Dịch giả: Nguyễn Ngọc Hiếu
Chương 42
Lộ rõ tài năng

     au khi đã thương lượng xong xuôi mọi việc, Tĩnh vương là người đầu tiên đứng dậy rời đi. Thừa dịp hắn vừa từ biệt quay đi, Mai Trường Tô nhanh chóng liếc Mông Chí một cái.
Bây giờ đầu óc đại thống lĩnh cấm quân vẫn đang nhớ lại những phân tích của Mai Trường Tô, nhất thời chưa hiểu được ý chàng, đến tận lúc chàng phải dùng khẩu hình mới đột nhiên nhớ tới một việc chàng dặn dò mấy ngày hôm trước.
“Đúng rồi, điện hạ.” Mắt thấy Tĩnh vương đã đi tới cửa, Mông Chí lập tức nói. “Lần trước điện hạ cầm quyển “Tường địa ký” ở đây về, không biết điện hạ đã đọc xong chưa? Ta cũng mới xem quyển sách đó, cảm thấy rất thú vị, muốn đọc kĩ để mở mang chút kiến thức, không biết điện hạ có thể cho ta mượn lại đọc vài ngày không?”
“Sao lại hỏi ta? Sách là của Tô tiên sinh cơ mà? Mươn mượn cũng phải hỏi Tô tiên sinh mới đúng chứ?” Tĩnh vương nhíu mày. “Chỉ cần Tô tiên sinh đồng ý cho mượn thì ta sẽ đưa cho ngài.”
Mai Trường Tô mỉm cười, nói: “Chỉ là một quyển sách thôi, ai thích đọc thì cứ mang về đọc. Mông đại thống lĩnh không nhắc tới thì ta cũng quên mất.”
“Nhưng Mông khanh phải đợi mấy ngày.” Tĩnh vương cười, nói. “Quyển sách này bây giờ đang ở chỗ mẫu phi ta, mấy hôm nữa ta vào cung vấn an sẽ mang về.”
Mai Trường Tô khẽ giật mình, dường như hơi bất ngờ. “Tại sao lại ở chỗ Tĩnh phi nương nương?”
“Mẫu phi của ta dù tính tình điềm tĩnh nhưng trước khi vào cung cũng từng du ngoạn nhiều nơi, bây giờ suốt ngày ở trong cung cấm buồn tẻ nên rất thích đọc các loại ký sự. Quyển sách này của Tô tiên sinh là sách hay hiếm thấy, ta vừa buột miệng nhắc tới, mẫu phi đã thấy hứng thú muốn đọc. Tính ra mẫu phi đã đọc quyển sách này nửa tháng rồi, chắc hẳn đã xong, Mông đại thống lĩnh đã muốn xem thì lần sau ta cầm về là được.”
Mông Chí đòi mượn lại sách là do Mai Trường Tô nhờ chứ không phải chính ông ta muốn đọc, nghe Tĩnh vương nói như vậy, lại nhìn vẻ mặt của Mai Trường Tô lạnh nhạt như đeo một tấm mặt nạ, trong lòng không khỏi lo lắng nhưng lại không thể nói gì, đành phải ờ một tiếng, nói một câu: “Đa tạ” rồi cùng Tĩnh vương ra về.
Lúc Mông Chí bí mật vào Tĩnh vương phủ thì trời đã nhá nhem tối, bây giờ đã là nửa đêm, cho nên sau khi cáo từ, Mông Chí lặng lẽ chuẩn bị ra về như lúc đến. Không ngờ vừa mới quay đi đã nghe thấy Tĩnh vương gọi một tiếng, Mông Chí vội dừng bước, xoay người lại.
Nhưng Tĩnh vương gọi ông ta lại mà chỉ do dự không nói, một lúc lâu sau mới chậm rãi hỏi: “Mông đại thống lĩnh muốn đòi lại quyển “Tường địa ký” đó là chính mình muốn đọc hay là ai nhờ ngài mượn giúp?”
Lúc này hắn lại hỏi một câu hoàn toàn ngoài dự đoán khiến Mông Chí không khỏi kinh ngạc, may mà câu hỏi ngược lại của Mông Chí cũng tương đối hợp với vẻ kinh ngạc này: “Sao điện hạ lại hỏi như vậy? Đương nhiên là chính ta muốn đọc. Điện hạ cho rằng ai nhờ ta mượn giúp? Ngoài chúng ta, chẳng lẽ còn có ai khác biết điện hạ mượn Tô tiên sinh quyển sách đó sao?”
