí Yếu Đa La là tên chứ không phải họ, y lại không biết, nói “Như vậy rất hay, chào đại nhân. Hầu tước đại nhân, ngươi có biết trong lòng ta mong mỏi điều gì nhất không?”.
Phí Yếu Đa La nói “Chuyện đó thì không biết, xin chỉ giáo”. Vi Tiểu Bảo nói “Hiện ta là công tước, trong lòng chỉ mong được thăng quan tiến tước, phong làm quận vương, thân vương”. Phí Yếu Đa La nghĩ thầm “Gia quan tấn tước, thì ai lại không muốn?”. Bèn mỉm cười nói “Công tước đại nhân tinh minh tài cán, rất được hoàng đế quý quốc tin yêu, chỉ cần lập thêm vài công lao, thì chuyện được phong làm quận vương thân vương quả thật không còn gì phải nghi ngờ nữa. Tệ nhân thành tâm thành ý kính chúc ngươi sớm thành công”. Vi Tiểu Bảo hạ giọng nói “Chuyện này phải nhờ ngươi giúp đỡ mới xong, nếu không thì e là không làm được”. Phí Yếu Đa La kinh ngạc, nói “Tệ nhân tự nhiên phải ra sức, chỉ có điều không biết là làm thế nào?”.
Vi Tiểu Bảo ghé miệng vào tai y, khẽ nói “Theo quy củ nước Đại Thanh bọn ta, chỉ cần thắng trận, lậcirc;m nay chúng ta giành được toàn thắng, ngươi có biết là dùng kế sách gì không?”. Lâm Hưng Châu nói “Đây là đại soái thần cơ diệu toán, thuộc hạ khâm phục sát đất”. Vi Tiểu Bảo lắc đầu nói “Đây không phải là ta thần cơ diệu toán, mà là mưu kế của hoàng thượng an bài. Hoàng thượng nói năm xưa Gia Cát Lượng bảy lần bắt Mạnh Hoạch, kế sách rất hay, bảo ta học theo. Ngươi xem vở Thất cầm Mạnh Hoạch chưa? Nếu chưa xem, thì cũng đã nghe kể rồi chứ? Gia Cát Lượng sai Ngụy Diên ra đánh, chỉ cho thua không cho thắng, thua liên tiếp mười lăm trận, bỏ cho Mạnh Hoạch chiếm được bảy trại, dụ y tiến vào hang Bàn Xà, sau đó hỏa thiêu quân giáp mây. Hôm nay là chúng ta sử dụng mưu kế của Gia Cát Lượng”. Các tướng đều khâm phục.
Vi Tiểu Bảo lại nói “Hoàng thượng lòng dạ nhân từ, nói Gia Cát Lượng hỏa thiêu quân giáp mây quá tàn nhẫn, đến nỗi bị giảm thọ. Nếu quân La Sát chịu đầu hàng, thì nên tha mạng cho họ”. Phó Đô thống Lang Thân nói “Nếu không phải đại soái dùng kế Hà thư ni khắc, cắt thịt mười tên quân La Sát ra nướng, dọa cho chúng hồn phi phách tán, thì đám quan binh La Sát này vô cùng cứng cổ, e là không chịu đầu hàng. Kế sách này thật hơn cả Gia Cát Lượng”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Mười tên nhà bếp đã giấu sẵn mười tảng thịt bò trong người, chẳng qua chỉ rạch vài nhát trên đùi mười tên quân La Sát kia cho chúng la ầm lên. Thịt nướng trên lò thì là thịt bò, mùi vị thế nào, các vị đừng ngại nếm thử”. Các tướng bật tiếng cười rộ, sai đám nhà bếp đưa lên mười tảng thịt Hà thư ni khắc, cắt ra chia nhau ăn, quả nhiên vừa thơm vừa mềm, vô cùng ngon ngọt.
Các tướng lại hỏi “Đại soái đã bắt được tù trưởng quân địch, lại thả cho y về, cũng là muốn bảy lần bắt bảy lần tha khiến từ nay trở đi y không dám phản nữa phải không?”, Vi Tiểu Bảo nói “Không phải thế. Chuyện này lúc ở Bắc Kinh ta đã thỉnh vấn hoàng thượng. Ta nói hoàng thượng là Điểu Sinh Ngư Thang, lòng dạ khoan hồng độ lượng, chúng ta có nên học Gia Cát Lượng, bắt được nguyên soái La Sát thì tha y bảy lần không? Hoàng thượng nói: Như thế không đúng. Học Gia Cát Lượng là phải vận dụng linh hoạt, không thể cứ nhất nhất làm theo. Mạnh Hoạch là tù trưởng Man tử, y nói không phản là vĩnh viễn không phản. Chúng ta thì chỉ bắt được tướng quân nguyên soái của La Sát, y nói không phản cũng vô dụng, Sa hoàng và Nhiếp chính nữ vương nước La Sát sẽ lại phái nguyên soái khác đem quân tới xâm phạm cương giới của chúng ta”. Các tướng gật đầu khen phải. Vi Tiểu Bảo nói “Thành Nhã Khắc Tát quân sĩ hung hãn, hỏa pháo lợi hại. Nếu chúng ta giết chết nguyên soái La Sát, quan binh trong thành sẽ suy cử thống soái khác, đánh nhau lại càng hung hãn, bây giờ chúng ta lột truồng nguyên soái La Sát, dắt y đi quanh thành ba vòng, từ nay trở đi quan quân trong thành sẽ coi thường y. Y không có oai phong, thì trở đi ban bố mệnh lệnh cũng không có hiệu quả gì”.
Chư tướng đồng thanh khen phải. Lâm Hưng Châu hỏi “Là hoàng thượng chỉ dạy, bảo lột truồng tù trưởng địch quân à?”, Vi Tiểu Bảo hô hô cười rộ, nói “Hoàng thượng đâu lại làm nhộn như thế? Hoàng thượng chỉ bảo ta nghĩ cách nuôi dưỡng lòng hăng hái của quân ta, làm giảm oai phong của quân La Sát. Hoàng thượng nói: Quân La Sát cao lớn, toàn thân đầy lông, giống như người rừng, hỏa khí lại mười phần lợi hại. Lúc ra trận giao phong, quân ta thấy dáng vẻ của họ như thế, có quá nửa đã sợ sệt trong lòng, mất hết nhuệ khí, rất khó đánh nhau.
Hoàng thượng nói: Tiểu Quế tử, ngươi rất nhiều trò hoa dạng, phải làm sao để quân ta từ trên xuống dưới đều coi thường quân Man tử. Ta không nghĩ ra cách nào hay, một hôm đột nhiên nghĩ tới chuyện ta đánh bạc lúc nhỏ”.
Các tướng đều nghĩ “Chuyện ngươi đánh bạc lúc nhỏ thì có liên quan gì tới quân La Sát?”.
Vi Tiểu Bảo mỉm cười nói “Lúc nhỏ ta ở Dương Châu đánh bạc với người ta, kỹ thuật gieo xúc xắc kém cỏi, lúc thua sạch túi chỉ còn cách giở trò vô lại, muốn đánh nhau thì đánh nhau, ta cũng không sợ. Có một lần bị người ta đánh cho thê thảm, người thắng còn bắt ta lột quần trừ nợ, để ta cởi truồng về nhà, mọi người lớn nhỏ trên phố đều chỉ trỏ cười cợt. Từ đó trở đi, kỹ thuật gieo xúc xắc của ta tiến bộ không ít”. Các tướng đều cười ầm. Vi Tiểu Bảo cười nói “Hoàng thượng nói điều quan trọng trong việc đánh trận là phải biến hóa linh hoạt, hoàng thượng chỉ có thể chỉ giáo phương lược đại kế, còn khi làm thì ta phải tự mình động não. Ta nghĩ năm ấy ta còn rất nhỏ mà đã sợ bị người ta lột truồng thì quân La Sát lẽ nào lại không sợ, quả nhiên vừa bị lột mất quần, mọi người đều ngoan ngoãn đầu hàng”. Các tướng đồng thanh ca ngợi, vô cùng khâm phục. Có người nghĩ thầm “Lối lột quần này, trong Tôn tử binh pháp cũng chưa có. Bộ Vi tử binh pháp này quả thật lợi hại”
Lúc ấy Vi Tiểu Bảo sai hàng binh La Sát mặc trang phục quân Thanh, sai một viên Tham tướng suất lãnh hai ngàn quân Thanh áp giải hàng binh về Bắc Kinh dâng tù binh cho hoàng thượng. Trong doanh giữ lại hai trăm tên hàng binh to mồm để dùng vào việc quát tháo. Sư gia trong đại doanh viết một tờ tấu chương, nói Phủ viễn đại tướng quân Vi Tiểu Bảo tuân theo phương lược hoàng thượng chỉ dạy, kỳ khai đắc thắng, quân La Sát ngưỡng mộ Trung Hoa thượng quốc, rửa lòng quy thuận, quả thật hoàng thượng ta thánh đức như trời, cảm hóa được cả bọn Man Di, vân vân.
Đêm ấy Vi Tiểu Bảo khao thưởng ba quân. Sáng hôm sau đích thân suất lãnh chư quân kéo tới thành Nhã Khắc Tát. Chỉ thấy trên thành khói lửa mù mịt, trong thành ngoài thành quân sĩ đôi bên quát tháo vang trời, tiếng súng ầm ầm không ngớt.
Chủ tướng chỉ huy quân công thành là Bằng Xuân vào đại doanh bẩm báo hỏa pháo trong thành bắn rất dữ dội, sĩ tốt quân ta công thành thương vong không ít. Vi Tiểu Bảo nói “Chúng ta bắc đại pháo lên, bắn con mẹ nó đi”. Bằng Xuân ra lệnh, không bao lâu hai phía đông nam tây bắc tiếng pháo cùng nổ ran, ầm ầm ầm ầm bắn vào thành. Nhưng người La Sát xây dựng thành Nhã Khắc Tát đã lâu, công sự mười phần kiên cố, quân tướng đều núp sau lũy bền. Đại pháo của quân Thanh tuy nhiều, đạn pháo bắn sập không ít nhà cửa, nhưng quân La Sát giữ lũy không ra, cũng không làm gì được họ.
Đánh được vài ngày, Hà Hựu suất lãnh một ngàn dũng sĩ xông sát leo lên thành, trên thành hỏa thương bắn xuống rào rào, quân Thanh lập tức bị chết ba bốn trăm người. Bằng Xuân thấy tình hình bất lợi, khua chiêng thu quân. Quân La Sát đứng trên thành vỗ tay cười lớn, lại có mấy trăm tên cởi quần đứng trên thành đái xuống, cực kỳ ngạo mạn.
Tướng quân Hắc Long Giang Tát Bố Tố cả giận, đích thân dẫn quân công thành. Đội hỏa thương trên thành bắn xuống, Tát Bố Tố trúng đạn ngã ngựa, quân Thanh lập tức rối loạn. Cửa thành chợt mở toang, mấy trăm quân La Sát xông ra. Lâm Hưng Châu suất lãnh quân khiên mây lăn tròn dưới đất xông vào, đại đao vung lên. Quân La Sát vội nhảy lên tránh né. Đội quân khiên mây này là do Lâm Hưng Châu đích thân huấn luyện, rất thành thục Địa Đường đao pháp, lăn tròn dưới đất xông tới, tay trái cầm khiên mây đỡ đạn chì của quân địch, tay phải cầm đại đao nhằm vào chân quân La Sát mà chém. Đồ Nhĩ Bố Thanh thấy tình thế không hay vội hạ lệnh thu quán. Lâm Hưng Châu cứu Tát Bố Tố trở về. Tát Bố Tố bị trúng đạn vào trán phải, may là chưa vào tới óc, tuy bị thương nặng nhưng không đáng lo về tính mạng. Trận này đôi bên đều bị tổn thất, nhưng quân Thanh tử thương nhiều hơn.
Vi Tiểu Bảo dẫn thầy thuốc trong quân đích thân vào trướng Tát Bố Tố thăm hỏi an ủi, lại trọng thưởng cho Lâm Hưng Châu. Rồi hạ lệnh lui quân năm dặm hạ trại, đêm ấy hội họp các tướng trong trướng bàn cách công thành.
Các tướng có người nói hôm nay quân khiên mây lập được công lớn, ngày mai cứ dụ quân La Sát ra thành để quân khiên mây chém chân chúng, có người nói quân La Sát đã mất nhuệ khí, e sẽ không dám ra đánh, không bằng cứ xây lũy dài bao vây bốn phía cho chúng chết đói trong thành, lại có người nói đào địa đạo dưới đất tiến vào công thành.
Dùng địa đạo đánh thành vốn là cách thức lâu đời của Trung Quốc, câu ấy lập tức thức tỉnh Vi Tiểu Bảo, nhớ tới thành Nhã Khắc Tát vốn có địa đạo, năm trước mình đã ôm được bắp chân của công chúa Tô Phi Á trong địa đạo, hiện nàng đã là Nhiếp chính nữ vương, chấp chưởng đại quyền quân chính của nước La Sát, còn mình lại đánh nhau với quân sĩ thuộc hạ của nàng ở đây. Lại nghĩ “Nếu lúc này thị đích thân chỉ huy trong thành Nhã Khắc Tát, mình từ địa đạo lỏn vào thành, bò lên giường thị, sờ một cái, sờ hai cái, sờ cho thị toàn thân nhũn ra, thì con nhãi lẳng lơ này không la lớn đầu hàng không xong”.
Các tướng thấy Vi Tiểu Bảo trầm ngâm không nói, trên mặt thoáng nét tươi cười, cho rằng y đã có diệu kế, lập tức im bặt chờ nghe đại soái phân phó, nào ngờ lúc ấy y đang nghĩ tới việc sờ mó da thịt của công chúa Tô Phi Á toàn thân đầy lông vàng. Chỉ thấy y hai mắt như nhắm mà không phải nhắm, lẩm bẩm “Đĩ quá, cao cường, không thắng được thị”. Các tướng ngớ mặt nhìn nhau, lại nghe đại soái nói “Con mẹ nó, một cước đá mình trên giường rơi xuống”, các tướng càng không hiểu gì, chỉ nghe y nói tiếp “Con nhãi La Sát lẳng lơ này tuy l;?”.
Vi Tiểu Bảo nói “Đó là cách chia vạch biên giới công bằng nhất đấy. Chỗ chúng ta gặp nhau, chính là biên giới giữa hai nước. Chỗ đó cách Mạc Tư Khoa một tháng rưỡi ngày đường, cách Bắc Kinh cũng một tháng rưỡi ngày đường. Các ngươi không chiếm tiện nghi, bọn ta cũng không chiếm tiện nghi. Nhưng trận này giữa chúng ta kể như đánh suông. Tính ra thì các ngươi vẫn còn chiếm tiện nghi, đúng không?”.
Phí Yếu Đa La mặt mày đỏ bừng, nói “Cái này... cái này... cái này...”, rồi đứng lên.
