Dịch giả: Cao Tự Thanh
Hồi 1
Dọc ngang danh sĩ đều liên lụy
Cao thượng hiền nhân thảy ngợi khen

     ió bấc như dao, băng sương đầy đất. Trên một con đường cái gần bờ biển Giang Nam, một đội quân Thanh tay cầm đao thương, áp giải bảy chiếc xe tù, đội gió đạp sương đi lên phía bắc.
Ba chiếc xe đi đầu nhốt ba hán tử, đều ăn mặc lối thư sinh, một người già tóc bạc, hai người trung niên. Bốn chiếc xe sau chở phụ nữ, người ngồi trong chiếc cuối cũng là một thiếu phụ, bế một bé gái trong lòng, đứa bé không ngớt kêu khóc. Người mẹ dịu dàng dỗ dành, nhưng đứa bé cứ khóc lớn. Một tên quân đi cạnh xe tù bực mình, co chân đá vào xe một cái, quát “Khóc mãi, khóc mãi! Lão tử đá chết ngươi bây giờ”. Đứa bé gái hoảng sợ, càng khóc lớn hơn.
Cách đường cái vài mươi trượng có một tòa nhà lớn, dưới mái hiên có một văn sĩ trung niên và một đứa nhỏ mười một mười hai tuổi đứng nhìn. Người văn sĩ thấy tình cảnh ấy không kìm được thở dài một tiếng, hai mắt đỏ lên nói “Đáng thương, đáng thương”.
Đứa nhỏ hỏi “Cha, họ phạm tội gì thế?”. Văn sĩ nói “Có phạm tội gì đâu? Hôm qua và sáng nay đã có ba mươi mấy người bị giải qua đều là người đọc sách có tiếng ở Chiết Giang ta, ai cũng là kẻ vô tội bị liên lụy”. Y nói tới mấy chữ “Vô tội bị liên lụy” thì hạ giọng thật thấp, sợ đám quan quần áp giải xe tù nghe thấy. Đứa nhỏ hỏi “Đứa bé gái kia còn đang bú mẹ, chẳng lẽ cũng phạm tội sao? Thật không có đạo lý gì”. Văn sĩ nói “Ngươi biết quan binh không có đạo lý, đúng là đứa nhỏ ngoan. Ồ, người là dao thớt, ta là cá thịt, người là xanh đỉnh, ta là hươu nai”.
Đứa nhỏ nói “Cha, mấy hôm trước cha dạy con rằng câu Người là dao thớt, ta là cá thịt là ý nói để mặc người ta giết chóc, người ta là dao thái rau, là tấm thớt, chúng ta là cá và thịt. Còn câu Người là xanh đỉnh, ta là hươu nai, ý tứ cũng vậy phải không?”. Văn sĩ nói “Đúng thế”. Nhìn thấy quan quân và tù xa đã đi xa, y kéo tay đứa nhỏ nói “Ở ngoài gió lớn, chúng ta vào nhà đi”. Lúc ấy hai cha con bước vào thư phòng.
Văn sĩ cầm bút chấm mực, viết một chữ “Lộc” (hươu) trên giấy rồi nói “Hươu là loại thú rừng tuy to lớn nhưng tính nết rất hiền lành, chỉ ăn cỏ xanh lá cây, không làm hại các loài thú khác. Các loài thú dữ khác muốn làm hại nó, ăn thịt nó, nó chỉ có cách chạy trốn, nếu chạy trốn không được thì chỉ còn cách để người ta ăn thịt”. Lại viết hai chữ “Trục lộc” (Đuổi hươu), nói thể người xưa thường dùng hươu để ví với thiên hạ, bách tính trên đời đều hiền lành thiện lương, chỉ có cách để người ta hà hiếp tàn hại mà thôi. Hán thư có câu Nhà Tần để mất con hươu, thiên hạ cùng đuổi, chính là nói nhà Tần để mất thiên hạ, quần hùng đều nổi lên, mọi người tranh giành, sau cùng Hán Cao tổ đánh bại Sở Bá vương, giành được một con hươu vừa béo vừa to”.
Đứa nhỏ gật đầu nói “Con hiểu rồi. Sách tiểu thuyết thường nói Trục lộc Trung nguyên là ý nói mọi người tranh nhau làm hoàng đế”. Văn sĩ rất vui vẻ, gật gật đầu, vẽ lên giấy hình một cái đỉnh, nói “Người xưa nấu thức ăn không dùng bếp và nồi mà dùng cái đỉnh có ba chân này, đốt lửa bên dưới, bắt được hươu thì bỏ vào đỉnh nấu ăn. Hoàng đế và quan lớn đều rất tàn nhẫn, trong lòng không thích ai thì nói người ấy có tội, bỏ họ vào đỉnh luộc sống. Sách Sử ký chép Lạn Tương Như nói với Tần vương rằng: “Thần biết tội làm nhục đại vương đáng chết, thần xin vào đỉnh, là nói Tôi đáng chết, bỏ tôi vào đỉnh nấu cho chết đi!”.
Đứa nhỏ nói “Trong sách tiểu thuyết lại thường nói Vấn đỉnh Trung nguyên, ý tứ dường như không khác mấy với câu Trục lộc Trung nguyên”.
Văn sĩ nói “Không sai. Vua Hạ Võ thu kim loại chín châu, đúc thành chín cái đỉnh lớn. Lúc bấy giờ kim loại quý nhất là đồng. Trên mọi cái đỉnh đều có đúc tên chín châu và hình vẽ núi sông, những người làm chủ thiên hạ đời sau giữ cửu đỉnh”. Sách Tả truyện nói “Sở tử duyệt quân ở biên giới nhà Chu, Định vương sai Vương tôn Mãn úy lạo quân Sở. Sở tử hỏi cửu đỉnh to nhỏ nặng nhẹ ra sao. Chỉ có người làm chủ thiên hạ mới được giữ cửu đỉnh, Sở tử chỉ là chư hầu ở nước Sở lại hỏi cửu đỉnh to nhỏ nặng nhẹ ra sao là có ý vượt phận, muốn thay thế ngôi vương của nhà Chu”.
Đứa nhỏ nói “Vậy thì Hỏi đỉnh, Đuổi hươu là chỉ việc muốn làm hoàng đế. Câu Chưa biết hươu chết về tay ai là nói không biết ai sẽ làm hoàng đế”.
Văn sĩ nói “Đúng thế. Về sau bốn chữ Hỏi đỉnh, Đuổi hươu cũng có thể dùng vào chỗ khác, nhưng nguồn gốc điển cố là chỉ riêng việc làm hoàng đế”. Nói tới đó y thở dài một tiếng, nói “Chúng ta là bách tính, chỉ có một con đường là chết. Chưa biết hươu chết về tay ai chẳng qua chỉ là chưa biết ai sẽ tới giết con hươu, chứ con hươu thì chắc chắn phải chết rồi.
Nói xong y bước tới cạnh cửa sổ, nhìn nhìn ra ngoài, chỉ thấy sắc trời mờ mịt, dường như sắp có tuyết, thở dài nói “Ông trời sao bất nhân như thế, mấy trăm con người vô tội lại phải đi giữa lúc băng tuyết ngập đường thề này. Tuyết mà rơi, họ lại phải thêm một phen khốn khổ”.
Chợt thấy trên đường cái phía nam có hai người đội nón tre sóng vai đi tới, tới gần nhìn thấy rõ diện mạo, văn sĩ cả mừng nói “Hoàng bá bá, Cố bá bá của ngươi tới kìa”, rồi rảo chân bước ra đón, gọi “Lê Châu huynh, Đình Lâm huynh, cơn gió lành nào thổi hai vị tới vậy?”.
Người bên phải thân hình hơi béo, dưới cằm có một chòm râu đen, họ Hoàng tên Tông Hy, tự Lê Châu, người Dư Diêu, Chiết Giang. Người bên trái vừa cao vừa gầy, mặt mày đen bóng, họ Cố tên Viêm Vũ, tự Đình Lâm, người Côn Sơn, Giang Tô. Hai người Hoàng Cố đều là bậc đại nho đương thời, sau khi nhà Minh mất, đau lòng vì vận nước, ở ẩn không ra làm quan, hôm nay cùng tới Sùng Đức. Cố Viêm Vũ bước lên vài bước, nói “Vãn Thôn huynh, có một chuyện khẩn cấp, nên vội tới bàn với ngươi”.
Văn sĩ này họ Lã tên Lưu Lương, hiệu Vãn Thôn, nhiều đời ở huyện Sùng Đức phủ Hàng Châu Chiết Giang, cũng là một người ẩn dật rất nổi tiếng thời Minh mạt Thanh sơ. Y thấy hai người Hoàng Cố vẻ mặt nghiêm trọng, lại biết Cố Viêm Vũ trước nay rất cơ biến, gặp việc bình tình, mà nói là chuyện khẩn cấp thì tự nhiên không phải tầm thường, bèn chắp tay nói “Mời hai vị vào uống vài chén cho đỡ lạnh trước đã”. Lúc ấy y mời hai người vào nhà, dặn đứa nhỏ “Bao Trung, vào nói với mẹ là Cố bá bá, Hoàng bá bá tới, mang trước hai bát thịt dê ra uống rượu”.
Không bao lâu, Lã Bao Trung và anh là Nghi Trung mang chén đũa ra bày lên bàn trong thư phòng, kế có một lão bộc mang rượu thịt lên. Lã Lưu Lương chờ ba người ra khỏi, đóng cửa thư phòng lại, nói “Hoàng huynh, Cố huynh, uống trước vài chén đã!”.
Hoàng Tông Hy thần sắc thê thảm, lắc lắc đầu. Cố Viêm Vũ thì tự rót tự uống, liên tiếp một mạch sáu chén.
Lã Lưu Lương nói “Hai vị lần này tới đây, có lẽ có quan hệ với vụ án Minh sử phải không?”. Hoàng Tông Hy nói “Đúng thế!”, Cố Viêm Vũ nâng chén rượu lên, cao giọng ngâm nga “Thanh phong tuy tế nan xuy ngã, Minh nguyệt hà thường bất chiếu nhân” (Gió mát nửa hơi khôn thổi tớ, Trăng thanh một bóng vẫn soi người). Vãn Thôn huynh, hai câu thơ ấy của ngươi quả là tuyệt cú. Ta mỗi khi uống rượu cứ đọc hai câu ấy, thấy đủ tỏ lòng”.
Lã Lưu Lương lòng nhớ nước cũ, không chịu làm quan với nhà Thanh. Quan tỉnh hâm mộ tiếng tăm của y, tiến cử y là bậc “Ẩn dật ở núi rừng”, xứng đáng được triệu về làm quan trong triều, nhưng Lã Lưu Lương sống chết cự tuyệt, nên quan tỉnh không dám bức bách nữa. Về sau lại có một vị đại quan tiến cử y là bậc “Bác học đại nho”, Lã Lưu Lương thấy nếu lại cự tuyệt thì rõ ràng là khinh thị triều đình, không tránh khỏi cái họa sát thân, vì thế xuống tóc đi tu, giả làm hòa thượng. Quan lại địa phương thấy y kiên quyết, từ đó không khuyên y xuống núi nữa. Hai câu thơ “Thanh phong Minh nguyệt” là chê bai nhà Thanh, hoài niệm nhà Minh, tuy không dám in ra, nhưng đã truyền tụng trong khắp các bạn bè đồng tâm đồng đạo, lúc ấy Cố Viêm Vũ lại đọc lên. Hoàng Tông Hy nói “Đúng là thơ hay!”, rồi nhấc chén rượu lên, cũng uống cạn một chén. Lã Lưu Lương nói “Hai vị quá khen rồi”.
Cố Viêm Vũ chợt ngẩng lên, thấy trên vách treo một bức tranh lớn cao khoảng năm tấc, dài khoảng một trượng, vẽ một vùng sơn thủy, bút thế tung hoành, khí tượng hào hùng, không kìm được chậc lưỡi khen một tiếng, thấy trên bức tranh chỉ đề bốn chữ đại tự “Như thử giang sơn”, bèn nói “Xem theo nét bút thì là tranh của Nhị Chiêm tiên sinh rồi”. Lã Lưu Lương nói “Đúng thế”. Vị Nhị Chiêm tiên sinh này họ Tra tên Sĩ Tiêu, là một đại họa gia thời Minh mạt Thanh sơ, cũng chơi thân với ba người Cố Hoàng Lã. Hoàng Tông Hy hỏi “Bức tranh đẹp như thế mà sao không có lời bạt gì cả?”. Lã Lưu Lương thở dài nói “Tranh của Nhị Chiêm tiên sinh vốn có thâm ý, chỉ vì y là người ổn trọng cẩn thận, đã không ghi lạc khoản, cũng không đề lời bạt. Tháng trước y loanh quanh trong nhà, nhất thời nổi hứng, vẽ xong tặng cho ta, hai vị tiện dịp đề vịnh vài câu được không?”.
Hai người Cố Hoàng đứng lên bước tới ngắm kỹ bức tranh, chỉ thấy sông lớn cuồn cuộn về đông, hai bên bờ có vô số núi non, điểm xuyết cây kỳ đá lạ, chỉ là trong bức tranh hơi mây dày đặc, núi sông tuy đẹp nhưng khiến người ta vừa nhìn thấy là trong lòng lập tức nảy sinh cảm giác bứt rứt.
Cố Viêm Vũ nói “Sông núi thế này lại rơi vào tay Di Địch mà chúng ta nhịn hơi kín tiếng sống thừa trong đó, thật khiến người ta bi phẫn đầy lòng. Vãn Thôn huynh sao không tiện dịp đề một bài thơ bày tỏ ý tứ của Nhị Chiêm tiên sinh?”. Lã Lưu Lương nói “Được”, rồi lập tức tháo bức tranh xuống trải ra trên bàn. Hoàng Tông Hy mài mực, Lã Lưu Lương cầm bút ngẫm nghĩ hồi lâu rồi viết thẳng vào bức tranh, giây lát là xong. Bài thơ như sau:
“Là sau nhà Tống Nam độ ư?
Sông núi thế này thật nhục đấy.
Là sau trận đánh Nhai Sơn ư?
Sông núi thế này không nỡ thấy.
Ta nay mới hiểu ý trên tranh,
Tiếng khóc như hòa cùng lệ chảy.
Lấy nay nhìn trước trước còn nay,
Nín tiếng không cần ngậm tăm vậy.
Đem hết nước mắt ở đài tây,
Hòa vào nét mực để tỏ ý.
Cho nên có họa không thơ văn,
Thơ văn đều trong bốn chữ ấy.
Thường nói muốn sinh đầu thời Minh,
Như mù chợt lại được nhìn thấy.
Núi sông quang đãng ngọc xưa về,
Lên chơi chốn nào chẳng hoan hỷ?”
Viết xong ném bút xuống đất, không kìm được sa nước mắt.
Cố Viêm Vũ nói “Thống khốc lâm ly, thật là lời hay tuyệt diệu”. Lã Lưu Lương nói “Bài thơ này chẳng có gì hàm súc, không đáng nói là hay, cũng chỉ là viết rõ bản ý của Nhị Chiêm tiên sinh ra để người xem tranh biết được mà thôi”. Hoàng Tông Hy nói “Ngày nào nước cũ trùng quang, lúc ấy Núi sông quang đãng ngọc xưa về, cho dù núi cùng sông hiểm cũng khiến người ta vui mừng khoan khoái, đúng là Lên chơi chốn nào chẳng hoan hỷ!”, Cố Viêm Vũ nói “Câu kết của bài thơ này thật tuyệt diệu! Rốt lại cũng sẽ có một ngày đánh đuổi giặc Hồ, lấy lại sơn hà Đại Hán của chúng ta, so với việc bộc lộ nỗi bi phẫn càng làm người ta thêm phần mạnh mẽ”.
Hoàng Tông Hy thong thả nhấc bức tranh lên, nói “Bức tranh này không treo được nữa rồi, Vãn Thôn huynh nên cất đi cho kỹ mới nên. Nếu lại để cho kẻ gian nhân loại Ngô Chi Vinh thấy được, quan phủ tra xét ra, thì Vãn Thôn huynh cố nhiên là gặp rắc rối, mà còn liên lụy tới cả Nhị Chiêm tiên sinh”.
Cố Viêm Vũ đập bàn chửi “Thằng cẩu tặc Ngô Chi Vinh ấy, ta thật hận là không được ăn thịt y”. Lã Lưu Lương nói “Hai vị quang lâm, nói là có chuyện khẩn cấp. Chúng ta quen thói học trò, cứ lo làm thơ đề tranh, quên bẵng chuyện chính. Không biết rốt lại là chuyện gì vậy?”. Hoàng Tông Hy nói “Hai người bọn ta tới đây là vì chuyện Y Hoàng tiên sinh người nhà của Nhị Chiêm tiên sinh. Hôm trước tiểu đệ và Cố huynh được tin, nguyên là trong vụ đại án Minh sử này có cả Y Hoàng tiên sinh”. Lã Lưu Lương giật mình nói “Y Hoàng huynh cũng bị liên lụy sao?”.
