Dịch giả: Cao Tự Thanh
Hồi 46
Ngàn dặm cột buồm ra ngoại vực
Chín trời mưa gió tới đầu thành

     hi ngẩng đầu lên nhìn ra biển, chỉ thấy khoảng mười chiếc thuyền lớn đang giương buồm thuận gió lướt mau vào đảo. Vi Tiểu Bảo thấy tình thế không hay, giật mạnh một cái, không giật được lưỡi câu ra, mà lại móc vào sau cổ đau nhói lên, lập tức sải chân chạy mau, mặc chiếc cần câu kéo xềnh xệch sau lưng, nghĩ thầm chắc là thằng tiểu tử Trịnh Khắc Sảng đem quân tới trả nợ, trả nợ vốn là rất tốt nhưng người mắc nợ tìm tới cửa mà trước tiên lại bắn vài phát pháo, khí thế hung dữ, ắt không phải là điều hay.
Y còn chưa chạy tới trước nhà, Bành Tham tướng đã thở hổn hển chạy tới nói “Vi... Vi Tước gia... chuyện... chuyện lớn không hay, binh thuyền Đài Loan kéo tới”. Vi Tiểu Bảo hỏi “Sao ngươi biết là binh thuyền Đài Loan?”. Bành Tham tướng nói “Ty chức vừa... Vừa lấy kính thiên lý ra nhìn, ở đuôi... đuôi thuyền... không phải, ở đầu thuyền sơn hình nhật nguyệt, đều là huy hiệu của nghịch... nghịch tặc họ Trịnh ở Đài Loan, mỗi chiếc cũng phải chở tới năm trăm quản, hai chiếc hai ngàn, ba chiếc cũng phải có tới sáu bảy ngàn...”.
Vi Tiểu Bảo đón lấy chiếc kính thiên lý trong tay y nhìn ra, đếm qua thấy tất cả có mười ba chiếc thuyền lớn, lại nhìn kỹ đầu thuyền, quả nhiên rõ ràng sơn huy hiệu mặt trời và mặt trăng, bèn quát “Mau đem quân bố phòng, giữ trên bờ biển, lúc địch nhân cưỡi thuyền nhỏ lên bờ thì phát lên”. Bành Tham tướng luôn miệng vâng dạ, sải chân chạy mau đi.
Bọn Tô Thuyên nghe thấy đều đổ ra, chỉ nghe tiếng pháo bình bình bình vang tới. Công chúa nói “A Kha muội tử, lúc ngươi đi Đài Loan có mang Hổ Đầu theo không?”. A Kha tức giận giẫm chân nói “Ngươi... ngươi đùa gì thế?”.
Vi Tiểu Bảo càng thêm bực dọc, chửi “Để công chúa thối tha mang Song Song của thị đi Đài Loan...”
Tô Thuyên chợt nói “Này, tại sao đạn pháo rơi xuống biển mà không thấy có cột nước?”. Chợt nghe bình bình hai tiếng, miệng pháo khói tỏa mù mịt, nhưng không có đạn pháo bắn lên bờ, cũng không có đạn pháo rơi xuống biển. Vi Tiểu Bảo thoáng sửng sốt, hô hô cười rộ, nói “Đây là pháo chào, không phải là tới làm khó chúng ta”. Công chúa nói “Tiên lễ hậu binh thôi!”. Vi Tiểu Bảo tức giận nói “Con a đầu Song Song đâu? Mau qua đây, lão tử muốn đánh vào mông nó”. Công chúa nói “Tại sao bỗng không lại đánh con gái?”. Vi Tiểu Bảo nói “Ai bảo mẹ nó đáng ghét!”.
Thuyền dần dần tới gần, nhìn qua kính thiên lý thấy rõ ràng, trên thuyền kéo cờ rồng vàng Đại Thanh chứ không phải cờ nhật nguyệt Đài Loan. Vi Tiểu Bảo vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, đưa kính thiên lý cho Tô Thuyên, nói “Cô nhìn xem, thật kỳ lạ!”.
Tô Thuyên nhìn một lúc, mỉm cười nói “Đây là thủy sư của Đại Thanh, không phải của Đài Loan”.
Vi Tiểu Bảo đón ống kính nhìn tiếp, cười nói “Đúng rồi, quả thật là thủy sư của Đại Thanh. Ái chà, làm gì thế? Con mẹ nó đau quá!”. Quay đầu lại nhìn, té ra Vi Hổ Đầu mà A Kha bế đang nắm chặt cần câu ra sức kéo, lưỡi câu còn móc vào cổ Vi Tiểu Bảo, tự nhiên khiến y đau nhói lên. A Kha nhịn cười, vội nhẹ nhàng gỡ lưỡi câu ra cho y, cười nói “Xin lỗi, đừng giận”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Thằng con ngoan, mới bấy nhiêu tuổi đã có thủ đoạn của Khương Thái công, giỏi quá!”.
Công chúa hừ một tiếng, mắng “Đồ thiên vị!”.
Chỉ thấy Bành Tham tướng sải chân chạy tới kêu lên “Vi Tước gia, trên thuyền treo cờ hiệu Đại Thanh, e là có chuyện gian trá”. Vi Tiểu Bảo nói “Không sai! Chỉ cho một thuyền nhỏ chở người lên đảo, hỏi cho rõ ràng rồi sẽ nói chuyện”. Bành Tham tướng vâng lệnh chạy đi.
Công chúa nói “Nhất định là thằng tiểu tử Trịnh Khắc Sảng giả treo cờ hiệu Đại Thanh, đây rõ ràng là thuyền Đài Loan mà”. Vi Tiểu Bảo nói “Tốt lắm, tốt lắm. Công chúa, gần đây dung mạo cô xinh đẹp lắm”, công chúa sửng sốt, nghe chồng khen mình, cũng không kìm được vui vẻ, cười khẽ nói “Thì cũng như thế, có gì đẹp hơn đâu?”. Vi Tiểu Bảo nói “Cô môi hồng mặt trắng, lông mày cong vút, giống như Hằng Nga trong Nguyệt điện xuống trần, Trịnh Khắc Sảng mà nhìn thấy nhất định sẽ rất vui vẻ”. Công chúa phì một tiếng.
Không bao lâu thuyền tới gần, buông neo đậu lại, sáu bảy tên quân thủy chèo một chiếc thuyền nhỏ vào bờ. Bành Tham tướng chỉ huy quân sĩ, giương cung lắp tên chĩa vào chiếc thuyền nhỏ. Chiếc thuyền nhỏ tới gần, người trong thuyền đưa loa lên miệng gọi “Thánh chỉ tới! Thủy sư Đề đốc Thi Quân môn truyền chỉ cho Vi Tước gia”.
Vi Tiểu Bảo cả mừng, chửi “Con mẹ nó, thằng đầy tớ Thi Lang này giở trò quái gì mà lại ngồi chiến thuyền Đài Loan tới truyền chỉ. Tô Thuyên nói “Chắc là y trên biển gặp thủy sư Đài Loan, đánh nhau thắng được nên đem cả chiến thuyền Đài Loan bắt được tới đây”. Vi Tiểu Bảo nói “Nhất định là thế. Thuyên tỷ tỷ đoán việc như thần”.
Công chúa vẫn không phục, lẩm bẩm “Ta đoán là Thi Lang đầu hàng Đài Loan, Trịnh Khắc Sảng phái y tới giả truyền thánh chỉ, Vi Tiểu Bảo trong lòng vui mừng, cũng không trách mắng nữa, véo mông nàng một cái, vỗ một cái, vội vã đi xuống bãi biển tiếp chỉ.
Trong chiếc thuyền nhỏ tới quả nhiên có Thi Lang. Y đứng trên bãi cát, cao giọng tuyên chỉ. Nguyên là Khang Hy sai Thi Lang tấn công Đài Loan, trong trận Bành Hồ, thủy sư quân Trịnh đại bại, Thi Lang thừa thắng tiến vào Đài Loan. Diên Bình quận vương Trịnh Khắc Sảng của nhà Minh không đánh mà hàng, từ đó Đài Loan thuộc về bản đồ Đại Thanh. Khang Hy luận công ban thưởng, vì Thi Lang năm xưa nhàn rỗi ở Bắc Kinh không được dùng, nhờ Vi Tiểu Bảo tiến cử mà lập được đại công, nên đặc biệt thăng Vi Tiểu Bảo làm Nhị đẳng Thông Ngật hầu, gia hàm Thái tử Thái bảo, con trưởng là Vi Hổ Đầu được ấm thụ hàm Khinh xa Đô úy.
Vi Tiểu Bảo tạ ơn xong, thẫn thờ như bị mất vật gì, không nghĩ rằng Đài Loan đã bị Thi Lang bình định.
Y và Trịnh Khắc Sảng vừa gặp mặt là thành kẻ thù, sư phụ Trần Cận Nam lại bị Trịnh Khắc Sảng hại chết, lại càng căm hận thấu xương, nhưng Đài Loan vừa bình định xong, thiên hạ của nhà Đại Minh từ đó trở đi không còn tấc đất nào, cũng không khỏi có chỗ bâng khuâng. Y tuy còn nhỏ tuổi, trước nay không đọc sách, chuyện phân biệt Mãn Hán, mối thù quốc tộc gì gì đó trước nay không hề để ý, chỉ là theo Thiên Địa hội đã lâu, ngày thường nghe các huynh đệ trong hội nói rất nhiều, tự nhiên cũng cảm thấy người Mãn Châu chiếm cứ giang sơn của người Hán chúng ta là mười phần không đúng. Lúc ấy nghe nói Thi Lang đã giải Trịnh Khắc Sảng về Bắc Kinh, lại hoàn toàn không thấy vui mừng. Lại nhớ tới sư phụ suốt đời hết lòng kiệt sức, chỉ mong khôi phục thiên hạ của Đại Minh, cho dù không thành công cũng phải giữ gìn một mảnh đất của Đại Minh ngoài biển, nào ngờ sư phụ bị hại chưa bao lâu, Trịnh Khắc Sảng đã lập tức đầu hàng, sư phụ dưới suối vàng mà biết được, nhất định sẽ khóc lớn.
Vi Tiểu Bảo nhớ tới hôm trước sư phụ bị hại, cũng là vì sau khi ra sức đánh nhau với Thi Lang vô cùng mỏi mệt mới bị Trịnh Khắc Sảng ám toán sau lưng, thấy Thi Lang dáng vẻ nghênh ngang tự đắc, bất giác khí tức đầy ruột, nói “Thi đại nhân lập được công lớn này, chắc nhất định đã được phong làm quan lớn”. Thi Lang mỉm cười nói “Đội ơn hoàng thượng, phong ty chức làm Tam đẳng Tịnh Hải hầu”. Vi Tiểu Bảo nói “Chúc mừng, chúc mừng”. Nghĩ thầm “Mình vốn là Nhất đẳng Thông Ngật bá, nếu thăng một cấp là Tam đẳng Thông Ngật hầu, tiểu hoàng đế thăng luôn hai cấp, là muốn mình vẫn hơn Thi Lang, để hai người không phải đều là Tam đẳng hầu, khỏi phải khó xử”. Nhưng nghĩ tới Thi Lang đại chiến bình định Đài Loan, tình cảnh nhiệt náo tới mức nào, mà mình thì ngồi buồn chán trên cái đảo hoang Thông Ngật này, vừa ghen tỵ vừa phiền muộn, bất giác càng ngứa miệng với y.
Thi Lang thỉnh an, rồi cung cung kính kính nói “Hoàng thượng triệu kiến ty chức, ôn tồn phủ dụ, khen ngợi một hồi, sau cùng nói: Thi Lang, ngươi lần này ra quân lập công, có biết là ai tài bồi đề bạt cho ngươi không? Trước đây ngươi ở Bắc Kinh, không ai coi ngươi ra gì, là ai tiến cử ngươi thế? Ty chức tâu: Bẩm hoàng thượng, đây là Vi Tước gia bảo tấu đề bạt, hoàng thượng ban ơn. Hoàng thượng nói: Ngươi không quên gốc, như thế là được. Ngươi lập tức tới đảo Thông Ngật tuyên chỉ cho Vi Tước gia, ban ơn thăng tước, thưởng y sáng suốt biết người, lập công với triều đình. Cho nên ty chức vội vàng tới đây”.
Vi Tiểu Bảo thở dài một tiếng, nghĩ thầm “Người mình đề bạt thì lập công, chỉ có mình thì bị giam cầm trên cái đảo hoang này không nhích chân được một bước. Tiểu hoàng đế không ngừng thăng quan tước cho mình, nhưng cho dù mình được phong tới Thông Ngật vương, thì cũng có gì quý báu?”. Liền nói “Thi đại nhân, ngươi cưỡi chiến thuyền Đài Loan tới làm ta phát hoảng, cứ tưởng thủy sư Đài Loan tới đánh, nào ngờ là ngươi diễu võ dương oai”.
Thi Lang vội vàng thỉnh an, nói “Không dám, không dám. Ty chức phụng thánh chỉ, vội vàng tới gặp Tước gia, chiến thuyền Đài Loan chế tạo rất tốt, đi biển nhanh hơn nhiều, nên mới đi chiến thuyền Đài Loan tới đây”.
Vi Tiểu Bảo nói “Té ra chiến thuyền Đài Loan đi rất nhanh, nên trên đầu thuyền sơn huy hiệu mặt trời mặt trăng. Lúc nãy trong lòng ta lại đoán bậy, chỉ cho rằng Thi đại nhân muốn tự lập làm vương ở Đài Loan, nên nói thật cũng rất lo sợ”.
Thi Lang giật nảy mình, vội nói “Ty chức thật là hồ đồ, đại nhân chỉ điểm rất đúng. Ty chức làm việc sơ suất, không xóa huy hiệu trên chiến thuyền Đài Loan đi”. Thật ra đây không phải là y sơ suất, mà là y bình định được Đài Loan, muôn phần đắc ý, cưỡi chiến thuyền bắt được của Đài Loan bắc tới Thiên Tân, nam tới đảo Thông Ngật, cố ý không xóa huy hiệu Đài Loan trên đầu thuyền, để mọi người nhìn thấy là chỉ trỏ, kể lại lai lịch của chiến thuyền này, có ý khoe khoang chiến công. Không ngờ Vi Tiểu Bảo lại nói là ngờ vực y có ý tự lập làm vương ở Đài Loan, đây là chuyện tối kỵ, bất giác lưng toát mồ hôi lạnh, nghĩ thầm “Tiểu hoàng đế đối với gã thiếu niên này thủy chung mười phần sủng ái, mình thì huyết chiến mới bình định được Đài Loan, y thì nhàn nhã ngồi chơi trên đảo mà công lao vẫn lớn hơn mình, y được phong là Nhị đẳng hầu, mình thì chỉ được phong là Tam đẳng hầu. Nếu y trở về Bắc Kinh, thừa hơi nói mấy câu trước mặt hoàng thượng, thì thật là mình hỏng bét”.
Thi Lang trong lòng hoảng sợ, lập tức thu hết dáng vẻ oai vệ lúc mới bước chân lên đảo, sai bọn thuộc quan tùy tùng bước lên bái kiến. Trong đó có một người Vi Tiểu Bảo vốn rất quen, là Lâm Hưng Châu hảo thủ Địa Đường môn năm xưa theo Trần Cận Nam tới Liễu Châu. Vi Tiểu Bảo trong lòng thoáng sửng sốt “Y là tướng lãnh của Đài Loan, tại sao lại là thủ hạ của Thi Lang?”, nghe y tự báo chức hàm là Thủy sư Đô ty.
Lâm Hưng Châu từ lúc lên bờ nhìn thấy Vi Tiểu Bảo rồi, đã sớm kinh nghi bất định “Y là đệ tử của Trần quân sư, tại sao lại làm đại quan của triều đình, ngay cả Thi Đề đốc gặp y cũng cung kính như thế?”.
Thi Lang chỉ Lâm Hưng Châu và một người tên Hồng Triều làm Thủy sư Thủ bị, nói “Lâm Đô ty và Hồng Thủ bị vốn trong quân đội Đài Loan theo Trịnh Khắc Sảng Tước gia và Lưu Quốc Hiên đại nhân về hàng triều đình. Hai người này am hiểu chuyện trên biển, vì thế lần này ty chức đưa họ cùng đi, để hai người bọn họ lo liệu chiến thuyền Đài Loan”.
Vi Tiểu Bảo ồ một tiếng, nói “Té ra là thế”. Thấy Lâm Hưng Châu và Hồng Triều đều cúi đầu, trên mặt có vẻ xấu hổ.