Vi Tiểu Bảo cười nói “Ngươi cũng cảm thấy cách này rất công bằng, đúng không?”. Phí Yếu Đa La xua tay lia lịa, nói “Không, không, tuyệt đối không thể được. Nếu chia vạch biên giới như thế, há không phải là một nửa đất đai đế quốc Nga La Tư phải cắt cho các ngươi à?”. Vi Tiểu Bảo nói “Không tới một nửa đâu. Từ Mạc Tư Khoa qua phía tây, các ngươi còn nhiều đất đai lắm, chỗ đất đai ấy không cần chia năm năm với Trung Quốc, cần gì phải khách khí?”.
Phí Yếu Đa La tức giận tới mức thở phì phì, qua một lúc lâu mới nói “Công tước đại nhân, nếu ngươi thành tâm nghị hòa, thì lẽ ra phải đề ra chủ trương thông tình đạt lý, chứ... chứ cách thức thế này, lại muốn cắt một nửa đất đai nước ta, vậy thì... Vậy thì khinh người quá lắm”. Nói xong tức giận thở hồng hộc ngồi xuống ghế ầm một tiếng.
Vi Tiểu Bảo hạ giọng nói “Thật ra chuyện nghị hòa chia vạch biên giới chẳng có gì hay, chúng ta cứ đánh nhau một trận trước, ngươi nói có hay không?”.
Phí Yếu Đa La không ngừng thở hổn hển, nhịn không được đập bàn đứng lên, cao giọng nói “Đánh nhau thì đánh nhau!”, nhưng nghĩ đánh nhau một trận xong, hậu quả quả thật rất nghiêm trọng, bên mình không có hy vọng thắng được, chỉ đành cố nhịn, im lặng không nói gì nữa.
Vi Tiểu Bảo đột nhiên đưa tay đập bàn một cái, cười nói “Có cách rồi, có cách rồi, ta có một cách thức công bằng khác”. Rồi đưa tay vào bọc, lấy ra hai hạt xúc xắc, thổi một hơi vào gieo xuống mặt bàn, nói “Ngươi muốn đánh nhau chứ không muốn chia năm năm, chúng ta cứ gieo xúc xắc. Từ Bắc Kinh tới Mạc Tư Khoa cứ tính là một vạn dặm, chúng ta chia làm mười phần, mỗi phần một ngàn dặm, ta và ngươi gieo xúc xắc mười ván, mỗi ván đánh bằng một ngàn dặm đất đai. Nếu ngươi may mắn thắng được hết cả mười ván, vậy thì đất đai cho tới thành Bắc Kinh cũng đều thuộc người La Sát”. Phí Yếu Đa La hừ một tiếng, nói “Thế nếu ta thua cả mười ván thì sao?”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Vậy thì tự ngươi nói đi”. Phí Yếu Đa La nói “Chẳng lẽ núi sông ngàn dặm phía đông Mạc Tư Khoa đều thuộc về Trung Quốc cả à?”. Vi Tiểu Bảo nói “Ta đoán là ngươi cũng không rủi ro quá như thế, trong mười ván cũng không đến nỗi không thắng được ván nào. Ngươi chỉ cần thắng được một ván là giữ gìn được một ngàn dặm đất đai, thắng hai ván thì giữ được hai ngàn dặm, nếu thắng sáu ván là chiếm tiện nghi rồi”. Phí Yếu Đa La tức giận nói “Chiếm tiện nghi cái gì? Từ Mạc Tư Khoa về phía đông sáu ngàn dặm vốn là thuộc nước ta, bảy ngàn dặm tám ngàn dặm cũng đều thuộc nước ta”.
Vi Tiểu Bảo và Phí Yếu Đa La hai người không ngừng trao đổi, giáo sĩ người Hà Lan làm phiên dịch bên cạnh không ngừng hạ giọng dịch ra tiếng Trung Quốc. Bọn Đông Quốc Cương, Sách Ngạch Đồ nghe thấy, lúc đầu cảm thấy Phí Yếu Đa La ngang ngược vô lý, lại đòi lấy Hắc Long Giang làm ranh giới, lấn sát tới đất Liêu Đông của Trung Quốc, đây là đất long hưng của người Mãn Châu, làm sao có thể để cho Di Địch tới gần? Trong lòng đều cảm thấy tức giận, về sau nghe Vi Tiểu Bảo nói muốn đánh nhau lập công để được cắt đất phong vương, sứ thần nước Nga lập tức tỏ vẻ khép nép, không dám khoe khoang, lại nghe Vi Tiểu Bảo lôi đông kéo tây, nào là đánh đổi đất phong, nào là chia năm năm, nào là gieo xúc xắc chia vạch biên giới, mỗi ván là một ngàn dặm đất đai, rõ ràng là ăn nói bừa bãi, nhất định đối phương sẽ không ưng thuận, nhưng Phí Yếu Đa La khí thế đã bị giảm sút, đều nghĩ “Người La Sát ương ngạnh đúng là danh bất hư truyền, nếu đàm phán đứng đắn với họ, thì không rơi vào thế hạ phong không xong. Hoàng thượng lại phái Vi Công tước tới chủ trì hòa nghị, quả thật sáng suốt biết người, gã phiên bang này là người ngang ngược, thì cũng chỉ có loại lưu manh đầu đường xó chợ bất học vô thuật như Vi Tước gia mới có thể đối phó với y, lấy ngang ngạnh trị ngang ngạnh”.
Bọn đại thần Đông Quốc Cương, Sách Ngạch Đồ ngoài mặt đối với Vi Tiểu Bảo tuy mười phần cung kính khách khí nhưng trong lòng quả thật không coi y ra gì, đều cảm thấy y chẳng qua chỉ là một thằng hề được hoàng thượng sủng ái, ngôn ngữ cử chỉ hàng ngày vẫn thường để lòi cái xấu, lại cứ điềm nhiên không biết nhục, khoe khoang đắc ý, lần này mà chịu nhục với sứ thần nước ngoài trên tiệc, khó mà không để ngoại bang chê cười, làm mất thể diện quốc gia, nào ngờ hoàng thượng chọn tài mà dùng, lại dám sai y, nếu không sai một nhân vật mặt dày như y đi làm chuyện sai sử này thì trong các đại thần văn võ trong triều quả thật tìm không ra được người thứ hai. Các đại thần càng nghe càng khâm phục, càng thấy hoàng thượng anh minh duệ trí, các bề tôi không sao bằng được.
Sách Ngạch Đồ nghe tới đó, đột nhiên chen vào “Mạc Tư Khoa vốn là đất Trung Quốc bọn ta”.
Giáo sĩ Hà Lan dịch câu ấy ra. Phí Yếu Đa La giật nảy mình, nghĩ thầm “Gã thiếu niên này ăn nói bừa bãi thì cũng thôi, sao lão già như ngươi cũng mặt dày nói bừa, nói Mạc Tư Khoa kinh thành nước ta là đất Trung Quốc các ngươi?”.
Sách Ngạch Đồ lại nói “Theo cách nói của quý sứ, thì chỉ cần đất đai mà người La Sát tạm thời chiếm được thì tính là đất La Sát rồi, có phải không?”. Phí Yếu Đa La nói “Vốn là phải như thế đấy. Quý sứ lại nói Mạc Tư Khoa là đất của quý quốc, ha ha, thật là buồn cười”. Sách Ngạch Đồ nói “Nhân dân nước La Sát có người Đại Nga La Tư, Tiểu Nga La Tư, Bạch Nga La Tư, lại có người Ca Tát Khắc, Đạt Đán vân vân, đó đều là người La Sát”. Phí Yếu Đa La nói “Không sai chút nào, nước ta đất đai rộng lớn, nhân dân rất đông. Sách Ngạch Đồ nói “Bách tính nước ta cũng rất nhiều chủng loại, có người Mãn Châu, người Mông Cổ, người Hán, người Miêu, người Hồi, người Tạng vân vân”. Phí Yếu Đa La nói “Đúng thế. Nước ta là lớn, Trung Quốc cũng là nước lớn. Hai nước chúng ta là lớn nhất trên đời hiện nay”.
Sách Ngạch Đồ nói “Vệ binh quý sứ mang theo lần này dường như đều là kỵ binh Ca Tát Khắc”. Phí Yếu Đa La mỉm cười một tiếng, nói “Kỵ binh Ca Tát Khắc anh dũng vô địch, là dũng sĩ lợi hại nhất trong thiên hạ”. Sách Ngạch Đồ nói “Kỵ binh Ca Tát Khắc lợi hại hơn người Nga La Tư à?”. Phí Yếu Đa La nói “Cũng không thể nói như thế. Ca Tát Khắc là người La Sát, Nga La Tư cũng là người La Sát, không hề phân biệt. Cũng như người Mãn Châu là người Trung Quốc, người Mông Cổ, người Hán cũng là người Trung Quốc, không hề phân biệt”. Sách Ngạch Đồ gật đầu nói “Vậy thì đúng rồi. Vì thế nên Mạc Tư Khoa là thuộc đất Trung Quốc bọn ta”.
Vi Tiểu Bảo nghe hai người bọn họ nói tới đó, cũng không hiểu rõ dụng ý của Sách Ngạch Đồ, y biết rõ Mạc Tư Khoa cách đó hàng vạn dặm xa xôi, quyết không phải là đất Trung Quốc, nhưng nghe Sách Ngạch Đồ trò chuyện giống như có ý e dè, mà Phí Yếu Đa La thì trán nổi gân xanh, mặt lúc xám xanh lúc đỏ bừng, rõ ràng trong lòng giận dữ như điên, liền chen vào “Mạc Tư Khoa là đất Trung Quốc, chuyện đó thì nửa điểm cũng không sai, Hoàng đế Trung Quốc khoan hồng đại lượng, cho các ngươi Lưu BỊ mượn Kinh Châu, một lần cho mượn thì mãi mãi không chịu trả”.
Phí Yếu Đa La tự nhiên không biết “Lưu Bị mượn Kinh Châu” là ý gì, chỉ cảm thấy bọn Man tử Trung Quốc này không biết lý lẽ, ăn nói hoàn toàn không giống người văn minh, cười nhạt nói “Trước đây ta nghe nói Trung Quốc có lịch sử lâu đời, người Trung Quốc rất có học vấn, nào ngờ... ha ha lại chuyên thích nói những chuyện không có bằng cứ”.
Sách Ngạch Đồ nói “Quý sứ là đại thần nước La Sát, cho dù không có học vấn gì thì chắc cũng biết lịch sử nước La Sát chứ?”. Phí Yếu Đa La nói “Lịch sử nước ta đều có sách vở làm bằng chứng, viết ra rõ ràng trên giấy trắng mực đen, quyết không phải là dựa vào lời người ta thuận miệng nói bừa”. Sách Ngạch Đồ nói “Vậy thì tốt lắm, Trung Quốc trước đây có một vị hoàng đế gọi là Thành Cát Tư Hãn...”.
Phí Yếu Đa La nghe tới bốn chữ Thành Cát Tư Hãn, bất giác “Ái chà” một tiếng, trong lòng kêu thầm “Hỏng bét, hỏng bét, tại sao mình lại hồ đồ, quên mất chuyện lớn này nhỉ?”.
Sách Ngạch Đồ nói tiếp “Vị Thành Cát Tư Hãn này, Trung Quốc chúng ta gọi là Nguyên Thái tổ, vì y là Thái tổ khai sáng nhà Nguyên. Y là người Mông Cổ. Quý sứ vừa nói qua, người Mãn Châu, người Mông Cổ, người Hán đều là người Trung Quốc, không hề phân biệt. Lúc ấy kỵ binh Mông Cổ tây chinh, từng đánh nhau với quân La Sát mấy trận. Lịch sử quý quốc có sách vở làm chứng, tất cả đều có ghi chép rõ ràng, quyết không thể là dựa vào lời người ta thuận miệng nói bừa. Trận đánh nhau lớn ấy không biết là người Trung Quốc bọn ta thắng hay là người La Sát quý quốc thắng?.
Phí Yếu Đa La im lặng không nói, qua một lúc lâu mới nói “Là người M&ocirìn cẩn thận, lỗ mũi vành tai sẽ bị lạnh cóng rụng luôn xuống, còn như đầu ngón tay cứng đờ rụng xuống, tay chân bị lạnh mà thành tàn phế, lại càng là chuyện bình thường. Tuyết rơi được mấy ngày, bách tính giúp đỡ công thành đã không chịu nổi, nhao nhao từ biệt quan quân, nói đầu mùa hè năm sau băng tan sẽ lại tới giúp, lại khuyên quan quân lui về phía nam, để khỏi bị chết cóng giữa trời băng đất tuyết.
Bọn tướng quân Tát Bố Tố, Ba Hải đã trấn thủ ở phía bắc lâu năm, đều biết cục diện lúc vào đông vô cùng nguy hiểm, nếu buổi tối bị hơi lạnh xâm nhập, thì trong một đêm quan quân bị chết cóng một nửa cũng không phải là chuyện lạ. Quân La Sát trú trong phòng ốc, tường dày có thể ngăn được hơi lạnh, quân Thanh thì đóng trong lều trại ngoài đồng trống, cho dù có đốt lửa sưởi cũng không được việc gì. Lúc ấy bèn đề nghị Vi Tiểu Bảo tạm lui quân về phía nam để tránh rét.
Vi Tiểu Bảo nghĩ hoàng thượng sai mình bắc chinh, ngay cả một tòa thành cũng hạ không được, nếu lui quân thì không khỏi quá bị thịt, do dự mấy ngày, rốt lại vẫn không quyết định được chủ ý. Bộ tướng tới báo, có mấy trăm quân sĩ bị thương không chịu lạnh nổi đã chết cóng. Vi Tiểu Bảo đang rầu rĩ chán nản, đột nhiên có thánh chỉ tới.
Trong chỉ dụ của Khang Hy nói “Phủ viễn đại tướng quân Vi Tiểu Bảo ra quân đắc lợi, rất đáng khen ngợi. Nay đã sai hàng tướng La Sát phụng lãnh sắc thư Đại Thanh, tới Mạc Tư Khoa tuyên dụ cho quốc chủ nước La Sát, bảo y bãi binh lui quân, hai nước vĩnh viễn hòa hiếu, đến nay khí trời rất lạnh, tướng sĩ vất vả, dầm sương dãi tuyết, trẫm rất thương xót. Vi Tiểu Bảo có thể rút quân về đóng ở hai thành Ái Hồn, Hô Mã Nhĩ để tướng sĩ dưỡng sức, đến mùa xuân năm sau nếu quân La Sát vẫn chống cự, không tuân vương hóa thì sẽ tiến quân, một trận quét sạch. Nay ban cho Phủ viễn đại tướng quân và các Tướng quân, Đô thống, Phó tướng cho tới quân sĩ thuộc hạ quần áo, vàng bạc, rượu thịt có thứ bậc khác nhau. Các tướng quân thống lĩnh nên tuân theo ý trẫm, thương yêu sĩ tốt, đừng tham mau lẹ lập công. Vương sư bắc chinh, vốn là vì thương dân, mà quân vốn cũng là dân vậy. Kính đấy”.
Vi Tiểu Bảo và chư tướng nhận chỉ tạ ơn. Các tướng đều nói Vạn tuế gia thương yêu tướng sĩ, hoàng ân hạo đãng, chỉ là nghĩ tới một lần triệt thoái không khỏi bao nhiêu công lao trước đây đều vứt đi hết, lại đều thấy tiếc. Khâm sai truyền chỉ đi tới các doanh tuyên chỉ ban thưởng, quân sĩ vui mừng reo hò như sấm.