Hoàng Tông Hy nói “Phải. Chiều hôm trước hai người bọn ta vội vàng tới trấn Viên Hoa huyện Hải Ninh thì Y Hoàng tiên sinh không có nhà, người nhà nói là đi thăm bạn. Viêm Vũ huynh thấy tình thế khẩn cấp, vội dặn người nhà của Y Hoàng tiên sinh bỏ trốn ngay trong đêm, lại nghĩ Y Hoàng tiên sinh và Vãn Thôn huynh chơi thân với nhau, nên vội tới đây hỏi thăm”. Lã Lưu Lương nói “Y... y lại không tới đây, không biết đi đâu”, Cố Viêm Vũ nói “Nếu y ở nhà, thì lần này đã ra gặp nhau rồi. Ta đã đề lên vách thư phòng của y một bài thơ, nếu y trở về, tự nhiên sẽ hiểu rõ, biết nên trốn tránh, chỉ sợ y không biết tin, lộ mặt ở ngoài, để quan quân bắt được thì hỏng mất”.
Hoàng Tông Hy nói “Cái án Minh sử này khiến danh sĩ đất Chiết Tây chúng ta cơ hồ đều mắc độc thủ. Ý của triều đình nhà Thanh rất ác, Vãn Thôn huynh thanh danh rất lớn, ý Đình Lâm huynh và tiểu đệ là muốn khuyên Vãn Thôn huynh tạm thời rời nhà lánh đi để tránh một phen sóng gió”.
Lã Lưu Lương căm tức nói “Nếu hoàng đế Thát Đát bắt ta về Bắc Kinh để róc xương lột da, thì hay dở gì ta cũng phải mắng y một trận cho hả nỗi giận trong lòng, rồi sẽ khoan khoái chịu chết”.
Cố Viêm Vũ nói “Vãn Thôn huynh hào khí xông mây, khiến người ta bội phục. Nhưng sợ là không gặp được hoàng đế Thát Đát mà chết dưới tay bọn nô tài hèn hạ thôi. Mà nói lại thì hoàng đế Thát Đát chỉ là một đứa nhỏ, không biết gì cả, đại quyền triều chính đều trong tay quyền thần Ngao Bái. Huynh đệ và Lê Châu huynh suy nghĩ, vụ án Minh sử lần này sở dĩ trống gióng cờ mở, sấm ran chớp giật như thế là vì Ngao Bái muốn bẻ gãy chí khí của sĩ nhân Giang Nam chúng ta”.
Lã Lưu Lương nói “Ý hai vị rất đúng. Từ khi quân Thanh vào cửa quan đến nay, hoành hành ở Giang Bắc không bị ngăn trở, vừa tới Giang Nam lại bị chống đối khắp nơi, nhất là những người đọc sách biết lẽ Hoa Di phải đề phòng lẫn nhau, không ngừng quấy rối họ. Ngao Bái nhân cơ hội này, muốn tăng cường trấn áp sĩ nhân Giang Nam ta. Hừ, Lửa đồng thiêu chẳng hết, Gió xuân sang lại xanh, trừ phi y giết sạch sành sanh những người đọc sách ở Giang Nam chúng ta thôi”.
Cố Viêm Vũ nói “Phải lắm, vì thế chúng ta phải lưu lại tấm thân hữu dụng để lo toan cho hoàng đế Thát Đát đến cùng, nếu sính cường khoe khoang cái dũng huyết khí nhất thời lại thành mắc mưu của họ”.
Lã Lưu Lương lập tức hiểu ra, hai người Hoàng Cố xông pha giá rét tìm tới, một là vốn để tìm Tra Y Hoàng, hai là để khuyên mình trốn tránh, sợ mình nhất thời dằn lòng không được lại tự nộp mạng, nỗi khổ tâm của bạn hiền, quả rất cảm kích, liền nói “Lời vàng ý ngọc của hai vị, huynh đệ đâu dám không nghe theo? Sáng sớm ngày mai, cả nhà huynh đệ sẽ tránh đi nơi khác”. Hoàng Cố hai người cả mừng, đồng thanh nói “Theo lẽ thì phải thế”.
Lã Lưu Lương trầm ngâm nói “Nhưng không biết nên tránh ở đâu thì tốt?. Chỉ thấy trời đất mênh mông, đâu đâu cũng là thiên hạ của người Thát Đát, quả thật không có một mảnh đất nào yên ổn. Đâu chốn Đào Nguyên để lánh Tần? Đâu chốn Đào Nguyên để lánh Tần?”, Cố Viêm Vũ nói “Hiện nay cho dù trên đời quả thật có Đào Nguyên Lạc thổ, chúng ta cũng không thể độc thiện kỳ thân, trốn lánh vào đó...”. Lã Lưu Lương không chờ y nói hết, đập bàn đứng dậy lớn tiếng nói “Đình Lâm huynh trách câu ấy rất đúng. Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách, tạm thời tránh nạn thì được, chứ nếu náu thân ở chốn Đào Nguyên, tiêu dao tự tại, nỡ để hàng ức vạn bách tính chịu khổ dưới vó ngựa Thát Đát, thì làm sao yên tâm? Huynh đệ lỡ lời rồi”.
Cố Viêm Vũ mỉm cười nói “Huynh đệ mấy năm nay lãng tích giang hồ, kết giao với không ít anh hùng hào kiệt. Khắp nam bắc Đại giang, những nơi đi tới, không chỉ những người đọc sách chống lại Thát Đát mà trong những người buôn gánh bán bưng, đồ tể ở chợ búa, nơi nào cũng có kẻ hào kiệt lòng đầy nhiệt huyết. Nếu Vãn Thôn huynh có lòng thì ba người chúng ta cùng tới Dương Châu, huynh đệ đưa ngươi tới gặp mấy vị đồng đạo được không?”. Lã Lưu Lương cả mừng nói “Hay quá, hay quá! Sáng mai chúng ta đi Dương Châu, hai vị ngồi một lúc, huynh đệ vào nói với chuyết kinh, để nàng chuẩn bị hành trang”. Nói xong vội vã đi vào nhà trong.
Không bao lâu Lã Lưu Lương quay lại thư phòng, nói “Vụ án Minh sử tuy bên ngoài đồn đại nhao nhao, nhưng một là lời đồn chưa chắc đã đúng, hai là nhiều người kể chuyện lại sợ sệt, không dám kể hết. Huynh đệ ở một mình nơi xó xỉnh, chưa biết rõ ràng, rốt lại bắt đầu từ đâu?”.
Cố Viêm Vũ thở dài, nói “Bộ Minh sử này chúng ta đều đã đọc qua, trong đó đối với người Thát Đát thì không mấy cung kính, chuyện đó cũng có. Nguyên bản sách này là của Thừa tướng Chu Quốc Trinh nhà Đại Minh ta, nói tới chuyện vệ Kiến Châu ngoài cửa quan thì làm gì còn phải khách sáo với người Thát Đát?”. Lã Lưu Lương gật đầu nói “Nghe nói Trang gia ở Hồ Châu bỏ ra mấy ngàn lượng bạc mua lại được nguyên cảo từ tay hậu duệ của Chu Thừa tướng, ký tên mình khắc in lưu hành, không ngờ lại gặp tai họa lớn này”.

 

Ba phủ Hàng Châu, Gia Hưng, Hồ Châu vùng Chiết Tây địa thế bằng phẳng, đất đai màu mỡ, sản vật nổi tiếng có thóc gạo, tơ tằm. Thủ huyện của phủ Hồ Châu hiện nay gọi là huyện Ngô Hưng, thời Thanh chia làm hai huyện Ô Trình, Quy An. Trước nay văn phong rất thịnh, tài sĩ các đời nối nhau nảy sinh, Thẩm Ước chia tiếng Trung Quốc ra làm bốn thanh bình thượng khứ nhập thời Lương, Triệu Mạnh Phủ thư họa đều đạt tới mức tuyệt diệu thời Nguyên đều là người Hồ Châu, ở đó lại nhờ sản xuất bút mà nổi tiếng, bút Hồ Châu, mực Huy Châu, giấy Tuyên Thành, nghiên Đoan Khê Triệu Khánh, văn phòng tứ bảo nổi tiếng thiên hạ.
Phủ Hồ Châu có trấn Nam Tầm, tuy là một trấn nhưng lớn hơn các phủ huyện bình thường nhiều, trong trấn có rất nhiều nhà giàu, trong các đại tộc giàu có nổi tiếng có một nhà họ Trang. Lúc ấy phú hộ Trang gia tên Trang Doãn Thành, sinh được mấy người con trai, con trưởng tên Đình Long, từ nhỏ thích học hành, kết giao với nhiều danh sĩ tài tử ở Giang Nam. Đến đời Thuận Trị, Trang Đình Long vì đọc sách quá nhiều, đột nhiên bị mù, mời rước khắp các danh y cũng không sao chữa khỏi, từ đó uất ức không vui.
Chợt một hôm, láng giềng có một thiếu niên họ Chu mang tới một bộ sách chép tay, nói là di cảo của tổ phụ là Chu Tướng quốc, xin thế chấp cho Trang gia để vay vài trăm lượng bạc. Trang gia trước nay vốn khảng khái, đối với hậu nhân của Chu Tướng quốc vẫn rất chiếu cố, đã tới hỏi vay tiền là lập tức ưng thuận, cũng không đòi y phải thế chấp vật gì. Nhưng thiếu niên họ Chu nói vay được tiền rồi sẽ đi xa, bộ di cảo này của tổ tiên mang theo sợ có sơ suất, để ở nhà lại không yên tâm, muốn gởi chỗ Trang gia. Trang Doãn Thành liền ưng thuận. Thiếu niên họ Chu đi rồi, Trang Doãn Thành để giải muộn cho con trai, bèn sai thanh khách trong nhà đọc cho y nghe.
Bộ Minh sử này của Chu Quốc Trinh phần lớn đã khắc in lưu hành, lưu truyền trên đời. Lần này phần cháu nội y cầm tới Trang gia để thế chấp là rất nhiều thiên liệt truyện ở cuối. Trang Đình Long nghe thanh khách đọc vài hôm, cảm thấy rất hứng thú, chợt nghĩ “Ngày xưa Tả Khâu Minh bị mù nhưng nhờ làm bộ sử Tả truyện mà nổi tiếng hàng ngàn năm sau. Mình bây giờ mù mắt, rảnh rỗi buồn chán, sao không soạn ra một bộ sử thư để lưu truyền cho hậu thế?”.
Nhà giàu làm việc rất dễ, y đã nảy ra ý ấy, lập tức đưa lễ vật mời mấy vị sĩ nhân tới, đọc hết bộ Minh sử cảo ấy từ đầu tới cuối cho họ nghe. Y cho rằng chỗ nào nên thêm chỗ nào nên sửa cứ tùy lúc nói ra, có tân khách ghi lại.
Nhưng nghĩ mình đã mù, không sao đọc rộng sử sách, bộ Minh sử này sửa sang truyền ra, nếu nội dung sai lầm quá nhiều thì không những khó nổi tiếng mà lại bị người ta chê cười, lúc ấy lại bỏ ra một số tiền lớn mời rước rất nhiều bậc đại nho tham gia tu sửa hiệu đính, cốt cho tận thiện tận mỹ. Có một số người có học vấn không phải tiền bạc có thể mời tới được, Trang Đình Long lại nài nỉ nhờ vả người khác dùng lời lẽ khiêm cung để mời. Quanh vùng Thái Hồ trước nay có rất nhiều văn sĩ, nhận được lễ vật của Trang gia, một vì thương y mù mắt, cảm y thành tâm, hai vì thấy tu soạn Minh sử là việc hay, nên phần đông đều tới Trang gia làm khách mười ngày nửa tháng, hoặc sửa những chỗ sai, hoặc nhuận sắc thêm, hoặc soạn vài thiên cho bản thảo. Vì thế bộ Minh sử cảo này quả thật đã tập hợp được không ít sức lực của nhiều tay đại bút. Sách làm thành chưa bao lâu thì Trang Đình Long qua đời.
Trang Doãn Thành thương con trai chết sớm, lập tức cho khắc in. Thời Thanh muốn in một bộ sách quả thật không dễ, phải mời thợ khắc ván, khắc ra một đống mộc bản rồi mới in thành sách. Bộ Minh sử cảo này số quyển số tập rất nhiều, thợ khắc thợ in, phí tổn rất lớn. May là Trang gia có tiền, dọn dẹp mấy gian nhà lớn làm công trường, mời nhiều thợ thuyền, trong vài năm thì khắc in xong, tên sách là Minh thư tập lược, tên người soạn sách là Trang Đình Long, mời danh sĩ Lý Lệnh Triết làm bài tựa.
Các học giả tham gia san định tăng bổ cũng đề tên lên đó, có Mao Nguyên Minh, Ngô Chi Minh, Ngô Chi Dung, Lý Kỳ Đào, Mao Thứ Lai, Ngô Sở, Đường Nguyên Lâu, Nghiêm Vân Khởi, Tưởng Lân Trưng, Vi Kim Hựu, Vi Nhất Viên, Trương Tuấn, Đổng Nhị Tây, Ngô Viêm, Phan Xanh Chương, Lục Kỳ, Tra Kế Tá, Phạm Tương tổng cộng mười tám người. Trong sách lại nói sách này là dựa theo nguyên cảo của họ Chu mà tăng bổ san định soạn thành, có điều Chu Quốc Trinh là Tướng quốc nhà Minh, tên tuổi rất lớn, không tiện viết thẳng tên ra, vì vậy chỉ hàm hồ nói là nguyên cảo của họ Chu.
Minh thư tập lược qua sự sửa sang tu đính của rất nhiều văn nhân học sĩ nên thể lệ hoàn bị, thuật việc rõ ràng, văn chương lại hoa lệ phong nhã, sau khi lưu hành rất được sĩ lâm khen ngợi. Trang gia lại có ý dương danh, bán sách rất rẻ. Trong nguyên cảo lúc nói tới người Mãn Châu vốn có rất nhiều lời chỉ trích công kích, những người tu sửa đều nhất nhất bỏ hết, nhưng cũng không khỏi có lời tán dương nhà Minh. Lúc ấy nhà Minh mất chưa lâu, người đọc sách nhớ nhung nước cũ, nên sách vừa khắc in lưu hành, lập tức bán rất chạy. Cái tên Trang Đình Long lừng lẫy khắp Giang Bắc Giang Nam. Trang Doãn Thành tuy có nỗi đau mất con, nhưng thấy con thành danh sau khi chết, từ đó lòng già cũng được an ủi.
Cũng là thời loạn, nên tiểu nhân đắc chí, quân tử gặp nạn. Tri huyện Quy An phủ Hồ Châu họ Ngô tên Chí Vinh, lúc đương nhiệm tham lam phạm pháp, bách tính hận y thấu xương, cuối cùng bị người ta tố cáo, triều đình hạ lệnh cách chức. Ngô Chi Vinh làm Tri huyện Quy An tuy vơ vét được hơn vạn lượng bạc, nhưng lệnh cách chức vừa ban xuống, y lo đông lót tây, chạy chọt khắp nơi mới tránh khỏi bị xử tội, hơn vạn lượng bạc tham tang kia cũng hết sạch không còn gì, ngay đám gia nhân cũng bỏ đi. Y mất cả quan chức lẫn tiền bạc, đành tới các nhà giàu xin xỏ, nói làm quan thanh bạch, lần này bị bãi quan, ngay tiền lộ phí về quê cũng không có, không sao lên đường. Có một số nhà giàu để khỏi phiền phức bèn tặng y mười lượng tám lượng. Đến khi y tới phú hộ họ Chu, chủ nhân Chu Hựu Minh vốn là bậc quân tử ngay thẳng ghét điều ác như kẻ thù, không những không tặng tiền lộ phí mà còn châm chọc mỉa mai, nói các hạ làm quan ở Hồ Châu, bách tính bị ngươi hại đến khổ, Chu Mỗ ta dù có tiền cũng thà đem chu cấp cho những dân nghèo bị các hạ hãm hại. Ngô Chi Vinh tuy não nộ nhưng không biết làm sao, y đã bị cách chức, không quyền không thế, thì làm gì được nhà đại gia phú hộ? Lúc ấy bèn tới bái phỏng Trang Doãn Thành.