Đài Loan từ sau khi Trịnh Thành Công khai phủ, thông thương với Nhật Bản, Lữ Tống, Tiêm La, An Nam, vô cùng giàu có. Thi Lang bình định được Đài Loan, lấy được rất nhiều trân châu dị vật của nước ngoài, mình không lấy một món, đều nộp hết lên cho triều đình. Khang Hy sai y mang một ít tới ban thưởng cho Vi Tiểu Bảo. Ngoài ra Thi Lang cũng có lễ vật của mình, nhưng toàn là thổ sản của Đài Loan như giỏ tre chiếu tre, đều là những vật thô lậu. Vi Tiểu Bảo vừa nhìn thấy, lại càng bực tức, nghĩ thầm “Trương đại ca, Triệu nhị ca, Vương tam ca, Tôn tứ ca đánh được Ngô Tam Quế, lễ vật tặng ta hậu hĩ thế nào, còn ngươi thì đem những thứ rách nát của bọn ăn mày cho ta, ta lại thèm để vào mắt à?”.
Chiều hôm ấy Vi Tiểu Bảo mở tiệc, mời Thi Lang ngồi ghế đầu, ngoài ra có bốn viên võ quan chức cao trong thủy sư cùng Lâm Hưng Châu và Hồng Triều. Rượu được ba tuần, Vi Tiểu Bảo hỏi “Lâm Đô ty, Diên Bình quận vương ở Đài Loan vốn là Trịnh Kinh Trịnh vương gia, tại sao lại biến thành thằng tiểu tử Trịnh Khắc Sảng? Nghe nói y là con thứ hai của Trịnh vương gia, thì đâu tới lượt y làm vương gia?”.
Lâm Hưng Châu nói “Vâng. Bẩm Tước gia, ngày hai mươi tám tháng giêng năm nay Trịnh vương gia tạ thế, di mệnh đại công tử Khắc Bân nối ngôi. Đại công tử anh minh cương nghị, trước nay quân dân Đài Loan vốn vẫn kính phục. Nhưng Thái phu nhân Đổng quốc thái lại không thích y, sai Phùng Tích Phạm hành thích, giết chết y, lập nhị công tử Khắc Sảng nối ngôi. Trần phu nhân của đại công tử tới gặp Đổng quốc thái nói đại công tử vô tội. Đổng quốc thái cả giận, sai người đuổi ra, Trần phu nhân ôm xác đại công tử khóc lớn một hồi rồi treo cổ tự tử. Vị Trần phu nhân này chính là đại tiểu thư của Trần... Trần quân sư. Chuyện này thì người Đài Loan trên dưới ai cũng rất không phục”.
Vi Tiểu Bảo nghe nói con gái của sư phụ bị người ta bức tử, nhớ tới sư phụ, trong lòng chua xót, đập bàn một cái chửi “Con mẹ nó, thằng tiểu tử Trịnh Khắc Sảng tầm thường hồ đồ, làm sao làm được vương gia?”.
Lâm Hưng Châu nói “Vâng. Nhị công tử lên ngôi rồi, phong nhạc phụ của y là Phùng Tích Phạm làm Tả Đề đốc, tất cả chính sự đều giao cho y xử lý. Người này xử sự không công bằng, luôn theo ý riêng. Có người to gan nói mấy câu công đạo đều bị y giết chết, vì thế văn võ bá quan đều dám giận không dám nói. Hồn ma của đại công tử và Trần phu nhân lại thường hiển linh, đến tháng tư, Đổng quốc thái bị hồn ma dọa nạt mà chết”.
Vi Tiểu Bảo nói “Khoái thật, khoái thật. Mụ Đổng quốc thái ấy xuống tới suối vàng, Quốc tính gia cũng không thể tha cho thị”. Lâm Hưng Châu nói “Ai nói là không phải. Chuyện Đổng quốc thái bị hồn ma dọa chết đồn ra, mọi người đều hả dạ, cả Đài Loan từ bắc tới nam, mọi người đốt pháo suốt ba ngày, nói là để xua đuổi tà ma, nhưng thật ra là ăn mừng mụ già ấy chết!”, Vi Tiểu Bảo luôn miệng nói “Thú vị thật, thú vị thật!”.
Thi Lang nói “Chuyện hồn ma cũng chưa chắc có thật, chắc sau khi Đổng quốc thái giết chết cháu nội trưởng, bức tử cháu dâu trưởng, trong lòng bất an, người già lòng sợ sinh ma, nên ngày đêm thấy ma”. Vi Tiểu Bảo nghiêm trang nói “Ma quỷ là chuyện có thật, nhất là những người chết oan, sau khi thành ma rồi, nhất định sẽ đòi mạng trả thù. Thi đại nhân, lần này ngươi bình định Đài Loan giết người rất nhiều, trong những chiến thuyền Đài Loan này nhất định có rất nhiều ma, Thi đại nhân nên cẩn thận là hay”, Thi Lang hơi biến sắc, nhưng lập tức cười nói “Ra trận đánh nhau, không thể không giết người. Nếu quân tướng địch nhân chết trận đều biến thành ma quỷ đòi mạng, thì tất cả các võ tướng đều không ai được chết yên lành”.
Vi Tiểu Bảo lắc đầu nói “Không phải thế. Thi đại nhân vốn là đại tướng bộ hạ của Quốc tính gia ở Đài Loan, lại trở lại giết chết tướng sĩ Đài Loan, những hồn ma đã chết đương nhiên trong lòng không phục. Chuyện này khác với các tướng quân khác chứ”.
Thi Lang im lặng, trong lòng rất bực tức. Y là người Tấn Giang Phúc Kiến, bộ thuộc của Trịnh Thành Công mười người thì có tám chín là người Phúc Kiến, nhất là người vùng Mân Nam. Y bình định được Đài Loan rồi, đã nghe không ít lời đồn đại, chửi y là Hán gian, Mãn gian, lại có người làm văn chương nặc danh, làm thơ chửi mắng châm chọc y.
Y vốn trong lòng cũng hổ thẹn, chỉ là dám giữa mặt châm chọc thế này thì chỉ có một mình Vi Tiểu Bảo.
Y với Vi Tiểu Bảo thì không biết làm sao, lập tức trút giận qua Lâm Hưng Châu, trừng mắt nhìn y một cái, nghĩ thầm “Rời khỏi đảo này, lão tử sẽ cho ngươi biết tay”.
Vi Tiểu Bảo nói “Thi đại nhân, ngươi thật may mắn, nếu Trần quân sư chưa bị hại, giúp đỡ Trịnh Khắc Bân ở Đài Loan, thì bọn Đổng quốc thái, Trịnh Khắc Sảng sẽ không cướp ngôi được. Trần quân sư thống suất quân dân Đài Loan cố thủ, trên dưới một lòng, chưa chắn ngươi đã thành công được”.
Thi Lang im lặng, nghĩ tài năng của mình quả thật còn thua xa Trần Cận Nam, nếu người này không chết, cục diện tự nhiên sẽ khác.
Hồng Triều đột nhiên nói chen vào “Vi Tước gia nói rất đúng. Tướng sĩ bách tính Đài Loan cũng đều nói thế. Mọi người oán hận Trịnh Khắc Sảng giết hại trung thần, tự phá bức trường thành, đúng là con cháu bất tiếu của Quốc tính gia”, Thi Lang tức giận nói “Hồng Thủ bị, người đã hàng nhà Đại Thanh, tại sao còn nói những lời đại nghịch bất đạo như thế?”. Hồng Triều vội đứng lên, nói “Ty chức hồ đồ, xin đại nhân thứ lỗi”.
Vi Tiểu Bảo nói “Hồng lão huynh, ngươi ăn nói thành thật, cho dù hoàng thượng nghe được cũng không trách tội. Ngồi xuống uống rượu đi”, Hồng Triều nói “Vâng”. Rồi run run ngồi xuống, nhấc chén rượu lên, hai tay không ngừng run lên, rượu sánh ra ngoài mất quá nửa.
Vi Tiểu Bảo nói “Trần quân sư bị Trịnh Khắc Sảng hại chết, người Đài Loan đều biết, phải không?”. Hồng Triều nói “Vâng. Trịnh Khắc Sảng về tới Đài Loan y... y nói Trần quân sư... bị... bị...”, rồi nhìn Thi Lang một cái, không dám nói tiếp. Vi Tiểu Bảo nói “Chỉ cần ngươi nói sự thật, thì không ai trách ngươi”. Hồng Triều nói “Vâng, vâng. Trịnh Khắc Sảng và Phùng Tích Phạm hai người mang mấy tên vệ sĩ, ngồi thuyền nhỏ trôi dạt trên biển, gặp thuyền đánh cá, được họ cứu về Đài Loan. Trịnh Khắc Sảng nói Trần quân sư bị Thi tướng quân giết chết. Trịnh vương gia được tin, đau xót khóc lóc suốt mấy hôm. Về sau Trịnh Khắc Sảng soán ngôi rồi mới nói ra với mọi người, rằng Trần quân sư là do y giết chết, còn khoe khoang võ công của mình cao cường. Trong bộ hạ của Trần quân sư có rất nhiều người không phục, tới chất vấn y là Trần quân sư phạm tội gì, đều bị Phùng Tích Phạm sai người bắt giết”.
Vi Tiểu Bảo dằn mạnh chén rượu trong tay xuống bàn, chửi “Con bà nó chứ!”, đột nhiên hô hô cười rộ, nói “Hàng ngày chúng ta cứ chửi con bà người ta, bà người ta quả thật rất oan uổng, chỉ có bà Trịnh Khắc Sảng thì đúng là trời đất sinh ra vô cùng hiếm có, quả thật không có người thứ hai”.
Câu này Thi Lang vừa nghe thấy, lại cảm thấy mười phần khoan khoái. Sở dĩ y đắc tội với Trịnh Thành Công, cả nhà bị giết, đều là vì Đổng quốc thái gây ra, bèn nói “Vi Tước gia nói rất đúng, chúng ta đều chửi con bà nó. Quốc tính gia anh hùng hào kiệt, chuyện gì cũng tốt, chỉ là lấy nhầm người vợ này”.
Vi Tiểu Bảo lắc đầu nói “Người ngoài đều chửi con bà nó với Trịnh Khắc Sảng, nhưng trong thiên hạ chỉ có một mình Thi tướng quân là không chửi được. Công danh phú quý của Thi tướng quân đều là từ con mụ ấy mà ra đấy. Tuy cha mẹ vợ con ngươi đều bị thị giết, nhưng lại đổi được chức Thủy sư Đề đốc, tước Tam đẳng Tịnh Hải hầu thì chuyến làm ăn này kể ra cũng được”.
Thi Lang lập tức mặt mũi đỏ bừng, trong lòng giận dữ thầm chửi “Lão tử chửi con bà Vi Tiểu Bảo ngươi”, bèn cố nén giận, nhấc chén rượu lên uống một hớp lớn, nhưng hơi thở không thông, hớp rượu vừa xuống cổ, lập tức ho sặc lên một hồi.
Vi Tiểu Bảo nghĩ “Xem vẻ mặt ngươi thì trong lòng tự nhiên là đang chửi con bà ta, nhưng ngay cha ta là ai còn không rõ, thì bà nội ta là ai lại càng không rõ, ngươi muốn chửi con bà ta nhất định không chửi nhầm không xong. Trong lòng ngươi có quá nửa là muốn làm cha ta, vậy thì bà nội ta là mẹ ngươi, ngươi chửi con bà ta há không phải là chửi mẹ ngươi, một trường hồ đồ sao?”, rồi cười hề hề nhìn y.
Một viên Thủy sư Phó tướng họ Lộ trong tiệc sợ hai người bọn họ cãi nhau, bèn nói “Vi Tước gia, lần này Thi Quân môn bình định Đài Loan, toàn là dựa vào công lao liều mình tử chiến. Thi Quân môn vâng thánh chỉ, ngày bốn tháng sáu suất lãnh hơn sáu trăm chiến thuyền, hơn sáu vạn quân tấn công Đài Loan, trên biển gặp gió nghịch, đi mười một ngày mới tới Bành Hồ, ngày mười sáu đại chiến với thủy quân Đài Loan do Lưu Quốc Hiên thống lãnh, trận ấy quả thật đánh nhau mờ trời tối đất, mặt trăng mặt trời đều không còn ánh sáng, cả Thi Quân môn cũng...”.
Vi Tiểu Bảo thấy Lâm Hưng Châu và Hồng Triều đều cúi đầu, trên mặt có vẻ tức giận, đoán hai người này cũng có mặt trong trận Bành Hồ, nghĩ thầm trận này đương nhiên là Thi Lang thắng, không muốn Lộ Phó tướng nói chuyện đắc ý của y nữa, bèn hỏi “Thi tướng quân, năm xưa Quốc tính gia đánh lấy Đài Loan, cũng là bắt đầu từ Bành Hồ tấn công vào phải không?”. Thi Lang nói “Đúng thế”. Vi Tiểu Bảo nội “Lúc ấy ngươi là bộ hạ của Quốc tính gia, không biết đương thời đánh nhau ở Bành Hồ thế nào?”, Thi Lang nói “Bọn quỷ Hồng Mao không sai quân giữ Bành Hồ”.
Vi Tiểu Bảo hỏi Lâm Hưng Châu “Năm xưa Quốc tính gia ra biển đông chinh, nghe nói Lâm đại ca suất lĩnh quân khiên mây chém chân bọn giặc, không biết là chém thế nào?”. Lâm Hưng Châu nghĩ thầm “Chuyện quân khiên mây chém chân bọn giặc, mình đã kể cho y nghe rồi. Bây giờ y lại hỏi tới, tự nhiên là không muốn nghe trang sử xấu xa Thi Lang bình định Đài Loan, muốn mình nói sự tích anh hùng của Quốc tính gia và Trần quân sư. Chuyện của mình thì không nên nói nhiều, Thi Lang trong lòng căm hận, nhất định sẽ đối phó, chẳng bằng cứ tâng bốc y là hay”. Liền nói “Thi Quân môn hai lần tấn công Đài Loan, công lao quả thật rất lớn. Năm xưa Quốc tính gia tập hợp chư tướng bàn việc vượt biển đông chinh, rất nhiều tướng lĩnh đều nói Đài Loan hiểm trở khó đánh, sóng gió trên biển lại lớn, hỏa pháo của bọn quỷ Hồng Mao rất lợi hại, chuyện này quả thật rất nguy hiểm. Nhưng Trần quân sư và Thi tướng quân cực lực tán thành, rốt lại lập được công lớn”.
Thi Lang nghe y nói thế, trên mặt có vẻ tự đắc.
Lâm Hưng Châu lại nói “Đó là tháng hai năm Vĩnh Lịch thứ mười lăm...”
Thi Lang nói “Lâm Đô ty, niên hiệu nhà Tiền Minh không thể nói tới nữa, đó là năm Thuận Trị thứ mười tám nhà Đại Thanh”.
Lâm Hưng Châu nói “Vâng, vâng. Tháng hai năm ấy, Quốc tính gia dời đại bản doanh tới thành Kim Môn. Ngày mùng một tháng ba toàn quân làm lễ thệ sư tế biển. Ngày mùng mười, Quốc tính gia và Trần quân sư thống lãnh thân quân gồm chiến thuyền trong Tả Vũ vệ, Tả Hữu Hổ vệ, Kiêu kỵ trấn, Tả Tiên phong, Trung xung, Hậu vệ trấn, Tuyên Nghị Tiền Hậu trấn, Viện Tiễu Hậu trấn các lộ, tập hợp ở vũng Liệu La đợi gió. Lúc ấy lòng quân hoảng hốt, rất nhiều người sợ ra biển, Quốc tính gia và Trần quân sư, Thi tướng quân chia nhau tới các trấn khích lệ quân tâm. Đến trưa ngày hai mươi ba, trời mới yên tĩnh, sóng gió vừa yên, lúc ấy đại quân lên đường, trưa ngày hai mươi bốn thì tới Bành Hồ. Nhưng sau khi tới Bành Hồ lại có gió lớn, trên biển sóng nổi ầm ầm, mấy ngày không thể đi được. Các đảo ở Bành Hồ không có lương thực, trong quân thiếu lương, mọi người chỉ đành ăn khoai lang qua ngày, quân tâm lại náo động. Đến ngày ba mươi, quả thật không chờ được nữa, Quốc tính gia ra lệnh xuất phát, bất kể gió to sóng lớn cũng cứ đông chinh. Sau canh một đêm ấy trên súy hạm của Quốc tính gia kéo cờ súy lên, nổ ba phát pháo, chiêng trống cùng khua, chiến thuyền giương buồm tiến về phía đông. Lúc ấy mây đen đầy trời, sóng lớn trên biển như những hòn núi nhỏ xô tới trước thuyền, mưa to gió lớn, người nào cũng ướt đẫm, Quốc tính gia đứng ở đầu thuyền, tay cầm trường kiếm, quát lớn: Tận trung báo quốc, không sợ sóng gió! Mấy vạn tướng sĩ đồng thanh quát lớn: Tận trung báo quốc, không sợ sóng gió! Hô lớn mấy lần, át cả tiếng sóng gió”.