Hôm sau Vi Tiểu Bảo sai Tát Bố Tố dẫn quân lui trước, sai Ba Hải và Lâm Hưng Châu mang quân đoạn hậu, nếu quân La Sát dám ra thành đuổi theo, sẽ đánh giết cho họ như hoa rơi nước chảy.
Quân La Sát thấy quân Thanh rút lui, trong thành tiếng reo hò vang lên ầm ầm, hơn một ngàn quân La Sát lại lên trên mặt thành đái xuống. Vi Tiểu Bảo cả giận, hạ lệnh quân sĩ nhất tề đái lên thành. Quân Thanh hàng vạn cột nước tiểu cùng phun, xem ra cũng rất tráng quan. Trên thành dưới thành tiếng cười tiếng chửi râm ran ầm ĩ. Chỉ là quân La Sát trên cao đái xuống, nước tiểu bắn xuống dưới thành, quân Thanh lại không bắn lên tới trên, trong trận đánh nhau bằng nước tiểu này bị đại bại. Dưới thành khắp nơi đều là nước tiểu, gió lạnh thổi qua, trong khoảnh khắc đông thành một lớp băng nước tiểu vàng vàng trong suốt.
Vi Tiểu Bảo cơn tức ấy nuốt không trôi, sai chỉ lên đầu thành chửi lớn. Viên Khâm sai tới tuyên chỉ khuyên “Quân La Sát như dã thú, đại soái không cần so đo với chúng”, Vi Tiểu Bảo nói “Không được, chịu thua thì mất mặt lắm!” bèn sai lấy thủy long tới.
Thủy long là vật dùng cứu hỏa, trong quân đề phòng thất hỏa nên hành quân đóng trại nhất định phải mang theo, bọn thân binh kéo hơn mười giá thủy long tới, Vi Tiểu Bảo sai kéo lên lũy đất, lúc ấy nước sông đã đóng thành băng, không có nước mà dùng, bèn sai quân nhà bếp đun băng tuyết trong chảo lớn, đổ nước nóng vào thủy long. Vi Tiểu Bảo cởi quần ra, đái vào nước nóng, rồi quát sai thân binh “Phun lên thành!”.
Bọn thân binh thấy chủ soái nghĩ ra diệu kế này, đều vui mừng nhảy nhót, nhất tề hăng hái xúm vào thôi động đòn cán thủy long, vừa đổ vừa nén, nước nóng trong ống nước liền phun thẳng lên thành. Đám thân binh quát lớn “Vi đại soái thưởng nước đái cho bọn quỷ La Sát”.
Nước nóng phun tới, quân La Sát nhao nhao chửi mắng tránh né. Các tướng có người kêu thầm trong bụng “Làm nhộn quá”, có người muốn lấy lòng đại soái, lại đứng cạnh hò hét trợ oai. Chỉ là khí trời quả thật rất lạnh, nước nóng trong thủy long không bao lâu đã kết lại thành băng, lại thêm nước nóng vào.
Vi Tiểu Bảo vô cùng cao hứng, tự khen ngợi mình “Gia Cát Lượng hỏa thiêu hang Bàn Xà, Vi Tiểu Bảo đái tưới núi Lộc Đỉnh, đều oai phong như nhau!” Phó Đô thống Lang Thân đứng cạnh khen “Một bầu nước tiểu của đại soái, đã bẻ gãy nhuệ khí của quân La Sát”.
Vi Tiểu Bảo đột nhiên ngẩn người, hai mắt trố ra, ngơ ngẩn xuất thần, rồi òa một tiếng nhảy bật lên, hô hô cười rộ, kêu lên “Tuyệt diệu, tuyệt diệu!”.
Vi Tiểu Bảo sai thúc trống lên trướng, tập họp chư tướng, hỏi “Trong doanh của chúng ta có tất cả bao nhiêu giá thủy long?”. Tham tướng chưởng quản việc quân nhu bẩm “Bẩm đại soái, tất cả có mười tám giá”. Vi Tiểu Bảo cau cau mày nói “Quá ít, quá ít! Tại sao không mang nhiều hơn?”. Viên Tham tướng ứng tiếng “Dạ!”, nghĩ thầm “Quân doanh bị thất hỏa không phải là chuyện thường xảy ra, mười tám giá thủy long cũng quá đủ rồi”. Vi Tiểu Bảo nói “Ta cần một ngàn giá thủy long để dùng, hãy tức khắc sai người tới các thành trấn xung quanh đây trưng thu điều động, lúc nào thì có đủ?”.
Vùng ấy ở biên thùy cực bắc, đất rộng người thưa, thành trấn gần nhất cũng cách đó vài trăm dặm, mỗi thành trấn chỉ lơ thơ vài trăm hộ gia đình, cư dân nghèo khổ, chưa chắc đã có thủy long, muốn trưng tập một ngàn giá thủy long, quyết không sao làm được. Viên Tham tướng kia trên mặt có vẻ khó khăn, nói “Bẩm đại soái, một ngàn giá thủy long, ở quan ngoại e không tìm được, phải vào cửa quan, tới Bắc Kinh, Thiên Tân chở tới”. Vi Tiểu Bảo tức giận nói “Nói như đánh rắm! Đi Bắc Kinh, Thiên Tân chở thủy long tới thì mất bao nhiêu thời gian? Chuyện chiến trận mà chậm nửa ngày đã không được rồi!”. Viên Tham tướng kia luôn miệng vâng dạ, biến hẳn sắc mặt, nghĩ “Lần này thì cái đầu của mình không khéo bị rơi xuống rồi”.
Viên Khâm sai ngồi bên cạnh, nhịn không được bèn khuyên “Đại soái, quý nước tiểu của ngươi đã bắn lên thành La Sát rồi. Cái này... cái này cốt tinh không cốt nhiều, trận này chúng ta đã thắng rồi. Theo thiển kiến của huynh đệ dường như nên Giặc cùng... Giặc cùng chớ đái”.
Vi Tiểu Bảo lắc đầu nói “Không được! Không có một ngàn giá thủy long thì không làm được việc lớn này”. Viên Khâm sai kia nghĩ thầm “Đại soái ngươi làm nhộn như thế, bắn nước đái tranh đua với nhau, là chuyện ngẫu nhiên đùa giỡn, cũng không làm tổn thương sự văn nhã, há lại có thể mở cờ gióng trống mà làm? Hoàng đế thiếu niên ưa thích tướng quân thiếu niên, vua tôi họ hợp nhau, người ngoài cũng không dám nhiều lời. Nhưng nếu làm nhộn quá đáng, không còn thể thống gì, lại không khỏi để thiên hạ chê cười”, đã định khuyên nữa thì nghe Vi Tiểu Bảo nói “Các vị tướng quân, vị nào có thể nghĩ ra diệu kế, ngay lập tức tìm được một ngàn giá thủy long thì đó là công lao không gì lớn bằng”.
Bằng Xuân nói “Xin hỏi đại soái, cần một ngàn giá thủy long là dùng để... là dùng để bắn nước tiểu lên thành phải không?”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Chúng ta mà có được một ngàn giá thủy long, nếu bắn nước tiểu lên thành, thì phải có bao nhiêu người đái? Một trăm vạn quân cũng không đủ đâu”. Bằng Xuân nói “Đúng thế. thuộc hạ rất ngu xuẩn, xin đại soái chỉ giáo”.
Vi Tiểu Bảo nói “Mới rồi ta thấy quý nước tiểu của bản soái phun lên thành lập tức đông thành băng. Nếu chúng ta dùng một ngàn giá thủy long, suốt ngày suốt đêm phun nước vào thành thì sẽ như thế nào?”.
Các tướng ngẩn người ra, mấy người đầu óc mau lẹ nhất reo ầm lên, kế đó mọi người cũng đều minh bạch, trong trướng ầm ầm như sấm, các tướng đồng thanh kêu lên “Diệu kế, diệu kế! Nước tưới Nhã Khắc Tát, băng đóng Lộc Đỉnh sơn!”.
Qua một lúc, tiếng reo hò ngớt dần, có người nói “Tính ra phải về Bắc Kinh, Thiên Tân lo liệu, một ngàn giá thủy long phải suốt ngày suốt đêm chở tới”. Lúc ấy liền có mấy viên Phó tướng, Tá lãnh khoe khoang hăng hái, xin sai mình đi trưng tập thủy long.
Hồng Triều chức vụ thấp kém, ngồi ở sau cùng, lúc ấy khom lưng nói “Bẩm chủ soái, mạt tướng có thiển kiến, xin chủ soái định đoạt”, Vi Tiểu Bảo nói “Ngươi nói đi!”. Hồng Triều nói “Mạt tướng là người Phúc Kiến, xứ ấy rất nghèo khổ, không chế tạo được thủy long, nếu trong thôn bị thất hỏa thì mọi người dùng thủy thương bắn nước cứu hỏa. Loại thủy thương bắn nước ấy dùng một cây tre to đục thủng các đốt, một đầu khoét lỗ to bằng đồng tiền, đầu kia dùng gỗ làm một cái nút có thể chạy lên chạy xuống. Lúc cứu hỏa thì nhúng đầu có lỗ nhỏ xuống nước, rút nút gỗ lên, ống tre lập tức hút đầy nước, rồi dùng sức đẩy cái nút, nước trong ống tre sẽ phun ra”.
Vi Tiểu Bảo ờ một tiếng, ngưng thần ngẫm nghĩ về loại thủy thương này.
Vi Tiểu Bảo kêu lên “Mẹ ơi!”, đang định chui trở vào trướng, chợt xoay chuyển ý nghĩ “Nếu bọn quỷ La Sát muốn giết mình, thì có chui vào trướng cũng bị họ lôi ra, mà lại rất mất mặt”. Lúc ấy toàn thân run bắn lên, mặt xám như tro, nhưng vẫn đứng yên bất động.
Lâm Hưng Châu quát “Quân khiên mây bảo vệ đại soái! Tới đây!”.
Hai trăm sáu mươi quân khiên mây đồng thanh ứng tiếng “Dạ”. Rồi rảo chân bước tới đứng trước mặt Vi Tiểu Bảo và các đại thần.
Vi Tiểu Bảo rút thanh chủy thủ trong ống giày ra, nghĩ thầm “Nếu bọn quỷ La Sát muốn động võ thật, thì mọi người liều mạng đánh nhau một trận, cũng không thể không nghĩ tới nghĩa khí”. Rồi rảo chân bước tới đứng trước mặt Sách Ngạch Đồ, kêu lên “Sách đại ca đừng sợ, ta sẽ bảo vệ ngươi”.
Sách Ngạch Đồ là văn quan, đã sớm sợ tới mức hồn bất phụ thể, nói “Toàn... toàn nhờ cậy vào huynh đệ”.
Nhìn thấy mười hàng kỵ binh Ca Tát Khắc xông tới, còn cách quân Thanh năm trượng, viên Đội trưởng đi đầu vung trường đao chém hờ, quát lớn một tiếng, đám kỵ binh đều kìm ngựa lại, hai trăm sáu mươi con ngựa đồng thời đứng im bất động. Viên Đội trưởng kia lại quát một tiếng, đám kỵ binh chia làm hai, một trăm ba mươi con ngựa rẽ qua phía bắc, một trăm ba mươi con ngựa rẽ qua phía nam, phóng ra vài mươi trượng, lượn quanh một vòng, lại quay lại đứng cách trướng hơn hai trăm trượng, đội hình hoàn toàn không chút rối loạn, hai trăm sáu mươi người ngựa mà như một người một ngựa, quả nhiên là tinh binh được huấn luyện rất thuần thục.
Phí Yếu Đa La hô hô cười rộ, cao giọng gọi “Công tước đại nhân, ngươi thấy quân La Sát bọn ta thế nao?”.
Vi Tiểu Bảo đến lúc ấy mới biết y chẳng qua chỉ thị uy, trong lòng cả giận, quát “Đây là bọn khỉ diễn trò trên ngựa, chứ đem đánh nhau thì hoàn toàn vô dụng”.
Phí Yếu Đa La tức giận nói “Bọn ta lại xông tới đấy!”, nghĩ thầm “Lần này cứ xông tới trước mặt ngươi, xem ngươi có bỏ chạy hay không?”, quát “Giật hết mũ của quân Trung Quốc”. Đội trưởng kỵ binh Ca Tát Khắc quát một tiếng, hai trăm sáu mươi tên kỵ binh xông mau tới.
Vi Tiểu Bảo quát “Chém chân ngựa!”. Lâm Hưng Châu kêu lên “Tuân lệnh! Chém chân ngựa, không đả thương người!”.
Chỉ nghe tiếng vó ngựa như sấm, hai trăm sáu mươi con ngựa dần dần phi tới gần, trường đao trong tay kỵ binh Ca Tát Khắc lấp lóe ánh mặt trời, nhìn thấy đã phóng tới trước mặt còn cách ba mươi trượng, hai mươi trượng, mười trượng... Vẫn chưa dừng lại, lại phóng lên bốn năm trượng nữa. Lâm Hưng Châu quát “Cổn Đường đao, xông lên!”. Hai trăm sáu mươi quân khiên mây nhất tề tiến lên, lăn tròn xuống đất. Hai trăm sáu mươi người này đều là hảo thủ Địa Đường đao do Lâm Hưng Châu đích thân huấn luyện, thân pháp đao pháp đều rất thuần thục, lăn tròn tới trước, dùng khiên mây che kín người, không hề lộ ra một chút bóng đao.
Trong khoảnh khắc, hàng kỵ binh thứ nhất đã gặp quân khiên mây, đột nhiên đàn ngựa hí ran, nhao nhao đổ xuống. Quân khiên mây đao sắc chém ra, một nhát đao chém đứt một chân ngựa, khiên mây che người không ngừng lăn tròn qua. Trong tiếng người kêu ngựa hí của quân La Sát, quân khiên mây đã lăn qua mười hàng kỵ binh, chém đứt một trăm bảy tám mươi cái chân ngựa, bày thành đội ngũ phía sau quân La Sát. Lâm Hưng Châu suất lãnh quân khiên mây rảo chân chạy mau trở về, lại dàn hàng trước mặt bọn Vi Tiểu Bảo. Trong hai trăm sáu mươi người chỉ có hơn mười người bị ngựa giẫm bị thương, nhưng thương thế đều nhẹ, người bị thương gắng gượng nhịn đau, vẫn đứng thẳng trong đội hình.
Hai trăm sáu mươi kỵ binh Ca Tát Khắc có quá nửa ngã ngựa, có người bị ngựa đè, nằm dưới đất kêu gào rên rỉ, chỉ có vài mươi người nhảy ra khỏi ngựa, phần lớn đều đứng dưới đất, tay chân luống cuống. Đám kỵ binh này cả đời sống trên lưng ngựa, chỉ có cưỡi trên lưng ngựa mới ngang tàng kiêu dũng, nhưng hai chân vừa chạm đất lại như cá ra khỏi nước, không có gì để nhờ cậy.