Trang Doãn Thành ngày thường kết giao với các bậc danh sĩ, rất coi thường loại tham quan này, thấy y tới xin xỏ, cười nhạt một tiếng, gói một lượng bạc đưa cho y, nói “Theo như con người các hạ thì lượng bạc này vốn là không tặng, chỉ là bách tính ở Hồ Châu mong các hạ đi sớm một khắc thì hay một khắc, thêm một lượng bạc thì có thể sớm hơn chút ít, cũng là chuyện hay”.
Ngô Chi Vinh trong lòng giận lắm, liếc mắt thấy trên bàn có đặt một bộ Minh thư tập lược, nghĩ thầm “Họ Trang này thích nghe nịnh hót, chỉ cần nghe khen một câu là bộ Minh sử tu sửa hay ho ra sao là hai tay bưng bạc trắng xóa đưa cho người ta mà không hề cau mày”. Bèn cười nói “Trang ông hậu tứ, từ chối lại là không cung kính. Huynh đệ hôm nay rời Hồ Châu, điều hối tiếc nhất là không sao mang được một bộ Hồ Châu chi bảo về nhà, để tệ hương cô lậu quả văn được mở rộng tầm mắt”.
Trang Doãn Thành hỏi “Cái gì là Hồ Châu chi bảo?”. Ngô Chi Vinh cười nói “Trang ông quá khiêm rồi. Trong sĩ lâm nhao nhao nói rằng lệnh lang Trang Đình Long công tử đích thân soạn bộ Minh thư tập lược, sử tài, sử thức, sử bút không điều gì không phải là xưa nay ít có, Tả Mã Ban Trang là bốn đại sử gia từ xưa đến nay. Bộ Hồ Châu chi bảo này tự nhiên chính là bộ Minh sử mà lệnh lang đích thân viết ra”.
Ngô Chi Vinh trước một câu “Lệnh lang đích thân viết ra”, sau một câu “Lệnh lang đích thân viết ra”, khiến Trang Doãn Thành nghe xong trong lòng mừng rơn. Y biết rõ bộ sách này hoàn toàn không phải là con trai đích thân soạn ra, trong lòng không khỏi có chỗ nuối tiếc, Ngô Chi Vinh nói thế chính là đánh trúng chỗ y thích, nghĩ thầm “Người ta đều nói người này tham lam, là một gã tiểu nhân bẩn thỉu, nhưng y rốt lại vẫn là người đọc sách, cũng có nhãn lực. Té ra bên ngoài gọi bộ sách này của Long nhi là Hồ Châu chi bảo, câu này quả là lần đầu mình nghe thấy”. Bất giác rạng rỡ tươi cười, nói “Vinh ông nói Tả Mã Ban Trang bốn đại sử gia từ xưa đến nay gì đó, huynh đệ không hiểu rõ lắm, xin được chỉ giáo”. Ngô Chi Vinh thấy y vẻ mặt lập tức trở nên hòa hoãn, biết đã vỗ được mông ngựa rồi, trong lòng mừng thầm, nói “Trang ông không khỏi quá khiêm rồi. Tả Khâu Minh làm Tả truyện, Tư Mã Thiên soạn Sử ký, Ban Cố viết Hán thư, đều là danh tác truyền tụng thiên cổ, sau Ban Cố thì không có đại sử gia nào. Sau khi u Dương Tu soạn Ngũ đại sử, Tư Mã Quang viết Tư trị thông giám mới bắt đầu có người sánh được với Tả Khâu Minh, Tư Mã Thiên, Ban Cố ba vị tiền bối. Bốn đại sử gia Tả Mã Ban Trang, câu ấy nảy sinh từ đó”.
Trang Doãn Thành vẻ mặt rạng rỡ, chắp chắp tay nói “Quá khen, quá khen! Có điều câu Hồ Châu chi bảo ấy thật không thể nhận”. Ngô Chi Vinh nghiêm trang nói “Cái gì mà không thể nhận? Mọi người ở ngoài đều nói Hồ Châu chi bảo sử tơ bút. Quả thật Trang sử đứng thứ nhất!”. Tơ tằm và bút viết là hai sản vật nổi tiếng của Hồ Châu, Ngô Chi Vinh phẩm cách hèn hạ nhưng có ba phần tài năng, xuất khẩu thành thơ, đem Trang sử so với tơ tằm và bút viết của Hồ Châu. Trang Doãn Thành nghe xong lại càng mừng rỡ.
Ngô Chi Vinh nói “Huynh đệ tới quý xứ làm quan, hai tay áo toàn gió mát, không được cái gì. Hôm nay giơ bộ mặt già muốn xin Trang ông một bộ Minh sử để làm vật báu truyền gia trong nhà. Sau này con cháu họ Ngô ta ngày đêm tụng đọc, ắt sẽ tài tứ đại tiến, làm rạng rỡ tổ tiên, thì đó toàn là nhờ Trang ông hậu tứ”. Trang Doãn Thành cười nói “Vậy xin kính tặng”. Ngô Chi Vinh lại nói thêm vài câu, không thấy Trang Doãn Thành có cử động gì, lúc ấy lại tán dương bộ Minh sử một hồi, thật ra bộ sách ấy một trang y cũng chưa đọc qua, chỉ là về sử tài thì đắc thể thế nào, về sử thức thi trác việt thế nào, cứ nhắm mắt khen bừa. Trang Doãn Thành nói “Xin Vinh ông ngồi chơi thêm một lúc”, rồi quay vào nhà trong.
Qua hồi lâu, một tên gia đinh bưng một cái gói lớn ra đặt lên bàn. Ngô Chi Vinh thấy Trang Doãn Thành vẫn chưa ra, vội nắn cái bao một cái, cái bao tuy lớn nhưng lại nhẹ tênh, bên trong rõ ràng không có tiền bạc, trong lòng rất thất vọng. Qua hồi lâu, Trang Doãn Thành trở ra sảnh, bưng cái bao lên cười nói “Vinh ông coi trọng thổ sản của tệ xứ, nên xin kính tặng”.
Ngô Chi Vinh cảm tạ, cáo từ trở ra, chưa về tới khách điếm, đã thò tay vào bao khua khoắng mò mẫm một hồi, mò được một bộ sách, một cái kén tằm, mười ngọn bút lông. Y mất không biết bao nhiêu lời lẽ, vốn nghĩ Trang Doãn Thành ngoài bộ Minh sử sẽ tặng thêm vài trăm lượng bạc, không ngờ lại tặng đúng Hồ Châu tam bảo mà y nói ra, bèn chửi thầm “Con mẹ nó, bọn tài chủ ở Nam Tầm đều nhỏ nhen thế đấy! Cũng bởi mình lỡ lời, nếu nói Hồ Châu tam bảo là vàng, bạc và Minh sử, há lại không có thu hoạch lớn sao?”.
Y tức tối trở về khách điếm, ném cái bao lên bàn nằm lăn ra ngủ, đến khi tỉnh dậy trời đã tối đen, đã quá giờ cơm trong khách điếm, y lại không quen nhịn đói, lửa đói lòng sầu cả hai cùng đốt, càng không ngủ được, lúc ấy mở cái bao lấy bộ Minh thư tập lược ra xem. Xem được vài trang, trước mắt ánh vàng lóe lên, rõ ràng xuất hiện một lá vàng. Ngô Chi Vinh tim đập thình thịch, dụi dụi mắt nhìn kỹ, không phải vàng lá thì là gì? Lúc ấy lập tức rũ quyển sách loạn lên, trong sách rơi ra mười lá vàng, mỗi lá ít nhất cũng phải năm tiền, mười lá là năm lượng vàng. Lúc ấy vàng có giá, năm lượng vàng đổi được bốn trăm lượng bạc. Ngô Chi Vinh vui mừng khôn xiết, nghĩ thầm “Họ Trang này quả nhiên giảo quyệt, y sợ mình lấy được bộ sách này mang đi sẽ tiện tay vứt bỏ, không giở ra xem, vì vậy giấu vàng lá trong sách, xem ai đọc sách của con trai y thì người ấy có phúc lấy được vàng. Được rồi, mình sẽ đọc thêm vài thiên, sáng mai sẽ lại tìm tới, vừa để tạ cái ơn tặng vàng, vừa đọc thuộc lòng mấy đoạn trong sách, ca ngợi ầm lên. Y trong lòng mừng rỡ, lại tặng thêm vài lượng vàng cũng chưa biết chừng”.
Lúc ấy y khêu bấc đèn, giở sách tụng đọc, đọc tới đoạn Minh Vạn Lịch năm thứ mười bốn, Hậu Kim Thái tổ Nỗ Nhi Cáp Xích tức vị, đặt quốc hiệu là Kim, kiến nguyên Thiên Mệnh, trong lòng chợt hoảng sợ “Thái tổ ta kiến nguyên năm Bính thìn, từ năm đó trở đi lẽ ra không được dùng niên hiệu Vạn Lịch nhà Minh nữa mà phải dùng niên hiệu Thiên Mệnh năm thứ nhất mới phải”
Từ đó giở xuống dưới, chỉ thấy năm Đinh Mão Hậu Kim Thái tông tức vị, trong sách vẫn viết là Minh Thiên Khải năm thứ bảy chứ không viết là Đại Kim Thiên Thông năm thứ nhất. Năm Bính Tý Hậu Kim đổi quốc hiệu là Thanh, cải nguyên Sùng Đức, trong sách lại viết là Sùng Trinh năm thứ chín chứ không ghi là Đại Thanh Sùng Đức năm thứ nhất, năm Giáp Thân sách viết là Sùng Trinh năm thứ mười bảy chứ không viết là Đại Thanh Thuận Trị năm thứ nhất. Lại xem tới đoạn sau khi quân Thanh vào cửa quan, năm Ất Dậu trong sách viết là Long Vũ năm thứ nhất, năm Đinh Hợi viết là Vĩnh Lịch năm thứ nhất, các niên hiệu Long Vũ, Vĩnh Lịch là niên hiệu của Đường vương, Quế vương nhà Minh, người làm sách rõ ràng theo chính sóc nhà Minh, không coi nhà Thanh vào đâu. Y đọc tới đó bất giác đập bàn kêu lớn “Làm phản rồi, làm phản rồi, thế này thì không xong!”.
Y đập một cái, cái bàn chấn động, đĩa đèn lập tức nảy lên rơi xuống đất, dầu bắn ra dính đầy tay đầy áo. Trong bóng tối đột nhiên y linh cơ nhất động, bất giác mừng rỡ như điên “Đây không phải là trời ban cho mình một món hoạnh tài sao? Thăng quan phát tài đều từ đây mà ra”. Nghĩ tới chỗ đắc ý, bất giác kêu ầm lên. Chợt nghe tiểu nhị đập cửa nói “Khách quan, khách quan, có chuyện gì thế?”.
Ngô Chi Vinh cười nói “Không có gì đâu!”, rồi thắp lại đèn đọc tiếp. Đọc luôn một mạch đến lúc gà gáy mới để nguyên áo lăn ra giường, nhưng lại tìm ra được bảy tám mươi chỗ vong húy phạm cấm trong sách, nên trong giấc mơ vẫn không ngừng tươi cười.
Vào lúc thay triều đổi chủ, kẻ cầm quyền rất có ý thức về loại niên hiệu chính sóc này. Việc phạm điều cấm kỵ thì không gì hơn trong văn chương ngôn ngữ, khiến người ta hoài niệm tiền triều. Minh thư tập lược ghi chép việc thời Minh, ghi năm theo niên hiệu nhà Minh thì vốn không có gì không hợp, nhưng đang lúc cấm lệnh khắt khe lại là mối họa rất lớn. Các học giả văn sĩ tham dự tu sửa Minh sử phần nhiều chỉ giúp khảo hiệu vài quyển, chưa xem duyệt toàn bộ, mà người khảo hiệu mấy quyển sau cùng lại căm hận nhà Thanh thấu xương, quyết không chịu dùng niên hiệu nhà Đại Thanh trong sách. Trang Đình Long là công tử con nhà giàu, hai mắt lại mù, không khỏi có chỗ sơ suất, rốt lại khiến kẻ tiểu nhân có chỗ sơ hở để thừa cơ.
Trưa hôm sau, Ngô Chi Vinh lập tức cưỡi thuyền đông hành, tới thẳng Hàng Châu, ở trong khách điếm viết một trang bẩm thiếp, gởi kèm bộ Minh sử ấy, đưa vào phủ Tướng quân Tùng Khôi. Y đoán Tùng Khôi sau khi nhận tờ bẩm thiếp ắt sẽ triệu kiến. Lúc ấy triều đình thấy tố cáo kẻ phản nghịch sẽ ban thưởng rất hậu, mình lập được công lớn này, việc khôi phục nguyên hàm vốn đã là chuyện trong tay, mà biết đâu còn được thăng luôn ba cấp. Không ngờ chờ tới chờ lui trong khách điếm, chờ suốt hơn nửa năm, hàng ngày tới phủ Tướng quân nghe ngóng tin tức, nhưng như đá chìm đáy bể, về sau còn bị Môn phòng cao giọng quát đuổi, không cho y tới cổng quấy rầy nữa.
Ngô Chi Vinh vô cùng sốt ruột, số vàng Trang Doãn Thành tặng đã đổi ra bạc chi dùng gần hết, mà lần tố cáo này lại không có chút kết quả nào, vừa phiền não vừa kinh ngạc. Hôm ấy y đi dạo trong thành Hàng Châu, đi ngang cổng thư cục Văn Thông đường, lò dò bước vào định đọc sách chùa để giết thời giờ, lại thấy trên giá sách bày ba bộ Minh thư tập lược, nghĩ thầm chẳng lẽ những lỗi mình nêu ra lại không đủ để tố cáo Trang Doãn Thành sao? Hãy cứ tìm thêm vài chỗ văn chương đại nghịch bất đạo, sáng mai sẽ viết một tờ bẩm thiếp khác, dâng vào phủ Tướng quân. Tuần phủ Chiết Giang là người Hán, Tướng quân thì là người Mãn Châu, y sợ Tuần phủ không chịu khơi vụ án văn tự này ra, nên nhất định phải tố cáo với Tướng quân người Mãn Châu.
Y mở sách ra, vừa đọc vài trang bất giác hoảng sợ giật nảy mình, toàn thân như rơi vào hố băng, nhất thời ngây ra như tượng gỗ, vò đầu bứt tai, chỉ thấy những chỗ phạm điều cấm kỵ trong sách đều đã thay đổi không còn dấu vết, từ Đại Thanh Thái tổ mở nước trở đi cũng đều đổi dùng niên hiệu Đại Kim Đại Thanh để ghi năm, còn những lời công kích Đô đốc vệ Kiến Châu (thân thích của tổ tiên hoàng đế Mãn Thanh) cho tới các niên hiệu Long Vũ, Vĩnh Lịch lại càng một chữ cũng không thấy. Nhưng văn chương trước sau xuyên suốt, trong sách lại sạch sẽ, hoàn toàn không có dấu vết bôi sửa, trò diễn này làm sao xảy ra, quả thật rất kỳ lạ.
Y hai tay bưng sách, đứng trong thư quán ngơ ngẩn xuất thần, qua khoảng nửa bữa cơm chợt la lớn một tiếng “Đúng rồi!”. Nhìn thấy bìa quyển sách sạch sẽ mới tinh, bèn hỏi người trong thư quán, quả nhiên là thư khách buôn sách từ Hồ Châu vừa đưa tới, đổi hàng chẳng qua chỉ mới bảy tám hôm. Y nghĩ thầm “Gã Trang Doãn Thành này lợi hại thật! Đúng là tiền có thể thông với thần minh. Y thu hồi sách cũ, chế lại mộc bản, in lại sách mới, xóa bỏ hết những chỗ phạm điều cấm kỵ trong nguyên thư. Hừ, chẳng lẽ như thế mà xong à?”.
Ngô Chi Vinh đoán việc quả nhiên không sai. Nguyên là Tướng quân Tùng Khôi ở Hàng Châu không biết chữ Hán, viên sư gia trong mạc phủ thấy bẩm thiếp của Ngô Chi Vinh, lập tức toàn thân toát mồ hôi, biết là vụ này có quan hệ rất trọng đại, hai tay cầm tờ bẩm thiếp không tự chủ được cứ run lên bần bật.