Vi Tiểu Bảo nhìn Thi Lang nói “Lúc ấy chắc Thi tướng quân cũng hô lớn chứ?”. Thi Lang nói “Lần ấy ty chức phụng mệnh trấn thủ Hạ Môn, không đi Đài Loan”, Vi Tiểu Bảo nói “Té ra là thế, đáng tiếc, đáng tiếc!”.
Lộ Phó tướng nói “Trịnh vương gia tới Bành Hồ chẳng qua chỉ gặp sóng to gió lớn, nhưng Thi Quân môn huyết chiến ở Bành Hồ mới thật là kinh tâm động phách. Thủy sư do Lưu Quốc Hiên thống suất bố phòng ở vũng Ngưu Tâm, đảo Kê Lung trong Bành Hồ, trên bờ đắp lũy dài hai mươi dặm, mỗi lũy có một khẩu đại pháo. Lúc thủy sư Đại Thanh kéo tới, đại pháo trên bờ cùng bắn, lại có tên lửa, ống phun lửa, vô cùng lợi hại...”.
Vi Tiểu Bảo cười nói “Lộ Phó tướng, ta thấy ngươi cũng gan dạ không kém ta bao nhiêu”. Lộ Phó tướng nói “Không dám, ty chức làm sao dám sánh với Tước gia?”. Vi Tiểu Bảo hỏi “Ngươi không bằng ta à?”, Lộ Phó tướng nói “Tự nhiên là không bằng”. Vi Tiểu Bảo nói “Chuyện này mới lạ đây, ta lại cho rằng ngươi gan nhỏ như chuột, thật sai quá xa, té ra ngươi còn vô dụng hơn cả ta nữa, hô hô, kỳ lạ thật, kỳ lạ thật!”. Lộ Phó tướng đỏ bừng mặt, không dám lên tiếng.
Vi Tiểu Bảo hỏi Lâm Hưng Châu “Quốc tính gia thống lĩnh đại quân ra biển rồi, về sau thế nào?”.
Lâm Hưng Châu nói “Chiến thuyền đi hai canh trong sóng to gió lớn, đến canh ba thì đột nhiên sóng yên gió lặng, mây đen tan hết, lại qua một lúc, lại chuyển qua gió thuận, tướng sĩ reo hò như sấm, đều nói trời cao phù hộ, trận này ắt thắng. Vừa sáng ra, chiến thuyền tới ngoài cửa Lộc Nhĩ, dùng sào tre đo mức nước, không ngờ cát cao nước cạn, không sao tiến được. Quốc tính gia vô cùng lo lắng, bèn bày hương án cầu khẩn với trời, qua không bao lâu đột nhiên thủy triều dâng cao, chiến thuyền nhất tề vào cửa Lộc Nhĩ. Quân Hồng Mao trên bờ nổ pháo bắn ra. Quân Hồng Mao đắp hai tòa thành ở đó, một gọi là thành Nhiệt Lan Già, một gọi là Phổ La Dân Già...”.
Vi Tiểu Bảo cười nói “Tên đất của người ngoại quốc cũng cổ quái, cái gì mà Nhiệt Lai Già, Lãnh Lai Già, Nam vô Ba La Mật Đa Quan Thế m Bồ Tát già.
Lâm Hưng Châu mỉm cười nói “Lúc ấy Quốc tính gia dùng kính thiên lý nhìn ra, thấy chủ lực của quân Hồng Mao có hai chiến hạm, hai chiếc tuần dương hạm, còn có vài trăm chiếc thuyền nhỏ các đạo, lúc ấy bèn ra lệnh, sai Trấn đốc Trần Dịch suất lãnh chiến thuyền trấn Tuyên Nghị Tiền lên bờ ở cửa Lộc Nhĩ, giữ chặt bãi Bắc Sán đề phòng hạm đội của quân Hồng Mao tới cứu viện, sai Hoàng Chiêu mang năm trăm quân, hai mươi khẩu pháo liên hoàn chia làm ba đội tới bày trận ở bãi Côn Thân đóng ở phía nam quân địch, phái ty chức suất lãnh năm trăm quân khiên mây đi vòng qua thành Quỷ Tử đánh giết tới bên trái bãi Côn Thân, lại phái Tiêu Củng Chấn mang hai mươi khoái thuyền, vừa thấy hạm đội của quân Hồng Mao tới đánh Côn Thân thì giả như lên bờ đánh thành, lớn tiếng hò hét để cản trở. Các tướng được lệnh, chia nhau xuất phát, đại pháo trên thuyền cũng bắn trả. Bên kia Trần quân sư suất lãnh thủy sư bao vây đánh rát hai đại hạm của quân Hồng Mao, nổ pháo bắn rát, tiếng hò hét ầm ầm, trên mặt biển khói lửa mù mịt, đánh nhau hơn một giờ, chợt ầm ầm mấy tiếng vang rền, một đại hạm của quân Hồng Mao bị quân ta bắn chìm, về sau mới biết đó là chiếc Cụ Khắc Đức Á, là chiến hạm tinh nhuệ trong thủy sư Hồng Mao. Còn chiếc Mã Lợi Á kia cũng bị hỏng nặng, chạy ra biển lớn phía đông không biết đi đâu. Hai chiếc tuần dương hạm của quân Hồng Mao cũng rút lui. Lúc ấy huynh đệ do Tần Dịch suất lãnh đã gặp quân bộ của bọn quỷ Hồng Mao, người nào cũng ra sức xông lên, người Hồng Mao tuy súng đạn lợi hại nhưng thấy quân ta anh dũng xông lên, hoảng sợ không còn lòng dạ nào đánh nhau, thua chạy vào thành. Quân ta lên bờ ở Xích Khảm, đánh thẳng tới thành Phổ La Dân Già”
Vi Tiểu Bảo rót một chén rượu, hai tay bưng lên đưa qua Lâm Hưng Châu, nói “Lâm đại ca, đánh rất hay, ta kính ngươi một chén”[52].
Lâm Hưng Châu đứng lên đón lấy, cảm ơn uống cạn, rồi nói tiếp “Quân ta lên bờ ở Xích Khảm xong, người Trung Quốc ở đó nhao nhao tới đón mừng, rất nhiều người mừng quá phát khóc, đều nói: Cứu tinh của chúng tôi tới rồi. Vi Tước gia, Trịnh Thái sư lão thái gia của Quốc tính gia vốn làm nghề buôn bán không vốn trên biển, Đài Loan chính là sào huyệt cũ của lão nhân gia người, về sau lão nhân gia người dắt bọn huynh đệ thủ hạ trở về Trung Nguyên, Đài Loan bị quân binh Hà Lan và Tây Ban Nha chia nhau chiếm cứ. Bọn quỷ Hà Lan ở phía nam, bọn quỷ Tây Ban Nha ở phía bắc, hai bên tranh giành nhau, Tây Ban Nha thua, toàn bộ Đài Loan đều bị Hà Lan chiếm cứ. Người Trung Quốc chúng ta trên đảo bị bọn quỷ Hà Lan tàn hại. Bộ hạ cũ của Trịnh Thái sư có vị huynh đệ tên Quách Hoài Nhất, là bậc anh hùng hảo hán. Y ở lại trên đảo không đi, thấy người Trung Quốc bị bọn quỷ Hồng Mao hà hiếp, ngấm ngầm hẹn ước với bọn huynh đệ, thông báo cho người Trung Quốc các nơi, định ngày Trung thu khởi sự, giết toàn bộ bọn quỷ Hồng Mao trên đảo. Không ngờ có tên Hán gian tên Phổ Tử đi bẩm báo cho bọn quỷ Hồng Mao...”.
Vi Tiểu Bảo đập bàn chửi “Con bà nó, chuyện của người Trung Quốc đều do bọn Hán gian làm hỏng”.
Lâm Hưng Châu nói “Đúng thế. Quách Hoài Nhất đại ca vừa thấy Phổ Tử bỏ trốn, biết là sự tình đã hỏng, lập tức suất lãnh hơn một vạn sáu ngàn người Trung Quốc tiến đánh thành Phổ La Dân Già, phóng hỏa đốt chết bọn quan quân Hồng Mao giữ thành. Bọn quỷ Hồng Mao điều động đại quân phản công, súng đạn lợi hại. Người Trung Quốc chúng ta ngoài vài khẩu súng, đều là dùng đại đao, thương sắt, lưỡi cuốc, côn gỗ làm võ khí, đánh nhau một trăm năm mươi ngày ở thành Xích Khảm, Quách Hoài Nhất đại ca bất hạnh bị đại pháo của bọn quỷ Hồng Mao bắn chết...”. Vi Tiểu Bảo kêu lên “Ái chà, thế thì hỏng bét”. Lâm Hưng Châu nói “Đúng thế. Quách đại ca vừa chết, rắn không đầu không bò được, người Trung Quốc thua chạy khỏi thành, huyết chiến bảy ngày bảy đêm cạnh Đại Hồ, người Trung Quốc bị chết hơn bốn ngàn, phụ nữ trẻ con cũng thà chết không chịu khuất phục, bị giết hơn năm trăm người.
Phàm những ai bị bọn quỷ Hồng Mao bắt được, phụ nữ thì bị ép làm doanh kỹ, đàn ông nếu không phải là ngũ mã phân thây, thì dùng que sắt từ từ đốt chết...”.
Vi Tiểu Bảo cả giận, kêu lên “Bọn quỷ Hồng Mao tàn nhẫn như thế, còn tàn độc hơn quân Thanh tàn sát ở thành Dương Châu chúng ta!”.
Thi Lang và Lộ Phó tướng ngớ mặt nhìn nhau, chỉ còn cách cười gượng, đều nghĩ thầm “Gã thiếu niên này ăn nói quả thật không biết nặng nhẹ”.
Lâm Hưng Châu nói “Đó là chuyện tháng tám năm Vĩnh Lịch thứ sáu...”. Hồng Triều bấm đốt ngón tay tính rồi nói “Năm Vĩnh Lịch thứ sáu chính là năm Thuận Trị thứ bảy... tám... chín, năm Thuận Trị thứ chín”. Lâm Hưng Châu nói “Phải không? Sau trường đại thảm sát ấy, người Trung Quốc ở Đài Loan và bọn quỷ Hồng Mao thế không cùng sống, bọn quỷ Hồng Mao chỉ cần một cớ nhỏ là giết bừa người Trung Quốc. Vì thế mọi người vừa thấy đại quân của Quốc tính gia, đúng là Bồ tát xuống cứu mạng, trai gái già trẻ nhao nhao tố khổ với bọn ta. Đúng tối hôm ấy, Thái thú Quỳ đại nhân của bọn quỷ Hồng Mao sau khi thua lớn, giận lây qua người Trung Quốc, đem hết người Trung Quốc ở Côn Thân, bất luận già trẻ lôi ra bắn hết, giết chết hơn năm trăm người. Hôm sau Quốc tính gia phái quân đánh thành Phổ La Dân Già. Trần quân sư bày ra kế sách, luyện quân giáp mây lăn tròn vào chém chân bọn quỷ Hồng Mao, nên hạ được thành Phổ La Dân Già”.
Vi Tiểu Bảo nói “Đây cũng là công lao của lão huynh”. Lâm Hưng Châu nói “Đây toàn là diệu kế của Trần quân sư, chứ ty chức không có công lao gì”. Lại nói “Quốc tính gia chỉ huy quân tấn công trú sở của Quỳ Thái thú Hồng Mao là thành Nhiệt Lai Già. Trên thành bắn pháo ra ầm ầm, quân ta bị thương vong rất nhiều. Nhưng tướng quân Mã Tín và tướng quân Lưu Quốc Hiên vẫn hăng hái hạ được Côn Thân. Quốc tính gia thấy các huynh đệ thương vong quá nhiều, lúc ấy bèn đắp lũy dài bao vây thành Nhiệt Lai Già, đem đại pháo bắn vào thành. Không bao lâu chiến thuyền các trấn Tả Vệ, Tiền Xung, Trí Vũ, Anh Binh, Du Binh, Điện Binh trong thủy sư lộ thứ hai của quân ta cũng đều đánh tới, thanh thế rất lớn. Quốc tính gia một mặt sai quân khai khẩn ruộng đất, một mặt vây chặt thành. Bao vây năm tháng, đột nhiên viện binh của quỷ Hồng Mao từ Ba Đạt Duy Á tới, quân Hồng Mao trong thành xông ra giáp công. Thủy lục đại chiến, quân ta hăng hái xông lên, nước biển đều bị máu nhuộm biến thành màu đỏ”.
Vi Tiểu Bảo vỗ bàn khen “Lợi hại thật, lợi hại thật!”, nhìn qua Thi Lang nói “Tiếc là lúc ấy Thi tướng quân đang ở Hạ Môn, nếu không thì trong mấy trận đại chiến ấy, giết con mẹ nó mấy trăm tên quỷ Hồng Mao, thì mới kể là anh hùng hảo hán thực sự”. Thi Lang im lặng.
Vi Tiểu Bảo hỏi Hồng Triều “Hồng đại ca, lúc ấy ngươi đánh ở mặt nào?”.
Hồng Triều nói “Lúc ấy ty chức là thuộc hạ dưới trướng tướng quân Lưu Quốc Hiên, hợp quân với thủy sư do tướng quân Trần Trạch thống lĩnh bao vây tấn công viện binh của quân Hồng Mao, đại chiến ở một dải Bắc Sán Vĩ. Quân Hồng Mao chiến hạm rất lớn, súng đạn lợi hại, đạn pháo của quân ta bắn lên chiến thuyền của Hồng Mao đều bị vỏ sắt hất ra, không sao làm chúng tổn thương. Lâm Tiến Thân Lâm tướng quân ở trấn Tuyên Nghị Tiền thấy chi trì không được, đích thân suất lãnh hai trăm quân cảm tử, thân mang thuốc súng, liều chết nhảy lên chiến hạm của bọn quỷ Hồng Mao, phá hỏng đại pháo trên đó. Bọn quỷ Hồng Mao thấy chúng ta dũng mãnh tấn công không sợ chết như vậy đều hoảng sợ rối loạn, quân ta giết chết một tên hạm trưởng của bọn quỷ Hồng Mao, bắt sống hai chiến hạm chủ lực, thủy sư của quân Hồng Mao tan vỡ. Trên bờ Trần quân sư dẫn quân đại chiến, cũng thu được toàn thắng, về sau Trần quân sư mổ trên người lấy ra được bảy viên đạn chì của quân Hồng Mao”.
Vi Tiểu Bảo nói “Hà, sư phụ ta không chết vì súng đạn của quân Hồng Mao mà lại chết dưới kiếm của con mẹ nó thằng tiểu tử Trịnh Khắc Sảng. Thi tướng quân, nam tử hán đại trượng phu, tóm lại phải đánh bọn quỷ ngoại quốc mới tính là giỏi. Người Trung Quốc giết người Trung Quốc, cho dù có giết được nhiều cũng không kể là hảo hán được, ngươi nói có phải không?”. Thi Lang hừ một tiếng, im lặng không đáp.
Lâm Hưng Châu nói “Bọn quỷ Hồng Mao thua liền mấy trận, lại định tới đốt lương thực của quân ta, nhưng lần nào cũng bị Trần quân sư biết được, chỉ là nhử gà không được lại mất gạo. Thái thú Hồng Mao khốn khổ giữ cô thành, bó tay không còn cách nào, bèn sai người vượt biển, liên lạc với Tổng đốc Mân Chiết nhà Đại Thanh là Lý Suất Thái, xin y phái binh cứu viện. Vị Lý đại nhân này cũng rất thú vị, gửi thư mời bọn quỷ Hồng Mao phái binh tới Phúc Kiến trước, đánh dẹp quân của Quốc tính gia đang đóng giữ ở một dải Kim Môn Hạ Môn, rồi quân Đại Thanh sẽ tới cùng tấn công Đài Loan. Lúc ấy quân Hồng Mao tự mình không giữ được mạng, như con rùa rụt cổ trong thành Nhiệt Lai Già, làm sao phái quân đi đánh Kim Môn, Hạ Môn?”
Vi Tiểu Bảo nói “Bọn quỷ Hồng Mao nói chuyện như đánh rắm, bọn họ thủy chung đâu có tới đánh Kim Môn, Hạ Môn phải không? Đại Thanh chúng ta nói ra là nhớ lời, về sau há không phái quân đánh Đài Loan sao? Chỉ có điều chậm mất hai ba mươi năm, cũng không quan hệ gì. Lúc Thi tướng quân đem quân đánh tới Đài Loan, không biết có bọn quỷ Hồng Mao trong ứng ngoài hợp không?”.