Vi Tiểu Bảo kêu lên “Chia một nửa quân bao vây đại quan La Sát”. Lâm Hưng Châu ra lệnh, liền có một trăm quân khiên mây sấn lên vây chặt mười mấy viên quan bọn Phí Yếu Đa La, một trăm thanh đại đao kết thành một vòng, mũi đao chớp chớp, chỉ cần một tiếng ra lệnh, một trăm thanh đại đao đồng thời phóng tới, bọn Phí Yếu Đa La lại không trở thành nhân bánh bao La Sát sao?
Viên Chánh Đội trưởng kỵ binh Ca Tát Khắc thấy tình hình như thế, sải chân chạy tới, kêu lên “Không được đả thương người, không được đả thương người!”.
Vi Tiểu Bảo quay đầu nhìn Song Nhi cải trang làm thân binh đứng bên cạnh “Qua điểm huyệt bọn họ đi!”. Song Nhi nói “Được!”, rồi vọt người ra, nghiêng người sấn vào sau lưng viên Đội trưởng kỵ binh Ca Tát Khắc, vươn tay điểm vào huyệt đạo trên lưng y, kế đó lại điểm huyệt viên Phó Đội trưởng.
Một tên Tiểu Đội trưởng thò tay vào bọc, rút ra một khẩu đoản thương, quát “Không được động đậy!”. Song Nhi chụp một tên quân La Sát kéo ra che trước mặt, sấn tới vài bước. Viên Tiểu Đội trưởng kia không dám nổ súng, lại quát “Không được động đậy!”. Song Nhi nhấc tên lính La Sát kia ném vào y. Viên Tiểu Đội trưởng giật mình, nghiêng người tránh qua, Song Nhi đã vọt ra, điểm vào huyệt đạo trên ngực và hông y, vươn tay giật khẩu đoản thương của y chĩa lên trời bóp cò bình một tiếng.
Vi Tiểu Bảo lớn tiếng nói “Hay lắm, đôi bên đã nói rõ là không được mang hỏa khí, bọn quỷ La Sát các ngươi thật không biết giữ chữ tín”. Rồi bước lên mấy bước, nói với Phí Yếu Đa La “Này, ngươi bảo thủ hạ buông hết đao kiếm, tất cả xuống ngựa xếp hàng, móc tất cả hỏa khí trong người ra ném xuống”. Phí Yếu Đa La thấy trước mắt không còn cách nào kháng cự, bèn theo lời ra lệnh.
Kỵ binh Ca Tát Khắc chỉ đành ném hết đao kiếm, xuống ngựa đứng xếp hàng. Vi Tiểu Bảo sai một trăm sáu mươi quân khiên mây bao vây bốn phía, lục soát người quân La Sát. Trong người hai trăm sáu mươi người, lục soát được hai trăm tám mươi khẩu đoản thương, có người một mình mang hai khẩu.
Quân La Sát dưới thành Ni Bố Sở nhìn thấy tình thế ở xa có biến, từ từ tiến lên. Quân Thanh ở phía đông cũng lục tục kéo tới. Đôi bên còn cách nhau vài trăm bước, bày trận đối diện. Quân La Sát thấy chủ soái bị bao vây, chỉ đành ngấm ngầm kêu khổ, không dám làm gì.
Vi Tiểu Bảo hỏi Phí Yếu Đa La “Hầu tước đại nhân, ngươi mang rất nhiều hỏa khí tới để làm gì vậy?”. Phí Yếu Đa La buông tay cúi đầu, nói “Rất xin lỗi, bọn vệ binh của ta không tuân mệnh lệnh, ngầm mang hỏa khí, lúc trở về ta sẽ trừng phạt thật nặng”. Vi Tiểu Bảo gọi “Quân khiên mây, cởi áo ra cho họ nhìn xem các ngươi có mang hỏa khí không?”. Hai trăm sáu mươi quân khiên mây ném khiên mây xuống, dùng tay trái cởi áo, tay phải vẫn giơ cao đại đao đề phòng đối phương có hành động gì khác. Mọi người cởi áo ra, để lộ ngực trần, nhảy lên mấy cái, quả nhiên không ai mang theo hỏa khí. Phí Yếu Đa La trong lòng xấu hổ, cúi đầu không nói gì.
Vi Tiểu Bảo dùng tiếng La Sát cao giọng nói “Người La Sát làm việc không biết xấu hổ, lột hết quần áo của họ ra, xem họ có mang hỏa khí hay không?”. Phí Yếu Đa La cả kinh, vội nói “Công tước đại nhân, xin ngươi ra ơn. Ngươi... nếu ngươi lột quần áo của ta, thì ta... ta chỉ còn cách tự sát thôi”. Vi Tiểu Bảo nói “Quần thì không lột ra không được”. Phí Yếu Đa La nói “Xin ngươi tha thứ cho một lần, tất cả mọi chuyện nhất thiết đều theo ngươi phân phó”. Vi Tiểu Bảo nói “Mới rồi kỵ binh của ngươi xông qua, làm ta hoảng sợ chui vào gầm bàn, mất hết thể diện của công tước đại nhân, chuyện ấy tính sao?”. Phí Yếu Đa La nghĩ thầm “Là ngươi nhát gan, ta làm thế nào được?”. Nhưng mũi đao của quân Thanh đang chớp chớp trước mặt, chỉ đành nói “Tệ nhân tình nguyện bồi thường tổn thất”.
Vi Tiểu Bảo trong lòng vui sướng, tự nhủ “Cái ống tre La Sát tự tới cửa rồi”. Nhưng nhất thời không nghĩ ra là đòi y bồi thường thế nào, liền ra lệnh “Cắt hết thắt lưng của quan lớn lính nhỏ La Sát”.
Quân khiên mây lớn tiếng đáp “Tuân lệnh!”, rồi nhấc mũi đao lẽn rọc vào thắt lưng người La Sát, lưỡi đao hướng ra ngoài, kéo xuống một cái, thắt lưng lập tức bị cắt đứt.
Từ Phí Yếu Đa La trở xuống, người La Sát ai cũng hoảng sợ hồn bất phụ thể, hai tay giữ chặt lưng quần, chỉ sợ tuột xuống. Vi Tiểu Bảo hô hô cười rộ, ra lệnh “Áp giải người La Sát, đắc thắng về dinh!”.
Lúc ấy quan binh La Sát người nào cũng sợ quần bị tuột xuống, không hề kháng cự, theo quân Thanh xếp hàng đi về phía đông.
Đông Quốc Cương cười nói “Diệu kế của Vi đại soái quả thật khiến người ta khâm phục, cắt đứt thắt lưng, chỉ trong khoảnh khắc mà trói chặt hai tay của hai trăm sáu mươi quan binh La Sát”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Đàn ông La Sát sợ bị cởi quần, đàn bà La Sát lại không sợ, như thế không kỳ quái à?”. Bọn Đông Quốc Cương đều cười hô hố.
Đoàn người họp với đại quân, quân Thanh đẩy ra hơn bốn trăm khẩu đại pháo, lột hết vải che, chĩa pháo vào quân La Sát. Lúc ấy nước La Sát tuy có hỏa khí lợi hại, nhưng ở phương đông thì không chuẩn bị chu đáo bằng Khang Hy, đã dốc hết một nửa đại pháo trong nước điều lên Ni Bố Sở, bất kể về binh lực hay hỏa lực thì quân Thanh cũng đều mạnh hơn gấp mấy lần. Quân La Sát đột nhiên thấy rất nhiều đại pháo, đều ngớ mặt nhìn nhau, v&oc tới ngực. Tính ra trời rất lạnh, nước nóng bắn tới thì đã nguội đi rất nhiều, nhưng cũng khiến y chân đứng không vững, loạng choạng ngã xuống, thân binh bên cạnh vội tới đỡ lên. Chỉ nghe bốn phía đều có tiếng hò hét quát tháo, trên thành tia nước rơi xuống rào rào, từng cột nước như rồng trắng bay vào thành. Trong khoảnh khắc, thành Nhã Khắc Tát mờ mịt hơi nước, là hơi nước nóng gặp khí lạnh kết thành.
Đồ Nhĩ Bố Thanh trong lòng hoảng sợ, kêu lên “Bọn Man tử Trung Quốc lại dùng yêu pháp!”, giữa cây gỗ lớn lại có nước phun ra, tự nhiên là yêu pháp không còn nghi ngờ gì nữa. Y trong lúc hoảng sợ, quát tớn “Mọi người nổ súng, đừng để bọn Man tử xông lên thành”.
Từ hôm y bị quân Thanh bắt sống lột hết quần áo, giải quanh thành ba vòng, uy tín giảm hẳn, ra hiệu lệnh thì bộ thuộc đã không nghiêm túc tuân thủ như trước nữa. Chỉ là quân Thanh đánh thành rất gấp, quân tướng La Sát đều sợ nếu thành bị hạ thì không ai may mắn được sống sót mới miễn cưỡng đánh nhau, lúc ấy biến cố lớn đột nhiên xảy ra, mấy ngàn cột nước phun vào thành, quân tướng chạy tứ tán, còn ai đếm xỉa tới y?
May mà quân Thanh chỉ bắn nước chứ không thừa cơ đánh thành, quân La Sát rối loạn một lúc, bắt đầu định thần lại, nhưng thấy mặt đất nước đóng thành băng, trên đầu thì những cột nước vẫn trút xuống như rót như đổ, tiếp tục tưới xuống.
Đàn ông Trung Quốc trong thành Nhã Khắc Tát đã bị giết hết, chỉ còn một số phụ nữ trẻ tuổi làm doanh kỹ, cung đốn dâm nhạc. Trong thành ngoài binh tướng La Sát, còn có các quan viên văn chức do Mạc Tư Khoa phái tới, giáo sĩ truyền giáo, thương nhân theo quân đội buôn bán và bọn vong mệnh đầu trộm đuôi cướp định tới phương đông kiếm chác. Trong khoảnh khắc, người nào cũng ướt đẫm như gà rơi vào nồi nước, lúc đầu nước còn ấm, không bao lâu thấm qua áo ngoài lạnh dần, lại qua một lúc, áo ngoài đã bị đóng băng, mọi người cả sợ, nhao nhao cởi áo quần giày tất ra, đều biết áo ngoài mà đóng băng dính vào da thịt, lúc ấy ngón tay sẽ bị cứng đờ không sao cởi ra được nữa. Cho dù có người giúp đỡ thì cởi được áo quần giày tất da cũng bị lột ra theo, quả thật không gì nguy hiểm bằng.
Nước dưới đất đọng lại cao dần, từ từ đông lại, biến thành sền sệt như cháo, người La Sát đi chân không trên đó, băng lạnh thấu xương, nhịn không được nhảy nhảy rối lên, kêu lớn “Lạnh chết mất thôi, lạnh chết mất thôi”. Mọi người tranh nhau chạy lên chỗ cao, có người trèo lên nóc nhà.
Đồ Nhĩ Bố Thanh khoác áo lông điêu, tay trái cầm dù, cưỡi một con ngựa cao to đi đi lại lại quan sát, nghe có người la lớn “Đầu hàng” bèn tức giận lớn tiếng quát “Ai làm rối loạn lòng quân ở đây? Bọn gian tế! Lôi ra bắn chết đi”.
Mọi người thấy Đồ Nhĩ Bố Thanh mặc áo da có thể đỡ nước, trong người ấm áp, đứng đó quát tháo chửi mắng, người bên cạnh đều lạnh chết đi sống lại, ai cũng không nhịn được, lập tức có người bốc tuyết ném vào y. Đồ Nhĩ Bố Thanh giơ súng ngắn lên đoàng một tiếng bắn vào đám đông, lập tức bắn chết hai người. Những người còn lại bốc tuyết ném bừa vào y, có người xông lên kéo y xuống ngựa. Bọn vệ binh vung đao chém, nhưng làm sao ngăn chặn được?
Đang lúc hỗn loạn, một toán quân kỵ phóng tới, loạn dân La Sát la một tiếng chạy tứ tán, Đồ Nhĩ Bố Thanh dưới đất bò lên, vừa khéo trên đầu bị hai cột nước rót xuống, lập tức khiến y toàn thân ướt đẫm. Y hai chân nhảy rối lên, lớn tiếng chửi rủa, chỉ đành sai vệ binh giúp mình cởi áo cởi giày.
Quân Thanh nhìn thấy tình trạng thảm hại của quân La Sát trong thành, đứng trên lũy đất hò hét như sấm, Nam xoang Bắc điệu, hát ví ru em, trong đó tự nhiên cũng không thể thiếu bài Thập bát mô “Sờ một cái, sờ hai cái” của Vi Tiểu Bảo.
Bọn Bằng Xuân lo việc chỉ huy. Ban Phó tướng suất lĩnh đám thợ mộc sửa chữa những khẩu pháo bị hỏng. Đội đun nước thêm củi, xúc tuyết đổ vào chảo, đội chuyển nước đưa từng thùng từng thùng nước nóng đổ vào miệng pháo. Khi miệng pháo đầy nước, thì “Một, hai, ba, bắn!”, sáu người pháo thủ ra sức đẩy cái nút về phía trước, một tia nước từ miệng pháo vọt ra, bắn vào trong thành.
Nước nóng trong thủy pháo của quân Thanh lúc bắn ra thì dựng đứng thành cột nước, nhưng khi rơi xuống thành thì tan ra thành thủy châu, như mưa lớn rào rào đổ xuống, có khi rơi xuống rất nhẹ, có khi ngưng tụ không tan, nhắm đúng vào người bắn thẳng tới. Thủy pháo tinh thô khác nhau, có khẩu lực đạo rất mạnh, bắn đi rất xa, có khẩu bắn rất gần, rất nhiều khẩu bắn vài lần thì thân pháo tách ra, lại làm không ít các “pháo thủ” của quân Thanh bị bỏng.
Ba ngàn khẩu thủy pháo bắn hơn một giờ đã có hơn sáu trăm khẩu bị hỏng. Đồng thời đun tuyết thành nước nóng cũng không kịp cho pháo bắn, “Đạn dược” về sau đã không tiếp tế kịp. Lại bắn thêm nửa giờ, pháo hỏng càng nhiều, nước nóng càng thiếu, chỉ còn tám chín trăm khẩu thủy pháo tiếp tục bắn, uy lực giảm hẳn.
Vi Tiểu Bảo đang cảm thấy chán nản, chợt thấy cổng thành mở toang, mấy trăm người La Sát tràn ra, la lớn “Đầu hàng, đầu hàng!”.
Tát Bố Tố lúc ấy vết thương trên trán đã khỏi được quá nửa, lập tức suất lãnh một ngàn kỵ binh phóng tới, quát “Ai đầu hàng thì ngồi xuống đất!”, người La Sát ngớ mặt nhìn nhau không hiểu ý tứ. Một viên Bả tổng quân Thanh ngồi xuống đất kêu lên “Ngồi xuống, ngồi xuống!”.
Đúng lúc ấy cổng thành chợt đóng lại, trên thành có mấy loạt súng bắn xuống, bắn chết mấy mươi người La Sát. Số người La Sát đầu hàng còn lại bỏ chạy tứ tán. Thủy pháo của quân Thanh nhắm thật chuẩn vào binh tướng La Sát trên thành, bắn qua tới tấp, quân La Sát nhao nhao ngã xuống.