Người mặc khách này họ Trình, tên Duy Phiên, người Thiệu Hưng Chiết Giang. Dưới hai triều Minh Thanh, mạc khách của quan lại mười người thì có tám chín người quê Thiệu Hưng, nên sau hai chữ sư gia thường có hai chữ Thiệu Hưng, gọi là sư gia Thiệu Hưng. Vị sư gia này trước kia theo học với các bậc tiền bối đồng hương được một pho bí quyết, sau đó biện lý việc hình danh tiền gạo, xử sự lại càng mười phần lão luyện. Những công văn trong phủ đều do sư gia suy nghĩ viết ra, mọi người đã là đồng hương, công văn của quan viên cấp dưới trình lên nha môn cấp trên cũng không dễ bị bới móc phản bác. Vì vậy quan lại lớn nhỏ đáo nhiệm thì điều quan trọng nhất là phải dùng hậu lễ mời bằng được một vị sư gia Thiệu Hưng. Dưới hai triều Minh Thanh, người Thiệu Hưng làm quan lớn hoàn toàn không nhiều nhưng thao túng được chính trị Trung Quốc tới mấy trăm năm, cũng là một trang kỳ tích trong lịch sử chính trị Trung Quốc. Trình Duy Phiên tâm địa trung hậu, tin tưởng câu danh ngôn “Cửa công là chỗ dễ tu hành”. Đây là nói quan phủ cầm đại quyền sinh sát bách tính trong tay, sư gia lúc soạn thảo công văn chỉ cần nặng tay thêm vài chữ là có thể khiến bách tính nhà tan người chết, còn nếu nhẹ tay một chút thì có thể khiến họ giữa chỗ chết tìm được đường sống, vì thế cứu người ở cửa công còn có kết quả hơn nhiều so với việc tu hành trong chùa miếu. Y thấy vụ Minh sử này nếu biến thành vụ án lớn thì vùng Tô Nam Chiết Tây không biết sẽ có bao nhiêu người tan nhà nát cửa, lập tức xin Tướng quân cho nghỉ vài hôm, ngày đêm ngồi thuyền tìm tới trấn Nam Tầm Hồ Châu báo cho Trang Doãn Thành biết chuyện.
Trang Doãn Thành đột nhiên đại họa lâm đầu, bay hồn lạc phách, lập tức sợ tới mức toàn thân nhũn ra, miệng sùi bọt mép, không biết làm sao là tốt, qua hồi lâu mới đứng thẳng người lên, hai gối quỳ xuống, lạy tạ đại ân của Trình Duy Phiên, sau đó hỏi kế y. Trình Duy Phiên lúc ngồi thuyền từ Hàng Châu tới Nam Tầm đã nghĩ đi nghĩ lại, tìm được cách hay, nghĩ thầm bộ Minh thư tập lược này lưu hành đã lâu, có giấu cũng không giấu được, chỉ có cách dùng kế rút củi dưới nồi, một mặt sai người tới thư quán các nơi thu mua toàn bộ mang về thiêu hủy, một mặt ngày đêm thuê thợ khắc một bản mới, bỏ đi những chỗ cấm kỵ, in ra sách mới để bán ra ngoài. Lúc quan phủ truy cứu ắt sẽ giở bản Minh sử mới ra tra xét, phát giác lời tố cáo của Ngô Chi Vinh không đúng sự thật, thì có thể tiêu hủy một trường tai họa. Lúc ấy bèn nói kế ra. Trang Doãn Thành vừa mừng vừa sợ, liên tiếp khấu đầu cảm tạ. Trình Duy Phiên lại chỉ giáo cho y không ít chi tiết quan trọng, quan Mỗ thì phải đưa lễ vật bao nhiêu, nha môn Mỗ thì phải thông lưng thế nào, Trang Doãn Thành nhất nhất vâng dạ.
Trình Duy Phiên về tới Hàng Châu, hơn nửa tháng sau mới chuyển nguyên thư và bẩm thiếp của Ngô Chi Vinh qua chỗ Tuần phủ Chiết Giang Chu Xương Tộ, phê thêm vài chữ qua loa, nói kẻ dâng tờ bẩm thiếp này là Tri huyện vì tham tang bị cách chức, dường như có thù oán nên bới lông tìm vết, xin Phủ đài đại nhân tra xét rõ ràng.
Lúc Ngô Chi Vinh khổ sở chờ đợi tin tức trong khách điếm ở Hàng Châu thì tiền bạc của Trang Doãn Thành lại như nước tuôn ra. Lúc ấy các khoản hối lộ hậu hĩ của Trang Doãn Thành đã đưa tới nha môn Tướng quân, nha môn Tuần phủ và nha môn Học chính. Chu Xương Tộ nhận được công văn, việc in sách lại thuộc Học chính cai quản, để lại hơn mười ngày mới chuyển công văn cho Học chính Hồ Thượng Hành. Sư gia trong nha môn Học chính lại gác lại hơn nửa tháng, rồi cáo bệnh một tháng, kế mới thong thả soạn công văn báo cho phủ Hồ Châu. Học quan phủ Hồ Châu lại gác lại hơn hai mươi ngày mới chuyển công văn xuống Học quan hai huyện Quy An và Ô Trình, sai hai người thân sức. Hai viên Học quan này cũng đã sớm nhận được một khoản hối lộ hậu hĩ của Trang Doãn Thành, lúc ấy bản Minh sử mới đã khắc in xong, hai người gởi hai bộ sách mới lên thượng cấp, bẩm “Sách này tầm thường thô thiển, không có ích gì cho thế đạo nhân tâm, mà tra xét kỹ trong toàn sách, thì không có chỗ nào phạm vào điều cấm”, từng tầng từng tầng báo lên, chuyện kể như xong.
Ngô Chi Vinh tới thư quán phát hiện ra bộ Minh sử mới in mới biết như thế, nghĩ thầm chỉ có cách tìm bằng được một bộ Minh sử bản gốc mới có thể tố cáo vụ này. Trong các thư quán ở Hàng Châu, những sách nguyên bản đã bị Trang gia mua hết, lúc ấy bèn tới các châu huyện hẻo lánh ở Chiết Đông tìm mua, nào ngờ một bộ cũng tìm không ra. Y cùng đường rầu rĩ, chỉ còn cách bỏ chuyện về quê. Cũng là việc vừa khéo, dọc đường đi, trong một khách điếm lại thấy chủ nhân đang lắc đầu ngoẹo cổ đọc sách, nhìn tới thì chính là bộ Minh thư tập lược, hỏi mượn giở qua một lượt, thì chính là nguyên bản. Lúc ấy y vô cùng mừng rỡ, nghĩ nếu hỏi mua thì một là chưa chắc chủ khách điếm đã chịu bán, hai là mình cũng không có tiền, mua không được, chỉ còn cách lấy trộm. Nửa đêm y rón rén trở dậy, ăn trộm được sách xong lỏn ra cửa, nghĩ tất cả quan lại Chiết Giang ắt đều đã nhận tiền hối lộ của Trang Doãn Thành, một là không làm, hai là làm thì không thôi, bèn quyết ý lên Bắc Kinh tố cáo.
Ngô Chi Vinh tới Bắc Kinh, viết bẩm thiếp xong, tố cáo với Lễ bộ, Đô sát viện, Thông chính ty ba chỗ nha môn, nói rõ Trang gia hối lộ quan lại, đổi in sách mới ra sao.
Không ngờ chờ ở kinh không đầy một tháng, nha môn ba nơi trước sau phê bác, đều nói đã tra xét kỹ sách Minh thư tập lược của Trang Đình Long, nội dung hoàn toàn không phạm điều cấm, lời tố cáo của viên Tri huyện bị cách chức Ngô Chi Vinh là không đúng sự thật, rõ ràng là vì oán thù vu cáo, còn như chuyện hối lộ quan viên này nọ lại càng là lời đuổi gió bắt bóng. Lời phê bác của Thông chính ty lại càng nặng nề, nói “Ngô Chi Vinh vì tham tang bị cách chức, lại coi những quan lại thanh liêm trong thiên hạ cũng đều tham lam như y”. Nguyên là Trang Doãn Thành nghe lời chỉ giáo của Trình Duy Phiên, đã sớm đưa bản Minh sử mới in tới Lễ bộ, Đô sát viện, Thông chính ty ba chỗ nha môn, các viên sư gia có quan hệ với quan lại cũng đều đã sớm đưa hậu lễ tới làm quen.
Ngô Chi Vinh lại gặp rủi ro, trước mắt thấy về nhà thì không còn tiền, thế ắt phải lưu lạc tha hương. Lúc bấy giờ triều đình nhà Thanh đối xử với văn sĩ người Hán cực kỳ nghiêm khắc, trong văn chương hơi có chỗ phạm điều cấm là lập tức xử tử, nếu Ngô Chi Vinh tố cáo kẻ văn nhân tầm thường thì đã sớm đắc thủ, nhưng lại gặp phải đối thủ là nhà phú hộ, nên chướng ngại trùng trùng. Đã không còn đường lui, định liều mạng vào tù cũng phải tố cáo vụ này đến cùng, lúc ấy lại viết bốn tờ bẩm thiếp chia gởi bốn vị Cố mệnh đại thần, đồng thời ở trong khách điếm lại viết mấy trăm tờ thư rơi vạch trần việc này dán khắp nơi trong thành Bắc Kinh. Lần này thì y mạo hiểm làm bừa, nếu quan phủ truy cứu ra nói y thêu dệt bịa đặt, làm rối loạn lòng người thì không thoát khỏi tội nặng mất đầu.
Bốn vị Cố mệnh đại thần là Sách Ni, Tô Khắc Tát Cáp, Cát Tất Long, Ngao Bái, đều là khai quốc công thần người Mãn Châu. Lúc hoàng đế Thuận Trị qua đời, có di chiếu sai bốn đại thần phụ chính. Trong đó Ngao Bái là người hung dữ nhất, bè đảng trong triều cực đông, đại quyền trong triều đình nhà Thanh cơ hồ đều rơi hết vào tay một mình y. Y sợ các phe đảng khác làm điều bất lợi cho mình nên phái vô số thám tử nghe ngóng động tĩnh trong ngoài kinh thành. Hôm ấy được mật báo, nói trong thành Bắc Kinh xuất hiện rất nhiều thư rơi, vạch trần họ Trang ở Chiết Giang làm sách mưu phản, đại nghịch bất đạo, quan lại Chiết Giang ăn hối lộ, để mặc đó không xem xét. Ngao Bái được tin, lập tức tra xét, lúc ấy ầm ầm như sấm ran chớp giật. Đúng lúc ấy bẩm thiếp của Ngô Chi Vinh cũng đã đưa tới phủ Ngao Bái. Y lập tức triệu kiến Ngô Chi Vinh, hỏi kỹ mọi việc rồi sai các mạc khách thuộc hạ người Hán kiểm tra kỹ bộ Minh sử bản gốc mà Ngô Chi Vinh trình ra, lời y quả đúng sự thật.
Ngao Bái nhờ quản công được phong tước công, làm quan lớn, trước nay kỳ thị quan lại người Hán và người đọc sách, sau khi nắm đại quyền lại càng muốn xử mấy vụ án lớn để trấn áp lòng người, không những khiến người Hán không dám có ý nghĩ làm phản mà còn khiến những phe đảng đối địch trong triều không dám khinh dị vọng động, lúc ấy lập tức phái Khâm sai tới Chiết Giang tra xét. Chuyến ấy cả nhà họ Trang cố nhiên bị bắt về kinh, ngay Tướng quân Hàng Châu Tùng Khôi, Tuần phủ Chiết Giang Chu Xương Tộ trở xuống tới các quan viên lớn nhỏ cũng đều bị cách chức tra xét. Những kẻ sĩ văn học có tên trong Minh sử không ai không đeo xiềng vào nhà ngục. Cố Viêm Vũ, Hoàng Tông Hy hai người ở nhà Lã Lưu Lương, đem đầu đuôi vụ án kể lại một lượt, Lã Lưu Lương nghe thấy chỉ thở dài. Đêm ấy ba người ngủ chung trò chuyện, nghị luận thế sự, nói tới việc Thái giám Ngụy Trung Hiền cuối thời Minh hãm hại kẻ trung lương, lũng đoạn triều chính, toàn làm những việc đảo hành nghịch thi, rốt lại đến nỗi nhà Minh diệt vong, đến thời Thanh người Hán bị hành hạ giết chóc, họa nạn càng nhiều, không ai không nắm tay nghiến răng.
Sáng sớm hôm sau cả nhà Lã Lưu Lương và Cố Viêm Vũ, Hoàng Tông Hy hai người lên thuyền đông hành. Những nhà khá giả trở lên ở Giang Nam, trong nhà đều có thuyền, Giang Nam là vùng sông nước, đường sông ngòi thông ra bốn phương tám hướng, dày đặc như lưới nhện, tất cả mọi người xuất hành đều ngồi thuyền, cái gọi là phương bắc cưỡi ngựa, miền nam đi thuyền, từ xưa đã đúng như thế.
Tới Hàng Châu rồi, từ Vận Hà rẽ lên hướng bắc, đêm ấy tới ngoài thành Hàng Châu nghe ngóng tin tức, triều đình nhà Thanh đã vì vụ án này xử quyết không ít quan lại và bách tính: Trang Đình Long đã chết, đào quan tài băm xác, Trang Doãn Thành trong ngục không chịu nỗi ngược đãi mà chết, toàn bộ nhà họ Trang mấy mươi người từ mười lăm tuổi trở lên đều bị xử trảm, vợ và con gái thì phát phối ra Phiên Dương, làm nô lệ cho quân Mãn Châu. Thị lang bộ Lễ Lý Lệnh Triết làm bài tựa cho sách này bị lăng trì xử tử, bốn con trai bị xử trảm. Con trai út Lý Lệnh Triết mới mười sáu tuổi, Pháp ty thấy quá nhiều người chết, trong lòng bất nhẫn, bảo y khai giảm xuống một tuổi, chiếu theo luật nhà Thanh thì mười lăm tuổi trở xuống được miễn tử sung quân. Thiếu niên ấy nói “Cha anh ta đều chết, ta cũng không muốn sống một mình”, cuối cùng không chịu đổi lời khai, cũng bị xử trảm. Tùng Khôi, Chu Xương Tộ vào ngục chờ thẩm xét, mặc khách Trình Duy Phiên bị lăng trì vứt ở chợ. Hai viên học quan huyện Quy An, Ô Trình bị xử trảm. Những người vì liên lụy với vụ án này mà chết oan cũng không biết bao nhiêu mà kể. Tri phủ Hồ Châu Đàm Hy Mẫn mới tới đáo nhiệm nửa tháng, triều đình nói y biết việc mà không báo lên, nhận hối lộ ỉm chuyện đi, cùng bị xử giảo với Thôi quan Lý Hoán, Huấn đạo Vương Diêu Trinh.
Ngô Chi Vinh căm hận nhất là phú hộ Nam Tầm Chu Hựu Minh, hôm trước tới xin xỏ bị y làm nhục một trận đuổi ra khỏi cửa, lúc ấy bèn khai với Pháp ty biện lý vụ án nói quyển sách này ghi rõ là “Nguyên cảo của họ Chu tăng san nhuận sắc soạn thành”, họ Chu đây chính là Chu Hựu Minh, lại nói tên y là “Hựu Minh” (giúp đỡ nhà Minh), rõ ràng có lòng nhớ nhà Minh, phỉ báng bản triều. Chuyện ấy đưa ra, Chu Hựu Minh và năm con trai cùng bị xử trảm, tài sản trong nhà hơn mười vạn lượng, triều đình hạ lệnh thưởng hết cho Ngô Chi Vinh.
Thê thảm nhất là những thợ khắc mộc bản, thợ in sách, thợ đóng sách cho tới chủ nhân và những người làm công trong thư phố thư điếm, những người mua sách đọc, sau khi tra xét ra được đều bị xử trảm. Theo sử sách ghi chép, lúc ấy ở cửa quan Hử Thự Tô Châu có một viên Chủ sự Xác hóa (viên lại ở cửa quan) tên Lý Thượng Bạch thích đọc sử sách, nghe nói ở thư phường Lư Môn Tô Châu có một bộ Minh sử mới in, nội dung rất hay, bèn sai một người làm công đi mua. Người làm công tới đó thì chủ nhân thư điếm đi vắng, bèn ngồi trong nhà một ông già họ Chu sát vách thư điếm để chờ, khi chủ nhân trở về, mua sách rồi đi, Lý Thượng Bạch đọc vài quyển, cũng không để ý lắm. Qua vài tháng, vụ án phát ra, tra xét tới những người bán sách mua sách. Lúc ấy Lý Thượng Bạch đi công cán ở Bắc Kinh, mắc tội mua sách phản nghịch bị lập tức trảm quyết tại kinh. Chủ nhân thư điếm và người làm công vâng lệnh đi mua sách bị chém đầu. Ngay cả ông già họ Chu ở sát vách cũng bị liên lụy, nói đã biết người tới mua sách phản nghịch tại sao không lập tức đi báo, lại còn để y ngồi chơi trong nhà? Lẽ ra phải chém đầu, nhưng nghĩ đã quá bảy mươi tuổi nên miễn tử, cùng vợ con sung quân ra vùng biên viễn.