Mặc dù lý do khiến Mông Chí kinh ngạc ko phải như những gì ông ta nói nhưng vẻ mặt đầy ngạc nhiên lại là sự thực, Tĩnh vương nhìn một hồi cũng không thấy giống giả bộ, không khỏi cảm thấy khó xử, cười cười giải thích: “Ta chỉ không ngờ Mông đại thống lĩnh lại thích đọc sách nên thuận miệng hỏi thôi, thống lĩnh không nên nghĩ ngợi nhiều”
Mông Chí cười ha ha. “Ta là người học võ, vốn vô duyên với sách vở. Nếu không phải là đọc mấy trang đầu quyển du ký thấy rất thú vị thì ta cũng không muốn mượn lại đọc, khó trách điện hạ lại cảm thấy bất ngờ…”
“Là bản vương thất lễ.” Tĩnh vương khẽ gật đầu tỏ ý tạ lỗi. “Quả thật không nên hỏi như vậy, Mông đại thống lĩnh đừng để trong lòng, cũng đừng… nói chuyện này với Tô tiên sinh…”
“Ờ…” Mông Chí quả thực không rõ ý hắn là gì, lại sợ hỏi nhiều sai nhiều, sau này bị Tiểu Thù trách móc nên chỉ cười ha ha cho qua, nhanh chóng cáo từ rồi chạy đi như bay.
Sau khi Mông Chí đi, Tĩnh vương ngồi thất thần dưới đèn hồi lâu, không biết vì sao không thể tĩnh tâm lại được nên ra thư phòng ở gian ngoài xử lý một số quân vụ và việc ở tuần phòng doanh, sau đó lại ra sân múa kiếm nửa canh giờ, đến tận lúc cả người mệt mỏi mới về tẩm phòng rửa mặt nghỉ ngơi.
Sáng sớm hôm sau thức dậy vào triều, chẳng bao lâu nội uyển đã đi ra truyền chỉ hôm nay vẫn dừng triều, Tĩnh vương liền đi từ cổng Chu Tước vào hậu cung vấn an mẫu phi.
Tính ra đã gần bảy ngày hắn ko gặp Tĩnh phi. Mấy lần trước vừa đến cửa cung đã nghe nói Hoàng đế Đại Lương ở bên trong, không dám quấy rầy, đành phải đứng ngoài cung thi lễ rồi ra về.
Hôm nay Hoàng đế Đại Lương vẫn không lên triều, Tĩnh vương đã chuẩn bị tâm lý không thể gặp mẫu phi lần nữa, ai ngờ vừa đến ngoài cung Chỉ La thông báo đã có nữ quan đi ra đón hắn vào trong.
Tĩnh phi tiếp con trai ở buồng sưởi ấm phía tây nơi bà sinh hoạt thường ngày, vẫn là váy áo trắng, trang điểm nhẹ nhàng, nụ cười dịu dàng. Sau khi hỏi thăm tình hình con trai dạo gần đây, Tĩnh phi liền sai người bưng bánh tự tay làm lên, ngồi bên cạnh nhìn con trai ăn uống.
“Hôm nay phụ hoàng không đến đây?” Tĩnh vương ăn một miếng bánh vừng, hỏi bâng quơ.
“Nghe nói… là Hạ Giang đã vào cung, Bệ hạ thương nghị với ông ta.” Tĩnh phi đáp một câu đơn giản, lại đưa cho con trai một bát canh hạt dẻ. “Nếm thử cái này xem, mẫu phi mới làm.”
“Lần nào con đến mẫu phi cũng làm như thể con ở bên ngoài không có gì ăn vậy.” Tĩnh vương vui đùa. “Từ khi có thể yết kiến mẫu phi bất cứ lúc nào đến giờ, con đã béo hơn một cỡ rồi.”
“Đâu có béo?” Tĩnh phi dịu dàng nói. “Ta e là con ăn ít thôi.”
Thực ra bát canh hạt dẻ này rất nhỏ, Tĩnh vương uống hai ngụm đã hết, dùng khăn lau miệng, nói: “Mẫu phi, quyển “Tường địa ký” lần trước con mang tới đó mẫu phi đã đọc xong chưa?”
“Đã đọc xong rồi. Con cần mang về à?”
“Có một bằng hữu cũng muốn đọc.”
Tĩnh phi đứng dậy, đi sang phòng bên lấy quyển sách tới, chăm chú nhìn bìa ngoài một lát rồi mới chậm rãi đưa cho con trai.
“Mẫu phi… thích quyển sách này lắm à?”