Lúc ấy nước trong thành đã đọng lại hơn hai thước, đều đã đóng thành băng, nếu lấy nước rót cho toàn thành đóng thành một tòa thành bằng băng lớn thì ít nhất cũng phải mất mười bữa nửa tháng, nhưng quân La Sát không áo không giày, lại không đốt lửa được, người nào cũng lạnh run cầm cập, sắc mặt tái ngắt. Có khi mấy người đứng ôm lấy nhau, dùng hơi ấm của cơ thế để sưởi cho nhau.
Đồ Nhĩ Bố Thanh vẫn lớn tiếng quát tháo, đốc thúc quân tướng giữ thành. Đám quân sĩ đều quay đầu không đếm xỉa gì tới. Đồ Nhĩ Bố Thanh cả giận, vung tay đánh một tên võ quan, tên võ quan ấy xoay người tránh qua, Đồ Nhĩ Bố Thanh đuổi theo, đột nhiên trượt chân trên băng một cái, ngã xuống dưới thành. Một tên quân sĩ bên cạnh tiện tay xô một cái, đẩy y vào một hố nước. Đồ Nhĩ Bố Thanh ra sức giãy giụa nhưng tay chân cứng đờ không bò lên được, la lớn “Cứu ta với, cứu ta với!”. Đám binh tướng người nào cũng tỏ vẻ khinh bỉ, đều xúm lại vây quanh hố nước đứng nhìn. Qua không bao lâu, nước trong hố đông lại thành băng, giữ chặt Đồ Nhĩ Bố Thanh dưới đó, y nửa người trên vẫn còn ngoài hố, vẫn còn thở nhưng ngực đã bị băng đông cứng, giống như bị chôn sống.
Lúc ấy mọi người tâm ý tương đồng, mở toang cửa thành kêu lên “Đầu hàng” rồi chạy túa ra.
Vi Tiểu Bảo mừng rỡ như điên, hoa tay múa chân, ăn nói bừa bãi, hiệu lệnh phát ra không ai hiểu gì cả. May là các tướng lĩnh trong quân Thanh đều là bậc túc tướng thân trải trăm trận, miệng thì hô lớn “Tuân lệnh!”, nhưng tự đi lo các việc nhận hàng, vào thành giam trói, dọn dẹp, tất cả đều đâu vào đấy, hoàn toàn không có quan hệ gì với lệnh của Vi đại soái.
Lúc đầu bắn nước vào thành, chỉ sợ không đủ nhiều, lúc bấy giờ thấy trong thành quá nhiều nước, nước tràn ra cả ngoài thành, rất khó đi lại, chỉ còn cách thuận theo tự nhiên. Lang Thân đốc thúc quân sĩ dọn dẹp phủ Tổng đốc sạch sẽ, mời Vi Tiểu Bảo, Sách Ngạch Đồ và Khâm sai vào ở, sau đó tới kho thuốc súng, kho vũ khí, kho vàng bạc niêm phong cẩn thận, sai quân canh giữ. Lúc ấy nhà Thanh thế nước đang mạnh, kỷ luật trong quân rất nghiêm. Đại quan như bọn Vi Tiểu Bảo, Sách Ngạch Đồ thì không khỏi có lúc thừa cơ phát tài lớn, nhưng quan quân binh sĩ thì một vật cũng không dám lấy bừa.
Trong thành ngoài thành giết bò giết dê, mở tiệc mừng lớn. Bọn Sách Ngạch Đồ ra sức tâng bốc, nói Vi đại soái dùng quân như thần, cho dù Tôn Ngô ngày xưa phục sinh cũng không bằng được. Viên Khâm sai nói “Huynh đệ lần này rời kinh, hoàng thượng cứ dặn đi dặn lại, nói Vi đại soái không nên sát thương quá nhiều. Hôm nay Vi đại soái hạ thành Nhã Khắc Tát vốn là kỳ công, nhưng chuyện khó hơn còn là không hề dùng tới đao thương kiếm kích, cung tên hỏa khí, mà quân ta không hề bị thương vong một binh một tốt. Trong vòng một ngày khống chế đại địch, chiếm được thành lớn mà không mất một viên tướng sĩ, xưa nay chỉ có một mình Vi đại soái mà thôi. Đây không những là trước kia không có, mà nhất định sau này cũng không có”.
Vi Tiểu Bảo đắc ý nghênh ngang, ra sức khoe khoang “Muốn hạ thành Nhã Khắc Tát vốn cũng không phải chuyện khó. Khó là ở chỗ hoàng ân hạo đãng, thể tuất tướng sĩ, không muốn thương vong quá nhiều, vì thế huynh đệ phải chờ đến hôm nay mới dùng kế sách này, để Khâm sai đại thần chính mắt nhìn thấy, bọn ta làm việc cho hoàng thượng, đánh nhau thắng trận thì cũng thôi, ai cũng làm được, chẳng có gì lạ. Nhưng ngẩng tuân thánh ý của hoàng thượng, thắng trận mà không chết người nào, đó mới là chuyện khó”.
Chúng tướng đều cảm thấy y tuy khoe khoang hơi nhiều, nhưng muốn thắng trận mà bên m&igravagrave;ng thượng sẽ trách phạt”. Sách Ngạch Đồ nói “Đông công gia nói rất đúng, nếu cứ dùng biện pháp cứng rắn với y, cũng không phải cách hay”
Các đại thần bàn bạc hồi lâu vẫn không tìm được kế sách nào hay. Hôm nay bắt được Phí Yếu Đa La, tuy là một trận thắng, nhưng quyết không phải là bản ý giảng hòa của hoàng thượng, có thể nói là làm trái kế sách của triều đình, chỉ cần có một chuyện xử lý không hay là sẽ trở thành trọng tội làm trái ý chỉ, nói tới nói lui, các đại thần đều khuyên Vi Tiểu Bảo thả Phí Yếu Đa La vế.
Vi Tiểu Bảo nói “Được! Chúng ta cứ giữ y lại ở đây một đêm, sáng mai sẽ thả y về là xong”. Y trở về tẩm trướng, đi qua đi lại ngẫm nghĩ, đột nhiên nghĩ ra “Đầu tiên đã học Gia Cát Lượng hỏa thiêu hang Bàn Xà, đại thắng ở thành Nhã Khắc Tát rồi, lão tử lại học màn Hội Quần anh Chu Du đùa Tưởng Cán vậy”, ngẫm nghĩ tính toán một hồi, đã có kế sách.
Y trở ra quân trướng, mời viên giáo sĩ Hà Lan làm thông dịch tới, thì thào bàn bạc với y một lúc, lại bảo y dạy cho hai mươi câu tiếng La Sát, đọc đi đọc lại thật chính xác, không lầm chữ nào, rồi truyền gọi bốn viên tướng và Đội trưởng thân binh tới, dặn dò như thế như thế. Mọi người vâng lệnh ra đi, Phí Yếu Đa La ở sau trướng, trong lòng ý nghĩ cuồn cuộn dâng lên, lúc thì sợ sệt, lúc thì hối hận, làm sao ngủ được. Lăn qua lăn lại đến nửa đêm, chỉ nghe chỗ cửa trướng tiếng ngáy như sấm, ba tên thân binh canh gác đều đã ngủ say. Phí Yếu Đa La nghĩ thầm “Nếu không đáp ứng điều khoản của thằng Man tử Trung Quốc này thì nhất định rất khó thoát thân. Sáng mai nếu thằng tiểu quỷ này lên cơn tức giận, lôi mình ra giết, há không oan uổng sao? May mà ba tên vệ binh này đều ngủ say, sao không mạo hiểm trốn đi?”. Rồi nhón chân bước xuống giường, cởi áo ra buộc vào ngang hông để quần khỏi tuột xuống, rón rén bước ra của trướng, chỉ thấy ba tên thân binh đang nằm chỗ cột lều ngay cửa trướng, đang ngủ rất say.
Y đưa tay sờ lên lưng một tên thân binh, định rút thanh bội đao, tên thân binh ấy đột nhiên hắt hơi một cái. Phí Yếu Đa La giật nảy mình, vội rút tay lại, chờ qua một lúc, không thấy có động tĩnh gì, lại định tới lấy bội đao của một tên thân binh khác. Tên thân binh ấy đột nhiên ưỡn lưng một cái, nói mớ vài câu. Phí Yếu Đa La không dám chần chừ, rón rén bước ra khỏi trướng, may mà ba tên thân binh đều không hay biết gì.
Y đi tới ngoài trướng, co người trong bóng tối, thấy phía ngoài có vệ binh tay cầm đèn lồng, cầm đao tuần tra, ba phía bắc, đông, nam đều có quân đi tuần, chỉ có phía tây tối om tựa hồ không có ai. Lúc ấy bèn từng bước từng bước đi về phía đó, mỗi khi thấy quân đi tuần thì co người lại núp phía sau trướng, may mà suốt trên đường đi đều được thái bình vô sự. Vừa tới sau một ngôi trướng, đột nhiên phía tây có một toán quân đi tuần kéo tới, Phí Yếu Đa La vội núp vào phía sau trướng, nghe trong trướng có người nói chuyện, là nói bằng tiếng La Sát.
Chỉ nghe người ấy nói “Công tước đại nhân quyết ý đánh thẳng tới Mạc Tư Khoa cũng không phải không được, chỉ có điều đường sá xa xôi, mười phần nguy hiểm”. Phí Yếu Đa La cả kinh, lập tức bò rạp xuống, vén vải dưới chân trướng nhìn vào bên trong, vừa nhìn thấy, lập tức tim đập thình thịch.
Trong trướng đèn lửa soi sáng như ban ngày, Vi Tiểu Bảo thân khoác áo choàng, mặc nhung trang ngồi chính giữa, hai bên có hơn mười viên đại tướng đứng, dưới trướng có mấy mươi tên thân binh tay cầm đại đao. Cạnh bàn Vi Tiểu Bảo là viên giáo sĩ người Hà Lan làm thông dịch đang đứng, nói chuyện với y.
Chỉ nghe Vi Tiểu Bảo nói tiếng La Sát “Chúng ta uống rượu, nói chuyện với Phí Yếu Đa La ở đây là giả, không phải là thật, có bàn bạc một tháng hai tháng, bàn lui bàn tới cũng đều là giả, đại quân cứ lặng lẽ tiến về phía tây. Công chúa La Sát thỉnh thoảng lại nhận được báo cáo của thằng ngốc Phí Yếu Đa La, nói đang đàm phán với chúng ta, cô ta không sợ, hàng ngày vẫn vui vẻ khiêu vũ, ngủ nghê. Đại quân Trung Quốc đột nhiên tới dưới thành Mạc Tư Khoa, tấn công, tấn công kỳ lạ, bắt hết hai Sa hoàng, công chúa Tô Phi Á. Người La Sát khóc lóc, quỳ xuống, đầu hàng!”. Viên giáo sĩ Hà Lan nói “Chuyện hành quân đánh nhau thì ta không biết. Có điều một mặt nghị hòa với người La Sát, một mặt lại lén tới đánh úp kinh thành của họ, như thế không phải là không giữ tín nghĩa sao? Đạo lý của Chúa dạy chúng ta không nên lừa dối, không nên bịa đặt”. Vi Tiểu Bảo nói “Hô hô, là người La Sát lừa dối người ta trước. Y cắn ta một cái, ta cắn lại y hai cái, cắn thật mạnh!”.
Viên giáo sĩ cười hắc lên một tiếng, qua một lúc lại nói “Ta khuyên công tước đại nhân không nên đánh nhau thì hay. Hai nước đánh nhau, người chết đều là con dân của Chúa...”. Vi Tiểu Bảo xua tay nói “Đừng nhiều lời nữa. Ta chỉ tin Bồ tát, không tin Chúa trời, nếu gã Phí Yếu Đa La kia đàm phán công bằng, để Trung Quốc chiếm một phần đất đai thì vốn cũng có thể nghị hòa được. Nhưng y một dặm đất cũng không chịu nhường. Đợi chúng ta hạ thành Mạc Tư Khoa xong, tất cả đàn ông La Sát sẽ lên thiên đường, tất cả đàn bà sẽ làm vợ người Trung Quốc”.
Phí Yếu Đa La càng nghe càng khiếp sợ, nghĩ thầm “Lạy Chúa tôi, thằng Man tử Trung Quốc này thật vô pháp vô thiên, lớn mật làm bậy”.
Chỉ nghe Vi Tiểu Bảo nói tiếp “Hôm nay ta phái một tên thân binh dùng ngón tay xỉa mấy cái vào người ba viên Đội trưởng kỵ binh Ca Tát Khắc khiến họ không thể động đậy, ngươi nhìn thấy không?”. Viên giáo sĩ nói “Ta có nhìn thấy, đó là ma thuật gì vậy, thật là vô cùng kỳ quái”. Vi Tiểu Bảo nói “Ma thuật của Trung Quốc là do Thành Cát Tư Hãn truyền lại. Thành Cát Tư Hãn dùng cách thức này, đánh cho người La Sát phải quỳ xuống đất đầu hàng, bọn ta lại dùng cách này đánh họ, nước La Sát, lại chết rồi!”.
Phí Yếu Đa La nghĩ thầm “Năm xưa người Mông Cổ có hai vạn người ngựa, đánh thẳng tới Ba Lan, Hung Gia Lợi, thiên hạ không ai ngăn chặn được, xem ra nhất định là có ma thuật. Người phương đông rất cổ quái, nếu họ lại sử dụng pháp thuật, thì... thì làm sao là tốt?”.
Chỉ nghe viên giáo sĩ nói “Nếu người La Sát từ xa nổ súng, thì ma thuật của các ngươi vô dụng”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Đúng thế, vì thế nên ta phải giả đàm phán ở đây, còn quân đội thì tới đánh Mạc Tư Khoa, cũng như ăn trộm, lén vào trong thành. Ta đã tới Mạc Tư Khoa rồi, trong thành rất nhiều người Đạt Đán. Quân của bọn ta hóa trang thành mục dân Đạt Đán trà trộn vào thành, quân La Sát canh giữ nhất định không sao phát hiện được”.
Phí Yếu Đa La trên lưng toát mồ hôi lạnh, nghĩ thầm “Độc kế của thằng tiểu quỷ Trung Quốc này quả thật rất lợi hại. Quân Trung Quốc cải trang thành mục dân Đạt Đán trà trộn tiến vào kinh thành, thi triển ma thuật, thì làm sao chống cự được?”. Y không biết thuật điểm huyệt của Song Nhi là một loại võ công cao thâm, phải luyện nội công tới cảnh giới thượng thừa mới có thể sử dụng, quan binh của quân Thanh có mấy vạn người nhưng chỉ có một mình nàng biết công phu điểm huyệt mà thôi. Phí Yếu Đa La lại cho rằng ma thuật ấy chỉ cần truyền thụ qua một lần thì mọi người đều biết sử dụng, giơ ngón tay ra xỉa một cái là đối phương không sao động đậy, mấy vạn quân Trung Quốc dùng phép thuật ấy tập kích Mạc Tư Khoa thì La Sát chỉ e phải mất nước diệt chủng.