Còn tới các danh sĩ Giang Nam vì Trang Đình Long hâm mộ tên tuổi ghi rõ tham gia khảo hiệu trong sách, đều bị lăng trì xử tử cùng ngày, kể ra có bọn Mao Nguyên Tích mười bốn người. Cái gọi là lăng trì xử tử là cứ từng dao từng dao từ từ xẻo hết thịt trên người, đến khi phạm nhân chịu đủ nỗi thống khổ rồi mới xử tử. Những người vì bộ sách này mà nhà tan người chết quả thật không sao kể xiết.
Bọn Lã Lưu Lương ba người được tin, căm tức không sao chịu nỗi, nghiến răng chửi mắng. Hoàng Tông Hy nói “Y Hoàng tiên sinh có tên trong những người tham gia khảo hiệu, phen này chỉ e không thoát khỏi kiếp nạn”. Ba người bọn họ trước nay chơi thân với Tra Y Hoàng, đều vô cùng lo lắng.
Một hôm thuyền tới Gia Hưng, Cố Viêm Vũ mua được trong thành một tờ để báo, trên ghi rõ tên họ những người mắc tội trong vụ án Minh sử. Nhưng lại thấy trong lời thượng dụ có một câu nói “Tra Kế Tá, Phạm Tương, Lục Kỳ ba người tuy có tên trong những người tham gia khảo hiệu nhưng trước đó chưa từng nhìn thấy sách, nên miễn tội không tra cứu”. Cố Viêm Vũ đem tờ để báo xuống thuyền, cùng Hoàng Tông Hy, Lã Lưu Lương cùng xem lại, tấm tắc khen là chuyện lạ.
Hoàng Tông Hy nói “Chuyện này ắt là do Đại lực tướng quân làm”, Lã Lưu Lương nói “Đại lực tướng quân là ai, xin được thỉnh giáo”. Hoàng Tông Hy nói “Hai năm trước huynh đệ tới làm khách ở nhà Y Hoàng tiên sinh, chỉ thấy phủ đệ của y tất cả đều đổi mới, đình viện rộng rãi, trần thiết đẹp đẽ, khác hẳn lúc trước. Trong phủ còn nuôi một ban hát Côn khúc Ban tử, thanh sắc tài nghệ ít thấy ở Giang Nam. Huynh đệ trước nay chơi thân với Y Hoàng tiên sinh, nói chuyện tới chỗ phơi gan trải mật bèn hỏi duyên do. Y Hoàng tiên sinh kể lại một câu chuyện, quả thật là kỳ ngộ chốn phong trần”. Lúc ấy bèn kể lại câu chuyện nói trên.
Tra Kế Tá, tự Y Hoàng (Sách Cô thặng có truyện Tuyết cấu kể lại chuyện lạ này, đoạn mở đầu nói “Hiếu liêm họ Tra ở huyện Hải Ninh tỉnh Chiết Giang tự Y Hoàng, tài hoa tuyệt thế mà phong lưu tiêu sái, thường nói mắt thấy mênh mông, không chịu nỗi việc nhìn nhau buồn tẻ, nhưng bậc kỳ kiệt trong thiên hạ, nếu không tìm trong đám người thường giữa chốn trần ai thì không sao có được”). Một hôm cuối năm ở nhà, sai lấy rượu ra độc ẩm, không bao lâu tuyết rơi xuống, càng lúc càng lớn. Tra Y Hoàng uống rượu một mình thấy chán, bèn ra ngoài cổng ngắm cảnh tuyết rơi. Thấy có người ăn mày tránh tuyết nép dưới vòm cổng, người này thân hình cao lớn, cốt cách hùng dũng, chỉ mặc một manh áo đơn rách đứng trong gió tuyết mà như không hề thấy lạnh, chỉ là trên mặt có vẻ uất ức tức giận. Tra Y Hoàng thầm thấy là lạ, bèn nói “Trận tuyết này không phải một lúc mà ngừng, vào nhà uống một chén được không?”. Người ăn mày nói “Tốt lắm!”. Tra Y Hoàng bèn mời y vào nhà, sai thư đồng đem chén đũa ra, rót rượu nói “Mời!”. Người ăn mày nâng chén uống cạn, khen ngợi “Rượu ngon!”
Tra Y Hoàng rót liên tiếp cho y ba chén nữa, người ăn mày uống rất hào sảng. Tra Y Hoàng thích nhất là những người hào sảng, trong lòng vui vẻ, nói “Huynh đài tửu lượng rất cao, không biết là uống được bao nhiêu?”. Người ăn mày nói “Tửu phùng tri kỷ thiên bôi thiểu, Thoại bất đầu cơ bán cú đa” (Rượu gặp tri âm ngàn chén ít, Lời không hợp ý nửa câu nhiều). Hai câu này tuy là lời sáo ngữ quen thuộc, nhưng được nói ra từ miệng một người ăn mày, nên Tra Y Hoàng thầm khen là kỳ lạ, liền sai thư đồng mang ra một vò rượu Nữ nhi hồng Thiệu Hưng lớn, cười nói “Tại hạ tửu lượng có hạn, mới rồi lại đã uống trước, không thể bồi tiếp huynh đài thống ẩm, nên lão huynh uống một bát lớn thì ta uống một chén nhỏ bồi tiếp được không?”. Người ăn mày nói “Như thế cũng được”. Lúc ấy thư đồng hâm rượu, chia ra rót vào bát vào chén. Tra Y Hoàng uống một chén thì người ăn mày uống một bát lớn. Lúc người ăn mày uống hơn hai mươi bát thì trên mặt vẫn chưa có vẻ say, mà Tra Y Hoàng thì đã say gục xuống. Nên biết loại rượu Nữ nhi hồng Thiệu Hưng này uống vào thì thấy bình thường, nhưng tửu tính lại rất lợi hại. Người Thiệu Hưng mà sinh được con trai con gái thì ủ rượu từ vài vò tới vài mươi vò đem chôn xuống đất, đến khi con gái lấy chồng thì đem ra đãi khách, lúc bấy giờ rượu đã biến thành màu hổ phách, gọi là Nữ nhi hồng. Nghĩ rượu chôn xuống đất mười bảy mười tám đến hơn hai mươi năm, tự nhiên là rất dễ say. Còn rượu mà người sinh con trai chôn xuống đất gọi là Trạng nguyên hồng, mong sau này lúc con trai thi đậu Trạng nguyên sẽ đem ra đãi khách. Trạng nguyên thì phụ nữ không thể đậu được, nên có quá nửa là khi con trai cưới vợ sẽ đem ra đãi khách. Rượu của các hàng rượu ủ để bán, cũng hay gọi tên là Trạng nguyên hồng, Nữ nhi hồng.
Thư đồng dìu Tra Y Hoàng vào nhà ngủ, người ăn mày liền tự bước ra đứng dưới vòm cổng. Sáng hôm sau Tra Y Hoàng thức dậy, vội ra xem người ăn mày, chỉ thấy y đứng chắp tay sau lưng, đang say sưa ngắm tuyết. Một trận gió bấc thổi tới, Tra Y Hoàng thấy hơi lạnh thấu tới tận xương, còn người ăn mày vẫn thản nhiên như không. Tra Y Hoàng nói “Trời lạnh đất băng, huynh đài y phục như thế không khỏi quá mức mỏng manh”, rồi lập tức cởi cái áo da dê trên người khoác lên vai y. Lại lấy ra mười lượng bạc, hai tay đưa qua nói “Có chút ít tiền mua rượu, huynh đài đừng từ chối. Lúc nào có hứng xin mời quay lại uống rượu. Đêm qua huynh đệ say quá, chưa thể dọn giường mời khách, xin đừng phiền trách”. Người ăn mày cầm tiền, nói “Nói thế làm gì”, cũng không cảm ơn, nghênh ngang bỏ đi.
Mùa xuân năm sau, Tra Y Hoàng tới Hàng Châu du ngoạn. Một hôm tới một ngôi miếu hoang, thấy một cái chuông cổ rất lớn, ít ra cũng trên bốn trăm cân, y đang ngắm nghía hoa văn tự dạng khắc trên chuông chợt có một người ăn mày sải chân bước vào điện, tay trái nắm tai chuông nhấc một cái, cái chuông lớn bị nhấc lên vài thước. Người ăn mày lấy từ dưới chuông ra một bát thịt lớn, một be rượu lớn đặt qua một bên, rồi đặt cái chuông vào chỗ cũ. Tra Y Hoàng thấy y có thần lực như vậy không kìm được hoảng sợ, nhìn kỹ lại thì là người ăn mày cùng uống rượu mùa đông năm ngoái, liền cười hỏi “Huynh đài có nhận ra ta không?”. Người ăn mày nhìn y một cái, cười nói “A, té ra là ngươi. Hôm nay thì ta làm chủ, cùng uống thật say, nào nào nào, uống rượu”. Nói xong đưa be rượu qua.
Tra Y Hoàng đón lấy be rượu, uống một hớp lớn, cười nói “Rượu này quả rất không kém”. Người ăn mày bốc trong bát ra một miếng thịt lớn, nói “Đây là thịt chó, ăn được không?”. Tra Y Hoàng tuy cảm thấy dơ dáy, nhưng nghĩ thầm “Mình đã coi y là bạn rượu, nếu lại từ chối thì không khỏi có chỗ coi thường y”. Lúc ấy bèn đưa tay đón lấy, cắn một miếng nhai, lại thấy rất thơm ngon. Hai người bèn ngồi xuống nền đất trong miếu, cái be rượu chuyền qua chuyền lại, ngươi một hớp, ta một hớp, không bao lâu rượu thịt đều hết nhẵn. Người ăn mày hô hô cười rộ, nói “Tiếc là rượu ít quá, không làm ông Hiếu liêm say ngã lăn ra được”.
Tra Y Hoàng nói “Mùa đông năm ngoái gặp nhau ở tệ xá, hôm nay lại vô tình gặp nhau, thật là có duyên. Huynh đài thần lực kinh nhân, vốn là một vị kỳ nam tử trong thiên hạ, được kết giao với một người bạn như ngươi, tiểu đệ rất vui mừng. Nếu huynh đài có hứng, chúng ta tới tửu lâu uống tiếp được không?”. Người ăn mày nói “Hay lắm, hay lắm!”. Hai người bèn tới tửu lâu Lâu Ngoại Lâu cạnh Tây Hồ gọi rượu uống tiếp, không bao lâu Tra Y Hoàng lại say gục xuống. Đến khi tỉnh dậy thì người ăn mày không biết đã đi đâu rồi.
Đó là chuyện cuối đời Sùng Trinh nhà Minh, vài năm sau quân Thanh vào cửa quan, nhà Minh diệt vong. Tra Y Hoàng dứt ý tiến thủ, chỉ ở nhàn trong nhà, một hôm chợt có một viên võ quan dắt bốn tên lính tìm tới Tra phủ.
Tra Y Hoàng hoảng sợ, chỉ cho rằng tai họa tới cửa, nào ngờ viên võ quan ấy thi lễ rất cung kính, nói “Vâng lệnh Ngô Quân môn ở Quảng Đông, có chút lễ mọn kính tặng”. Tra Y Hoàng nói “Ta và quý thượng quan vốn không quen biết, e là lầm rồi”. Viên võ quan lấy hộp bái thiếp rút ra một tấm danh thiếp màu đại hồng mạ vàng trên viết “Kính bái Tra tiên sinh Y Hoàng, húy Kế Tá”, dưới viết “Quyến vãn sinh Ngô Lục Kỳ cúi đầu lạy trăm lạy”. Tra Y Hoàng nghĩ thầm “Ngay cái tên Ngô Lục Kỳ mình cũng chưa từng nghe qua, sao y lại tặng lễ vật cho mình?”, lúc ấy trầm ngâm không nói gì. Viên võ quan nói “Tệ thượng quan nói chút lễ mọn này xin Tra tiên sinh đừng cười”. Nói xong đặt hai cái hộp tròn sơn đen thếp vàng lên bàn, lạy phục xuống thỉnh an rồi lập tức cáo từ.
Tra Y Hoàng mở hộp lễ vật ra, rõ ràng là năm mươi lượng vàng ròng, hộp kia là sáu bình rượu Tây dương, trên bình khảm minh châu phỉ thúy, đẹp đẽ quý báu phi thường. Tra Y Hoàng càng hoảng sợ, đuổi theo định bảo viên võ quan kia thu hồi lễ vật, nhưng người học võ bước chân mau lẹ, đã đi xa rồi. Tra Y Hoàng trong lòng buồn bực, nghĩ thầm “Hoạnh tài bỗng không mà tới, không phải tai họa mà là tai họa, hay là có người hãm hại mình?”. Lúc ấy bèn phong kín hai hộp lễ vật lại cất vào mật thất. Họ Tra gia cảnh dư dật, vàng thì không cần phải dùng tới, chỉ là đã nghe tiếng rượu Tây dương từ lâu, lại không dám mở ra uống thử, nên không khỏi trong lòng ngứa ngáy.
Qua vài tháng, cũng không có chuyện gì khác. Một hôm lại có một quý công tử ăn mặc sang trọng tìm tới. Vị công tử này chẳng qua chỉ khoảng mười bảy mười tám tuổi, tinh thần sung mãn, khí vũ hiên ngang, dắt theo tám người tùy tùng, vừa gặp Tra Y Hoàng là lập tức quỳ xuống dập đầu, miệng nói “Tra thế bá, điệt nhi Ngô Bảo Vũ xin bái kiến”. Tra Y Hoàng vội đỡ dậy, nói “Chữ thế bá ấy thật không dám nhận, không biết tôn đại nhân là ai?”. Ngô Bảo Vũ nói “Tên húy của gia nghiêm trên là Lục dưới là Kỳ, hiện là Thông tỉnh thủy lục Đề đốc tỉnh Quảng Đông, đặc biệt sai tiểu điệt tới phủ kính mời thế bá tới Quảng Đông chơi vài tháng”.
Tra Y Hoàng nói “Trước đây đội ơn lệnh tôn đại nhân hậu tứ, trong lòng cảm thấy bất an. Nói ra thật xấu hổ, chứ huynh đệ tính tình lông bông, không nhớ được là quen lệnh tôn đại nhân lúc nào. Huynh đệ là một thư sinh, trước nay không kết giao với bậc quý quan. Mời công tử ngồi một lúc”. Rồi vào phòng trong bưng hai hộp lễ vật ra nói “Xin công tử đem về, quả thật không dám nhận món hậu lễ này”. Y cho rằng Ngô Lục Kỳ làm Đề đốc Quảng Đông, ắt là hâm mộ tiếng tăm của mình nên đưa hậu lễ mời mình làm mặc khách. Người này thân ở ngôi cao, làm ưng khuyển cho người Mãn, khinh rẻ hà hiếp người Hán, nếu nhận vàng bạc của y là làm nhơ tiếng tăm của mình, lúc ấy trên mặt có vẻ rất kiên quyết.
Ngô Bảo Vũ nói “Gia nghiêm có dặn là thế nào cũng phải mời được thế bá. Nếu thế bá đã quên gia nghiêm thì ở đây có một tín vật, mời thế bá xem”. Rồi đón lấy một cái bọc từ tay tùy tùng mở ra, thì là một cái áo bào da dê cũ mèm. Tra Y Hoàng thấy cái áo cũ, nhớ ra là vật mình tặng người ăn mày kỳ lạ lúc tuyết rơi ngày trước, mới sực nhớ ra chính là người bạn rượu cùng uống say năm xưa, chợt động tâm nghĩ “Người Thát Đát chiếm cứ thiên hạ của ta, nếu có người tay cầm binh phù dựng cờ nghĩa trước, bốn phương hưởng ứng, thì biết đâu có thể đuổi người Thát Đát ra ngoài cửa quan. Người ăn mày kỳ lạ này còn nhớ được cái ơn một bữa cơm một tấm áo của mình năm xưa thì không phải là kẻ không có lương tâm, nếu mình dùng đại nghĩa khích động, cũng chưa chắc đã không có hy vọng. Nam nhi lập công báo nước chính là lúc này, cho dù việc không xong mà y giết chết mình thì đã làm sao?”.
Lúc ấy y bèn vui vẻ lên đường tới Quảng Đông. Tướng quân Ngô Lục Kỳ đón vào trong phủ, thái độ cực kỳ cung kính, nói “Lục Kỳ lưu lạc ở Giang Nam, đội ơn Tra tiên sinh không bỏ, coi ta là bạn. Mời ta uống rượu, tặng ta áo bào, đó là chuyện nhỏ, chứ lúc ở trong miếu hoang chịu uống rượu cùng be, cùng bốc thịt chó với ta, đó mới là thật lòng coi trọng ta. Lục Kỳ lúc ấy cùng đường, tới đâu cũng bị người ta lạnh nhạt, mà Tra tiên sinh đối xử nhiệt tâm như vậy, lập tức khiến Lục Kỳ vô cùng phấn chấn. Được như hôm nay, đều là do Tra tiên sinh ban cho”. Tra Y Hoàng lạnh lùng nói “Theo như vãn sinh thấy, Ngô tướng quân hôm nay lại không cao minh bằng người ăn mày kỳ lạ trong tuyết năm xưa cũng chưa biết chừng”. Ngô Lục Kỳ sửng sốt, nhưng cũng không hỏi thêm, chỉ nói “Vâng, vâng!”. Đêm ấy mở tiệc thật lớn, mời hết quan viên văn võ trong thành Quảng Châu dự tiệc, nhường Tra Y Hoàng ngồi ghế đầu, mình thì ngồi dưới bồi tiếp.