“Đúng vậy…” Tĩnh phi cười khẽ, vẻ mặt hơi xa xăm. “Nó khiến mẫu phi nhớ lại những năm tháng đã qua, chuyện xưa người cũ… Đúng rồi, những ghi chú bên lề sách chính là do vị Tô tiên sinh mà con thường nói viết à?”
“Vâng.”
“Đọc những lời ghi chú đó thì thấy giống như một con người tâm tư khoáng đạt như gió mát trăng thanh, tại sao nghe con nói thì vị Tô tiên sinh này hình như lại là một người tâm tư thâm trầm, giỏi vạch mưu bày kế?”
“Tô tiên sinh là một người nhiều mặt, có lúc đa mưu túc trí đến mức khiến con lạnh lòng, có lúc con lại cảm thấy hắn cũng không vô tình quá mức.” Tĩnh vương khẽ nhướng mày. “Sao vậy? Mẫu phi thấy hắn thú vị sao?”
“Con lòng mang chí lớn, cần giải oan rửa nhục cho huynh trưởng trung thần, cần phò trợ thiên hạ chỉnh đốn triều cương, mẫu phi tự hào vì con. Chỉ tiếc mẫu phi sức yếu, không giúp gì được cho con, đương nhiên mong bên cạnh con có người trung thành đắc lực có thể giúp con hành sự.” Đôi mắt trong suốt như nước mùa thu của Tĩnh phi khẽ động, giọng nói hiền hòa. “Mẫu phi thấy vị Tô tiên sinh này rất tốt, hắn đã bỏ đường tắt là Thái tử và Dự vương mà nhất tâm giúp đỡ con, có thể nói là thành tâm. Con luôn đối xử công bằng chính trực với mọi người, vốn cũng không có gì dặn dò, nhưng cảm thấy nhân tài như Tô tiên sinh rất khó có được, con phải hậu đãi Tô tiên sinh hơn người ngoài vài phần mới được. Tóm lại, bất kể tương lai thế nào thì cũng đừng quên hắn đã trợ giúp con từ đầu.”
Tĩnh vương lẳng lặng lắng nghe, trầm ngâm chốc lát, nhìn mẫu phi chăm chú rồi chậm rãi nói: “Mẫu phi đã nói rồi…”
“Sao?” Tĩnh phi hơi giật mình. “Cái gì?”
“Mẫu phi mới đọc quyển sách này mấy hôm đã hỏi con về chuyện người ghi chú, sau đó cũng từng dặn dò con phải đối xử tử tế với Tô tiên sinh, cần tin cậy dựa dẫm vào Tô tiên sinh nhiều hơn… Tại sao hôm nay mẫu phi lại nhắc lại? Chẳng lẽ sợ con quên hay sao?”
“Thế à?” Tĩnh phi cười cười tự giễu, dùng khăn lụa nhẹ nhàng lau khóe miệng. “Khi có tuổi người ta rất hay quên, chuyện gì đã nói rồi mà cứ phải nhắc lại mấy lần. Xem ra mẫu phi đúng là già rồi…”
Tĩnh vương vội đứng dậy thi lễ. “Mẫu phi còn trẻ, sao lại nói thế? Đều là nhi thần nói sai, xin mẫu phi thứ tội.”
“Được rồi.” Tĩnh phi cười, trách. “Thân mẫu của mình mà còn làm bộ sợ hãi như vậy làm gì? Con đã lớn rồi, có đảm đương, có khát vọng, mẫu phi thấy rất yên lòng. Chuyện bên ngoài ta không can thiệp, chỉ cần con bảo trọng, hết thảy bình an là được.”
“Vâng.” Tĩnh vương đang định nói mấy lời cho bà yên tâm thì một cung nữ xuất hiện ngoài cửa điện, cao giọng nói: “Bẩm nương nương…”
“Đi vào nói đi.”
Cung nữ cúi đầu đi vào, quỳ xuống bẩm: “Điện Vũ Anh truyền tin tới, bệ hạ đã khởi giá đi về bên này, mời nương nương chuẩn bị tiếp giá.”
“Biết rồi. Ngươi lui ra đi.” Tĩnh phi đứng dậy, cầm hai hộp đồ ăn đưa cho Tĩnh vương. “Đây là bánh thảo dược mẫu phi làm, hộp còn lại con mang cho vị Tô tiên sinh kia, coi như ta tạ ơn hắn đã vất vả hết lòng tương trợ con trai ta.”
Tĩnh vương mím môi, xếp hai hộp đồ ăn chồng lên nhau, xách trong tay, lại cất quyển “Tường địa ký” trên bàn vào trong áo, thi lễ với Tĩnh phi rồi chậm rãi đi ra.