Chỉ nghe viên giáo sĩ nói “Nếu công tước đại nhân phái hai vạn quân Trung Quốc trà trộn tiến vào thành Mạc Tư Khoa, dùng ma thuật của Thành Cát Tư Hãn truyền lại khống chế quân La Sát, vậy thì sẽ bắt sống được hai vị Sa hoàng và Nhiếp chính nữ vương, rõ ràng là có thể thành công. Có điều... có điều chuyện này phải mười phần bí mật, lúc đại quân tiến về phía tây, không thể để cho người La Sát biết. Công tước đại nhân, hiện nay nước La Sát đã mười phần lớn mạnh, khác hẳn với lúc người La Sát đánh nhau với Thành Cát Tư Hãn trước kia rồi”. Vi Tiểu Bảo nói “Ta từng tới Mạc Tư Khoa, tình hình nước La Sát đều hiểu rất rõ, sáng sớm ngày mai bọn ta sẽ thả Phí Yếu Đa La về, sau đó đàm phán với y, đều là giả thôi, y không chịu ưng thuận đâu. Bọn ta ở đây đàm phán thêm một ngày thì quân Trung Quốc rút ngắn được một ngày lộ trình tới Mạc Tư Khoa”. Viên giáo sĩ nói “Vâng, vâng, đại nhân nhất thiết đều nên cẩn thận, chuyện này nguy hiểm lắm đấy”. Vi Tiểu Bảo nói “Biết rồi. Ngươi không được nói ra, không được để Phí Yếu Đa La nảy ý ngờ vực”. Viên giáo sĩ vâng dạ lui ra.
Vi Tiểu Bảo quát “Gọi Vương Bát Tử Kê, Trư La Nhụ Phu vào đây”. Bọn thân binh ra khỏi trướng, dắt Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu vào. Vi Tiểu Bảo nói với hai người “Ngày mai ta sai hai đội quân tới Mạc Tư Khoa, mang rất nhiều rất nhiều lễ vật, tặng cho công chúa Tô Phi Á, trên đường rất nhiều trộm cướp, nên phải phái nhiều quan binh hộ tống”. Hoa Bá Tư Cơ nói “Từ đây tới Mạc Tư Khoa, chỉ có một đoạn ngắn là có bọn cường đạo người Đạt Đán, cũng không hung dữ gì lắm, xin Công tước đại nhân cứ yên tâm”. Vi Tiểu Bảo nói “Ngươi không biết. Bọn cướp Đạt Đán có toán tám chín ngàn người, có toán hai mươi một ngàn người, ba mươi một ngàn người”. Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu nhìn nhau một cái, đều có vẻ không tin.
Vi Tiểu Bảo nói “Hai đoàn người của ta, chia làm hai đườ
  • Hồi 10
  • Hồi 11
  • Hồi 12
  • Hồi 13
  • Hồi 14
  • Hồi 15
  • Hồi 16
  • Hồi 17
  • Hồi 18
  • Hồi 19
  • Hồi 20
  • Hồi 21
  • Hồi 22
  • Hồi 23
  • Hồi 24
  • Hồi 25
  • Hồi 26
  • Hồi 27
  • Hồi 28
  • Hồi 29
  • Hồi 30
  • Hồi 31
  • Hồi 32
  • Hồi 33
  • Hồi 34
  • Hồi 35
  • Hồi 36
  • Hồi 37
  • Hồi 38
  • Hồi 39
  • Hồi 40
  • Hồi 41
  • Hồi 42
  • Hồi 43
  • Hồi 44
  • Hồi 45
  • Hồi 46
  • Hồi 47
  • Hồi 48
  • Hồi 49
  • Hồi 50
  • Lời cuối sách
  • ---~~~mucluc~~~--- ---~~~cungtacgia~~~--- o nói “Hay sau ba hôm nữa đi”. Phí Yếu Đa La nói “Không, hôm nay!”. Vi Tiểu Bảo nói “Hay ngày mai nhé?”. Phí Yếu Đa La nói “Hôm nay!”.
    Vi Tiểu Bảo thở dài một tiếng, nói “Ngươi kiên quyết như thế, ta chỉ còn cách nhượng bộ. Có điều ta cảnh cáo ngươi, lúc bàn tới việc hoạch định biên giới giữa hai nước, thì ta quyết không tùy tiện nhượng bộ đâu. Chúng ta sẽ ra giá trả giá về từng thước từng tấc đấy”.
    Phí Yếu Đa La nghĩ thầm “Hoạch định biên giới giữa hai nước thì phải bàn kỹ từng thước từng tấc, nhưng đến khi bàn xong thì các ngươi đã đánh tới Mạc Tư Khoa rồi. Ngươi nói ta là thằng ngốc thật à?”. Lập tức đứng lên, nói “Vậy thì tệ nhân cáo từ, đa tạ Công tước đại nhân mời rượu”. Vi Tiểu Bảo đưa y ra cửa trướng, sai một đội quân khiên mây hộ tống y về thành Ni Bố Sở. Nhưng hai trăm sáu mươi tên kỵ binh Ca Tát Khắc thì không thả về.
    Phí Yếu Đa La ra khỏi trướng, chỉ thấy chỗ trại quân đóng san sát hôm qua đã vắng vẻ không còn gì, đại đội quân Thanh đã nhổ trại kéo đi. Y ngấm ngầm hoảng sợ “Thằng Man tử Trung Quốc này nói là làm, quả thật đáng sợ”.
    Đoàn người đi tới trước trướng chỗ hội đàm hôm qua, chỉ thấy ba viên Đội trưởng Ca Tát Khắc vẫn đứng ngẩn ra ở đó, tư thế vẫn giống hệt hôm qua, không hề nhúc nhích. Trong toán quân Thanh có một tên quân sĩ nhỏ thó nhảy ra, bước tới trước mặt ba viên Đội trưởng, cao giọng niệm thần chú, quát lớn “Thành Cát Tư Hãn, Thành Cát Tư Hãn”, rồi vỗ mấy chưởng vào người ba người. Ba viên Đội trưởng từ từ cử động được, chỉ là đứng suốt nửa ngày một đêm, quả thật đã rất mệt mỏi, hai chân tê dại, nhất tề ngồi phệch xuống đất. Sáu tên quân khiên mấy bước lên đỡ dậy, dìu đi vài mươi trượng, ba viên Đội trưởng mới tự mình đi được.
    Phí Yếu Đa La lại càng khiếp sợ “Ma thuật của Thành Cát Tư Hãn truyền lại quả nhiên vô cùng lợi hại, chẳng trách năm xưa y tung hoành thiên hạ, không ai chống nổi. May mà hiện đã phát minh ra hỏa khí, có thể không để địch nhân tới sát người, nếu không bọn giáo đồ dị giáo Trung Quốc lại muốn thống trị toàn thế giới, giáo đồ Chính thống giáo bọn ta đều phải biến thành nô lệ”.
    Quân khiên mây hộ tống Phí Yếu Đa La tới trước cửa đông thành Ni Bố Sở, rồi quay trở về.
    Phí Yếu Đa La hỏi ba viên Đội trưởng về tình hình bị trúng ma thuật. Ba viên Đội trưởng đều nói lúc ấy chỉ thấy hậu tâm và trước ngực tê rần lên một cái, lập tức toàn thân không sao động đậy. Phí Yếu Đa La nói “Trên người các ngươi có mang Thập tự giá không?”. Ba viên Đội trưởng cởi áo ngoài ra, đều lộ ra Thập tự giá đeo trên cổ, trong đó một người còn đeo thêm một tấm ảnh Gia tô.
    Phí Yếu Đa La cau mày, nghĩ thầm “Ma thuật của Thành Cát Tư hãn quả thật lợi hại, ngay cả Thập tự giá của Gia tô Cơ đốc cũng không ngăn chặn được”. Lúc ấy lập tức viết ba đạo tấu chương, sai mười lăm tên kỵ binh chia làm ba đường, cáo cấp với Mạc Tư Khoa là quân đội Trung Quốc đã lên đường tới đánh úp, sẽ hóa trang làm mục dân người Đạt Đán, trà trộn vào kinh thành, xin tăng cường đề phòng.
    Đến giữa trưa, ba toán đưa thư trước sau đều quay về, nói đường đi về phía tây đều đã bị quân Trung Quốc cắt đứt, vừa thấy kỵ binh La Sát từ xa đã bắn tên rào rào, quả thật khó mà đi lọt. Phí Yếu Đa La trong lòng lo sợ, nghĩ thầm “Chỉ có thỏa thuận điều ước hoạch định biên giới với thằng Man tử Trung Quốc này thật mau, thì họ mới triệt hồi binh mã.
    Đến giờ Mùi, Phí Yếu Đa La dắt mười mấy tùy viên tới chỗ sứ thần hai bên bàn bạc. Lần này y hoàn toàn không mang theo kỵ binh Ca Tát Khắc, để tỏ rõ là quyết không có ý gì khác, huống chi cho dù có mang theo vệ binh, cũng không chống đỡ được “Ma thuật Thành Cát Tư Hãn” của quân Trung Quốc, cũng là vô dụng. Phí Yếu Đa La học vấn uyên bác, làm việc tài giỏi, vốn không phải dễ dàng bị người ta đánh lừa, nhưng người La Sát đối với Thành Cát Tư Hãn có mối lo sợ thâm căn cố đế, thuật điểm huyệt của Song Nhi lại mười phần tinh diệu, y chính mắt nhìn thấy, không thể không tin.
    Y tới trướng trước, không lâu sau các đại thần phía nhà Thanh là bọn Vi Tiểu Bảo, Sách Ngạch Đồ, Đông Quốc Cương cũng tới. Vi Tiểu Bảo thấy đối phương không mang theo vệ binh, liền sai quân khiên mây hộ vệ lui về.
    Hai bên nói vài câu khách sáo, hoàn toàn không nhắc tới chuyện hôm qua, lập tức bàn bạc việc hoạch định biên giới. Phí Yếu Đa La muốn đàm phán thật nhanh, chuyện gì cũng nhượng bộ, khác hẳn với thái độ hôm qua. Vi Tiểu Bảo trong bụng cười thầm, biết kế sách “Hội Quần anh Chu Du đùa Tưởng Cán” đã thành công, y đối với việc hoạch định biên giới thì một khiếu cũng không thông, lúc ấy bèn để Sách Ngạch Đồ qua sự phiên dịch của viên giáo sĩ bàn bạc điều khoản với đối phương.
    Chỉ thấy Sách Ngạch Đồ và Phí Yếu Đa La hai người trải một tấm bản đồ lớn ra bàn, ngón tay của Sách Ngạch Đồ không ngừng chỉ lên phía bắc, Phí Yếu Đa La cau mày, ngón tay cứ từng tấc từng tấc lui về phía bắc. Một tấc ấy lui lại trên bản đồ là thêm hơn mấy trăm dặm đất đai thuộc về Trung Quốc. Vi Tiểu Bảo nghe một lúc, trong lòng phát chán, bèn ngồi ra một cái bàn khác, sai thị tùng mang thức ăn ra, ngồi bắt chéo chân, từ từ nhấm nháp các thức quà bánh điểm tâm, trong mũi ư ử điệu Thập bát mô.
    Phí Yếu Đa La quyết tâm nhượng bộ, Sách Ngạch Đồ sợ xảy ra biến cố, cũng không ép người quá đáng. Nhưng chữ nghĩa trong điều ước rất nghiêm ngặt, giáo sĩ hai bên nhất nhất dịch ra tiếng Lạp Đinh, trao đổi bàn bạc cũng mất rất nhiều thời gian. Đến trưa hôm thứ tư, Điều ước Ni Bố Sở gồm sáu điều đã bàn bạc ổn thỏa.
    Vi Tiểu Bảo được Sách Ngạch Đồ và Đông Quốc Cương giải thích, nói nội dung điều ước này rất có lợi cho Trung Quốc, phần đất cắt về Trung Quốc rất rộng lớn, còn hơn rất nhiều so với trong chỉ dụ của Khang Hy. Điều ước có tất cả bốn bản, một bản chữ Trung Quốc, một bản chữ La Sát, hai bản chữ Lạp Đinh, có chú rõ là nếu văn tự đôi bên có chỗ nào ý nghĩa không phù hợp thì lấy bản chữ Lạp Đinh làm chuẩn.
    Lúc ấy tùy tùng mài mực thật đậm, thấm đẫm ngòi bút, cung kính mời Khâm sai đại thần đứng đầu phía Trung Quốc ký tên.
    Vi Tiểu Bảo biết được ba chữ tên mình, chỉ có điều có lúc nhìn chữ Chương ra chữ Vi, chữ Mãi ra chữ Bảo, ba chữ viết liền một chỗ thì không đến nỗi sai lắm, nhưng nói tới chuyện viết thì chữ Tiểu còn có thể miễn cưỡng đối phó được, chứ hai chữ kia thì bất kể thế nào cũng không viết được. Y bình sinh rất khó mà đỏ mặt, nhưng lúc ấy mặt lại đỏ như chu sa, không phải tức giận, không phải say rượu, mà quả thật là có ba phần xấu hổ.
    Sách Ngạch Đồ là tri kỷ của y, liền nói “Loại văn tự hợp đồng này, chỉ cần đóng dấu hoa áp lên cũng được. Vi đại nhân cứ viết bừa một chữ Tiểu, cũng kể như đã ký tên rồi”.
    Vi Tiểu Bảo cả mừng, nghĩ thầm viết chữ Tiểu thì mình nắm chắc trong tay, lúc ấy bèn nhấc bút lên, vẽ một hình tròn bên trái, một hình tròn bên phải sau đó sổ một nét thẳng xuống ở giữa.
    Sách Ngạch Đồ mỉm cười nói “Được rồi, viết rất đẹp”. Vi Tiểu Bảo nghiêng đầu ngắm nghía chữ Tiểu, đột nhiên ngẩng lên trời cười rộ. Sách Ngạch Đồ ngạc nhiên hỏi “Vi đại soái có gì mà cười?”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Ngươi nhìn chữ này một con chim hai quả trứng, há không phải là như thế sao?”. Các quan lớn bên nhà Thanh không kìm được đều hô hô cười rộ, cả đám tùy tùng và thân binh cũng cười thành tiếng.
    Lúc ấy Vi Tiểu Bảo đều vẽ chữ vào bốn bản điều ước, trên văn bản tiếng La Sát vẽ một nét sổ cực lớn, sau đó Phí Yếu Đa La, Sách Ngạch Đồ và Phó sứ phía Nga đều ký tên vào. Bản điều ước đầu tiên giữa hai nước Trung Nga như vậy đã ký xong.