Quan viên văn võ trong thành Quảng Châu từ Tuần phủ trở xuống thấy Đề đốc đại nhân cung kính với Tra Y Hoàng như vậy ai cũng thầm lấy làm lạ. Viên Tuần phủ còn cho rằng Tra Y Hoàng là Khâm sai đại thần do hoàng đế phái đi vi hành để tra xét, chứ nếu không thì Ngô Lục Kỳ ngày thường đối xử với người khác mười phần ngạo nghễ, tại sao lại cung cung kính kính với một thư sinh ở Giang Nam như thế? Sau khi tiệc tan, viên Tuần phủ bèn thì thầm hỏi dò Ngô Lục Kỳ rằng vị khách quý này có phải là người có quyền thế trong triều không. Ngô Lục Kỳ mỉm cười nói “Lão huynh quả rất thông minh, xem tướng mạo xét khí sắc thì trong mười có chín là trúng”. Câu ấy vốn có ý phúng thích, nói y đoán tới lần thứ mười thì sai. Nào ngờ viên Tuần phủ lại hiểu lầm, cho rằng Tra Y Hoàng đúng là Khâm sai, nghĩ thầm vị Tra đại nhân này ở lại trong phủ Ngô Đề đốc thì đã liên kết với y rồi, Ngô Đề đốc với mình trước nay lại không hợp nhau lắm, nếu sau khi Khâm sai đại nhân về kinh, trong tờ tâu có điều bất lợi cho mình thì thật hỏng bét, nên sau khi trở về bèn sắp một phần lễ vật trọng hậu, sáng sớm hôm sau đem tới phủ Đề đốc.
Ngô Lục Kỳ ra gặp khách, nói Tra tiên sinh tối qua say quá chưa tỉnh, lễ vật của Phủ đài nhất định sẽ đưa thay cho, cứ việc yên lòng, không cần lo lắng. Viên Tuần phủ nghe xong cả mừng, luôn miệng cảm ơn rồi ra về. Tin tức truyền ra, các quan viên đều biết Phủ đài đại nhân đưa tặng Tra tiên sinh lễ vật trọng hậu. Vị Tra tiên sinh này lai lịch ra sao thì không thể biết được, nhưng ngay Tuần phủ mà cũng tặng lễ vật thì chẳng lẽ mình lại không tặng? Trong vài hôm, ở phủ Đề đốc lễ vật chất cao như núi. Ngô Lục Kỳ sai Trướng phòng cứ nhất nhất thu nhận, nhưng không được cho Tra tiên sinh biết. Y hàng ngày ngoài những lúc tới quân phủ liệu lý việc công thì chỉ bồi tiếp Tra Y Hoàng uống rượu.
Hôm ấy vào lúc xế chiều, hai người lại ngồi đối ẩm ở lương đình trong hoa viên. Rượu qua vài tuần, Tra Y Hoàng nói “Quấy rầy trong phủ đã lâu, đã cảm thịnh tình, vãn sinh định sáng mai về bắc”. Ngô Lục Kỳ nói “Tiên sinh nói gì vậy? Tiên sinh xuống nam không dễ, nếu không ở lại một năm sáu tháng thì quyết không để tiên sinh về được. Sáng mai xin bồi tiếp tiên sinh tới Ngũ Tằng lâu chơi. Danh thắng ở Quảng Đông rất nhiều, du ngoạn vài tháng cũng chưa hết”.
Tra Y Hoàng nhân có hơi rượu, bạo dạn nói “Núi sông tuy đẹp, nhưng đã rơi vào tay Di Địch, nhìn ngắm chỉ thêm đau lòng”. Ngô Lục Kỳ hơi biến sắc, nói “Tiên sinh say rồi, nên đi nghỉ sớm”. Tra Y Hoàng nói “Lúc mới gặp nhau, ta kính trọng ngươi là một bậc hào kiệt trong chốn phong trần, đủ để làm bạn, nào ngờ đã nhìn lầm người”. Ngô Lục Kỳ nói “Nhìn lầm thế nào?”, Tra Y Hoàng cao giọng nói “Ngươi thân thủ cao cường, lại không ra sức vì nước vì dân, lại giúp Trụ làm ác, làm ưng khuyển cho Thát Đát, khinh rẻ hà hiếp bách tính người Hán, bây giờ lại dương dương đắc ý, không biết nhục nhã. Tra Mỗ cuối đời thấy xấu hổ vì làm bạn với ngươi”, nói xong đứng phắt lên.
Ngô Lục Kỳ nói “Tiên sinh nói khẽ thôi, những lời như thế mà để người ta nghe thấy thì có thể có một trường đại họa đấy”. Tra Y Hoàng nói “Ta hôm nay còn coi ngươi là bạn bè, nên có lời hay muốn giúp. Nếu ngươi không nghe thì cứ việc giết ta không hề gì. Tra Mỗ tay không đủ sức trói gà, dù sao cũng không chống nổi”. Ngô Lục Kỳ nói “Tại hạ xin rửa tai kính cẩn lắng nghe”. Tra Y Hoàng nói “Tướng quân cầm binh phù giữ toàn tỉnh Quảng Đông, đúng là cơ hội tốt để dấy cờ nghĩa về nẻo chính. Lên cao hô một tiếng, thiên hạ hưởng ứng, cho dù đại sự không thành cũng đủ để người Thát Đát vỡ mật, làm nên một trường oanh oanh liệt liệt, mới không phụ ngươi trời sinh thần dũng, đầu óc khôn ngoan”.
Ngô Lục Kỳ rót rượu vào chén, uống một hơi cạn sạch, nói “Tiên sinh nói rất thống khoái!”, rồi giang hai tay ra một cái, soạt một tiếng xé toang áo để lộ bộ ngực đầy lông đen, gạt đám lông ra để lộ tám chữ nhỏ thích trên ngực “Thiên phụ địa mẫu, phản Thanh phục Minh”.
Tra Y Hoàng vừa sợ vừa mừng, hỏi “Đây... đây là cái gì?”. Ngô Lục Kỳ khép vạt áo lại, nói “Mới rồi nghe tiên sinh một phen cao luận, rất là kính phục. Tiên sinh bất kể đại họa sát thân diệt tộc, phơi gan trải mật, chỉ điểm cho tại hạ, tại hạ đâu dám che giấu nữa. Tại hạ vốn là người trong Cái bang, hiện là Hương chủ Hồng Thuận đường của Thiên Địa hội, thề dốc hết bầu máu nóng trong lòng, phản Thanh phục Minh”.
Tra Y Hoàng thấy Ngô Lục Kỳ thích chữ trên ngực, không chút nghi ngờ, nói “Té ra tướng quân thân ở doanh Tào lòng ở Hán, mới rồi ăn nói mạo phạm, đắc tội rất nhiều”. Ngô Lục Kỳ cả mừng, nghĩ thầm câu Thân ở doanh Tào lòng ở Hán là ví minh với Quan Vân Trường, bèn nói “Lối so sánh ấy thật không dám nhận”. Tra Y Hoàng nói “Không biết thế nào là Cái bang, thế nào là Thiên Địa hội, xin được thỉnh giáo”.
Ngô Lục Kỳ nói “Mời tiên sinh uống thêm một chén, để tại hạ thong thả thuật lại”. Lúc ấy mỗi người uống thêm một chén. Ngô Lục Kỳ nói “Cái bang đã có từ lâu đời, từ thời Tống đến nay, là một đại bang trên giang hồ. Anh em trong bang đều ăn xin để sống, cho dù gia tư giàu có nhưng đã gia nhập Cái bang, cũng phải phá hết gia tư, sống cuộc sống ăn xin. Trong bang dưới bang chủ là bốn đại trưởng lão, dưới nữa là Tả Hữu Trung Tiền Hậu ngũ phương hộ pháp. Tại hạ giữ chức Tả hộ pháp, ở trong bang tính là đệ tử tám túi, thân phận không phải thấp, về sau vì bất hòa với một vị trưởng lão họ Tôn, gây sự đánh nhau, lúc ấy tại hạ say rượu, lỡ tay đánh y trọng thương. Không tôn kính bậc tôn trưởng đã là phạm vào bang quy, đánh trưởng lão bị thương càng là đại tội, bang chủ và bốn trưởng lão sau khi họp bàn, trục xuất tại hạ ra khỏi bang. Hôm gặp nhau ở quý phủ, tiên sinh mời ta uống rượu, lúc ấy tại hạ vừa bị trục xuất khỏi bang, trong lòng đang uất ức phiền muộn, đội ơn tiên sinh không bỏ, còn coi tại hạ là bằng hữu, trong lòng lập tức thoải mái rất nhiều”. Tra Y Hoàng nói “Té ra là thế”. Ngô Lục Kỳ nói “Mùa xuân năm sau gặp nhau lần thứ hai ở cạnh Tây Hồ, tiên sinh hạ mình kết giao, khen ta là bậc kỳ nam tử trong thiên hạ. Tại hạ nghĩ ngợi suốt mấy hôm, nghĩ mình không được Cái bang dung nạp, bằng hữu giang hồ đều coi thường ta, ngày nào cũng say khướt, tự hủy hoại mình, đã thấy trong vòng vài năm nhất định sẽ chết vì rượu. Vị Tra tiên sinh này lại nói ta là một bậc kỳ nam tử, Ngô Lục Kỳ ta chẳng lẽ lại một phen ngã xuống không đứng lên được, vĩnh viễn không còn ngày ngóc đầu được nữa sao? Không bao lâu sau, quân Thanh nam hạ, ta trong lòng uất ức, không biết phải trái, bèn theo quân Thanh, lập được không ít quân công, tàn sát đồng bào, nghĩ lại rất xấu hổ”.
Tra Y Hoàng nghiêm trang nói “Như vậy thì sai rồi. Huynh đài không được Cái bang dung nạp thì độc lai độc vãng cũng tốt, tự lập môn phái cũng tốt, cần gì phải khổ tâm theo hạ sách ấy, ra sức cho quân Thanh?”. Ngô Lục Kỳ nói “Tại hạ ngu xuẩn lỗ mãng, lúc ấy chưa được tiên sinh dạy bảo, làm không ít chuyện sai trái, quả thật rất đáng chết”. Tra Y Hoàng gật đầu nói “Tướng quân đã biết là sai, thì lập công chuộc tội vẫn còn chưa muộn”.
Ngô Lục Kỳ nói “Về sau nhà Mãn Thanh chiếm cả Nam Bắc, ta cũng được phong làm Đề đốc. Hai năm trước nửa đêm chợt có người xông vào phòng ngủ của ta hành thích. Thích khách ấy về võ công không phải là đối thủ của ta, bị ta bắt sống, thắp đèn lên nhìn lại là Tôn trưởng lão trong Cái bang ngày trước bị ta đánh trọng thương. Y ngoác miệng chửi lớn, nói ta hèn hạ vô sỉ, cam tâm làm ưng khuyển cho dị tộc. Y càng chửi mắng càng hung dữ, câu nào cũng đánh trúng tâm khảm của ta. Những lời ấy có lúc ta cũng nghĩ tới, biết rõ là những điều mình làm rất không phải, ban đêm lòng tự hỏi lòng, thấy rất xấu hổ, chỉ là chính mình suy nghĩ vẫn không minh bạch thống khoái bằng lời y chửi mắng. Ta thở dài một tiếng, giải khai huyệt đạo cho y, nói: Tôn trưởng lão, ngươi chửi rất đúng, ngươi đi đi. Y rất kinh ngạc, lập tức vượt ra cửa sổ bỏ đi”.
Tra Y Hoàng nói “Làm như thế rất đúng!”.
Ngô Lục Kỳ nói “Lúc ấy trong nhà ngục của nha môn Đề đốc có không ít hảo hán liên can tới việc phản Thanh. Sáng sớm hôm sau, ta tìm sổ sách thả tất cả ra, người thì nói là bắt lầm, người thì nói không phải là chủ mưu, nhẹ nhàng phát lạc. Qua một tháng, vị Tôn trưởng lão kia nửa đêm lại tới gặp ta, mở cửa thấy núi hỏi có phải ta đã có lòng hối hận, tình nguyện phản Thanh lập công hay không. Ta rút đao ra, chém một nhát đứt hai ngón tay trái, nói Ngô Lục Kỳ quyết tâm sửa bỏ lỗi trước, từ nay trở đi xin nghe theo hiệu lệnh của Tôn trưởng lão”. Rồi đưa bàn tay trái ra, quả nhiên không còn ngón vô danh và ngón út, chỉ còn có ba ngón.
Tra Y Hoàng giơ ngón tay cái lên, nói “Hảo hán tử!”.
Ngô Lục Kỳ nói tiếp “Tôn trưởng lão thấy ta thành tâm, lại biết ta tuy tính tình lỗ mãng nhưng đã nói ra thì trước nay chưa từng nuốt lời, bèn nói: “Tốt lắm, chờ ta về bẩm lại bang chủ để xin chỉ thị”. Sau mười ngày, Tôn trưởng lão lại tới gặp ta, nói bang chủ và bốn trưởng lão bàn bạc, quyết định thu nhận ta vào bang trở lại, bắt đầu từ hàng đệ tử một túi. Lại nói Cái bang đã kết minh với Thiên Địa hội, đồng tâm hiệp lực, phản Thanh phục Minh. Thiên Địa hội này là do mưu sĩ Trần Vĩnh Hoa Trần tiên sinh thủ hạ của Quốc tính gia Trịnh đại soái ở Đài Loan sáng lập, gần đây vãng lai tới một dải Phúc Kiến, Chiết Giang, Quảng Đông, rất là thịnh vượng. Tôn trưởng lão dẫn kiến ta với hương chủ Hồng Thuận đường Quảng Đông của hội, gia nhập Thiên Địa hội. Thiên Địa hội tra xét ta một năm, giao ta làm mấy việc quan trọng, thấy ta quả thật trung tâm bất nhị, gần đây nhất Trần tiên sinh từ Đài Loan gửi thư tới, phong ta chức hương chủ Hồng Kỳ hương trong Hồng Thuận đường”.
Tra Y Hoàng tuy không biết lai lịch Thiên Địa hội, nhưng Quốc tính gia Diên Bình quận vương Trịnh Thành Công ở Đài Loan cô quân chống Thanh, tinh trung anh dũng, thiên hạ không ai không biết. Thiên Địa hội này đã do mưu sĩ thủ hạ của y là Trần Vĩnh Hoa sáng lập thì tự nhiên là người đồng đạo, lúc ấy không ngừng gật đầu.
Ngô Lục Kỳ lại nói “Năm trước Quốc tính gia suất lĩnh đại quân bao vây tấn công Kim Lăng, tiếc là quả bất địch chúng, phải rút về Đài Loan, nhưng để lại không ít quan quân bộ thuộc không kịp rút theo ở ba tỉnh Giang Chiết Mân. Trần tiên sinh ngầm liên lạc với các huynh đệ cũ, tổ chức thành Thiên Địa hội, khẩu hiệu trong hội là Thiên phụ địa mẫu, phản Thanh phục Minh, đó chính là tám chữ mà tại hạ thích trên ngực. Anh em bình thường trong hội trên người cũng không thích chữ, sở dĩ tại hạ thích chữ là muốn học theo ý tứ Tinh trung báo quốc của Nhạc Vũ Mục ngày xưa”.
Tra Y Hoàng trong lòng rất mừng, liên tiếp uống hai chén, nói “Hành vi của huynh đài như thế mới thật không xấu hổ với tiếng khen bậc kỳ nam tử trong thiên hạ”. Ngô Lục Kỳ nói “Mấy chữ bậc kỳ nam tử trong thiên hạ thật xấu hổ không dám nhận. Chỉ cần Tra tiên sinh chịu coi ta là bằng hữu, họ Ngô cũng đã vui sướng bất tận rồi. Trần Vĩnh Hoa Trần tiên sinh Tổng đà chủ Thiên Địa hội của bọn ta còn có tên là Trần Cận Nam, đó mới thật là bậc anh hùng hảo hán nổi tiếng, người trên giang hồ nói tới không ai không kính phục, có hai câu rất hay là Bình sinh không biết Trần Cận Nam, Có tiếng anh hùng cũng uổng phí. Tại hạ trước nay chưa từng gặp Trần Tổng đà chủ, nên cũng không rõ là nhân vật thế nào”. Tra Y Hoàng tưởng tượng tới khí khái anh hùng của Trần Cận Nam, không kìm được xuất thần. Kế rót hai chén rượu, nói “Nào, chúng ta cạn một chén vì Trần Tổng đà chủ!”.