Để tránh gặp nghi giá, hắn cố ý đi cửa ngách, vòng qua Hoài Tố lâu, đi ra cổng Chu Tước từ hướng ngược lại, lên chiếc xe ngựa của phủ đã chờ sẵn ở ngoài.
Mới ngồi vào trong xe, Tĩnh vương đã đặt hai hộp đồ ăn xuống bên cạnh, lấy quyển “Tường địa ký” đó mở xem một lượt, đặc biệt là những ghi chú của Mai Trường Tô và nội dung những đoạn chàng ghi chú thì càng đọc kĩ từng câu từng chữ.
Nhưng bất kể hắn đọc thế nào cũng không phát hiện ra ý nghĩa gì khác lạ, cuối cùng cũng chỉ có thể chán nản gấp sách lại, bỏ qua chuyện này.
Rốt cuộc quyển “Tường địa ký” này có gì lạ? Ban đầu vô tình mượn sách của Mai Trường Tô, sự dao động trong nháy mắt của hắn giống như một khe nứt trên tảng băng ngàn năm làm người ta dường như nhìn thấy một cánh cửa bí mật tối tăm, sâu hun hút.
Mặc dù chỉ thoáng qua trong nháy mắt nhưng Tiêu Cảnh Diễm vẫn lập tức hiểu trong quyển sách này nhất định có gì đó khác thường…
Nhưng điều khác thường đó là gì? Điều gì khiến Mai Trường Tô, Thái Sơn sụp trước mặt vẫn không đổi sắc, xuất hiện sự mất khống chế trong giây lát? Điều gì có thể khiến Mông Chí là võ quan không thích đọc sách lại cố ý đòi lại? Quan trọng nhất, điều gì có thể khiến mẫu phi sống lẳng lặng hơn hai mươi năm trong cung cấm, không quan tâm đến chuyện bên ngoài lại phải nhiều lần hỏi dò và dặn mình chăm sóc một mưu sĩ mà bà còn chưa từng thấy mặt?
Tĩnh vương biết ngay cả người thân thiết nhất là mẫu phi cũng cố ý che giấu thì những băn khoăn này của mình sẽ không thể hỏi bất kỳ ai, dù có hỏi cũng chưa chắc đã nhận được đáp án chính xác. Muốn biết sự thật thì chỉ có cách tự mình suy nghĩ.
Tiêu Cảnh Diễm cầm quyển “Tường địa ký” đặt bên cạnh lên, một lần nữa mở ra xem kĩ, cuối cùng thậm chí còn đọc ngang dọc trên dưới từng đoạn Mai Trường Tô ghi chú mà cũng không phát hiện ra điều gì.
Khi xe ngựa chạy vào cổng Tĩnh vương phủ, Tiêu Cảnh Diễm quyết định bỏ cuộc, thở ra một hơi, gập sách lại, bước xuống xe.
Người hầu đi theo bên cạnh chạy tới giúp hắn cởi áo khoác ra, hắn tiện tay đưa quyển “Tường địa ký” cho người hầu, dặn dò: “Phái người đưa đến phủ Mông đại thống lĩnh, mời Mông đại thống lĩnh đích thân ra nhận.”
“Vâng.”
Tĩnh vương đi vài bước về phía thư phòng, đột nhiên nhớ tới một việc, lại dừng bước, nói: “Trên xe có hai hộp đồ ăn, mang hết vào tẩm phòng của ta.”
“Vâng.”
“Triệu Liệt tướng quân, Quý tướng quân, Lưu tham sử và Ngụy tuần kiểm vào thư phòng.”
“Vâng.”
Tĩnh vương ngẩng đầu, hít sâu một hơi, vứt hết những nghi vấn trong đầu, lấy lại tinh thần bước tới thư phòng.
Đúng lúc này đột nhiên có tiếng ồn ào vang lên ngoài cửa, một thân binh chạy vội vào, thở hồng hộc, bẩm: “Thánh chỉ của bệ hạ đến! Mời điện hạ tiếp chỉ…” Nói đến đây, tên thân binh này lại nuốt nước miếng cho mượt giọng, bổ sung với giọng cực kỳ hưng phấn: “Đến truyền chỉ là giám chính đại nhân ở ti lễ giám.”
Tĩnh vương lập tức hiểu ra, trong lòng cũng không khỏi cảm thấy vui vẻ, nhưng ngoài mặt vẫn trầm tĩnh, chỉ khẽ mỉm cười.
Lúc này hắn còn chưa cởi triều phục cho nên không cần mất thời gian, nhanh chóng bước ra ngoài nghênh đón.