Thi Lang đã không nhịn nổi nữa, đứng phắt dậy, tức giận nói “Vi Tước gia, huynh đệ với ngươi là nhất điện chi thần, đều làm quan của nhà Đại Thanh, tại sao ngươi ăn nói khủng khỉnh, cứ châm chọc huynh đệ như thế?”.
Vi Tiểu Bảo ngạc nhiên nói “Ờ, chuyện này mới lạ đây, ta châm chọc Thi tướng quân lúc nào? Thi tướng quân không tư thông với người ngoại quốc thì rất tốt. Mà nếu muốn tư thông với người ngoại quốc, thì ta thấy vẫn còn kịp mà. Thi tướng quân tay cầm trọng binh, quỷ Hồng Mao, quỷ Tây Ban Nha, quỷ Bồ Đào Nha, quỷ La Sát đều rất thích kết giao với ngươi đấy”.
Thi Lang trong lòng hoảng sợ “Không xong! Thằng tiểu quỷ này chỉ cần tố cáo với hoàng thượng một lần, vu hãm mình tư thông với ngoại quốc, thì một đời mình sẽ bị hủy hoại trong tay y”, nhưng mới rồi nhất thời nổi nóng, mở miệng vô lễ, bất giác vô cùng hối hận, vội cười lấy lòng nói “Huynh đệ uống quá vài chén, nên có xúc phạm, xin Vi Tước gia tha tội”.
Vi Tiểu Bảo thấy y nổi giận, vốn cũng hơi sợ sệt, đến khi thấy y dịu nét mặt xin lỗi, biết y sợ mình liền cười nói “Thi tướng quân nếu quả muốn tự lập làm vương ở Đài Loan thì cứ đem huynh đệ giết trước mà bịt miệng là được, để ta khỏi bẩm báo với hoàng thượng. Còn nếu chẳng qua chỉ là lớn tiếng hò hét, lên cơn nổi giận thì huynh đệ tuy nhát gan cũng không sợ đâu”.
Thi Lang sắc mặt trắng bệch, rời chỗ ngồi vái dài một vái, nói “Vi Tước gia, đại nhân không nhớ lỗi tiểu nhân, ty chức hoang đường, xin nhận trách phạt. Có điều chuyện tự lập làm vương, tư thông ngoại quốc thì ty chức quyết không có ý ấy. Ty chức một lòng một dạ ra sức vì hoàng thượng, đặt chữ trung lên đầu, quyết không hai lòng”.
Vi Tiểu Bảo cười nói “Mời ngồi, mời ngồi. Chúng ta cứ chờ xem”, rồi quay qua nói với Lâm Hưng Châu “Ngươi kể chuyện còn hay hơn các tiên sinh kể chuyện, hồi Quốc tính gia huyết chiến Đài Loan, Hồng Mao quỷ té cứt vãi đái này về sau thế nào?”.
Lâm Hưng Châu nói “Lúc ấy tin Quốc tính gia suất lãnh đại quân đánh được Đài Loan đã truyền vào nội địa, Hoàng Ngô Hoàng đại nhân bèn dâng lời với triều đình đề ra cái gọi là Kiên bích thanh dã Bình hải ngũ sách”. Vi Tiểu Bảo nói “Hoàng Ngô là ai?”, Lâm Hưng Châu nhìn Thi Lang một cái, ấp úng mấy tiếng, không trả lời ngay. Thi Lang nói “Vị Hoàng đại nhân này vốn là thuộc hạ của Quốc tính gia, làm chức Tổng binh, sau khi y quy thuận triều đình, quan vận hanh thông, lúc qua đời đã được phong là Nhất đẳng Hải Trừng công”, Vi Tiểu Bảo nói “Hà, té ra nguyên là một tên đại Hán...”, chữ “gian” cuối cùng lại nuốt trở vào. Thi Lang mặt đỏ bừng, nghĩ thầm “Ngươi chửi ta là Hán gian, nhưng ta thấy ngươi cũng là người Mãn Châu giả, mọi người không phải ai cũng như nhau sao?”.
Vi Tiểu Bảo nói “Gã Hoàng Ngô này có kế sách kỳ diệu gì vỗ mông ngựa hoàng đế mà được phong tới tước công? Bản lãnh của y không nhỏ đâu? Cách thức của y chúng ta cũng nên rèn luyện, học tập cho khéo”.
Lâm Hưng Châu nói “Năm xưa Quốc tính gia phái Hoàng Ngô phòng thủ Hải Trừng, y lại đem Hải Trừng đầu hàng triều đình, các tướng sĩ không chịu quy hàng đều bị y giết chết. Lúc ấy triều đình đang không có cách nào bắt Quốc tính gia, đột nhiên có một viên đại tướng của đối phương suất lãnh quân đội, đem cả thành trì quy hàng, triều đình mười phần mừng rỡ, vì thế đặc biệt phong thưởng”. Vi Tiểu Bảo nói “Té ra là thế. Y hiến kế sách gì thế?”. Lâm Hưng Châu thở dài nói “Vị Hoàng đại nhân này quả thật là làm hại bách tính đến khổ. Bình hải ngũ sách của y, điều thứ nhất là dời tất cả bách tính ở ven biển vào nội địa, cho Kim Môn, Hạ Môn và Đài Loan không được tiếp tế. Điều thứ hai là thiêu hủy tất cả thuyền bè ở ven biển, trở đi không một tấc gỗ nào được đưa ra biển. Điều thứ ba là giết Trịnh Thái sư cha của Quốc tính gia. Điều thứ tư là khai quật lăng mộ tổ tiên của Quốc tính gia, phá hủy phong thủy của y. Điều thứ năm là dời tất cả quan binh bộ thuộc cũ của Quốc tính gia vào khai khẩn đất hoang trong nội địa, để khỏi sinh hậu hoạn”.
Vi Tiểu Bảo nói “Hà, kế sách của thằng đầy tớ ấy quả thật tàn độc”.
Lâm Hưng Châu nói “Chứ không phải sao? Lúc ấy hoàng đế Thuận Trị vừa băng hà, hoàng thượng lên ngôi, vẫn còn nhỏ tuổi, Ngao Bái một mình nắm đại quyền. Thằng gian tặc Ngao Bái này thấy Bình hải ngũ sách của Hoàng Ngô, cho rằng mười phần có lý, bèn hạ lệnh từ Liêu Đông tới Trực Lệ, Giang Tô, Chiết Giang, Phúc Kiến cho tới Quảng Đông, suốt vùng duyên hải không cho ai ở gần bờ biển ba mươi dặm, tất cả thuyền bè đều phải đốt sạch, lúc ấy ngàn ngàn vạn vạn bách tính ở duyên hải lưu ly thất sở, không sống được qua ngày”.
Thi Lang lắc đầu nói “Kế sách ấy của Hoàng Ngô cũng rất quá đáng. Đến khi kim thượng đích thân coi chính sự, Vi đại nhân bắt được Ngao Bái, mới thủ tiêu lệnh cấm hải. Nhưng bách tính bảy tỉnh vùng duyên hải đã nếm đủ mùi đau khổ. Lúc ấy triều đình ra nghiêm lệnh, phàm bách tính vượt quá ranh giới, bắt được là lập tức chém đầu. Rất nhiều dân nghèo không sống được, ra bờ biển bắt cá, không biết bị giết bao nhiêu mà kể. Trịnh Thái sư cũng bị giết lúc ấy. Ngao Bái còn đặc biệt sai Thượng thư bộ Binh Tô Nạp Hải tới huyện Nam An Tuyền Châu Phúc Kiến đào mồ họ Trịnh”.
Vi Tiểu Bảo nói “Ngao Bái tự xưng là dũng sĩ, mà lối làm việc lại không ra sao. Có bản lĩnh thì cứ đánh nhau một trận với Quốc tính gia. Dời bách tính ở duyên hải vào nội địa, không phải là nói rõ sợ người ta sao? Hoàng thượng yêu thương bách tính, nếu kế sách của Hoàng Ngô trình lên hoàng thượng, thì y không bị chém đầu không xong”. Thi Lang nói “Đúng thế. Hoàng Ngô chết sớm, tính ra là may cho y”.
Lâm Hưng Châu nói “Tin Trịnh Thái sư qua đời truyền tới Đài Loan, Quốc tính gia sợ dao động quân tâm, nói đó là lời bịa đặt, không được tin theo, nhưng theo lời thân binh nói thì Quốc tính gia thường nửa đêm khóc lóc. Quốc tính gia lại nói với Trần quân sư và mấy vị đại tướng rằng mấy điều kế sách ấy của Hoàng Ngô quả nhiên rất tàn độc, may là đã đánh Đài Loan, nếu không thì hơn mười vạn đại quân không sao đứng chân được ở Kim Môn, Hạ Môn. Lúc ấy bọn ta vây đánh đã lâu, quân Hồng Mao mấy lần định phá vây đều bị đánh lùi. Lúc ấy Quốc tính gia truyền lệnh, trước tết phải hạ thành Nhiệt Lai Già”. Y quay qua hỏi Hồng Triều “Là tổng tấn công ngày hai mươi hai tháng mười một phải không?”.
Hồng Triều nói “Đúng, hôm ấy mưa to gió lớn, đại pháo các nơi trên lũy đất của chúng ta nhất tề bắn rát, bắn sụp một góc tường thành, đồn bảo phía đông phía tây hành đều bị bắn nát. Quân Hồng Mao liều mạng xông ra, nhưng bị giết mấy trăm người lại phải lui vào, Quỳ Thái thú Hồng Mao bèn kéo cờ trắng đầu hàng. Lúc ấy người Trung Quốc ở Đài Loan đều muốn trả thù, muốn giết hết bọn quỷ Hồng Mao. Quốc tính gia hiểu dụ bách tính, nói Trung Quốc chúng ta là nước lễ nghĩa, địch nhân đã đầu hàng thì không được giết, chuẩn y mười bốn điều khoản trong hàng thư của Thái thú Hồng Mao, cho y suất lãnh tàn binh bại tướng lên thuyền rời Đài Loan, trốn về Ba Đạt Duy Á. Bọn quỷ Hồng Mao chiếm cứ Đài Loan từ năm Thiên Khải thứ tư nhà Đại Minh, chiếm đóng ba mươi tám năm, đến năm Vĩnh Lịch thứ mười lăm... cũng chính là ngày hai mươi chín tháng mười một năm Thuận Trị thứ mười tám thì Đài Loan trở về bản đồ Trung Quốc”.
Lâm Hưng Châu nói “Quốc tính gia ra lệnh không cho giết quân Hồng Mao đầu hàng, nhưng bách tính Trung Quốc căm hờn không chịu nổi, nhao nhao chửi bới ném đá vào chúng. Bọn trẻ con còn đặt vè để hát. Quân Hồng Mao người đứt tay kẻ cụt chân, cúi đầu ủ rũ, không dám nói một câu. Lúc binh thuyền của họ nhổ neo, kéo cờ hàng lên, lại bắn pháo chào, nói là tạ ơn không giết của Quốc tính gia”. Vi Tiểu Bảo nói “Hay lắm! Người Trung Quốc chúng ta thật rất có oai phong. Hỏa pháo của bọn quỷ Hồng Mao lợi hại như thế, đánh được Đài Loan quả thật rất không dễ, rất không dễ!”. Hồng Triều nói “Quốc tính gia đổi thành Nhiệt Lai Già là trấn An Bình, thành Phổ La Dân Già đổi tên là phủ Thừa Thiên, vĩnh viễn làm trọng trấn của Đài Loan”.
Lộ Phó tướng nói chen vào “Thi Quân môn lấy Đài Loan, đi theo con đường cũ của Quốc tính gia năm xưa, từ cửa Lộc Nhĩ tiến vào...”. Vi Tiểu Bảo xua xua tay ngắt lời y, ngáp một cái thật lớn, nói “Người Trung Quốc đánh bọn quỷ Hồng Mao tháo chạy ra biển thì nghe mới sướng tai, chứ người mình đánh người mình, trước sau chẳng qua cũng chỉ đến thế. Thi tướng quân, chúng ta uống rượu cũng nhiều rồi, đi nghỉ thôi”. Thi Lang đứng lên nói “Vâng. Đa tạ Tước gia ban rượu, ty chức xin cáo từ”.
Vi Tiểu Bảo vào nội đường, kể chuyện cản trở lời Thi Lang, tóm lại là không cho y khoe khoang chiến công đánh Đài Loan, sáu vị phu nhân nghe thấy đều buồn cười. Chỉ có A Kha im lặng không nói gì, nghĩ thầm nếu năm xưa lấy Trịnh Khắc Sảng, thế ắt cũng bị bắt sống với y về Bắc Kinh, vợ kẻ vong quốc không khỏi bị chịu nhục lớn. Hôm trước nhìn thấy Trịnh Khắc Sảng cưỡi thuyền rời đảo Thông Ngật, đối với sự còn mất sống chết của y đã không còn quan tâm gì nữa, lúc ấy nghe y mất nước đầu hàng, lại càng không để ý, nhưng nhớ lại chuyện xưa, mình lại có thể bị phong thái dung mạo của y mê hoặc như thế, biết rõ người ấy là hạng tử đệ khố gấm không có khí cốt, không ra gì, mà mình lại như mù lòa, đối với y một mảnh thâm tình, bây giờ nhớ lại vẫn thấy vô cùng hổ thẹn.
Công chúa nói “Hoàng đế ca ca đối xử với người ta quá khoan dung, thằng đầy tớ Trịnh Khắc Sảng đầu hàng, lại phong cho y tước công nhất đẳng, hơn cả Tiểu Bảo, thật khiến người ta bất phục”.
Vi Tiểu Bảo xua tay nói “Không hề gì, không hề gì, Quốc tính gia là đại anh hùng hảo hán, hoàng thượng nể mặt Quốc tính gia mới phong cháu nội của y làm tước công nhất đẳng. Chứ nếu chỉ dựa vào bản lĩnh của Trịnh Khắc Sảng, thì chỉ phong cho y làm sâu róm nhất đẳng thôi”.
Trưa hôm sau, Vi Tiểu Bảo mời riêng Lâm Hưng Châu, Hồng Triều hai người ăn tiệc, hỏi lại tình hình Thi Lang tấn công Đài Loan.
Nguyên quân Thanh cùng quân Đài Loan huyết chiến mấy ngày ở vũng Ngưu Tâm, đảo Kê Lung, hôm đầu tiên Thi Lang bị thua, về sau viện binh của quân Thanh kéo tới, lại đánh lớn, chiến thuyền Đài Loan bị đốt cháy đại bại, tướng sĩ tử thương hơn một vạn người, chiến thuyền hoặc bị đánh chìm hoặc bị đốt cháy, tổn thất ba trăm chiếc. Lưu Quốc Hiên suất lãnh tàn quân lui về Đài Loan.
Thi Lang suất lãnh thủy sư tấn công Đài Loan, cửa Lộc Nhĩ nước cạn, chiến thuyền không vào được, đậu trên bờ biển mười hai ngày, đang lúc vô kế khả thi, đột nhiên mù lớn đầy trời, thủy triều dâng cao, chiến thuyền quân Thanh nhất tề kéo vào. Đài Loan trên dưới ai cũng hoảng sợ, đều nói “Năm xưa Quốc tính gia nhân thủy triều dâng lên ở cửa Lộc Nhĩ mà đánh lấy được Đài Loan, bây giờ thủy triều ở cửa Lộc Nhĩ lại dâng cao, địa thế hiểm trở đã bị mất, đây là ý trời, có đánh nữa cũng vô dụng”.
Trịnh Khắc Sảng được tin thủy sư của quân Thanh đã qua cửa Lộc Nhĩ, hoảng sợ run bần bật. Phùng Tích Phạm khuyên y đầu hàng, tự nhiên y ưng thuận ngay, chỉ là sợ Thi Lang muốn trả thù riêng, làm khó con cháu họ Trịnh, nên còn ngần ngừ. Lúc ấy Lưu Quốc Hiên gửi thư cho Thi Lang, nói đầu hàng thì được, nhưng phải bảo toàn cho con cháu của Quốc tính gia, nếu không thì quân dân trên toàn Đài Loan cảm niệm ơn nghĩa của Quốc tính gia, sẽ chiến đấu tới người cuối cùng. Thi Lang lập tức gửi thư trả lời, bảo đảm quyết không nhớ thù cũ, nếu không thì trời người cùng giết, tuyệt tử tuyệt tôn. Lúc ấy Trịnh Khắc Sảng, Phùng Tích Phạm, Lưu Quốc Hiên bèn suất lãnh văn võ bá quan ở Đài Loan ra hàng.