Hai người uống một hơi cạn chén, Tra Y Hoàng nói “Tra Mỗ là một thư sinh, với nước với dân chẳng có chút công lao gì. Chỉ cần ngày nào tướng quân thừa cơ nổi dậy, ra sức kháng Thanh, Tra Mỗ ắt sẽ tìm tới dưới cờ, làm hết sức mình”. Từ hôm ấy trở đi, Tra Y Hoàng ở trong phủ của Ngô Lục Kỳ, ngày đêm cùng y bí mật bàn bạc, tính toán kế sách kháng Thanh. Ngô Lục Kỳ nói thế lực của Thiên Địa hội đã từng bước lan ra tới các tỉnh phía bắc, ở các tỉnh lớn đều đã mở hương đường. Tra Y Hoàng nấn ná trong phủ Ngô Lục Kỳ sáu bảy tháng mới trở về quê. Vừa về tới nhà thì giật nảy mình, bên cạnh nhà cũ đã dựng lên một khoảnh viện trạch mới, nguyên là Ngô Lục Kỳ phái người đem những tiền bạc mà quan viên lớn nhỏ ở tỉnh Quảng Đông tặng tới phủ Tra Y Hoàng ở Chiết Giang đại hưng thổ mộc, xây dựng lâu đài.
Tra Y Hoàng vốn biết Hoàng Tông Hy và Cố Viêm Vũ tha thiết việc khôi phục nước cũ, bôn tẩu bốn phương, tụ họp anh hùng hào kiệt trong thiên hạ, cùng mưu phản Thanh, vì vậy không hề che giấu kể lại chuyện này cho y nghe. Hoàng Tông Hy trong thuyền kể lại đầu đuôi chuyện ấy cho Lã Lưu Lương nghe rồi nói “Nếu chuyện này lộ ra để bọn Thát Đát tiên hạ thủ vi cường, thì Y Hoàng tiên sinh và Ngô tướng quân nhất định gặp cái họa diệt tộc, mà đại nghiệp chống Thanh còn mất đi một bậc đống lương đấy”. Lã Lưu Lương nói “Ngoài ba người chúng ta, chuyện này quyết không thể để lộ ra một chữ, cho dù gặp mặt Y Hoàng tiên sinh cũng quyết không được nói tới tên Ngô tướng quân ở Quảng Đông”. Hoàng Tông Hy nói “Y Hoàng tiên sinh và Ngô tướng quân có một đoạn uyên nguyên như thế, các đại thần trong triều đang có chuyện lớn nhờ cậy Ngô tướng quân, nếu Ngô tướng quân ra mặt tâu bày cho Y Hoàng tiên sinh thì nhất định triều đình phải nể mặt y”. Lã Lưu Lương nói “Lời Hoàng huynh rất đúng, chỉ không biết hai người Lục Kỳ, Phạm Tương vì sao cũng được như Y Hoàng tiên sinh, nói là chưa thấy sách ấy, miễn tội không truy cứu? Chẳng lẽ hai người ấy cũng được người có thế lực trong triều tâu bày giúp ư?”. Hoàng Tông Hy nói “Ngô tướng quân tâu bày cho Y Hoàng tiên sinh, nếu trong đơn chỉ đề tên một người thì e người ta sinh nghi, nên ghi tên cả hai người kia vào cũng chưa biết chừng”. Lã Lưu Lương cười nói “Nói thế thì e rằng hai người Lục Phạm đến giờ này cũng chưa biết vì sao mình còn sống”, Cố Viêm Vũ gật đầu nói “Danh sĩ Giang Nam bảo toàn thêm được một người cũng là bảo lưu thêm được một phần nguyên khí”[1].
Chuyện ba người bọn họ bàn là điều bí mật bậc nhất đương thời, lúc ấy đang trong thuyền trên Vận Hà, trong khoang sau chỉ có ba người vợ con họ Lã, Hoàng Tông Hy lại hạ giọng nói rất khẽ, không sợ bị người khác nghe trộm, trong thuyền không có tường, cũng không sợ ngoài vách có tai. Không ngờ Cố Viêm Vũ vừa dứt lời, chợt nghe trên đầu vang lên một tiếng cười khằng khặc quái dị. Ba người giật nảy mình, cùng quát “Người nào?”, nhưng lại không có lấy nửa tiếng động. Ba người ngớ mặt nhìn nhau, đều nghĩ thầm “Chẳng lẽ lại có ma quái thật sao?”
Trong ba người thì Cố Viêm Vũ gan dạ nhất, cũng từng học một chút võ nghệ thô thiển để phòng thân, lúc vừa ngưng thần đã thò tay vào bọc rút ra một thanh chủy thủ, đẩy cửa khoang bước ra đầu thuyền, chăm chú nhìn lên trên mui, đột nhiên trên mui thuyền có một cái bóng đen đứng bật dậy nhảy xổ xuống. Cố Viêm Vũ quát “Ai?”, rồi vung chủy thủ đâm thẳng tới, nhưng chợt thấy cổ tay đau buốt, đã bị nắm giữ, kế đó sau lưng tê rần, đã bị điểm trúng huyệt đạo, thanh chủy thủ rời khỏi tay, thân hình cũng bị đẩy vào khoang thuyền. Hoàng Tông Hy và Lã Lưu Lương thấy Cố Viêm Vũ bi đẩy vào khoang thuyền, phía sau có một hán tử áo đen, trong lòng cả kinh, thấy hán tử kia thân thể cao lớn, mặt nở nụ cười hung ác. Lã Lưu Lương nói “Các hạ đang đêm xông bừa vào đây, là có ý gì?”.
Người kia cười nhạt nói “Đa tạ ba người các ngươi cho lão tử thăng quan phát tài. Ngô Lục Kỳ muốn tạo phản, Tra Y Hoàng muốn tạo phản, Ngao Thiếu bảo được tin mật báo, lại không trọng thưởng sao? Ha ha, ba vị nên theo ta tới Bắc Kinh để làm chứng”.
Lã Lưu Lương nói “Các hạ nói gì, ba người bọn ta chẳng hiểu chút gì cả. Ngươi muốn vu cáo người tốt, lại muốn lôi kéo người khác vào, như thế không được”. Y đã quyết ý liều chết, nếu giết y đi thì người chết không đối chứng được.
Đại hán kia cười nhạt một tiếng, đột nhiên nghiêng người sấn tới, điểm vào ngực Hoàng Tông Hy và Lã Lưu Lương mỗi người một cái, Lã Hoàng hai người lập tức không động đậy được nữa. Đại hán hô hô cười rộ, nói “Các vị huynh đệ, vào khoang cả đi, lần này Tiền phong doanh chúng ta lập được công lớn rồi”. Người sau lái đồng thanh ứng tiếng, rồi có bốn người bước vào, đều ăn mặc theo lối nhà thuyền, nhất tề hô hô cười rộ.
Cố Hoàng Lã ba người ngớ mặt nhìn nhau, biết Tiền phong doanh là thân binh của hoàng đế nhà Thanh, không biết vì sao mấy người này lại đã theo dõi mình từ lâu, ăn mặc theo lối phu chèo thuyền, nãy giờ nằm trên mui thuyền nghe trộm. Hoàng Tông Hy và Lã Lưu Lương thì cũng thôi, nhưng Cố Viêm Vũ mười mấy năm nay vết chân in khắp Thần châu, tới đâu cũng kết giao với anh hùng hào kiệt, nhãn quan có thể nói là không kém, mà đối với mấy người phu chèo thuyền này lại không hề để ý.
Chợt nghe một tên thân binh gọi “Nhà thuyền quay thuyền lại, đi về Hàng Châu, có chuyện gì thì coi chừng cái mạng chó của ngươi đấy”. Người đà công sau lái ứng tiếng “Dạ!”.
Người đà công là một ông già sáu bảy mươi tuổi, Cố Viêm Vũ lúc thuê thuyền từng trò chuyện với y, người này mặt đầy nếp nhăn, lưng còng như cái cung, quả có dáng vẻ nhiều năm làm việc chèo chống, lúc ấy gặp xong không hề nghi ngờ. Không ngờ tuy người đà công buôn bán thật thà nhưng đám phu thuyền thủ hạ của y đều đã bị đánh tráo, dưới sự uy hiếp của đám thân binh thì không biết làm sao, chỉ trách mình cùng hai người Hoàng Lã cao đàm hoạt luận, đặt mình vào chỗ hiểm mà không tự biết.
Đại hán áo đen cười nói “Cố tiên sinh, Hoàng tiên sinh, Lã tiên sinh, ba vị tiếng tăm rất lớn, cả các đại quan trong kinh cũng biết, nếu không bọn ta cũng không đi theo các ngươi, hô hô!”. Rồi quay lại bốn tên thân binh thuộc hạ nói “Chúng ta có bằng cứ xác thực về việc Ngô Đề đốc ở Quảng Đông mưu phản, chuyến này phải đi mau tới Hải Ninh bắt họ Tra. Ba tên phản tặc này rất cứng đầu, trốn thì không trốn được rồi, nhưng phải đề phòng họ uống thuốc độc hay nhảy xuống sông. Các ngươi mỗi người canh giữ một người, nếu xảy ra chuyện gì thì quan hệ không nhỏ đấy”. Bốn người kia ứng tiếng đáp “Dạ, xin kính cẩn tuân lệnh Qua Quản đới”. Qua Quản đới nói “Về kinh gặp Ngao Thiếu bảo xong, không ai phải lo chuyện thăng quan phát tài đâu”. Một tên thân binh cười nói “Đó đều là nhờ Qua Quản đới đề bạt tài bồi, chứ chỉ bằng vào bốn người bọn tôi thì làm sao có được phúc phận thế này?”.
Đầu thuyền đột nhiên có người cười ha hả, nói “Bằng vào bốn người bọn ngươi thì vốn cũng không có tai họa thế này”.
Ầm một tiếng, cửa khoang thuyền bay tung ra hai bên, một thư sinh khoảng ba mươi tuổi xuất hiện, chắp tay sau lưng, miệng mỉm cười.
Qua Quản đới quát “Các lão gia sai quan đang phá án ở đây, ngươi là ai?”. Thư sinh kia mỉm cười không đáp, rảo chân bước vào khoang thuyền. Ánh đao chớp lên, hai thanh đơn đao chia ra hai bên tả hữu chém xuống. Thư sinh kia nghiêng người tránh khỏi rồi sấn vào Qua Quản đới, vung chưởng đập xuống đầu y. Qua Quản đới vội vung tay trái đỡ, tay phải nắm thành quyền đẩy mạnh ra. Thư sinh kia chân trái đá ngược về phía sau trúng ngực một tên thân binh, tên thân binh ấy gào lớn một tiếng, lập tức phun máu ồng ộc. Ba tên thân binh kia vung đao kẻ đâm người chém. Trong khoang thuyền chật hẹp, thư sinh kia thi triển công phu cầm nã, chém đập móc đánh, chát một tiếng, một tên thân binh bị cạnh bàn tay y chém gãy xương cổ. Qua Quản đới chưởng phải vỗ ra đánh vào gáy thư sinh, thư sinh lật chưởng trái lại, bình một tiếng song chưởng chạm nhau, Qua Quản đới lưng đập mạnh vào khoang thuyền, một mảnh ván khoang thuyền lập tức tung ra. Thư sinh kia liên tiếp phát ra hai chưởng đánh vào ngực hai tên thân binh còn lại, tiếng rắc rắc vang lên, xương sườn của hai người đều bị đánh gãy. Qua Quản đới tung người vọt qua chỗ khoang thuyền bị vỡ. Thư sinh kia quát “Chạy đi đâu?”, chưởng trái vỗ mau ra, đã thấy sắp trúng hậu tâm y, không ngờ đúng lúc ấy Qua Quản đới vung chân trái đá ngược lại, một chưởng ấy vừa khéo đánh trúng lòng bàn chân y, luồng chưởng lực lại đẩy y bay về phía trước. Qua Quản đới vội nhảy vọt lên, thấy trên bờ có một cây liễu nghiêng ra mặt sông, bèn chụp cứng cành liễu, lật người một cái bay luôn qua cây liễu.
Thư sinh kia chạy ra đầu thuyền, nhấc ngọn sào lên, vung tay phóng ra.
Dưới ánh trăng, ngọn sào tre như con rắn vọt ra, phóng mau như mũi tên. Chỉ nghe Qua Quản đới “Á” một tiếng thê thảm, ngọn sào tre đã xuyên suốt hậu tâm đóng đinh y xuống đất, thân sào dài vẫn không ngừng lay động.
Thư sinh kia bước vào khoang thuyền, giải khai huyệt đạo cho ba người Cố Hoàng Lã, vứt xác bốn tên thân binh xuống sông, thắp đèn lên lại. Cố Hoàng Lã ba người luôn miệng cảm ơn, kế hỏi tên họ y.
Thư sinh kia cười nói “Tên hèn mới rồi vừa đội ơn Hoàng tiên sinh nhắc tới, tại hạ họ Trần, thảo tự là Cận Nam”.
Chú thích:
Sách này viết từ ngày 23.10.1969 đến ngày 22.9.1972. Lúc bắt đầu viết, tuy cao trào các vụ án văn chương trong đại cách mạng văn hóa ở Trung Quốc đã lùi vào quá khứ, nhưng tình trạng thê thảm vẫn còn in sâu trong lòng, vì thế lúc bắt đầu cấu tứ cho tác phẩm mới, tự nhiên là nghĩ tới văn tự ngục.
Trong gia đình tôi cũng từng có một vụ văn tự ngục nổi tiếng trong lịch sử. Một vị tổ tiên của tôi là Tra Tự Đình, năm Ung Chính thứ 4 là Thị lang bộ Lễ được phái làm Chủ khảo trường thi hương Giang Tây, ra đề thi “Duy dân sở chỉ”. Câu này lấy từ Thi kinh, Thương tụng, Huyền điểu “Bang kỳ thiên lý, Duy dân sở chỉ” (Nước rộng ngàn dặm, Duy dừng ở dân), ý nói đất đai rộng lớn của quốc gia đều là chỗ nhân dân cư trú, hàm chứa ý yêu thương bảo vệ nhân dân. Đó vốn là một đề thi rất bình thường, nhưng có người tố cáo với hoàng đế Ung Chính, nói hai chữ “Duy chỉ” là hai chữ “Ung Chính” bỏ phần đầu, ra đề thi ấy là có dụng ý muốn lấy đầu hoàng đế. Lúc ấy Ung Chính vừa lên ngôi, trải qua tranh giành kịch liệt mới có được ngai vàng, mình lại đã chém đầu không ít người, không khỏi lo sợ hão huyền, nên dựa vào lối chiết tự, bắt giam toàn bộ gia đình Tra Tự Đình xét xử. Tra Tự Đình bị tra tấn tàn khốc chết trong ngục, Ung Chính còn hạ lệnh phanh thây, con trai cũng chết trong ngục, gia thuộc bị đi đày, sĩ nhân Chiết Giang thì không được dự các khoa thi Cử nhân, Tiến sĩ trong sáu năm. Về sau Tra Thận Hành được tha về, không bao lâu thì qua đời.