Người mang thánh chỉ đến đây quả nhiên là giám chính của ti lễ giám, trên người mặc quan phục nghiêm cẩn, vẻ mặt tươi cười.
Tĩnh vương chào hỏi hắn rồi cũng sánh vai đi vào.
Tổng quản trong phủ sớm đã chuẩn bị hương án. Giám chính bước tới phía trước hương án, mở thánh chỉ bằng lụa vàng ra, cao giọng đọc: “Phụng thiên thừa vận, Hoàng đế chiếu viết: Thất hoàng tử Tiêu Cảnh Diễm lương thiện nhân hiếu, đức lễ liêm khiết, cẩn trọng trung thành, liên tiếp lập công, nay gia phong làm Tĩnh thân vương, đội mũ năm ngọc. Lĩnh chỉ lĩnh ân!”
Trước khi Tiêu Cảnh Diễm được gia phong thân vương, bất kể là hậu cung hay triều đình, thậm chí cả Hoàng đế Đại Lương đều đau đầu với quyết định lựa chọn một trong hai.
Dường như không chọn Thái tử thì phải chọn Dự vương, không chọn Dự vương thì phải chọn Thái tử. Ngay lúc này dù chưa biểu thị rõ ràng thái độ ủng hộ ai thì trong tương lai, sớm muộn cũng phải cho một trong hai người đó ngồi lên ngai vàng.
Với tư duy đã định hình như vậy, khi mọi người nhìn thấy Tĩnh vương vốn đứng hàng tôn thất nhị phẩm lại mặc long phục, đầu đội vương miện ngũ châu, anh khí bừng bừng, tư thế hiên ngang đứng bên cạnh Dự vương, hiệu ứng thị giác thậm chí còn mãnh liệt hơn lúc nghe thấy tin tức hắn được tiến phong.
Cho dù người thiếu nhạy bén chính trị nhất cũng lập tức ý thức được một cục diện triều chính mới đã được mở ra.
Thực ra lúc này Tĩnh vương còn chưa thể hoàn toàn ngang bằng Dự vương, trên vương miện của hắn còn ít hơn Dự vương hai viên hoàng châu, nhưng bất kể thế nào thì bây giờ bọn họ đều là thân vương nhất phẩm, chênh lệch hai viên ngọc hình như dễ dàng vượt qua nhiều so với sự chênh lệch giữa thân vương và quận vương trước kia.
Con người luôn dễ dàng đưa một số thứ vào điểm mù, thứ gì trong thời gian dài không được chú ý tới thì dù có đặt trước mặt cũng không nhìn thấy. Nhưng một khi lớp giấy cửa sổ mỏng manh đó bị đâm thủng, hình như tất cả mọi người đều đột nhiên phát hiện, thực ra Tĩnh vương không hề thua kém Dự vương. Trước kia sở dĩ không ai biết đến hắn là vì hắn ít nhận được ân sủng mà thôi.
Nhưng cũng chính vì ít nhận được ân sủng nên hắn thường xuyên bị đẩy ra ngoài kinh làm việc hay cầm quân, cuối cùng lại nhờ họa được phúc, quân công và kinh nghiệm xử lý chính vụ không ngừng được tích lũy khiến hắn đè bẹp tất cả các huynh đệ khác của mình trên phương diện này.
Còn xuất thân ư? Nhờ ơn Dự vương sắp xếp tranh luận trên triều năm ngoái, mọi người đã nói quá rõ ràng chuyện này, không ai là con chính thất, không ai cao quý hơn ai. Huống hồ Tĩnh phi bây giờ càng ngày càng được sủng ái, mà Dự vương tuy là con nuôi của Hoàng hậu nhưng trước khi chết thì mẹ đẻ của hắn cũng chỉ là một cung tần.
Lại nói đến vấn đề thứ tự tuổi tác, Tiêu Cảnh Diễm quả thật đứng sau Dự vương, nhưng đây dù sao cũng không phải một nhân tố quan trọng, nếu mọi người chỉ dựa vào tuổi để kế vị thì mười mấy năm qua Thái tử và Dự vương đấu đá làm gì?
Nếu như hai, ba tháng trước có người nói sẽ có một hoàng tử khác trỗi dậy để sánh vai với Dự vương như mặt trời ban trưa thì có lẽ người này sẽ bị xem như người khờ nói nhảm. Nhưng chỉ sau một thời gian rất ngắn, mọi người đã có thể nhìn thấy rõ ràng Dự vương không chỉ có một đối thủ khác ngoài Thái tử, mà trước đối thủ này hắn còn không chiếm được ưu thế gì lớn.