    Đây là bản điều ước đầu tiên được ký kết giữa Trung Quốc và nước ngoài, nhờ Khang Hy trù tính chu đáo, ra sức thu xếp, mà những người được sai đi đều mười phần đắc lực, nên việc hoạch định biên giới trong điều ước Ni Bố Sở thì Trung Quốc chiếm tiện nghi rất lớn. Trong điều ước quy định phía bắc lấy rặng núi Hưng An làm ranh giới, toàn bộ đất đai tỉnh A Mục Nhĩ và tỉnh Tân Hải thuộc Tô Liên ngày nay đều thuộc Trung Quốc, phía đông và đông nam thì tới biển. Lúc đôi bên hoạch định biên giới khu vực ấy vốn không thuộc về bên nào, đất đai Trung Quốc chiếm cũng không phải thuộc La Sát, mà nơi La Sát đã xây thành di dân thì sau khi ký điều ước bắt buộc phải triệt thoái, quả thật là một thắng lợi quân sự và ngoại giao của Trung Quốc. Đất đai được cắt về Trung Quốc trong điều ước lên tới khoảng hai trăm vạn cây số vuông, to hơn gấp đôi các tỉnh vùng Đông bắc Trung Quốc hiện nay. Điều ước ấy ký kết xong, khiến biên giới Trung Quốc ở phía Đông bắc được yên ổn hơn một trăm năm mươi năm, mà việc xâm lấn về phía đông của người La Sát bị cản trở, dã tâm xâm lược cũng tan tành. Sau các triều Khang Hy, Ung Chính, Càn Long, các Điều ước của nhà Thanh với người ngoại quốc không gì là không mất quyền mất đất, việc đại chấn hùng phong quốc gia của Khang Hy và Vi Tiểu Bảo năm ấy về sau không còn thấy nữa[67].
    Theo tập quán đương thời, đôi bên đồng thời nổ pháo, hướng lên trời lập thệ, thủ tín giữ lời. Hơn bốn trăm khẩu đại pháo của quân Thanh đồng thời nổ vang ở bốn phía đông tây nam bắc thành Ni Bố Sở, mặt đất rung chuyển. Đại pháo của bên Nga chỉ có hơn hai mươi khẩu, tiếng pháo rời rạc, mạnh yếu cách nhau không biết bao nhiêu dặm. Phí Yếu Đa La thầm lấy làm may, nếu hòa nghị không thành, chiến sự nổ ra thì phía Nga không một phen thua tan nát không xong.
    Lúc ấy sứ thần hai nước tặng nhau lễ vật. Phí Yếu Đa La tặng cho bọn Vi Tiểu Bảo đồng hồ, kính thiên lý, đồ bạc, da điêu, các loại đao kiếm. Vi Tiểu Bảo tặng sứ thần đối phương ngựa, yên cương, chén uống rượu bằng vàng, quần áo gấm đoạn, the lụa, ngoài ra còn tặng mỗi kỵ binh Ca Tát Khắc hai mươi lượng bạc để bồi thường việc bị quân Thanh cắt đứt thắt lưng.
    Đếm ấy mở tiệc lớn, ăn mừng đã ký kết xong điều ước. Phí Yếu Đa La vẫn rất lo lắng, không biết quân Thanh đi đánh úp Mạc Tư Khoa trước đó đã được gọi về chưa, không ngừng dùng lời dò xét, nhưng Vi Tiểu Bảo chỉ làm ra vẻ không biết gì.
    Qua hai hôm, Phí Yếu Đa La được tin báo có đại đội quân Thanh tứ phía tây kéo tới, y lên thành dùng kính thiên lý nhìn ra, quả thấy từng từng đội quân Thanh từ phía tây kéo tới, qua phía đông sông Ni Bố Sở hạ trại. Phí Yếu Đa La cả mừng, biết quân Thanh kéo về phía tây đã triệt thoái. Y nào biết đại đội quân Thanh ấy chỉ đóng lại cách phía tây thành Ni Bố Sở hơn hai trăm dặm chờ lệnh, vừa nghe tiếng pháo nổ, đã lập tức nhổ trại từ từ rút về.
    Lại qua vài hôm, trụ đá cắm mốc ranh giới đã làm xong. Trên trụ đá có năm loại chữ Mãn Châu, Hán, Mông Cổ, Lạp Đinh và La Sát.
    Bia cắm mốc ranh giới chia dựng ở bờ phía đông sông Cách Nhĩ Tất Tề, bờ nam sông Ngạch Nhĩ Cổ Nạp, cho tới các nơi trong rặng núi Uy Y Khắc A Lâm Đại phía đông bắc. Trên bia khắc rõ hai nước lấy sông Cách Nhĩ Tất Tề làm ranh giới “Lên tới tận vùng núi non không có cây cỏ ở thượng lưu, có tên là Đại Hưng An cho tới bờ biển, phàm tất cả những sông ngòi chảy vào sông Hắc Long Giang phía nam núi đều thuộc Trung Quốc, tất cả những sông ngòi phía bắc núi, đều thuộc Nga La Tư”, lại viết rõ “Lấy sông Ngạch Nhĩ Cổ Nạp chảy vào sông Hắc Long Giang làm ranh giới, bờ nam sông thuộc về Trung Quốc, bờ bắc sông thuộc về Nga La Tư. Quân phòng trú của Nga La Tư ở cửa sông Mi Lặc Nhĩ Khắc ở bờ nam. dời lên bờ bắc”, lại viết rõ “Tất cả người Nga La Tư cư trú ở thành Nhã Khắc Tát đều phải rút về đất Sát Hãn Hãn”, lại viết rõ “Phàm những người đi săn bắn không được vượt qua ranh giới, nếu có ai tụ họp cầm khí giới giết người cướp của sẽ lập tức bắt về chính pháp, không để chuyện nhỏ làm hỏng việc lớn, để việc giao hảo giữa hai nước chúng ta không phát sinh tranh chấp”.
    Khâm sai hai nước sai phái thuộc hạ tra xét địa hình không lầm lẫn, cắm bia nêu ranh giới. Những đất cắm bia ấy vốn phải là ranh giới bất di bất dịch giữa hai nước Trung Nga, nhưng hơn một trăm mấy mươi năm sau, nước Nga nhân Trung Quốc suy yếu, từng bước tằm ăn dâu xâm chiếm, không đếm xỉa gì tới biên giới đã hoạch định năm ấy, thôn tính một vùng đất màu mỡ rộng lớn của Trung Quốc. Người sau đọc sử tới đó, thường ngậm ngùi than rằng “Làm sao dựng được Khang Hy, Vi Tiểu Bảo dưới đất lên, để đánh đuổi người La Sát tham lam lấy lại đất đai của chúng ta?”.
    Dựng bia cắm mốc biên giới xong, Khâm sai hai nước làm lễ từ biệt, cùng lên đường về kinh phục mệnh.
    Vi Tiểu Bảo gọi Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu tới, bảo hai người dâng lễ vật lên công chúa Tô Phi Á, trong đó có chăn gấm, lại có gối thêu hoa. Phương bắc hoang vu thô lậu, những sản vật này không tìm đâu ra, đều là vật của Song Nhi. Vi Tiểu Bảo cười nói “Nếu công chúa quả thật nhớ tới ta, thì cứ ôm những chăn gối này mà ngủ”. Hoa Bá Tư Cơ nói “Tình ý của công chúa điện hạ đối với đại nhân các hạ là thiên trường địa cửu, chăn gấm gối bông rất dễ hư nát, xin đại nhân cứ phái vài kỹ sư xây cầu tới Mạc Tư Khoa xây cầu đá, như thế thì vĩnh viễn không hư hỏng”.
    Vi Tiểu Bảo cười nói “Ta đã nghĩ tới chuyện ấy, các ngươi không cần chót chét”. Rồi sai thân binh vác ra một cái rương gỗ lớn, dài tám thước rộng bốn thước, giống như một cái quan tài lớn, tám tên thân binh dùng kiệu lớn khiêng ra, rõ ràng bên trong rất nặng, phía ngoài rương có dây sắt buộc chặt, dán dấu niêm phong, dùng sơn đen gắn lại. Vi Tiểu Bảo nói “Lễ vật này không phải tầm thường, các ngươi phải giữ gìn cho tốt, không được để hư hỏng, công chúa nhìn thấy nhất định sẽ vui lòng, tình ý thiên trường địa cửu ấy cũng bền vững như cầu đá Trung Quốc vậy”.
    Hai viên Đội trưởng La Sát không dám hỏi nhiều, nhận lãnh cái rương gỗ ra đi. Cái rương gỗ ấy nặng cả ngàn cân, từ Ni Bổ Sờ xa xôi chờ tới Mạc Tư Khoa, trên đường đi vô cùng vất vả.
    Công chúa Tô Phi Á nhận được mở rương ra, thì là một pho tượng Vi Tiểu Bảo khỏa thân bằng đá, tươi cười rạng rỡ, sinh động như thật.
    Nguyên Vi Tiểu Bảo sai thợ làm bia đá cắm mốc biên giới tạc bức tượng ấy, lại nhờ giáo sĩ Hà Lan viết mấy chữ La Sát “Ta mãi mãi yêu cô” khắc trước ngực pho tượng. Công chúa Tô Phi Á vừa nhìn thấy, dở khóc dở cười, nghĩ tới thằng nhỏ Trung Quốc này quỷ quái khôn ngoan, đàn ông La Sát không sao bằng được, bất giác tình ý miên man, hồn bay vạn dặm.
    Pho tượng đá ấy cất trong cung Khắc Lý Mụ Lâm, về sau Bỉ Đắc đại đế phát động chính biến, đuổi công chúa Tô Phi Á ra khỏi cung, đập nát pho tượng đá ấy, chỉ có một phần tàn khuyết được quân sĩ mang ra, các phụ nữ La Sát ngu dốt trong dân gian tới đó cầu khấn xin con, vuốt ve hạ thể của pho tượng đá, nghe nói rất là linh nghiệm.[68]

    Truyện Lộc Đỉnh Ký (2) ---~~~cungtacgia~~~--- o nói “Hay sau ba hôm nữa đi”. Phí Yếu Đa La nói “Không, hôm nay!”. Vi Tiểu Bảo nói “Hay ngày mai nhé?”. Phí Yếu Đa La nói “Hôm nay!”.
    Vi Tiểu Bảo thở dài một tiếng, nói “Ngươi kiên quyết như thế, ta chỉ còn cách nhượng bộ. Có điều ta cảnh cáo ngươi, lúc bàn tới việc hoạch định biên giới giữa hai nước, thì ta quyết không tùy tiện nhượng bộ đâu. Chúng ta sẽ ra giá trả giá về từng thước từng tấc đấy”.
    Phí Yếu Đa La nghĩ thầm “Hoạch định biên giới giữa hai nước thì phải bàn kỹ từng thước từng tấc, nhưng đến khi bàn xong thì các ngươi đã đánh tới Mạc Tư Khoa rồi. Ngươi nói ta là thằng ngốc thật à?”. Lập tức đứng lên, nói “Vậy thì tệ nhân cáo từ, đa tạ Công tước đại nhân mời rượu”. Vi Tiểu Bảo đưa y ra cửa trướng, sai một đội quân khiên mây hộ tống y về thành Ni Bố Sở. Nhưng hai trăm sáu mươi tên kỵ binh Ca Tát Khắc thì không thả về.
    Phí Yếu Đa La ra khỏi trướng, chỉ thấy chỗ trại quân đóng san sát hôm qua đã vắng vẻ không còn gì, đại đội quân Thanh đã nhổ trại kéo đi. Y ngấm ngầm hoảng sợ “Thằng Man tử Trung Quốc này nói là làm, quả thật đáng sợ”.
    Đoàn người đi tới trước trướng chỗ hội đàm hôm qua, chỉ thấy ba viên Đội trưởng Ca Tát Khắc vẫn đứng ngẩn ra ở đó, tư thế vẫn giống hệt hôm qua, không hề nhúc nhích. Trong toán quân Thanh có một tên quân sĩ nhỏ thó nhảy ra, bước tới trước mặt ba viên Đội trưởng, cao giọng niệm thần chú, quát lớn “Thành Cát Tư Hãn, Thành Cát Tư Hãn”, rồi vỗ mấy chưởng vào người ba người. Ba viên Đội trưởng từ từ cử động được, chỉ là đứng suốt nửa ngày một đêm, quả thật đã rất mệt mỏi, hai chân tê dại, nhất tề ngồi phệch xuống đất. Sáu tên quân khiên mấy bước lên đỡ dậy, dìu đi vài mươi trượng, ba viên Đội trưởng mới tự mình đi được.
    Phí Yếu Đa La lại càng khiếp sợ “Ma thuật của Thành Cát Tư Hãn truyền lại quả nhiên vô cùng lợi hại, chẳng trách năm xưa y tung hoành thiên hạ, không ai chống nổi. May mà hiện đã phát minh ra hỏa khí, có thể không để địch nhân tới sát người, nếu không bọn giáo đồ dị giáo Trung Quốc lại muốn thống trị toàn thế giới, giáo đồ Chính thống giáo bọn ta đều phải biến thành nô lệ”.
    Quân khiên mây hộ tống Phí Yếu Đa La tới trước cửa đông thành Ni Bố Sở, rồi quay trở về.
    Phí Yếu Đa La hỏi ba viên Đội trưởng về tình hình bị trúng ma thuật. Ba viên Đội trưởng đều nói lúc ấy chỉ thấy hậu tâm và trước ngực tê rần lên một cái, lập tức toàn thân không sao động đậy. Phí Yếu Đa La nói “Trên người các ngươi có mang Thập tự giá không?”. Ba viên Đội trưởng cởi áo ngoài ra, đều lộ ra Thập tự giá đeo trên cổ, trong đó một người còn đeo thêm một tấm ảnh Gia tô.
    Phí Yếu Đa La cau mày, nghĩ thầm “Ma thuật của Thành Cát Tư hãn quả thật lợi hại, ngay cả Thập tự giá của Gia tô Cơ đốc cũng không ngăn chặn được”. Lúc ấy lập tức viết ba đạo tấu chương, sai mười lăm tên kỵ binh chia làm ba đường, cáo cấp với Mạc Tư Khoa là quân đội Trung Quốc đã lên đường tới đánh úp, sẽ hóa trang làm mục dân người Đạt Đán, trà trộn vào kinh thành, xin tăng cường đề phòng.
    Đến giữa trưa, ba toán đưa thư trước sau đều quay về, nói đường đi về phía tây đều đã bị quân Trung Quốc cắt đứt, vừa thấy kỵ binh La Sát từ xa đã bắn tên rào rào, quả thật khó mà đi lọt. Phí Yếu Đa La trong lòng lo sợ, nghĩ thầm “Chỉ có thỏa thuận điều ước hoạch định biên giới với thằng Man tử Trung Quốc này thật mau, thì họ mới triệt hồi binh mã.
    Đến giờ Mùi, Phí Yếu Đa La dắt mười mấy tùy viên tới chỗ sứ thần hai bên bàn bạc. Lần này y hoàn toàn không mang theo kỵ binh Ca Tát Khắc, để tỏ rõ là quyết không có ý gì khác, huống chi cho dù có mang theo vệ binh, cũng không chống đỡ được “Ma thuật Thành Cát Tư Hãn” của quân Trung Quốc, cũng là vô dụng. Phí Yếu Đa La học vấn uyên bác, làm việc tài giỏi, vốn không phải dễ dàng bị người ta đánh lừa, nhưng người La Sát đối với Thành Cát Tư Hãn có mối lo sợ thâm căn cố đế, thuật điểm huyệt của Song Nhi lại mười phần tinh diệu, y chính mắt nhìn thấy, không thể không tin.
    Y tới trướng trước, không lâu sau các đại thần phía nhà Thanh là bọn Vi Tiểu Bảo, Sách Ngạch Đồ, Đông Quốc Cương cũng tới. Vi Tiểu Bảo thấy đối phương không mang theo vệ binh, liền sai quân khiên mây hộ vệ lui về.