Có một thuyết khác nói Tra Thận Đình làm một bộ sách nhan đề là Duy chỉ lục. Có một thái giám nói với Ung Chinh rằng hai chữ “Duy chỉ” là bỏ phần đầu của hai chữ “Ung Chính”. Lại nghe nói trong Duy chỉ lục có một thiên bút ký viết “Ngày tháng Mỗ năm Khang Hy thứ 61, trời nổi sấm chớp gió bão, ta bèn xin nghỉ ở nhà. Chợt nghe tin hoàng thượng đại hành, hoàng tử thứ tư tức vị, lạ thay”. “Đại hành” là hoàng thượng qua đời, hoàng tử thứ tư tức Ung Chính, trong sách dùng hai chữ “lạ thay” rõ ràng là mỉa mai Ung Chính dùng thủ đoạn bất chính để cướp ngôi. Trong Duy chỉ lục lại chép ở trấn Chu Kiều phụ cận Hàng Châu có một ngôi miếu Quan Đế, liễn đối ở miếu viết “Hoang thôn cổ miếu do lưu Hán, Dã điếm phù kiều độc tính Chư’ (Thôn hoang miếu cổ còn lưu Hán, Điếm cỏ cầu sông chỉ họ Chư). Hai chữ Chư và Chu đồng âm, nên Ung Chính cho rằng người Hán hoài niệm nhà Minh. Còn việc Tra Tự Đình ra đề thi ở Giang Tây thì thật ra là rút từ sách Luận ngữ “Quân tử bất dĩ ngôn cử nhân, bất dĩ ngôn phế nhân” (Quân tử không vì lời nói mà dùng người, không vì lời nói mà bỏ người). Đề thứ ba là lấy từ sách Mạnh tử “Sơn kinh chi khê gián, giới nhiên dụng chi nhi thành lộ, vị gián bất dụng, tắc mao tắc chi hĩ. Kim mao tắc tử chi tâm hĩ’ (Đường trong núi khúc khuỷu, nhưng dùng thì thành đường, nếu vì cách trở không dùng thì cỏ tranh sẽ lấp kín. Nay cỏ tranh đã lấp kín lòng ông rồi). Lúc bấy giờ đang làm việc tiến cử, triều đình cho rằng ông có ý phỉ báng, đề thứ ba nói cỏ tranh lấp kín trong lòng, triều đình bàn là “Không biết ám chỉ việc gì, trong lòng không sao hiểu rõ”.
Lời thượng dụ của Ung Chính nói “Tra Tự Đình... trẫm sai làm Hành tẩu trong nội đình, sau thăng làm Nội các học sĩ, thấy lời lẽ dối trá, lại thêm tướng mạo hèn hạ, đã đoán là tâm thuật bất chính. Nay xem đề bài y ra trong kỳ thi ở Giang Tây thì rõ ràng mang lòng oán vọng, mỉa mai thời thế. Đoán là trong lòng bội nghịch, ngày thường ắt có ghi chép, sai người tra xét hành lý nơi chỗ ở, có hai quyển nhật ký, hung hăng hoang đường, có rất nhiều lời oán vọng chê bai phỉ báng thêu dệt. Lại đối với việc trị nước dùng người của Thánh tổ, thì ra sức phỉ báng... Nhiệt Hà ngẫu nhiên bị lụt, thì chép là hơn tám trăm quan quân chết đuối, lại viết trong lúc mưa có cào cào bay rợp trời, những lời hoang đường như vậy đều là chuyện chưa từng có... Lập tức sai bắt giữ, giao cho Tam pháp ty nghiêm khắc thẩm vấn xét xử. Những tội danh mà Ung Chính công khai nêu ra là: Thấy tướng mạo nên đoán là tâm thuật bất chính, mỉa mai thời thế, ghi lại chuyện thiên tai trong nhật ký.
Sách này lần đầu in trên Minh báo, hồi 1 gọi là “Tiết tử”, tên hồi là một câu thơ của Tra Thận Hành “Như thử băng sương như thử lộ” (Băng sương như thế đường như thế). Tra Thận Hành vốn tên Tự Liên, là anh ruột Tự Đình, cùng hai em là Tự Lật, Tự Đình đều là Hàn lâm. Ngoài ra anh họ ông là Tự Hàn thi đậu Bảng nhãn, cháu là Tra Thăng làm Thị giảng, cũng đều là Hàn lâm. Con trưởng Tra Thận Hành là Khắc Kiến, em họ ông là Tự Lang đều thi đậu Tiến sĩ. Đương thời khen là “Nhất môn thất Tiến sĩ, Thúc điệt ngũ Hàn lâm” (Một nhà bảy Tiến sĩ, Chú cháu năm Hàn lâm), khoa danh trong gia đình rất thịnh. Tra Thận Hành và Tự Lật vì bị liên lụy với vụ văn tự ngục của em trai, giữa mùa đông có chỉ bắt toàn gia đình từ quê lên kinh giam vào ngục. Đương thời còn có không ít danh sĩ bị liên lụy, Tra Thận Hành trên đường lên kinh vào ngục làm thơ tặng một người nạn hữu đậu Tiến sĩ cùng khoa, có hai câu là “Nhu thử băng sương như thử lộ, Thất tuần dĩ ngoại lưỡng đồng niên (Băng sương như thế đường như thế, Đôi bạn đồng niên quá bảy mươi).
Tra Thận Hành tính ra là thi nhân bậc nhất thời Thanh, nhưng đặt vào thời Đường thời Tống đại khái chỉ có thể xếp vào bậc hai. Vương Sĩ Trinh, Triệu Dực, Kỷ Hiểu Lam thời Thanh đều khen thơ ông có thể sánh ngang với Lục Du, có chỗ hơn chỗ kém, e là quá lời. Hoàng đế Khang Hy rất thích thơ ông, ông sau khi đậu Cử nhân thi Tiến sĩ ba lần không đậu, Khang Hy triệu ông vào cung, làm Đương trực ở Nam thư phòng. Sau khi vào cung lại khảo thí mới đậu Tiến sĩ đệ nhị giáp đệ nhị danh, lúc ấy anh họ, em thứ hai, cháu và con ông đều đã đậu Tiến sĩ. Cùng đậu Tiến sĩ khoa Quý mùi (năm Khang Hy thứ 42) với Tra Thận Hành có em họ ông là Tự Tuân và đồng hương là Trần Thế Quan (cha Trần Gia Lạc trong Thư kiếm ân cừu lục). Tra Thận Hành và em thứ hai Tự Lật đều là học trò của Hoàng Tông Hy.
Tra Thận Hành có Kính Nghiệp đường thi tập năm mươi quyển, tục tập sáu quyển, ông lúc trong ngục ở Bắc Kinh vẫn không ngừng làm thơ, ở đây sao ra vài bài thơ trong ngục để thấy thi phong của ông:
Khốc tam đệ Nhuận Mộc
Gia nạn đồng thời tụ,
Đa lai tống nhữ chung.
Thôn thanh tự huynh đệ,
Khấp huyết đáo hài đổng.
Địa xuất âm hàn động,
Thiên hào thảm đạm phong.
Mạc ta tuyền lộ viễn,
Phụ tử hoạch tương phùng[2]
Khóc em thứ ba là Nhuận Mộc
Nhà nạn thành sum họp,
Đưa em lúc tống chung.
Anh em đều nuốt lệ
Con cháu thảy đau lòng
Đất mở hang tê tái
Trời kêu gió lạnh lùng
Suối vàng đừng ngại lối
Phụ tử sẽ tương phùng[3]
Nhuận tam nguyệt sóc tác
Niên quang hà dữ suy ông sự,
Dã phục thời thời hoán nại hà.
Vị bách thảo ưu xuân vũ thiểu,
Tán thiên hoa tích văn phong đa
Làm ngày mùng một tháng ba nhuận
Năm tháng nào thương tuổi xế chiều,
Mà còn quay lại xót tiêu điều.
Lo thay trăm cỏ mưa xuân ít,
Tiếc hộ ngàn hoa gió tối nhiều[4]
Ngũ ngôn tuyệt cú
Nam sở đối Bắc giám,
Truyền túc cẩm y ngục.
Thặng hữu vi ngoại nhân,
Truy tư Đang họa khốc
Trùng dĩ xú đắc danh,
Hoành hành tội nan yểm.
Quân vị huyết nhục hại.
Kỷ sắt đương mạt diệt.
Nhân gian hữu đào hạnh,
Trướng vọng xuân duy mộ.
Phong quyển phi hoa lai,
Thùy gia đình hạ thụ[5]
Thơ ngũ ngôn tuyệt cú
Trại nam trước dinh bắc,
Đồn là Cẩm y ngục.
Còn thừa người ngoài kia,
Nhớ chuyện xưa tàn khốc[6]
Giỏi vì xấu thành tên,
Hoành hành tội khó chối.
Cùng làm hại máu thịt,
Rận rệp tội ở cuối.
Nhân gian đào hạnh tươi,
Tàn xuân luống ngậm ngùi.
Gió cuốn hoa bay tới,
Là trước cổng nhà ai[7]
Bại quần thước
Triêu cha cha, Mộ man man.
Thước thanh hỷ, Ô thanh ác.
Nhi đồng đả ô bất đả thước,
Đạo thị Ngật Can sinh xứ lạc duy nam
Lưỡng thước chí bất nhân,
Chiếm sào cao thụ bàng vô lân.
Hữu như ưng hóa vi cưu nhân vị hóa,
Dĩ mãnh tế tham tứ cố đồ tính thôn.
Mỗi đương hạ thực quần thoái tỵ,
Lục quốc hà cẩm tranh cường Tần?
Ngã dục khu sử khứ,
Cử hỏa kiêm sào phần.
Nhất hồi nhất thân hoàn la tuần.
Thiên sinh vạn vật hà vật vô bại quần?
Hu ta hồ!
Thiên sinh vạn vật hà vật vô bại quần?
Chim thước tan bầy
Sáng líu lo, Chiều ríu rít.
Thước đáng yêu, Quạ đáng ghét.
Trẻ con đánh quạ không đuổi thước,
Nói là Ngật Can chỉ có phía nam vui[8]
Chim dữ vốn bất nhân,
Đóng tổ cây cao không gần ai.
Có con như ưng hóa thành cưu mắt chửa hóa,
Cậy mạnh tham lam nhìn quanh toan ăn hết.
Mỗi khi xuống ăn cả bầy tránh,
Sáu nước đâu dám chống cường Tần?
Ta muốn đuổi cho đi,
Đốt tổ lại hun cây.
Lúc lúc kêu la lại quanh về.
Trời sinh muôn vật vật nào không tan bầy?
Than ôi!
Trời sinh muôn vật vật nào không tan bầy?
Xuân dĩ mộ hĩ, cô liễu thượng vị thư điều, nhàn bộ kỳ hạ ngẫu thành
Vi ngoại tân diệp thụ,
Xuất tường cao đình đình.
Tận địa nãi vi lao,
Độc lai bạn cẩu linh.
Ngã suy hà túc đạo,
Nhật dạ vọng nhữ vinh.
Dĩ vọng tam nguyệt dư,
Chúng nhãn chung vị thanh.
Tương vô học bệnh sấu,
Nhĩ tác chi ly hình?
Tịnh sinh Thiên Địa gian,
Thảo mộc phi vô tình.
Ký ngữ hậu tài giả,
Vật y vấn tù sanh (sảnh)
Đã cuối xuân mà cây liễu lẻ loi vẫn chưa buông tơ, rành rỗi đi dạo bên dưới ngẫu nhiên làm thành
Ngoài kia cây lá mới,
Vượt tường cao rành rành
Khắp đất là ngục tù,
Lại tới làm tù nhân
Ta già đâu đáng nói,
Chỉ mong ngươi lớn nhanh.
Đã đợi ba tháng hơn,
Mầm liễu vẫn chưa xanh.
Hay vì học gầy yếu,
Mà thân ngươi mỏng manh?
Cùng sinh trong trời đất,
Cây cỏ nào vô tình.
Nhắn người trồng sau này,
Đừng nghe lời lính ngục.
Trong thơ Tra Thận Hành có nhiều bài đồng tình với sự khổ cực của nhân dân, thậm chí đối với chim thú cây cỏ cũng gởi gắm nỗi đồng tình. Kính Nghiệp đường thi tập đã công khai khắc in lưu hành, những bài thơ trong ngục đều được bảo lưu, đủ thấy tuy triều đình nhà Thanh thống trị hà khắc, lưới cấm dày đặc, nhưng về việc kiểm tra văn học vẫn thua xa sự nghiêm ngặt trong Đại cách mạng văn hóa của Trung Quốc.
Tên năm mươi hồi trong sách này đều là tập những câu đối nhau trong thơ Tra Thận Hành. Các bài thơ trong Kinh Nghiệp đường thi tập tuy nhiều, nhưng muốn chọn năm mươi câu đối bảy chữ làm tiêu đề cho nội dung của mỗi hồi thì không phải dễ. Cách làm ở đây không phải là tập từng câu lẻ trong những bài khác nhau, thậm chí tập từng câu lẻ trong thơ của các tác giả khác nhau thành câu đối kiểu thông thường mà là chọn những câu đối nhau trong thơ của một người. Có khi câu trên rất hợp, câu dưới lại không có quan hệ gì, hoặc câu dưới rất hợp, nhưng câu trên lại không dùng được thì chỉ còn cách bỏ hết. Vì vậy có một số tên hồi không khỏi không thật ăn khớp với nội dung. Sở dĩ tôi muốn tập thơ Tra Thận Hành, vì phần lớn những bài này đều đã qua mắt Khang Hy (Thơ trong ngục tự nhiên là ngoại lệ), Khang Hy cũng từng đích thân đề tấm biển ngạch ba chữ “Kinh Nghiệp đường” cho Tra Thận Hành, đương nhiên cũng có ý riêng đề cao thơ văn của tổ tiên. Người đọc hiện nay biết Tra Thận Hành là một nhà thơ quan trọng thời Thanh, nhưng thơ của ông rốt lại ra sao thì e rất ít người từng đọc qua, tóm lại ông không thể sánh được với các nhà thơ lớn thật sự.
Người xưa làm văn chương nói tới tổ tiên của mình quyết không dám gọi thẳng tên, mà thường dùng tự hiệu hoặc quan hàm thêm một chữ “công” (ông) ở sau. Nhớ lúc nhỏ trong từ đường nghe các bậc trưởng bối kể chuyện tổ tiên, nói tới Tra Thận Hành thì gọi là “Sơ Bạch thái công”, nói tới Tra Thăng thì gọi là “Thanh Sơn thái công”. Người hiện nay viết văn bạch thoại không cần phải quanh co như vậy, muốn tôn kính tổ tiên thì cứ tôn kính trong lòng là được.
Tên hồi trong sách này có những từ ngữ ít dùng hoặc điển cố, ở cuối mỗi hồi đều có chú giải qua để giúp những người đọc trẻ tuổi hiểu được. Trong tên hồi này, “Cấu đảng” là “Liên lụy mắc họa”, ý câu “Tung hoành cấu đảng thanh lưu họa” là rất nhiều người đọc sách nổi tiếng bị liên lụy mắc họa. “Tiếu thiến” là cao vót tươi sáng, hình dung nhân cách cao thượng, phong thái tươi đẹp, ý câu “Tiếu thiến phong kỳ nguyệt đán binh” là kẻ sĩ hiền hào có cốt cách sẽ được người có kiến thức cao siêu khen ngợi.
Chú thích:
[1] Xét: Trong Liêu Trai chí dị có truyện Đại lực tướng quân thuật chuyện Tra Y Hoàng gặp gỡ Ngô Lục Kỳ, đoạn kết viết “Về sau Tra vướng vào cái án làm sử bị bắt, may được miễn tội đều là nhờ sức tướng quân”, lời bình viết “Ban ơn mà không hỏi tới tên họ, đúng là bậc trượng phu hào hiệp thời cổ. Mà tướng quân báo đáp cũng khảng khái hào sảng, ngàn năm ít thấy, bụng dạ như thế thì ắt không thể chết già nơi ngòi rãnh. Xem đó đủ biết hai bậc hiền tài gặp nhau không phải là ngẫu nhiên đâu”. Cô thặng kể chuyện này thì nói “Trước đó ở Thiều Trung có nhà giàu Trang Đình Long mua được bộ sử của Chu Tướng quốc, tìm mời các danh sĩ vùng Tam Ngô san định tu sửa, khắc in lưu truyền. Đầu sách có kể tên mười mấy người tham gia san định, vì Hiếu liêm là bậc danh sĩ nên cũng kể vào. Không bao lâu vụ án làm sử riêng phát ra, phàm ai có dinh líu tới việc làm sách ấy đều bị xử cực hình. Ngô ra sức tâu bày nên Hiếu liêm mới thoát chết”. Tới như việc Ngô Lục Kỳ tham gia Thiên Địa hội thì chính sử và các tỳ quan trước kia đều chưa thấy chép.
[2] Nguyên chú: Thượng điệt tiên nhất nhật tứ.
[3] Nguyên chú của Tra Thận Hành: Cháu tôi chết trước một ngày. Xét: Nhuận Mộc tức Tra Tự Đình, có con trai chết trước một ngày (chú thích của Kim Dung)
[4] Xét: “Mưa xuân ít “là ám chỉ triều đình ít có ơn, “Gió tối nhiều là chỉ chính sự hà khắc (chú thích của Kim Dung).
[5] Nguyên chú: Thanh minh tiền nhất nhật đại phong, hạnh hoa sổ phiến xuy nhập tường nội
[6] Xét: “Đang họa” chỉ việc bọn thái giám Ngụy Trung Hiền cuối thời Minh hãm hại kẻ vô cô (chú thích của Kim Dung).
[7] Nguyên chú của Tra Thận Hành: Trước tiết Thanh minh một ngày có gió lớn, có vài cánh hoa hạnh bay vào trong tường.