Từ khi tôn thất nhà Minh Đoan vương Chu Xung Quế tự sát tuẫn quốc, kế đó năm người cùng tử tiết chết theo, nhà Minh tới đó là chấm dứt.
Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Con cháu của vị hoàng đế nhà Minh này tự sát tuẫn quốc, năm người vợ cùng chết theo họ. Nếu Vi Tiểu Bảo mình tự sát, không biết trong bảy người vợ có mấy người chết theo? Song Nhi thì nhất định sẽ chết theo, công chúa thì nhất định thứ lỗi không chết theo được. Còn năm người kia có quá nửa sẽ gieo xúc xắc để quyết định sống chết. Phương Di lúc gieo xúc xắc nhất định sẽ giở trò gian lận, bảo người chết là mình là đồ Dê đực”.
Lâm Hưng Châu lại nói sau khi Thi Lang đem quân lên bờ cũng rất thủ tín, hoàn toàn không làm khó con cháu họ Trịnh, còn đích thân tới tế Diên Bình quận vương Trịnh Thành Công, khóc lớn một lúc. Hồng Triều nói “Trong bài văn tế của y có câu: Từ khi Đồng An hầu vào Đài Loan, đất Đài Loan mới có người ở. Được ban họ mở đất, bắt đầu trở thành cương giới, không ông thì ai? Nay Lang nhờ uy linh thiên tử, sức lực tướng sĩ, lấy được đất này, không tru diệt kẻ mất nước là vì chức phận trung thành với triều đình mà báo đáp cho cha anh. Duy Lang xuất thân bộ ngũ, cùng kẻ được ban họ có duyên cá nước, giữa đường vì chuyện hiềm khích, trở thành oán thù. Lang và kẻ được ban họ tuy thế đã thành kẻ thù, nhưng tình vẫn là chúa tôi. Kẻ sĩ cùng khốn trong bụi lau, vì nghĩa mà có chuyện không làm. Ơn riêng nghĩa chung, chỉ thế mà thôi. Mấy câu ấy được truyền tụng một thời”. Vi Tiểu Bảo nói “Y ky lý cô lô nói những gì thế?”, Hồng Triều nói “Kẻ sĩ cùng khốn trong bụi lau là chỉ Ngũ Tử Tư, năm xưa Ngũ Tử Tư diệt nước Sở, đào mộ Sờ Bình vương, đánh vào xác ba trăm roi để trả mối thù giết hại cha anh. Thi Lang nói y quyết không làm chuyện như thế”.
Vi Tiểu Bảo cười nhạt nói “Hừ, y dám à, tuy Quốc tính gia đã chết, nhưng y còn sợ gần chết. Y phá hoại cơ nghiệp Trịnh gia, chỉ sợ anh hồn của Quốc tính gia tìm y làm khó dễ, nên tới miếu thờ Quốc tính gia dập đầu nài nỉ. Người này rất gian hoạt, các ngươi đừng mắc lừa y”. Lâm Hồng hai người đồng thanh khen phải.
Vi Tiểu Bảo nói “Chuyện Ngũ Tử Tư thì ta đã được xem diễn rồi, có một vai Ngũ Tử Tư qua cửa quan, trong một đêm mà đầu bạc trắng, có phải không?”. Hồng Triều nói “Vâng, vâng, Tước gia trí nhớ rất tốt”. Vi Tiểu Bảo rất lâu không nghe người ta kể chuyện, lúc ấy bèn hỏi lại sự tích trước sau của Ngũ Tử Tư. May là Hồng Triều năm xưa từng đi thi Tú tài, tuy không thi đậu, nhưng văn chương trong bụng vẫn còn ngấn mực, lúc ấy năm mười mười lăm kể rõ lại. Vi Tiểu Bảo nghe rất say sưa, nói “Ta ở trên đảo hoang này quả thật rất buồn chán, nay mà hai vị tới kể chuyện cho ta giải sầu. Tốt nhất là các ngươi ở thêm vài ngày, không nên đi vội”.
Lâm Hưng Châu nói “Bọn ta là hàng tướng Đài Loan, tối hôm qua nói chuyện đã đắc tội với Thi tướng quân. Thi tướng quân muốn đối phó với bọn ta cũng như bóp chết hai con kiến, chỉ cần tùy tiện khoác cho tội danh mang lòng phản phúc, mưu việc bất pháp là có thể lập tức chém trước tâu sau. Cho dù chém mà không tâu cũng không có ai truy vấn. Vi đại nhân, xin người nói với Thi tướng quân giữ hai người bọn ta ở lại hầu hạ ngươi đi”. Vi Tiểu Bảo cả mừng, hỏi “Hồng đại ca, ngươi thấy thế nào?”. Hồng Triều nói “Đêm qua ty chức đã bàn kỹ với Lâm đại ca, nếu không được Vi đại nhân cứu mạng, thì hai người bọn ta ắt chết không có đất chôn”. Vi Tiểu Bảo nói “Hai vị theo ta thì nhất thiết phải nghe lời ta”. Hồng Triều hai người nhất tề khom lưng, nói “Bất kể Vi Tước gia sai bảo việc gì, bọn ty chức cũng tuân lệnh”.
Vi Tiểu Bảo rất mừng, nghĩ thầm “Có hai người trợ thủ thế này thì có cách rời khỏi cái đất ma này rồi.
Khang Hy phái Bành Tham tướng mang quân giữ đảo Thông Ngật, trước đó đã có nghiêm chỉ, quyết không được cho Vi Tiểu Bảo và người nhà rời khỏi đảo một bước. Bành Tham tướng đầu óc không sáng láng lắm, cũng chẳng có bản lĩnh gì nhiều, nhưng với thánh chỉ của hoàng thượng thì cho dù có chém mười bảy mười tám cái đầu y, y cũng không dám làm trái. Khang Hy muốn y cai quản chặt chẽ thì y cai quản chặt chẽ. Vi Tiểu Bảo mà muốn lấy mạng y thì chỉ cần nhấc tay một cái, nhưng cho dù giết sạch năm trăm lẻ một tướng sĩ cai quản mà không có thuyền bè, rốt lại cũng không rời đảo được. Lâm Hồng hai người đều là tướng giỏi trong thủy sư, trong chuyện giong thuyền ra biển ắt có tài năng.
Đêm ấy y lại mời tiệc Thi Lang, lần này chỉ có hai người Lâm Hưng Châu, Hồng Triều bồi tiếp. Nói chuyện phiếm một lúc, Vi Tiểu Bảo nói “Thi tướng quân, ngươi có ở lại đây được một hai tháng không?”. Thi Lang nói “Ty chức vốn muốn ở lại thêm vài hôm để thường được nghe đại nhân chỉ dạy. Có điều Đài Loan vừa yên, không thể đi xa quá lâu, sáng mai định cáo từ đại nhân”. Vi Tiểu Bảo nói “Ngươi nói muốn ở lại thêm vài hôm để thường được nghe ta chỉ dạy không biết là thật lòng hay để lấy lòng ta thế?”, Thi Lang nói “Tự nhiên là rất thật lòng, là lời tận đáy lòng của ty chức. Năm xưa ty chức theo hầu đại nhân, đóng ở đảo Thông Ngật, bắn phá Thần Long giáo, hàng ngày được nghe đại nhân chỉ dạy, cùng nhau uống rượu đánh bạc cười đùa, những ngày ấy mới vui vẻ làm sao!”.
Vi Tiểu Bảo cười nói “Nếu có thể được sống lại những ngày như thế, ngươi có vui không?”. Thi Lang nói “Tự nhiên là vui chứ. Sau này hoàng thượng phái đại nhân đi làm việc quân quốc trọng đại, ty chức sẽ xin lệnh theo hầu đại nhân”. Vi Tiểu Bảo gật đầu nói “Chuyện đó rất dễ, ngươi muốn theo hầu ta, nghe ta nói đùa thì không khó gì. Ngày mai chúng ta sẽ cùng đi Đài Loan”.
Thi Lang giật nảy mình, đứng phắt lên, run giọng nói “Chuyện... chuyện... chuyện này chưa có thánh chỉ của hoàng thượng, ty chức không dám phụng mệnh. Xin... xin đại nhân tha thứ”.
Vi Tiểu Bảo cười nói “Ta cũng không muốn đi Đài Loan làm gì, chỉ là nghe các ngươi nói rất nhiệt náo, Quốc tính gia khai khẩn đất đai ở Đài Nam Đài Bắc, mở ra một thế giới hoa lệ, ta muốn chính mắt nhìn thấy. Tới Đài Loan rồi, chẳng phải ngươi thường được nghe ta chỉ dạy sao? Câu ấy là chính miệng ngươi nói ra, chẳng qua ta thấy ngươi là người tốt, trước đây lại từng theo ta, chúng ta là thượng ty thuộc hạ cũ, giao tình không phải tầm thường, mới miễn cưỡng nghĩ ra cách ấy để đáp ứng lời cầu xin của ngươi thôi. Ta đi Đài Loan chơi một hai tháng lại về, thần không hay quỷ không biết, chỉ cần ngươi không nói, ta không nói thì hoàng thượng cũng không biết đâu”.
Thi Lang mặt mũi nhăn nhó, khom lưng nói “Vi đại nhân, chuyện này quả thật rất khó. Đại nhân có lệnh, ty chức vốn phải vâng lời, chỉ có điều nếu hoàng thượng trách tội, quả thật có chỗ rất bất tiện. Nếu ty chức không tâu lên là phạm tội khi quân, ty chức quả thật ngàn vạn lần không dám”.
Vi Tiểu Bảo cười nói “Mời ngồi, mời ngồi. Thi tướng quân, ngươi đã không chịu, đó cũng là chuyện nhỏ, không cần nói nữa”. Thi Lang như trút được gánh nặng, luôn miệng khen phải, lại ngồi xuống ghế. Vi Tiểu Bảo cười nói “Nói tới tội khi quân thì không giấu gì ngươi, ta cũng đã lừa dối hoàng thượng mấy lần, có điều hoàng thượng khoan hồng đại lượng, sau khi biết rồi chẳng qua cũng chỉ chửi vài câu, cũng chẳng có gì lớn”. Thi Lang nói “Vâng, vâng. Mọi người đều nói hoàng thượng đối với Vi đại nhân ơn sâu đức dày, đúng là ít thấy. Vua tôi hợp nhau như thế quả thật từ xưa chưa có. Nhưng loại tiểu tướng ngoại thần phúc phận nhỏ như ty chức thì ngàn vạn lần không dám học theo Vi đại nhân”.
Vi Tiểu Bảo mỉm cười nói “Thi tướng quân ngoài miệng nói năng giống như vô cùng nhút nhát, nhưng theo ta thấy ấy à, ngươi cũng to gan lắm. Nghe nói sau khi Thi tướng quân đánh được Đài Loan, làm một bài văn tới tế Quốc tính gia, chuyện ấy có không?”.
Thi Lang nói “Bẩm đại nhân, ba chữ Quốc tính gia ấy không được nói, bây giờ quốc tính là Ái Tân Giác La. Chúng ta nói tới Trịnh Thành Công thì cũng phải khách sáo một chút, chỉ nên nói là được nhà Tiền Minh ban cho quốc tính. Vì thế trong bài văn tế ấy của ty chức chỉ nói hai chữ Ban họ, quyết không dám phạm điều cấm kỵ”. Y đoán là không ưng thuận đưa Vi Tiểu Bảo đi Đài Loan thì nhất định thằng tiểu quỷ này sẽ tìm xương trong trứng gà, bới móc tội lỗi của mình. Ba chữ Quốc tính gia thì mọi người nói đã quen, nhưng Trịnh Thành Công được nhà Minh ban cho họ Chu, quốc tính của y là quốc tính của nhà Minh, không phải là quốc tính của nhà Thanh, nếu Vi Tiểu Bảo nắm lấy ba chữ ấy mà làm văn, nói y không quên quốc tính họ Chu, báo lên triều đình, thì chuyện này có thể lớn có thể nhỏ, biết đâu lại nuôi thành đại họa, vì thế bèn nói rõ ra trước.
Thật ra Vi Tiểu Bảo không có nửa điểm học vấn, những chi tiết về chữ nghĩa ấy nói thế nào y cũng không nghĩ tới, nhưng Thi Lang phân biện qua y lại nắm được cán, nói “Thi tướng quân từng chịu tước lộc của triều Minh, nhung nhớ không quên kẻ được ban họ của tiền triều, chuyện đó cũng không trách được. Nếu thật sự trung thành với nhà Đại Thanh ta, thì phải gọi Trịnh Thành Công là Nghịch tính, Ngụy tính, Phỉ tính, Cẩu tính mới đúng”.
Thi Lang cúi đầu im lặng, trong lòng tuy có tới mười hai phần không cho là đúng, nhưng cảm thấy không nên biện luận với y nhiều về chuyện này, vì gọi Trịnh Thành Công là “Kẻ được ban họ” quả nhiên cũng không khỏi có ý không quên nhà Tiền Minh.
Vi Tiểu Bảo nói “Bài văn tế ấy của Thi tướng quân nhất định là rất hay, đọc cho ta nghe được không?”.
Thi Lang giỏi cầm quân đánh nhau, đời nào biết làm văn tế gì, bài văn tế ấy là do một viên sư gia mạc khách trong bọn liêu thuộc viết ra. Viên sư gia này rất có tài tình, bài văn tình cảm văn chương trọn vẹn, ý tứ lời lẽ thê thiết, Thi Lang nghe không ít người ca ngợi, trong lòng đắc ý, học thuộc lòng rất nhiều câu trong đó để khoe khoang với mọi người, lúc ấy bèn nói “Ty chức nhớ qua loa vài câu, chỉ để làm trò cười cho Vi đại nhân”, rồi đọc mấy câu quan trọng trong bài văn tế ra.
Vi Tiểu Bảo nghe y đọc thuộc lòng tới câu “Duy Lang xuất thân bộ ngũ, cùng kẻ được ban họ có duyên cá nước, giữa đường vì chuyện hiềm khích, trở thành oán thù. Lang và kẻ được ban họ tuy thế đã thành kẻ thù, nhưng tình vẫn là chúa tôi. Kẻ sĩ cùng khốn trong bụi lau, vì nghĩa mà có chuyện không làm. Ơn riêng nghĩa chung, chỉ thế mà thôi”, gật đầu khen “Văn chương hay, văn chương hay. Bài văn này, đừng nói là có giết chết ta cũng không làm được, mà dù người ta làm xong bảo ta học thuộc lòng, chỉ e ta cũng phải học mười bữa nửa tháng. Thi tướng quân văn võ toàn tài, trí nhớ rất tốt, bội phục, bội phục”.
Thi Lang thoáng đỏ mặt, nghĩ thầm “Ngươi biết rõ là ta không làm được, là người khác làm, ta chỉ là đọc thuộc lòng thôi. Cái lối châm chọc này, cũng không cần phải nói chuyện nhiều với ngươi”.
Vi Tiểu Bảo nói “Mấy chữ Kẻ sĩ cùng khốn trong bụi lau, vì nghĩa mà có chuyện không làm là có ý gì? Ta học vấn kém cỏi, vẫn không hiểu được”.
Thi Lang nói “Kẻ sĩ cùng khốn trong bụi lau là nói Ngũ Tử Tư. Năm xưa y từ nước Sở chạy qua nước Ngô, tới cạnh bờ sông, có một ông chài đưa y qua sông, quay về lấy cơm cho y ăn, Ngũ Tử Tư sợ truy binh đuổi theo bắt được, núp trong bụi lau cạnh bờ sông. Ông chài quay lại, thấy trong bụi lau có người núp, bèn hát: Người trong bụi lau, người trong bụi lau, không phải kẻ sĩ cùng khốn sao? Về sau Ngũ Tử Tư suất lãnh quân Ngô, đánh phá nước Sở, đào mộ Sở Bình vương đánh ba trăm roi vào xác để trả cái thù giết cha anh y. Người được ban họ... Trịnh Thành Công từng giết cha anh vợ con của ta, người Đài Loan sợ ta sau khi chiếm được Đài Loan cũng sẽ đào mộ trả thù. Ty chức trong bài văn tế này nói loại việc như thế ta quyết không làm, Trịnh Thành Công trên trời khôn thiêng có thể yên tâm, quân dân Đài Loan cũng không cần lo lắng”.
Vi Tiểu Bảo nói “Té ra là thế. Thi tướng quân là tự ví mình với Ngũ Tử Tư”.