Đương nhiên người cảm nhận rõ ràng nhất sự thay đổi này vẫn là bản thân Tĩnh vương.
Ban đầu khi quyết định tham dự tranh đoạt quyền kế vị trong tình hình yếu thế hơn, thực ra lòng tin của hắn cũng hết sức mỏng manh. Hắn còn từng hỏi Mai Trường Tô nên khéo léo tiết lộ tâm tư tranh vị của mình với các thuộc hạ và tướng lĩnh tâm phúc trong quân như thế nào để những người này không quá sợ hãi.
Khi đó Mai Trường Tô trả lời thế này: “Không cần tiết lộ, khi điện hạ dần dần có tư cách tranh giành thì những người bên cạnh điện hạ còn phát hiện ra sớm hơn điện hạ nữa.”
Sau khi tiến phong thân vương, Tĩnh vương mới dần hiểu được ý nghĩa thực sự những lời Mai Trường Tô nói.
Trước kia hắn nghị sự với thủ hạ, cho dù lúc bực tức thì cùng lắm mọi người cũng chỉ oán trách những chuyện vặt vãnh như quân lương không đủ, áo bông quá mỏng, triều đình có thể chú ý hơn nữa hay không… Nhưng bây giờ nội dung thảo luận trong Hổ Ảnh đường của Tĩnh vương phủ đều là những việc lớn của triều đình như làm thế nào để xây dựng chế độ tập kết binh mã hữu hiệu, làm thế nào để đẩy mạnh việc nuôi ngựa ở địa phương…
Mấy tâm phúc và hảo bằng hữu có kiến thức thậm chí đã bắt đầu vô tình hay cố ý giật dây khích lệ hắn phải thể hiện tại năng nhiều hơn trên triều đình, phải lôi kéo nhân tài để còn sử dụng.Nếu Tĩnh vương hơi tỏ ý cảm hoài đối với giang sơn hoặc ngôi vị Hoàng đế là đám tâm phúc này lập tức hai mắt lấp lánh, sắc mặt sáng ngời, tràn trề hưng phấn, thậm chí Tĩnh vương còn phải bóng gió để bọn họ kiềm chế một chút.
Nước đã dâng cao đến đây, quả thật không cần phải nói gì nữa, trong lòng mọi người đều hiểu rõ.
Mặc dù Tĩnh vương tin tưởng cho dù mình vĩnh viễn không có quyền thế thì đám cựu bộ theo mình chém giết nhiều năm cũng sẽ không rời không bỏ, nhưng nếu nói từ góc độ kiến công lập nghiệp của nam nhân thì theo một thân vương có hi vọng khai sáng triều đại mới luôn thoải mái hơn đi theo một hoàng tử luôn bị áp chế rất nhiều.
Người nổi nóng nhất trước việc Tĩnh vương được tiến phong đương nhiên là Dự vương Tiêu Cảnh Hoàn.
Bây giờ hồi tưởng lại, hắn nhận ra mình gần như đã trơ mắt nhìn Tĩnh vương từng bước một đứng vững trong triều. Mà trong quá trình này rõ ràng hắn có rất nhiều cơ hội có thể chèn ép Tĩnh vương đến mức không ngóc đầu lên được. Vậy mà hắn lại vô cớ buông tha như ma xuôi quỷ khiến, thậm chí còn có lúc từng đưa tay giúp đỡ hắn.
Dự vương cảm thấy mình giống như một người nông dân ủ ấm con rắn sắp chết trong truyện nọ, hối hận chỉ muốn chửi bới ầm ĩ.
Bởi nhiều năm qua chủ yếu tập trung sức mạnh đối phó Thái tử, Dự vương phủ không đủ hiểu biết đối thủ mới này, chỉ nắm được một số thông tin bề ngoài. Ngay cả Hoàng hậu trong cung cũng nói không rõ rốt cuộc Tĩnh phi là người như thế nào.
Sau khi Tiêu Cảnh Diễm tiến phong thân vương, trong một tháng Dự vương liên tục triệu tập tâm phúc luận đối sách vài lần, nhưng đều không có kết quả. Hắn đi tìm Mai Trường Tô bàn bạc, Mai Trường Tô lại không nóng vội, ngược lại còn cười, nói: “Chúc mừng!”
Dự vương không nhịn được nổi giận vỗ bàn, nói: “Cảnh Diễm phong thân vương, ngươi còn chúc mừng ta?”
“Tĩnh vương được phong thân vương có nghĩa là Thái tử sẽ nhanh chóng bị phế, nguyện vọng nhiều năm của điện hạ đã thành sự thật, chẳng lẽ không nên chúc mừng sao?”