    Hai bên nói vài câu khách sáo, hoàn toàn không nhắc tới chuyện hôm qua, lập tức bàn bạc việc hoạch định biên giới. Phí Yếu Đa La muốn đàm phán thật nhanh, chuyện gì cũng nhượng bộ, khác hẳn với thái độ hôm qua. Vi Tiểu Bảo trong bụng cười thầm, biết kế sách “Hội Quần anh Chu Du đùa Tưởng Cán” đã thành công, y đối với việc hoạch định biên giới thì một khiếu cũng không thông, lúc ấy bèn để Sách Ngạch Đồ qua sự phiên dịch của viên giáo sĩ bàn bạc điều khoản với đối phương.
    Chỉ thấy Sách Ngạch Đồ và Phí Yếu Đa La hai người trải một tấm bản đồ lớn ra bàn, ngón tay của Sách Ngạch Đồ không ngừng chỉ lên phía bắc, Phí Yếu Đa La cau mày, ngón tay cứ từng tấc từng tấc lui về phía bắc. Một tấc ấy lui lại trên bản đồ là thêm hơn mấy trăm dặm đất đai thuộc về Trung Quốc. Vi Tiểu Bảo nghe một lúc, trong lòng phát chán, bèn ngồi ra một cái bàn khác, sai thị tùng mang thức ăn ra, ngồi bắt chéo chân, từ từ nhấm nháp các thức quà bánh điểm tâm, trong mũi ư ử điệu Thập bát mô.
    Phí Yếu Đa La quyết tâm nhượng bộ, Sách Ngạch Đồ sợ xảy ra biến cố, cũng không ép người quá đáng. Nhưng chữ nghĩa trong điều ước rất nghiêm ngặt, giáo sĩ hai bên nhất nhất dịch ra tiếng Lạp Đinh, trao đổi bàn bạc cũng mất rất nhiều thời gian. Đến trưa hôm thứ tư, Điều ước Ni Bố Sở gồm sáu điều đã bàn bạc ổn thỏa.
    Vi Tiểu Bảo được Sách Ngạch Đồ và Đông Quốc Cương giải thích, nói nội dung điều ước này rất có lợi cho Trung Quốc, phần đất cắt về Trung Quốc rất rộng lớn, còn hơn rất nhiều so với trong chỉ dụ của Khang Hy. Điều ước có tất cả bốn bản, một bản chữ Trung Quốc, một bản chữ La Sát, hai bản chữ Lạp Đinh, có chú rõ là nếu văn tự đôi bên có chỗ nào ý nghĩa không phù hợp thì lấy bản chữ Lạp Đinh làm chuẩn.
    Lúc ấy tùy tùng mài mực thật đậm, thấm đẫm ngòi bút, cung kính mời Khâm sai đại thần đứng đầu phía Trung Quốc ký tên.
    Vi Tiểu Bảo biết được ba chữ tên mình, chỉ có điều có lúc nhìn chữ Chương ra chữ Vi, chữ Mãi ra chữ Bảo, ba chữ viết liền một chỗ thì không đến nỗi sai lắm, nhưng nói tới chuyện viết thì chữ Tiểu còn có thể miễn cưỡng đối phó được, chứ hai chữ kia thì bất kể thế nào cũng không viết được. Y bình sinh rất khó mà đỏ mặt, nhưng lúc ấy mặt lại đỏ như chu sa, không phải tức giận, không phải say rượu, mà quả thật là có ba phần xấu hổ.
    Sách Ngạch Đồ là tri kỷ của y, liền nói “Loại văn tự hợp đồng này, chỉ cần đóng dấu hoa áp lên cũng được. Vi đại nhân cứ viết bừa một chữ Tiểu, cũng kể như đã ký tên rồi”.
    Vi Tiểu Bảo cả mừng, nghĩ thầm viết chữ Tiểu thì mình nắm chắc trong tay, lúc ấy bèn nhấc bút lên, vẽ một hình tròn bên trái, một hình tròn bên phải sau đó sổ một nét thẳng xuống ở giữa.
    Sách Ngạch Đồ mỉm cười nói “Được rồi, viết rất đẹp”. Vi Tiểu Bảo nghiêng đầu ngắm nghía chữ Tiểu, đột nhiên ngẩng lên trời cười rộ. Sách Ngạch Đồ ngạc nhiên hỏi “Vi đại soái có gì mà cười?”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Ngươi nhìn chữ này một con chim hai quả trứng, há không phải là như thế sao?”. Các quan lớn bên nhà Thanh không kìm được đều hô hô cười rộ, cả đám tùy tùng và thân binh cũng cười thành tiếng.
    Lúc ấy Vi Tiểu Bảo đều vẽ chữ vào bốn bản điều ước, trên văn bản tiếng La Sát vẽ một nét sổ cực lớn, sau đó Phí Yếu Đa La, Sách Ngạch Đồ và Phó sứ phía Nga đều ký tên vào. Bản điều ước đầu tiên giữa hai nước Trung Nga như vậy đã ký xong.
    Đây là bản điều ước đầu tiên được ký kết giữa Trung Quốc và nước ngoài, nhờ Khang Hy trù tính chu đáo, ra sức thu xếp, mà những người được sai đi đều mười phần đắc lực, nên việc hoạch định biên giới trong điều ước Ni Bố Sở thì Trung Quốc chiếm tiện nghi rất lớn. Trong điều ước quy định phía bắc lấy rặng núi Hưng An làm ranh giới, toàn bộ đất đai tỉnh A Mục Nhĩ và tỉnh Tân Hải thuộc Tô Liên ngày nay đều thuộc Trung Quốc, phía đông và đông nam thì tới biển. Lúc đôi bên hoạch định biên giới khu vực ấy vốn không thuộc về bên nào, đất đai Trung Quốc chiếm cũng không phải thuộc La Sát, mà nơi La Sát đã xây thành di dân thì sau khi ký điều ước bắt buộc phải triệt thoái, quả thật là một thắng lợi quân sự và ngoại giao của Trung Quốc. Đất đai được cắt về Trung Quốc trong điều ước lên tới khoảng hai trăm vạn cây số vuông, to hơn gấp đôi các tỉnh vùng Đông bắc Trung Quốc hiện nay. Điều ước ấy ký kết xong, khiến biên giới Trung Quốc ở phía Đông bắc được yên ổn hơn một trăm năm mươi năm, mà việc xâm lấn về phía đông của người La Sát bị cản trở, dã tâm xâm lược cũng tan tành. Sau các triều Khang Hy, Ung Chính, Càn Long, các Điều ước của nhà Thanh với người ngoại quốc không gì là không mất quyền mất đất, việc đại chấn hùng phong quốc gia của Khang Hy và Vi Tiểu Bảo năm ấy về sau không còn thấy nữa[67].
    Theo tập quán đương thời, đôi bên đồng thời nổ pháo, hướng lên trời lập thệ, thủ tín giữ lời. Hơn bốn trăm khẩu đại pháo của quân Thanh đồng thời nổ vang ở bốn phía đông tây nam bắc thành Ni Bố Sở, mặt đất rung chuyển. Đại pháo của bên Nga chỉ có hơn hai mươi khẩu, tiếng pháo rời rạc, mạnh yếu cách nhau không biết bao nhiêu dặm. Phí Yếu Đa La thầm lấy làm may, nếu hòa nghị không thành, chiến sự nổ ra thì phía Nga không một phen thua tan nát không xong.
    Lúc ấy sứ thần hai nước tặng nhau lễ vật. Phí Yếu Đa La tặng cho bọn Vi Tiểu Bảo đồng hồ, kính thiên lý, đồ bạc, da điêu, các loại đao kiếm. Vi Tiểu Bảo tặng sứ thần đối phương ngựa, yên cương, chén uống rượu bằng vàng, quần áo gấm đoạn, the lụa, ngoài ra còn tặng mỗi kỵ binh Ca Tát Khắc hai mươi lượng bạc để bồi thường việc bị quân Thanh cắt đứt thắt lưng.
    Đếm ấy mở tiệc lớn, ăn mừng đã ký kết xong điều ước. Phí Yếu Đa La vẫn rất lo lắng, không biết quân Thanh đi đánh úp Mạc Tư Khoa trước đó đã được gọi về chưa, không ngừng dùng lời dò xét, nhưng Vi Tiểu Bảo chỉ làm ra vẻ không biết gì.
    Qua hai hôm, Phí Yếu Đa La được tin báo có đại đội quân Thanh tứ phía tây kéo tới, y lên thành dùng kính thiên lý nhìn ra, quả thấy từng từng đội quân Thanh từ phía tây kéo tới, qua phía đông sông Ni Bố Sở hạ trại. Phí Yếu Đa La cả mừng, biết quân Thanh kéo về phía tây đã triệt thoái. Y nào biết đại đội quân Thanh ấy chỉ đóng lại cách phía tây thành Ni Bố Sở hơn hai trăm dặm chờ lệnh, vừa nghe tiếng pháo nổ, đã lập tức nhổ trại từ từ rút về.
    Lại qua vài hôm, trụ đá cắm mốc ranh giới đã làm xong. Trên trụ đá có năm loại chữ Mãn Châu, Hán, Mông Cổ, Lạp Đinh và La Sát.
    Bia cắm mốc ranh giới chia dựng ở bờ phía đông sông Cách Nhĩ Tất Tề, bờ nam sông Ngạch Nhĩ Cổ Nạp, cho tới các nơi trong rặng núi Uy Y Khắc A Lâm Đại phía đông bắc. Trên bia khắc rõ hai nước lấy sông Cách Nhĩ Tất Tề làm ranh giới “Lên tới tận vùng núi non không có cây cỏ ở thượng lưu, có tên là Đại Hưng An cho tới bờ biển, phàm tất cả những sông ngòi chảy vào sông Hắc Long Giang phía nam núi đều thuộc Trung Quốc, tất cả những sông ngòi phía bắc núi, đều thuộc Nga La Tư”, lại viết rõ “Lấy sông Ngạch Nhĩ Cổ Nạp chảy vào sông Hắc Long Giang làm ranh giới, bờ nam sông thuộc về Trung Quốc, bờ bắc sông thuộc về Nga La Tư. Quân phòng trú của Nga La Tư ở cửa sông Mi Lặc Nhĩ Khắc ở bờ nam. dời lên bờ bắc”, lại viết rõ “Tất cả người Nga La Tư cư trú ở thành Nhã Khắc Tát đều phải rút về đất Sát Hãn Hãn”, lại viết rõ “Phàm những người đi săn bắn không được vượt qua ranh giới, nếu có ai tụ họp cầm khí giới giết người cướp của sẽ lập tức bắt về chính pháp, không để chuyện nhỏ làm hỏng việc lớn, để việc giao hảo giữa hai nước chúng ta không phát sinh tranh chấp”.
    Khâm sai hai nước sai phái thuộc hạ tra xét địa hình không lầm lẫn, cắm bia nêu ranh giới. Những đất cắm bia ấy vốn phải là ranh giới bất di bất dịch giữa hai nước Trung Nga, nhưng hơn một trăm mấy mươi năm sau, nước Nga nhân Trung Quốc suy yếu, từng bước tằm ăn dâu xâm chiếm, không đếm xỉa gì tới biên giới đã hoạch định năm ấy, thôn tính một vùng đất màu mỡ rộng lớn của Trung Quốc. Người sau đọc sử tới đó, thường ngậm ngùi than rằng “Làm sao dựng được Khang Hy, Vi Tiểu Bảo dưới đất lên, để đánh đuổi người La Sát tham lam lấy lại đất đai của chúng ta?”.
    Dựng bia cắm mốc biên giới xong, Khâm sai hai nước làm lễ từ biệt, cùng lên đường về kinh phục mệnh.
    Vi Tiểu Bảo gọi Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu tới, bảo hai người dâng lễ vật lên công chúa Tô Phi Á, trong đó có chăn gấm, lại có gối thêu hoa. Phương bắc hoang vu thô lậu, những sản vật này không tìm đâu ra, đều là vật của Song Nhi. Vi Tiểu Bảo cười nói “Nếu công chúa quả thật nhớ tới ta, thì cứ ôm những chăn gối này mà ngủ”. Hoa Bá Tư Cơ nói “Tình ý của công chúa điện hạ đối với đại nhân các hạ là thiên trường địa cửu, chăn gấm gối bông rất dễ hư nát, xin đại nhân cứ phái vài kỹ sư xây cầu tới Mạc Tư Khoa xây cầu đá, như thế thì vĩnh viễn không hư hỏng”.
    Vi Tiểu Bảo cười nói “Ta đã nghĩ tới chuyện ấy, các ngươi không cần chót chét”. Rồi sai thân binh vác ra một cái rương gỗ lớn, dài tám thước rộng bốn thước, giống như một cái quan tài lớn, tám tên thân binh dùng kiệu lớn khiêng ra, rõ ràng bên trong rất nặng, phía ngoài rương có dây sắt buộc chặt, dán dấu niêm phong, dùng sơn đen gắn lại. Vi Tiểu Bảo nói “Lễ vật này không phải tầm thường, các ngươi phải giữ gìn cho tốt, không được để hư hỏng, công chúa nhìn thấy nhất định sẽ vui lòng, tình ý thiên trường địa cửu ấy cũng bền vững như cầu đá Trung Quốc vậy”.
    Hai viên Đội trưởng La Sát không dám hỏi nhiều, nhận lãnh cái rương gỗ ra đi. Cái rương gỗ ấy nặng cả ngàn cân, từ Ni Bổ Sờ xa xôi chờ tới Mạc Tư Khoa, trên đường đi vô cùng vất vả.
    Công chúa Tô Phi Á nhận được mở rương ra, thì là một pho tượng Vi Tiểu Bảo khỏa thân bằng đá, tươi cười rạng rỡ, sinh động như thật.
    Nguyên Vi Tiểu Bảo sai thợ làm bia đá cắm mốc biên giới tạc bức tượng ấy, lại nhờ giáo sĩ Hà Lan viết mấy chữ La Sát “Ta mãi mãi yêu cô” khắc trước ngực pho tượng. Công chúa Tô Phi Á vừa nhìn thấy, dở khóc dở cười, nghĩ tới thằng nhỏ Trung Quốc này quỷ quái khôn ngoan, đàn ông La Sát không sao bằng được, bất giác tình ý miên man, hồn bay vạn dặm.
    Pho tượng đá ấy cất trong cung Khắc Lý Mụ Lâm, về sau Bỉ Đắc đại đế phát động chính biến, đuổi công chúa Tô Phi Á ra khỏi cung, đập nát pho tượng đá ấy, chỉ có một phần tàn khuyết được quân sĩ mang ra, các phụ nữ La Sát ngu dốt trong dân gian tới đó cầu khấn xin con, vuốt ve hạ thể của pho tượng đá, nghe nói rất là linh nghiệm.[68]
    --!!tach_noi_dung!!--

    Đánh máy: Vi Tiểu Nhân
    Nguồn: Vi Tiểu Nhân - VNthuquan.net - Thư viỆn Online
    Được bạn: Ct.Ly đưa lên
    vào ngày: 6 tháng 4 năm 2016

    --!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!--