Thi Lang nói “Ngũ Tử Tư là đại anh hùng đại hào kiệt, ty chức làm sao dám so sánh? Chỉ có điều Ngũ Tử Tư cả nhà gặp nạn, một mình lẻ loi trốn đi, cuối cùng mang quân trở lại, trả được mối đại thù, về chi tiết ấy thì cũng không khác những tao ngộ của ty chức bao nhiêu”.
Vi Tiểu Bảo gật đầu nói “Chỉ mong tương lai kết cục của Thi tướng quân khác hẳn Ngũ Tử Tư, nếu không thì quả rất không hay”.
Thi Lang lập tức nhớ tới Ngũ Tử Tư lập công lớn với nước Ngô, về sau lại bị Ngô vương giết chết, bất giác biến hẳn sắc mặt, bàn tay cầm chén rượu không ngừng run lên.
Vi Tiểu Bảo lắc đầu nói “Nghe nói Ngũ Tử Tư sau khi được lập công lớn thì trở nên kiêu ngạo, đối với Ngô vương rất bất kính. Thi tướng quân, ngươi tự ví với Ngũ Tử Tư quả thật rất không ổn đấy. Bài văn tế ấy của ngươi đương nhiên đã sớm truyền tới Bắc Kinh, hoàng thượng ắt cũng nhìn thấy rồi. Nếu không có ai phân biện cho ngươi trước mặt hoàng thượng, thì theo ta thấy, ha ha, ờ, đáng tiếc, đáng tiếc, một công lao to lớn như thế chỉ e đành gởi theo nước chảy...”. Thi Lang vội nói “Vi đại nhân minh giám, ty chức không nói mình là Ngũ Tử Tư, cũng không dám nói muốn làm Ngũ Tử Tư, chuyện này... hoàn toàn... hoàn toàn khác”.
Vi Tiểu Bảo nói “Bài văn tế ấy của ngươi lưu truyền khắp nơi, Thi tướng quân tự ví với Ngũ Tử Tư, thiên hạ đều biết cả rồi”.
Thi Lang đứng lên, run giọng nói “Hoàng thượng thánh minh, ơn đức như núi, bề tôi có công đều được bảo toàn. Ty chức hầu hạ một vị chúa tốt, so với Ngũ Tử Tư thì may mắn hơn nhiều”.
Vi Tiểu Bảo nói “Câu ấy không sai. Ngũ Tử Tư rốt lại suy nghĩ những gì thì ta không hiểu lắm. Có điều ta đã xem hát, lúc Ngô vương giết y, Ngũ Tử Tư nói hãy móc mắt ta treo ở cửa thành, để ta nhìn thấy quân Việt đánh vào kinh thành, nhìn thấy nước Ngô diệt vong, về sau dường như nước Ngô quả nhiên bị diệt. Thi tướng quân văn võ toàn tài, nhất định biết chuyện ấy, đúng không?”.
Thi Lang bất giác thấy một luồng hơi lạnh chạy suốt sống lưng, y lúc đầu chỉ nghĩ tới việc Ngũ Tử Tư lập đại công mà về sau bị Ngô vương giết chết là chuyện không hay, dĩ nhiên cảm thấy bất an, nhưng không nghĩ tới việc Ngũ Tử Tư lúc lâm tử còn nói mấy câu ấy. Trong bài văn tế của mình nói “Kẻ sĩ cùng khốn trong bụi lau, vì nghĩa mà có chuyện không làm”, tuy nói không làm việc mà Ngũ Tử Tư làm, nhưng ý ví mình với Ngũ Tử Tư thì rõ ràng hiển hiện trước mắt mọi người, trong bài văn tế nói tới Ngũ Tử Tư là chỉ nói tới việc “Đánh xác trả thù”, nào ngờ Vi Tiểu Bảo lại kéo cả chuyện “Rủa cho mất nước” vào, tội danh phạm điều cấm kỵ to lớn như thế lại để người ta trút lên đầu mình, đúng là vô cùng hỏng bét. Vi Tiểu Bảo nói năng như thế, chỉ cần đồn tới tai hoàng thượng thì cho dù hoàng thượng thánh minh, hoàn toàn không trách tội, trong lòng nhất định cũng không thích, từ nay mình cũng đừng mơ tưởng được thăng quan tiến chức nữa. Chỉ cần kẻ thân tín với hoàng đế như Vi Tiểu Bảo lửa đổ thêm dầu, bới móc thêu dệt, nói mình có lòng oán vọng, châm chọc mỉa mai triều đình giết hại công thần, thì quả thật rất khó giữ được cái đầu trên cổ.
Nhất thời ý nghĩ dồn dập kéo tới, tự hận mình ngàn lần không nên vạn lần không nên, không nên tới tế Trịnh Thành Công, không nên bảo sư gia làm bài văn tế ấy, đến nỗi bị thằng tiểu quỷ ranh mãnh này nắm được chỗ hở, Y đứng ngẩn ra đó, không biết nói câu gì để phân biện là hay.
Vi Tiểu Bảo nói “Thi tướng quân, sau khi hoàng thượng đích thân coi việc chính sự, việc lớn đầu tiên làm là việc gì?”. Thi Lang nói “Là giết chết gian thần Ngao Bái”. Vi Tiểu Bảo nói “Đúng thế. Ngao Bái cố nhiên là gian thần, nhưng y là cố mệnh đại thần, năm xưa xông thành hãm trận, có công rất lớn với nhà Đại Thanh ta. Hoàng thượng từng nói: Ta giết Ngao Bái, chỉ sợ có người nói ta không thể tuất công thần, nói chim gì đó cung gì đó. Câu ấy là thế nào nhỉ, ta lại không nhớ được”. Thi Lang nói “Là Điểu tận cung tàng”. Vi Tiểu Bảo nói “Đúng rồi, cả ngươi cũng nói thế”. Thi Lang vội nói “Không, không ta không phải là nói hoàng thượng, chỉ nói một câu thành ngữ thôi”, Vi Tiểu Bảo nói “Ngươi nói một câu thành ngữ hình dung việc hoàng thượng giết Ngao Bái”. Thi Lang vội nói “Đại nhân hỏi ta là câu thành ngữ gì, ty chức chẳng qua là trả lời đại nhân, chứ ngàn vạn lần không dám... không dám chê bai phỉ báng hoàng thượng”.
Vi Tiểu Bảo hai mắt nhìn chằm chặp vào y, nhìn tới mức khiến Thi Lang tâm hoảng ý loạn.
Từ xưa đến nay người làm bề tôi nếu tự cho rằng công to mà được thưởng nhỏ, thì hoàng đế nhất định sẽ rất căm hận, bề tôi cũng không cần nói ra lời oán vọng, chỉ cần bốn chữ “Có lòng oán vọng” là đã phạm tội mất đầu. Thi Lang trong lúc hoảng hốt, bị Vi Tiểu Bảo dẫn dụ nói ra câu “Điểu tận cung tàng”, vừa nói ra khỏi miệng, lập tức biết là không hay, nhưng đã không kịp rút lại, huống chi ngoài Vi Tiểu Bảo còn có hai người Lâm Hưng Châu và Hồng Triều bên cạnh, nếu muốn chối cũng không được.
Vi Tiểu Bảo nói “Thi tướng quân nói Điểu tận cung tàng, câu ấy có chê bai phỉ báng hoàng thượng không thì ta không biết. Trong triều có nhiều Đại học sĩ, Thượng thư, Hàn lâm có học vấn, chúng ta không ngại gì mời họ bình phẩm. Có điều ta theo hoàng thượng đã lâu, dường như hoàng thượng thích nghe người ta nói y Điểu Sinh Ngư Thang chứ không thích nghe người ta nói y Điểu tận cung tàng. Cùng là điểu cả, nhưng chỉ sợ là rất khác nhau, một con là chim tốt, một con là chim xấu, đúng không?”.
Thi Lang vừa sợ vừa giận, nghĩ thầm một là không làm, hai là làm thì không thôi, ngươi vu hãm ta như thế thì cứ giết sạch ba người các ngươi, cũng khỏi lưu lại hậu hoạn, vừa nghĩ tới đó, bất giác trên mắt lộ ra hung quang.
Vi Tiểu Bảo thấy y đột nhiên vẻ mặt hung dữ, trong lòng không kìm được hoảng sợ, cười gượng nói “Thi tướng quân một lời nói ra, ngựa tứ khó đuổi. Trước mắt ngươi có hai cách. Thứ nhất là lập tức giết chết ta và Lâm Hồng hai người, lại giết hết các vị phu nhân và con ta, sau đó phát binh ở Đài Loan tự lập làm vương. Chỉ là quân ngươi mang theo đều là quân Thanh, chưa chắc đã chịu theo ngươi làm phản, quân dân Đài Loan cũng chưa chắc phục ngươi”.
Thi Lang trong lòng chính đang tính toán chuyện ấy, nghe y một câu nói toạc ra, vội vàng làm ra vẻ hòa hoãn, nói “Ty chức hoàn toàn không có ý đó, xin đại nhân đừng nghi ngờ, đổ cho ty chức tội danh nặng nề. Nhưng không biết cách thứ hai mà đại nhân nói là gì, xin đại nhân ra ơn chỉ giáo”.
Vi Tiểu Bảo nghe y nói nhũn, lập tức hơi yên tâm, ngồi bắt chéo chân rung đùi mấy cái, nói “Cách thứ hai thì phải được huynh đệ và hai vị Lâm Hồng giúp đỡ mới được. Mới rồi lúc Thi tướng quân nói về hoàng thượng quả thật có nói chữ Điểu, cung kính nói hoàng thượng là Điểu Sinh Ngư Thang thì quá tốt rồi, về sau ta gặp mặt hoàng thượng nhất định nói Thi tướng quân đặt chữ trung lên đầu, khăn khắn không quên hoàng ân hạo đãng, trong lúc nói chuyện phiếm thường nói Ngũ Tử Tư vong ơn phụ nghĩa, Ngô vương phát binh giúp y trả mối thù cho cha anh, về sau bất kể sai y làm việc gì y cũng phải xông vào nước lửa mà làm, tại sao lại có thể mở lời oán vọng, bất mãn trong lòng? Năm xưa nếu Thi tướng quân là Ngũ Tử Tư thì không những giữ được giang sơn của Ngô vương bền vững muôn muôn năm, đừng nói có thể giữ được loại mỹ nhân như Tây Thi, mà cả Đông Thi, Nam Thi, Bắc Thi, Trung Thi cũng có thể cướp tất về dâng cho Ngô vương. Ngũ Tử Tư khăn khắn không quên chính mình, còn Thi tướng quân khăn khắn không quên là thiên tử thánh minh nhà Đại Thanh ta. Có lòng tốt sẽ gặp điều tốt, thánh thượng luận công ban thưởng, Thi tướng quân tự nhiên sẽ được công hầu vạn đại”.
Câu ấy khiến Thi Lang trong lòng mừng rơn, vội vái dài một vái, nói “Nếu đại nhân nói tốt cho như thế trước mặt hoàng thượng, thì ty chức vĩnh viễn không dám quên ơn đức của đại nhân”.
Vi Tiểu Bảo đứng lên đáp lễ, mỉm cười nói “Nói câu ấy ra là Làm ơn không tốn tiền, chỉ cần lúc nào ta tâm tình khoan khoái, tự nhiên sẽ tâu với hoàng thượng thôi”.
Thi Lang nghĩ thầm “Nếu không cho ngươi đi Đài Loan một chuyến, thì thằng tiểu tử ngươi tâm tình làm sao khoan khoái được?”. Bèn ngồi xuống ghế nói “Đài Loan vừa bình, lòng người chưa định, ty chức định tâu lên hoàng thượng, sai một đại viên ngôi cao vọng trọng tới tuyên dụ đức âm của thánh thượng, vỗ về bách tính. Vị đại viên ấy tự nhiên chỉ có Vi đại nhân là thích hợp nhất. Ty chức sẽ lập tức dâng biểu tâu lên, xin hoàng thượng giáng chỉ ủy phái đại nhân tới Đài Loan tuyên chỉ vỗ về”.
Vi Tiểu Bảo lắc đầu nói “Ngươi dâng biểu vào kinh, rồi chờ đến khi hoàng thượng có chỉ ban xuống, đi đi về về, ít nhất cũng phải mất mấy tháng, chỉ e những lới đồn đại này nọ lọt vào tai hoàng thượng không phải một ngàn thì cũng đã tám chín trăm câu. Nhưng việc thế này thì không được chậm trễ ba khắc một giờ. Tốt nhất là Thi tướng quân lập tức mời một đại viên thân tín của hoàng thượng cùng đi Đài Loan tra khám, mới có thể chứng minh ngươi tuyệt đối không có ý tự lập làm vương ở Đài Loan, ở ngoài đồn rằng ngay cả danh hiệu ngươi cũng đã quyết định rồi, gọi là Đại Minh Đài Loan Tịnh Hải vương gì đó, phải không?”.
Thi Lang nghe tới bảy chữ Đại Minh Đài Loan Tịnh Hải vương, bất giác hoảng sợ giật nảy mình, nghĩ thầm ngươi ở trên đảo hoang mà nghe tin đồn ở đâu được, tự nhiên là ngươi thuận miệng nói bừa ra, nhưng câu này mà truyền tới Bắc Kinh thì nhất định triều đình thà tin là có, đừng ngờ là không, mình sẽ chết không có đất chôn, vội nói “Đó là lời đồn, xin đại nhân ngàn vạn lần đừng tin”.
Vi Tiểu Bảo hờ hững nói “Đúng đấy. Ta và ngươi quen nhau đã lâu, tự nhiên là không tin. Có điều Thi tướng quân bình định Đài Loan, giết chết nhiều người, nhất định đã kết oán không ít. Kẻ thù của ngươi muốn hại ngươi, ta thấy không sao đề phòng, khó mà phân biện. Có câu rất hay là Nếu không vây cánh chớ làm quan. Không biết trong các đại quan trong triều có ai chịu đem hết thân gia tính mạng, ra sức che chở cho Thi tướng quân không?”.
Thi Lang tim càng đập thình thịch, quả thật trong triều mình không được người nào có thế lực giúp đỡ, nếu không năm xưa cũng không đến nỗi phải ngồi chơi xơi nước, khắp nơi từ tạ không còn cửa nào chạy chọt ở Bắc Kinh, người quả thật có thể nói giúp cho mình cũng chỉ có vị Vi đại nhân trước mặt, lúc ấy cắn cắn môi, nói “Đại nhân chỉ giáo, ty chức vô cùng cảm kích. Sự tình đã gấp rút, ty chức lớn mật mời đại nhân sáng mai khởi hành, tới Đài Loan tra xét rõ chân tướng”.
Vi Tiểu Bảo cả mừng, nhưng nghĩ là ngươi mời ta, không ngại gì làm khó, liền nói “Bằng vào giao tình giữa hai chúng ta thì để phân biện nỗi oan cho Thi tướng quân, có vất vả một phen cũng không đáng gì. Chỉ là ta ở trên đảo đã lâu, ra biển chỉ e bị say sóng. Đồng thời vợ con ta ngày nào cũng bên cạnh, cũng không nỡ chia tay với họ”.
Thi Lang trong bụng thầm hoảng sợ “Không biết ngươi ra biển đã bao nhiêu lần, mà trước nay cũng chưa từng thấy ngươi say sóng con mẹ nó lần nào!”. Bèn cười lấy lòng nói “Các vị phu nhân, công tử và tiểu thư của đại nhân tự nhiên cũng đi cùng. Ty chức sẽ chọn chiếc thuyền lớn nhất mời đại nhân ngồi, mấy hôm nay trên biển cũng không có sóng gió gì, xin đại nhân yên tâm”, Vi Tiểu Bảo cau mày nói “Nếu đã thế thì huynh đệ chỉ còn cách miễn cưỡng làm chuyện khó, đi một phen vì Thi tướng quân vậy”. Thi Lang luôn miệng cảm tạ.
Hôm sau Vi Tiểu Bảo mang bảy vị phu nhân, hai con trai là Hổ Đầu, Đồng Trùy và con gái là Song Song lên kỳ hạm của Thi Lang. Bành Tham tướng định cản trở, Thi Lang lập tức ra lệnh trói y vào một gốc cây. Đoàn thuyền nhổ neo lên đường.