Dự vương cau mày, tạm thời không nói gì.
Hắn hiểu ý Mai Trường Tô. Do ảnh hưởng của việc năm đó Kỳ vương lớn mạnh đến mức không thể khống chế, Hoàng đế Đại Lương bắt đầu hứng thú với trò chơi cân bằng, cho nên mới có cục diện hai cực đối lập của mình và Thái tử mấy năm nay.
Giờ đây Tĩnh vương được phong thân vương quả thật đồng nghĩa với việc Thái tử đã bị vứt bỏ, Hoàng đế Đại Lương định xây dựng cục diện cân bằng mới. Nhưng dù nói vậy, vừa nghĩ đến việc mình vất vả chừng đó năm, cuối cùng vẫn không nhận được thứ gì Dự vương khó tránh khỏi giận dữ trong lòng.
“Ta mất mười năm đánh đổ Thái tử, chẳng lẽ lại mất mười năm nữa để đấu với Tĩnh vương sao?”
Mai Trường Tô cười lạnh, nói: “Tĩnh vương và Thái tử làm sao giống nhau được? Thái tử có danh phận, điện hạ vốn đã thấp hơn Thái tử một bậc. Nhưng Tĩnh vương chỉ là một thân vương ngũ châu, chỉ vì là tân sủng ái nên mới có vẻ nóng bỏng tay như thế. Chuyện sau này tạm không nói, riêng chuyện khiến Thái tử bị loại khỏi vị trí Đông cung cũng đã là một đại thắng của điện hạ rồi. Nếu không đi nước cờ này trước, vạn nhất sau này bệ hạ có chuyện gì, điện hạ chèn ép Thái tử đến mấy thì ngai vàng cũng vẫn là của Thái tử. Đến lúc đó nếu còn tranh giành thì chính là phản nghịch.”
Nghe chàng khuyên như vậy, Dự vương mới bình tĩnh hơn, nhưng về phủ ngẫm nghĩ lại vẫn đứng ngồi không yên. Nếu là giờ này năm trước, lực lượng trong tay hắn đang mạnh mẽ, cách nói của Mai Trường Tô sẽ lập tức làm hắn cảm thấy mừng rỡ. Tuy nhiên hiện nay, hắn nghiêm túc tính toán vốn liếng trong tay, đột nhiên phát hiện mình đã không còn thứ gì có thể nắm chắc, trong lòng không khỏi hốt hoảng.
Dự vương đang nghi hoặc không yên, mà Mai Trường Tô cũng biết rõ lần này khó có thể lừa được hắn, cho nên sau khi Tĩnh vương tiến phong, việc phòng vệ của Tô trạch cũng được tăng cường, ngoài lỏng trong chặt, được Lê Cương và Chân Bình bày bố chắc chắn như tường đồng vách sắt.
Đồng Lộ vẫn cách một ngày đến một lần, lúc có tin tức khẩn cấp thậm chí ngày nào cũng đến. Nhưng thời gian hắn ở lại Tô trạch cũng không lâu, cùng lắm cũng chỉ non nửa canh giờ. Nếu Mai Trường Tô chỉ thị gì cho Thập Tam tiên sinh thì hắn lại lấy cớ chở rau đến Diệu Âm phường một chuyến, nếu không có thì hắn liền đi thẳng về chỗ ở của mình.
Do phải che giấu thân phận nên Đồng Lộ sống trong một khu dân nghèo, ngoài những người trong hai ngôi nhà bên trái và bên phải là thuộc Giang Tả minh, những người khác đều là dân chúng dưới đáy xã hội, có người bán đậu phụ, bán tạp hóa, khuân vác, làm thuê, may vá hồ áo, cuộc sống vô cùng vất vả, ít có tâm tư chú ý đến người khác.
Thường ngày, khi Đồng Lộ về đến ngôi nhà rách nát của mình thì đã là hoàng hôn, có lúc vừa đánh xe lừa chở rau vào sân đã nghe thấy tiếng thở nặng nề vang lên phía sau, liền biết là Khâu ma ma ở cách đó hai nhà về phía tây đang leo dốc về nhà.
Khâu ma ma được gả tới đây từ lúc còn trẻ, hơn nửa đời người sống ở chỗ này, chồng và con trai đều chết sớm, bên người chỉ có một đứa cháu nội tầm bảy, tám tuổi, hằng ngày pha ít nước đường, dùng xe đẩy đi bán khắp nơi. Sau một ngày vất vả, lúc về nhà đã không còn sức lực đẩy xe lên con dốc nhỏ. Cho nên mỗi lần gặp là Đồng Lộ đều ra ngoài giúp bà lão một tay.