Vi Tiểu Bảo nhìn nhìn đảo Thông Ngật đã cư trú mấy năm, cười nói “Nhà cái đã rời đảo rồi, chỗ đó không thể gọi là đảo Thông Ngật nữa, chúng ta phải đổi tên khác mới được”, Thi Lang nói “Đúng thế. Xin đại nhân xem thử đổi tên gì thì hay?”. Vi Tiểu Bảo ngẫm nghĩ rồi nói “Hoàng thượng phái người tới truyền chỉ, nói Chu Văn Vương có Khương Thái công câu cá, Quang Vũ đế có Nghiêm Tử Lăng câu cá, phàm là thiên tử thánh minh thì đều có trung thần câu cá. Hoàng thượng phái ta ở đây câu cá, chúng ta cứ gọi là đảo Điếu Ngư thôi”, Thi Lang vỗ tay khen hay, nói “Cái tên đại nhân đặt thật không gì tốt hơn, một là ca ngợi hoàng thượng giống Chu Văn vương, Hán Quang Vũ, hai là tỏ rõ đại nhân vừa như Khương Thái công văn võ toàn tài, vừa như Nghiêm Tử Lăng thanh cao phong nhã. Đúng, đúng, từ nay trở đi chúng ta gọi đây là đảo Điếu Ngư thôi”.
Vi Tiểu Bảo cười nói “Chỉ có điều tước Thông Ngật hầu của ta phải đổi là Điếu Ngư hầu, về sau thăng quan tiến tước, gọi là Điếu Ngư công gì đó thì nói ra nghe không hay lắm”, Thi Lang cười nói “Ngư ông được lợi, thu hoạch rất lớn, nói ra nghe tốt lắm chứ”, Vi Tiểu Bảo gật đầu nói “Hoàng thượng phong ta làm Thông Ngật bá, Thông Ngật hầu, ta thấy cũng dễ nghe, nhưng mấy vị phu nhân của ta lại không thích lắm. Về sau xin hoàng thượng đổi thành Điếu Ngư hầu, biết đâu mọi người sẽ rất vui vẻ”.
Thi Lang trong bụng thấy buồn cười, nghĩ thầm cái gì mà Thông Ngật bá, Thông Ngật hầu, đều là hoàng thượng đùa vui với ngươi, chỉ coi ngươi là một gã bề tôi làm trò hề, hoàn toàn không có ý tôn trọng, cho dù đổi làm Điếu Ngư hầu thì cũng có gì dễ nghe chứ, nhưng ngoài miệng lại nói “Từ xưa đã nói ngư tiều canh độc, ngư ông là đứng đầu, người đọc sách là ở cuối, các danh hiệu Điếu Ngư công, Điếu Ngư vương so ra còn tôn quý hơn Trạng nguyên, Hàn lâm nhiều”.
Đảo Điếu Ngư này có phải là đảo Điếu Ngư Đài về sau không thì đáng tiếc là sử sách không ghi chép nên không biết dựa vào đâu mà khảo cứu. Nếu có thể tìm được di tích của Vi Tiểu Bảo trên đảo, thì đúng là đầu niên hiệu Khang Hy, đảo này từng có người Trung Quốc cư ngụ lâu dài, mà còn từng phái năm trăm quân đóng giữ.
Sau một hải trình, Vi Tiểu Bảo ngồi trên kỳ hạm của Thi Lang đã tới Đài Loan, lên bờ ở phủ An Bình, dọc đường Lâm Hưng Châu và Hồng Triều kể rõ năm xưa Trịnh Thành Công tiến quân thế nào, đại phá quân Hồng Mao thế nào, Vi Tiểu Bảo nghe thấy rất thú vị. Thi Lang đã đưa y tới Đài Loan, lời lẽ của y cũng không còn ý châm chọc nữa.
Thi Lang mở đại tiệc trong phủ tướng quân, tiếp đón long trọng. Đang uống rượu, chợt có tin báo có chỉ dụ trong kinh đưa tới.
Thi Lang vội ra tiếp chỉ, lúc trở vào vẻ mặt khác lạ, nói “Vi đại nhân, thượng dụ nói muốn bỏ Đài Loan, thế thì hỏng bét”. Vi Tiểu Bảo ngạc nhiên nói “Vì sao thế?”. Thi Lang nói “Thượng dụ ra lệnh cho ty chức sắp xếp kế hoạch bỏ Đài Loan, dời tất cả quân dân trên toàn Đài Loan vào nội địa, không cho để lại một nhà một người. Ty chức thỉnh vấn sứ thần truyền chỉ, té ra đại thần trong triều kiến nghị, nói Đài Loan lẻ loi giữa biển, dễ trở thành sào huyệt giặc cướp, triều đình không dễ mà khống chế được, nếu phái quân đóng giữ lại tốn thêm binh lương, vì thế quyết ý bỏ luôn”.
Vi Tiểu Bảo trầm ngâm hồi lâu, hỏi “Thi tướng quân có biết dụng ý thật sự của các vị đại quan trong triều là thế nào không?”, Thi Lang cả kinh, run lên nói “Chẳng lẽ... chẳng lẽ câu nói của Ngũ Tử Tư gì đó đã đồn tới Bắc Kinh rồi sao?”, Vi Tiểu Bảo nội “Có câu Chuyện tốt không ra khỏi cửa, chuyện xấu đồn đi ngàn dặm. Triều đình lo Thi tướng quân quả thật muốn làm Đại Minh Đài Loan Tịnh Hải vương gì đó, chuyện ấy là có”.
Thi Lang nói “Vậy thì... Vậy thì làm thế nào? Bách tính ở Đài Loan có mấy mươi vạn người an cư lạc nghiệp ở đây đã vài mươi năm, một phen kéo vào hết nội địa, bảo họ làm sao sống được? Nếu bức ép di cư, ắt xảy ra biến cố, huống chi quan binh Đại Thanh vừa bỏ đi, quân Hồng Mao sẽ lại tới chiếm cứ, cơ nghiệp người Trung Quốc chúng ta gian lao vất vả khai sáng ra, lại hai tay bưng lên đưa bọn quỷ Hồng Mao, như thế thì làm sao bảo người ta cam tâm cho được?”.
Vi Tiểu Bảo trầm ngâm một lúc, nói “Chuyện này ta thấy cũng không phải hoàn toàn không cứu vãn lại được. Hoàng thượng rất thể tất bách tính, tướng quân chỉ cần vì bách tính thỉnh mệnh, biết đâu hoàng thượng sẽ ưng thuận”. Thi Lang hơi yên tâm, nói “Có điều nếu trong triều đình lại có tiếng đồn đại gì đó, mà ty chức lại tâu xin với hoàng thượng như thế, thì tựa hồ không muốn rời khỏi Đài Loan, tỏ rõ ra... tỏ rõ ra có chỗ chưa hết lòng trung thành”, Vi Tiểu Bảo nói “Như vậy ngươi chỉ có cách lập tức lên Bắc Kinh, tâu hết mọi chuyện với hoàng thượng. Ngươi đã tới Bắc Kinh thì tất cả những lời đồn đại muốn tự lập làm vương ở Đài Loan gì đó tự nhiên sẽ không có ai tin nữa”.
Thi Lang vỗ đùi nói “Đúng, đúng! Đại nhân chỉ giáo rất đúng, ngày mai ty chức sẽ lên đường”. Đột nhiên linh cơ nhất động, nói “Văn võ quan viên ở Đài Loan xin đại nhân tạm thời thống lãnh. Hoàng thượng rất tín nhiệm đại nhân, chỉ cần đại nhân ngồi trấn Đài Loan thì đại thần trong triều không ai dám thừa hơi nói nửa câu”.
Vi Tiểu Bảo cả mừng, nghĩ thầm làm quan ở Đài Loan cũng rất thú vị, cười nói “Ngươi không có thánh chỉ, lại giao hết binh mã đại quyền cho ta, hoàng thượng mà trách phạt thì làm thế nào?”.
Thi Lang vừa nghe, lại cảm thấy ngần ngừ, nghĩ thầm “Y là đệ tử của Trần Cận Nam, đồng đảng của bọn phản nghịch Thiên Địa hội. Hoàng thượng tuy rất sủng ái y, nhưng mấy năm nay an trí y trên đảo Thông Ngật, không cho y cầm quyền làm việc. Y mà nắm được đại quyền binh mã vào tay, nếu lại liên kết với Thiên Địa hội tạo phản tác loạn, thì mình... mình cũng phải chịu tội chết”, chợt xoay chuyển ý nghĩ, đã nghĩ ra cách “Mình cứ mang tất cả thủy sư đi, y sẽ không dám động đậy. Nếu y to gan làm bậy, lớn mật làm phản, thủy sư quay lại, sẽ lập tức tiêu diệt y”. Lập tức cười nói “Bỉnh mã đại quyền nếu giao cho người khác biết đâu hoàng thượng sẽ trách phạt, chứ giao cho đại nhân thì không hề gì”.
Lúc ấy uống rượu qua loa rồi tan tiệc. Thi Lang suốt đêm ra lệnh triệu tập tất cả quan viên văn võ ở Đài Loan tới tham kiến Vi Tiểu Bảo, do y toàn quyền chỉ huy, tiện nghi hành sự, lại mời sư gia viết giúp Vi Tiểu Bảo một đạo tấu chương, nói là lo lắng việc nước, đặc biệt tới đảo Đài Loan tạm thời trấn thủ để triều đình không có mối lo về phía đông, xin tha cho tội chuyên quyền, lại nói bách tính ở Đài Loan an cư đã lâu, theo như thần ở Đài Loan chính mắt nhìn thấy thì dường như không triệt thoái là nên.
Mọi sự đâu vào đấy xong đã đến sáng, Thi Lang lập tức lên thuyền. Vi Tiểu Bảo hỏi “Có một việc lớn, ngươi đã chuẩn bị xong chưa?”. Thi Lang nói “Không biết chuyện lớn gì?”, Vi Tiểu Bảo cười nói “Hoa sai hoa sai!”, Thi Lang không hiểu, hỏi lại “Hoa sai hoa sai à?”.
Vi Tiểu Bảo nói “Đúng thế. Lần này ngươi bình định Đài Loan công lao không nhỏ, đối với các vị đại thần trong triều, định tặng biếu bao nhiêu lễ vật?”. Thi Lang ngẩn ra, nói “Đây là nhờ oai đức của thiên tử, sức lực của tướng sĩ mới bình định được Đài Loan, chứ các đại thần trong triều chẳng mất chút sức lực nào”. Vi Tiểu Bảo lắc đầu nói “Lão Thi này, ngươi vừa đắc ý thì thói cũ lại phát tác rồi. Ngươi bình định được Đài Loan, mọi người đều nói ngươi một mình nuốt hết bao nhiêu núi vàng núi bạc, vừa phát tài lớn. Những người làm quan trong triều, ai không nóng mắt?”, Thi Lang vội nói “Đại nhân minh giám, nếu Thi Lang mà có lấy riêng một lượng bạc của Đài Loan thì lần này cứ cho ta về Bắc Kinh sẽ bị hoàng thượng băm thành muôn mảnh, lăng trì xử tử”. Vi Tiểu Bảo nói “Ngươi muốn làm quan liêm nhưng không thể bắt mọi người phải làm quan liêm như ngươi. Ngươi càng thanh liêm người ta càng dễ nói xấu ngươi, nói ngươi ở Đài Loan mua chuộc lòng người, mưu đồ bất pháp. Nói thế thì lần này ngươi tới Bắc Kinh là đi hai tay không, không mang lễ vật gì theo à?”, Thi Lang nói “Thổ sản của Đài Loan có đồ gỗ chạm, giỏ tre, chiếu cói, rương da, cũng có mang theo một ít”.
Vi Tiểu Bảo hô hô cười rộ, cười tới mức khiến Thi Lang đỏ mặt tía tai, kế đó sực hiểu, rốt lại quyết tâm sửa lỗi, lập tức hướng về Vi Tiểu Bảo vái dài, nói “Đa tạ đại nhân chỉ giáo. Lần này suýt nữa ty chức lại gây ra đại họa”.
Vi Tiểu Bảo triệu tập văn võ bá quan, nói “Thi tướng quân lần này lên kinh là để thỉnh mệnh cho bách tính, nếu không thành công thì mọi người đều phải nhà tan cửa nát. Món thỉnh mệnh phí này, chẳng lẽ lại bắt một mình Thi tướng quân gánh vác sao? Các vị lão huynh, mọi người mau mau đi trù biện trù biện, thu xếp thu xếp!”
Thi Lang làm quan thanh liêm, sau khi tới Đài Loan chưa từng thu tiền bạc gì của dân gian. Lúc ấy Vi Tiểu Bảo thay quyền, mệnh lệnh đầu tiên là trưng thu “thỉnh mệnh phí.” Bách tính Đài Loan nghe tin phải dời vào nội địa, lòng người nơm nớp, được tin Thi Lang theo kế của Vi Tước gia, lên kinh thỉnh mệnh cho bách tính, xin không phải dời vào nội địa, nên món “thỉnh mệnh phí” này ai cũng cam tâm tình nguyện bỏ ra. May là dân gian Đài Loan giàu có, trong vòng nửa ngày đã thu xếp được hơn ba mươi vạn lượng bạc. Vi Tiểu Bảo sai quan khố trích ra hơn sáu mươi vạn lượng nữa, góp thành một trăm vạn lượng, lại chỉ dẫn cho y người nào phải tặng nhiều, người nào tặng ít cũng không sao. Thi Lang vô cùng cảm kích, đến canh một đêm ấy mới khai thuyền.
Hôm sau Vi Tiểu Bảo ra sảnh nói với các quan viên “Đêm qua Thi tướng quân lên đường về kinh, món thỉnh mệnh phí ấy tính tới tính lui, cũng chỉ có một trăm vạn lượng. Huynh đệ nghĩ cho bách tính Đài Loan, chỉ đành bỏ tiền túi ra, lại lấy hết trang sức châu báu của bảy vị phu nhân, tất cả góp được một trăm vạn lượng nữa, đưa cho Thi tướng quân mang đi để chi dùng, ờ, làm quan ở Đài Loan quả thật không dễ, huynh đệ chẳng qua chỉ mới là tạm giữ quyền mà ngay hôm đầu tiên đã lỗ mất một trăm vạn lượng. Phen này thì ta khuynh gia bại sản, toàn quân tan vỡ rồi”.
Tri phủ Đài Loan khom lưng nói “Đại nhân thương yêu bách tính, là bậc cha mẹ của dân, đúng là Vạn gia sinh Phật. Ngoài sáu mươi vạn lượng trong công khố, một trăm vạn lượng ấy của Vi đại nhân tự nhiên cũng phải do bách tính toàn Đài Loan trả lại”.
Vi Tiểu Bảo gật đầu nói “Mỗi người các ngươi cũng đều góp tiền vào đó, người nào cũng trở thành hai tay áo toàn gió mát, chuyện đó ta cũng không phải không biết. Các ngươi người làm quan lớn thì góp hàng vạn lượng, người làm quan nhỏ thì góp vài ngàn lượng, vài trăm lượng khác nhau, mọi người đồng tâm hiệp lực, làm tới làm lui, đều là vì bách tính thôi. Khoản tiền ấy tự nhiên cũng phải đòi địa phương trả lại. Chúng ta là quan phụ mẫu, cũng không thể đòi bách tính trả lãi, mọi người chịu thiệt một chút, lấy lại tiền vốn là kể như xong, cái đó gọi là Thương dân như con đấy”.
Các quan cả mừng, nhất tề cảm tạ, đều cảm thấy vị Vi đại nhân này thể thiếp thuộc hạ, có tiền thì mọi người cùng phát tài, quả nhiên là một vị thượng ty tốt.
Vi Tiểu Bảo hôm đầu tiên làm quan đã bỏ túi một trăm vạn lượng bạc, sau đó tiền bạc vào như nước, hoa dạng nhiều trò, không cần nói rõ.
Qua vài hôm, Vi Tiểu Bảo sai chuẩn bị tế khí, tới đền thờ Trịnh Thành Công tế lễ, muốn xem vị đại anh hùng Quốc tính gia lừng lẫy thiên hạ này rốt lại ra sao.
Vào tới trong đền, lúc ngẩng đầu nhìn, chỉ thấy tượng Trịnh Thành Công ngồi trên ghế, mặt tròn tròn dài dài, trên môi, dưới cằm đều có râu ngắn, hai vành tai rất lớn nhưng mắt lại nhỏ, lông mày cong cong, dáng vẻ rất hiền từ, hoàn toàn không có khí thế anh hùng oai mãnh. Vi Tiểu Bảo rất thất vọng, hỏi quan lại đi theo “Tướng mạo của Quốc tính gia có đúng thế này hay không?”. Lâm Hưng Châu nói “Pho tượng này rất giống Quốc tính gia. Quốc tính gia xuất thân là người đọc sách, tuy là đại anh hùng đại hào kiệt nhưng tướng mạo rất văn nhã”. Vi Tiểu Bảo nói “Té ra là thế”. Thấy mỗi bên tượng Trịnh Thành Công đều có một pho tượng nhỏ, bên trái là nữ bên phải là nam, liền hỏi “Hai người này là ai?”. Lâm Hưng Châu nói “Người nữ là Đổng thái phi, người nam là Tự vương gia”. Vi Tiểu Bảo nói “Cái gì mà Tự vương gia?”. Lâm Hưng Châu nói “Chính là công tử của Quốc tính gia, nối ngôi làm vương gia”. Vi Tiểu Bảo gật đầu nói “À, là Trịnh Kinh, cũng hơi giống thằng tiểu tử Trịnh Khắc Sảng. Tượng Trần quân sư sư phụ ta đâu?”. Lâm Hưng Châu nói “Trần quân sư không có tượng”. Vi Tiểu Bảo nói “Đổng thái phi này rất xấu xa, mau kéo tượng thị ra, sai người mau tạc tượng Trần quân sư đặt vào đó để bầu bạn với Quốc tính gia”.