Thói quen này đã hình thành từ khi Đồng Lộ chuyển đến đây ở mấy năm trước, nhưng hơn một tháng nay lại có chút thay đổi.
Khác với trước kia là hắn chỉ giúp đỡ mỗi khi tình cờ gặp, còn bây giờ hắn luôn vô tình hay cố ý tìm mọi cách về nhà đúng thời gian đó để giúp Khâu ma ma đẩy chiếc xe lên dốc.
Hơn nữa sau khi giúp xong, hắn còn có thể nhận được một bát nước đường chưa bán hết do cô cháu gái của Khâu ma ma tự tay múc đưa cho.
Cháu gái Khâu ma ma tên là Tuyển Nương, hơn một tháng trước mới từ quê gốc ở Vụ Châu cách xa ngàn dặm đến đây nương nhờ bà. Lúc nàng tìm đến, trên đường đi chắc đã trải qua rất nhiều sương gió khổ cực, không những mặt mày xanh xao mà vẻ mặt cũng ngơ ngẩn, cuối cùng ngất xỉu ven đường. Chính Đồng Lộ đã cứu nàng về, hỏi một hồi lâu mới biết là đến tìm Khâu ma ma.
Tuy nhiên Khâu ma ma đã lấy chồng xa nhà quá lâu, mặc dù còn nhớ có một đứa cháu gái như vậy nhưng vẫn khó mà nhận ra được, cuối cùng phải nhờ nhìn thấy hai nốt ruồi đỏ cạnh nhau trên vai trái của Tuyển Nương mới nhận ra người, hai dì cháu ôm nhau khóc ròng một trận, hàng xóm khuyên bảo mãi mới thôi.
Đã đến sống nhờ ở đây thì xóm giềng cũng phải qua lại, thỉnh thoảng Tuyển Nương cũng thổ lộ một vài chuyện của mình, hình như trượng phu chết lại không có con, ác bá ở địa phương định cưỡng bức, cuối cùng nửa đêm nàng trốn thoát được. Mọi người thấy nàng mặc dù gầy gò hốc hác nhưng quả thật là một mĩ nhân, khó trách lại bị ác bá dòm ngó, cho nên ai cũng thông cảm với nàng.
Đặc biệt là Đồng Lộ, nhớ tới những nỗi nhục nhã mà muội muội phải chịu trước kia nên hắn càng cảm động, lúc rảnh rỗi thường sang giúp đỡ. Còn Tuyển Nương cũng muốn báo ân vì lúc đầu được hắn cứu nên thường xuyên làm vài việc lặt vặt như quét nhà, vá áo cho hắn.
Hai người không tránh được thường xuyên tiếp xúc.
Có người mới tới, như thường lệ Thập Tam tiên sinh cũng điều tra một chút, xác nhận chuyện mới lấy chồng thì chồng chết, người nhà trách tội, ác bá cưỡng bức, nửa đêm chạy thoát mà Tuyển Nương nói đều có thật.
Hơn nữa sau khi đến đây, ngày ngày Tuyển Nương thức khuya dậy sớm, giúp đỡ Khâu ma ma chế nước đường rao hàng, có thể chịu khổ, biết làm rất nhiều chuyện, cuộc sống hằng ngày cũng hết sức đơn giản, có thể thấy là nữ tử xuất thân bần hàn từ nhỏ nên cũng không quá chú ý.
Sau một tháng đến đây, mặc dù làm việc kham khổ nhưng có người dì yêu thương, hàng xóm hòa thuận, cuộc sống an bình nên tâm tình Tuyển Nương càng lúc càng tốt, thân thể bớt gầy gò hơn, cả người ngày càng có phong tư, chỉ cần cài trâm gai mặc áo vải thô cũng có thể lộ rõ sắc đẹp thanh nhã của nàng.
Ngay cả người thường xuyên đến Diệu Âm phường gặp rất nhiều mĩ nữ như Đồng Lộ cũng phải ngẩn ngơ trước sóng mắt ngượng ngùng của nàng, nếu ngày nào có việc không gặp được nàng là trong lòng hắn liền thất vọng, đau khổ như mất mát thứ gì đó.
Còn Tuyển Nương cũng không phải hoàn toàn không có tình cảm với hắn, có lúc liếc mắt đưa tình, có lúc như gần như xa, thần thái kiều diễm, dịu dàng đó bất tri bất giác đã khiến Đồng Lộ yêu thương da diết, thần hồn điên đảo…