Lâm Hưng Châu cả mừng, đích thân bò vào khám thần, kéo tượng Đổng thái phi xuống. Vi Tiểu Bảo quỳ xuống trước tượng Trịnh Thành Công, dập đầu mấy cái, nói “Quốc tính gia, người là anh hùng hào kiệt, ta dập đầu với người, nghĩ chắc người cũng nhận. Con mụ kia làm hỏng việc lớn của người, mà hàng ngày bầu bạn với người, nhất định người sẽ tức giận, ta giúp người đuổi đi, để Trần quân sư sư phụ ta tới bầu bạn với người”. Y nghĩ tới sư phụ chết thảm, bất giác nước mắt ròng ròng.
Bách tính toàn Đài Loan căm hận Đổng thái phi thấu xương, mà Trần Vĩnh Hoa lập đồn điền dựng học đường, khơi nguồn lợi trừ mối tệ, có ơn đức với dân, bách tính gọi là Gia Cát Lượng của Đài Loan. Lúc Trịnh Khắc Sảng nắm quyền, không ai dám chê Đổng thái phi một câu, không dám khen Trần Vĩnh Hoa một câu. Lúc ấy Vi Tiểu Bảo ra lệnh bỏ tượng Đổng thái phi tạc tượng Trần Vĩnh Hoa, ai cũng hả dạ, lại nghe nói y dập đầu ứa lệ trước tượng Quốc tính gia, bách tính lại càng cảm kích. Tuy vị Vi đại nhân này làm tiền khá bạo tay, nhưng một vì y là đệ tử của Trần quân sư, quân dân Đài Loan không khỏi mến lây, hai là vì Thi Lang đem quân Thanh đánh chiếm Đài Loan, tiêu diệt một mảnh giang sơn còn lại ngoài biển của nhà Đại Minh, nên tuy “Thi liêm Vi tham”, nhưng bách tính lại cảm thấy vị Vi đại nhân trẻ tuổi này hòa nhã dễ gần, thà cứ để y trấn thủ Đài Loan, còn Thi Lang thì tốt nhất là vĩnh viễn đừng trở lại.
Nhưng việc trái với lòng, qua hơn một tháng, Thi Lang lại mang thủy sư trở lại Đài Loan.
Vi Tiểu Bảo ra bờ biển đón, chỉ thấy Thi Lang bồi tiếp một vị đại quan mặc quần áo nhất phẩm từ khoang thuyền bước ra. Viên đại quan ấy còn đang trên tấm ván lên bờ đã cao giọng gọi “Vi huynh đệ, ngươi khỏe không? Ca ca nhớ ngươi chết được!”, té ra là Sách Ngạch Đồ. Vi Tiểu Bảo cả mừng, vội bước lên đón. Hai người nắm tay nhau trên tấm ván, hô hô cười rộ.
Sách Ngạch Đồ cười nói “Huynh đệ, có tin mừng lớn, có tin mừng lớn. Hoàng thượng hạ chỉ gọi ngươi về Bắc Kinh”.
Vi Tiểu Bảo trong lòng vừa mừng vừa lo, nghĩ thầm “Nếu mình muốn về Bắc Kinh, thì đã về rồi. Tiểu hoàng đế rất cố chấp, y quyết không chịu đầu hàng mình. Mình không chịu đánh Thiên Địa hội, y cũng không chịu gặp mặt mình”.
Thi Lang cười hì hì nói “Hoàng ân hạo đãng, đúng là không sao nói được. Hoàng thượng đã ưng thuận thu lại chỉ ý dời dân Đài Loan vào nội địa”.
Hơn một tháng nay quân dân Đài Loan ngày đêm lo lắng, sợ hoàng đế cứ nhất định giữ ý bỏ Đài Loan, miệng hoàng đế là “Kim khẩu”, đã nói ra thì quyết không lẽ nào hối hận. Thi Lang vừa nói câu ấy ra, quan quân trên bờ nghe thấy, nhịn không được lớn tiếng hò reo, nhất tề hô lớn “Vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế”.
Tin tức không có kinh mạch mà truyền đi, khắp nơi reo hò ầm ầm, kế đó pháo nổ tạch tạch đùng đùng, còn nhiệt náo hơn cả ngày tết[53].
Thi Lang từng tâu xin giảm thuế ruộng đất cho Đài Loan, Khang Hy theo lời, rất có ơn huệ với bách tính Đài Loan. Con thứ của Thi Lang là Thi Thế Luân, làm quan thanh liêm, bình dân bách tính mà có tranh chấp với quan lại thân hào, Thi Thế Luân ắt bênh vực bình dân, vì thế dân gian gọi ông là Thi Thanh Thiên, tức nhân vật chính trong bộ Thi công án đời sau. Con thứ sáu của Thi Lang là Thi Thế Phiêu, làm Đề đốc Thủy sư Phúc Kiến, năm Khang Hy thứ 60 trấn thủ Đài Loan, sử sách khen “Ngày mười ba tháng tám, bão lớn mưa to gây ra thiên tai, quân dân nhiều người chết, Thế Phiêu cả đêm ngoài trời nên bị bệnh, tháng chín chết trong quân, triều đình hạ chỉ hậu tuất, tặng hàm Thái tử Thái bảo”. Người này giữa lúc Đài Loan bị bão lớn mà suốt đêm ở ngoài trời chỉ huy quân sĩ cứu nạn, vì thế bệnh chết, cũng có thể nói là vị quan tốt thương dân.
Sách Ngạch Đồ truyền chỉ của hoàng đế khen ngợi Vi Tiểu Bảo, sai y lập tức về kinh để giao việc khác. Vi Tiểu Bảo tạ ơn xong, hai người vào nội đường mật đàm.
Sách Ngạch Đồ nói “Huynh đệ, lần này ngươi thể diện thật không nhỏ đâu, hoàng thượng sợ ngươi còn lo lắng, nên sai ta tới giục ngươi về. Ngươi có biết lần này hoàng thượng định sai ngươi làm việc gì không?”. Vi Tiểu Bảo lắc đầu nói “Hoàng thượng thần cơ diệu toán, bọn nô tài chúng ta ngàn vạn lần không sao đoán được”. Sách Ngạch Đồ ghé sát vào tai y, hạ giọng nói “Đánh bọn quỷ La Sát!”.
Vi Tiểu Bảo sau lúc sửng sốt, nhảy bật lên kêu lớn “Hay quá!”.
Sách Ngạch Đồ nói “Hoàng thượng nói ngươi biết tin xong nhất định sẽ vô cùng mừng rỡ, quả nhiên không sai. Huynh đệ, từ niên hiệu Thuận Trị bọn quỷ La Sát đã chiếm một dải Hắc Long Giang của chúng ta, mười phần ngang ngược. Tiên đế và hoàng thượng khoan hồng đại lượng, không thèm tranh chấp, nào ngờ bọn quỷ La Sát được đàng chân lân đàng đầu, chiếm đất ngày càng nhiều. Liêu Đông là đất căn bản của nhà Đại Thanh ta, làm sao có thể để bọn họ uy hiếp? Hiện đã dẹp yên bọn phản nghịch Tam phiên và họ Trịnh Đài Loan, thiên hạ yên ổn, hoàng thượng đã quyết ý dùng quân với La Sát”.
Vi Tiểu Bảo ở không trên đảo Thông Ngật mấy năm, bứt rứt như chơi bài cẩu rút phải đôi Biệt thập liên tiếp mười ván, bây giờ nghe được tin ấy, vui mừng tới mức há miệng ra không ngậm lại được.
Sách Ngạch Đồ lại nói “Hoàng thượng để bớt việc yên dân, từng hạ mấy đạo dụ chỉ cho đại hãn nước La Sát, nhưng đối phương thủy chung vẫn không phúc đáp. Về sau sứ thần Hà Lan thuật lại, nói nước La Sát tuy lớn nhưng là nước man di, cả nước không có người nào biết văn tự của Trung Hoa thượng quốc, nên nhận được dụ chỉ của hoàng thượng không biết nói gì, vì thế chỉ còn cách không phúc đáp. Nhưng việc quân La Sát xuống nam chiếm đất thì thủy chung vẫn không chấm dứt. Hoàng thượng nói Trung Hoa thượng quốc chúng ta hiểu rõ nhân nghĩa, đối với Man Di không thể không dạy mà giết, phải làm cho họ biết lỗi trước, có cơ hội sửa bỏ lỗi lầm, nếu sau khi dạy bảo rồi vẫn cứng cổ không tuân giáo hóa, thì lúc ấy chỉ còn cách tru diệt thôi. Các đại thần trong triều, chỉ có một mình huynh đệ biết tiếng La Sát”[54].
Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Té ra vì mình biết tiếng La Sát, nên tiểu hoàng đế mới đầu hàng mình”, không kìm được hoa chân múa tay, vô cùng đắc ý.
Sách Ngạch Đồ cười nói “Huynh đệ tinh thông tiếng La Sát, cố nhiên mười phần tài giỏi, nhưng còn có một việc lớn càng không ai bằng được. Nghe nói Nhiếp chính nữ vương nước La Sát là chị đại hãn, vị nữ vương này là người tình cũ của huynh đệ, phải không?”. Vi Tiểu Bảo hô hô cười rộ, nói “Nữ nhân La Sát toàn thân đẩy lông vàng, Nhiếp chính nữ vương Tô Phi Á ấy tướng mạo quả thật không kém, nhưng da dẻ trên người thị sờ vào thì rất nhám tay”. Sách Ngạch Đồ cười nói “Hoàng thượng là muốn huynh đệ xuất mã, cố làm chuyện khó, tới sờ thêm cô ta vài cái”. Vi Tiểu Bảo cười lắc đầu, nói “Không ngon, không ngon”. Sách Ngạch Đồ nói “Huynh đệ sờ một cái thì hai nước giao hiếu, từ nay tránh được tai họa binh đao, là một công lao an bang định quốc lớn đấy”.
Vi Tiểu Bảo cười nói “Té ra hoàng thượng không phải phái ta cầm quân đánh nhau, mà muốn ta thi triển Thập bát mô thần công, hô hô!”. Rồi nghêu ngao “Sờ một lần, sờ hai lần, Sờ tới cạnh đầu nữ vương nước La Sát. Đầu tóc nữ vương nước La Sát như vàng, Sách đại ca và Vi Tiểu Bảo hoa sai hoa sai thôi!”. Hai người nhìn nhau cười rộ.
Vi Tiểu Bảo hỏi kỹ tình hình nước La Sát xâm chiếm Hắc Long Giang, Sách Ngạch Đồ kể lại tỉ mỉ.
Nguyên là từ niên hiệu Vạn Lịch nhà Minh, người nước La Sát đã quyết ý nam xâm (La Sát tức Nga La Tư. Thanh sử cảo, Lang hoàn đẳng truyện nói “Nga La Tư gọi là La Sát, là do dịch âm nhanh chậm mà khác nhau vậy”. Đọc chậm thì là Nga La Tư, đọc nhanh thì là La Sát. Đọc theo đúng tiếng Nga thì giống La Sát hơn)[55]. Trước sau họ xây thành tại Thác Mộc Tư Khắc, Diệp Ni Tư Khắc, Nhã Khố Thứ Khắc, Ngạc Hoắc Thứ Khắc ở Tây Bá Lợi Á. Năm Thuận Trị thứ sáu, người La Sát xây thành ở núi Lộc Đỉnh, gọi là A Nhĩ Ba Thanh (Trung Quốc gọi là thành Nhã Khắc Tát), đồng thời theo sông tiến xuống phía nam, cướp bóc trên đường. Năm Thuận Trị thứ chín, Đô thống Ninh Cổ Tháp nhà Thanh là Hải sắc dẫn hai ngàn quân đánh lùi quân La Sát trên bờ Hắc Long Giang, về sau lại giao chiến ở cửa sông Tùng Hoa, Đô thống Minh An nhà Thanh là Đạt Lý hăng hái đánh nhau, đại phá quân La Sát. Quân La Sát lui về phía bắc, xây thành ở Ni Bố Sở, lại sai sứ giả về Mạc Tư Khoa xin viện binh. Sứ giả trên đường phao tin, nói ở một dải Hắc Long Giang vàng bạc đầy đất, bò ngựa thành đàn, nhà dân đều dát vàng. Người La Sát mong phát tài lớn, kết đoàn xuống nam, dọc đường cướp bóc, tàn hại bách tính, kỵ binh Ca Tát Khắc là hung ác nhất. Đô thống Ninh Cổ Tháp nhà Thanh là Sa Nhĩ Hồ Đạt, Tướng quân Ninh Cổ Tháp là Ba Hải dẫn quân ngăn chặn, năm Thuận Trị thứ mười sáu, mười bảy liên tiếp đánh thắng mấy trận, giết chết đại tướng thống lãnh quân La Sát, chém chết quá nửa kỵ binh Ca Tát Khắc. Từ đó người La Sát không dám tới vùng Hắc Long Giang nữa.
Đến đầu niên hiệu Khang Hy, quân dân La Sát lại ào ạt kéo xuống phía nam, lấy thành Nhã Khắc Tát làm căn cứ. Khang Hy dần lớn lên, biết người nước La Sát dã tâm rất lớn, bèn tăng cường phòng thủ, lại dời thủy sư Cát Lâm tới đóng ở Hắc Long Giang. Quân La Sát cũng không ngừng gia tăng quân số, xây dựng thành Nhã Khắc Tát mười phần kiên cố, đồng thời đặt dịch trạm dọc theo những đường giao thông quan trọng nối liền với nước La Sát, quyết tâm thôn tính hết vùng đất rộng lớn ở một dải Hắc Long Giang. Lúc ấy Khang Hy đang dốc toàn lực đối phó với Ngô Tam Quế, không thể chia quân ngăn chặn quân La Sát xâm lược, đến khi Tam phiên đã bình, họ Trịnh Đài Loan đã hàng, không có mối lo bên trong, mới chuyên tâm ứng phó. Nhớ tới Vi Tiểu Bảo từng tới Mạc Tư Khoa, không những hiểu rõ tình hình nước ấy mà còn có quan hệ không phải tầm thường với Nhiếp chính nữ vương nắm đại quyền của nước La Sát, từng hiến kế giúp cô ta thoát nạn đoạt quyền, nhận tước phong của cô ta, đây là một con cờ lợi hại trong tay, sao lại không dùng? Biết y đã tới Đài Loan, lập tức sai Sách Ngạch Đồ tới tuyên triệu.
Vi Tiểu Bảo dắt vợ con, sai phu phen khiêng vác “Tiền Thỉnh mệnh” phát tài được ở Đài Loan, tay áo đầy vàng, xuống thuyền lên bắc. Lúc lên đường hỏi Thi Lang đem bọn tướng lĩnh cũ của họ Trịnh ở Đài Loan là Hà Hựu, Lâm Hưng Châu, Hồng Triều và năm trăm quân khiên mây theo. Thi Lang biết lần này y tới kinh nhất định sẽ được trọng dụng, mình đang rất cần y hết sức giúp đỡ trong triều, tự nhiên luôn miệng ưng thuận, lại tặng biếu y và Sách Ngạch Đồ rất trọng hậu.
Bách tính Đài Loan biết triều đình thu lại chỉ ý dời tất cả dân Đài Loan vào nội địa là nhờ công lao rất lớn của vị Vi đại nhân trẻ tuổi này, người người cảm kích, tiễn tặng vô số lọng Vạn dân, cờ Vạn dân. Lúc Vi Tiểu Bảo lên thuyền, hai vị kỳ lão tụt giày của y bưng cao lên, nói là giữ lại để nhớ ơn. Nghi thức “Thoát hài” này vốn là quan địa phương thanh liêm ngay thẳng, bách tính yêu thương mới tiến hành, mà loại tham quan như Vi Tiểu Bảo cũng mặc nhiên được hưởng vinh dự, thật không những Tiền vô cổ nhân, mà e còn Hậu vô lai giả. Chuyện pháo trúc nổ ran đưa tiễn, thì càng không cần phải nói.