Dịch giả: Nguyễn Ngọc Hiếu
Chương 27

     ịa thế ngoài thành Kim Lăng, ba mặt tây nam bắc đều tương đối bằng phẳng, thỉnh thoảng có vài mỏm đồi thấp, chỉ có ngoại ô phía đông có một dãy núi, dù không cao lắm nhưng lại kéo dài liên miên.
Cô Sơn là ngọn núi gần kinh thành nhất trong số những ngọn núi ở vùng ngoại ô phía đông.
Từ cổng Đông Dương của đế đô, khoái mã phi nhanh non nửa canh giờ là có thể chạy tới chân núi Cô Sơn. Nếu là mùa thu, leo lên núi sẽ thấy một phiến rừng phong đỏ rực, nhưng lúc này thời tiết vẫn còn rét đậm, cành cây trơi trọi bám đầy tuyết đọng, hai bên sơn đạo hết sức tiêu điều, hiu quạnh. Theo bậc thang lên cao, trên đỉnh núi vắng vẻ, tĩnh mịch có một ngôi đình, tường mây mái cỏ, phong cách cổ xưa nhưng không kém phần thú vị.
Cách ngôi đình này chừng trăm bước về phía tây nam có một con dốc thoai thoải, trên đỉnh dốc có một ngôi mộ xây bằng đá hoa, trước một đặt hai đĩa trái cây tươi, thắp ba nén hương, ba vệt khói nhỏ lượn lờ bay lên từ đốm sáng lờ mờ.
Năm nay mùa xuân tới chậm, dù thời tiết không còn giá rét căm căm như trước nhưng trên đỉnh núi gió thổi lồng lộng vẫn rét lạnh thấu xương.
Hạ Đông mặc một chiếc áo bào màu trắng bằng vải bông, lẳng lặng đứng trước mộ phần, vạt váy đen tuyền thấp thoáng sau đường xé bên cạnh trường bào. Mái tóc dài bình thường vẫn luôn buông xõa trên vai lúc này đã được vấn cao, lọn tóc trắng vẫn nổi bật trên mái tóc đen, cộng thêm những nếp nhăn lờ mờ nơi khóe mắt như nuối tiếc tuổi xuân đang dần trôi qua.
Tro giấy bay lả tả theo gió, hương đã gần cháy hết, rượu tế vẩy ra cũng đã chậm rãi thấm xuống đất không còn dấu vết. Chỉ có tên người ghi trên bia mộ, rõ ràng đã bị ngón tay nhợt nhạt vuốt ve cả ngàn vạn lần nhưng vẫn đỏ thẫm, vẫn gai mắt như xưa.
Từ lúc trời tờ mờ sáng Hạ Đông đã đứng ở đây, đốt tiền giấy, lầm bầm nói chuyện. Giờ đây, ánh nắng đã len qua cành cây chiếu thẳng xuống mặt làm người đứng bị lóa mắt.
Sương mù trong khe núi sâu phía trước đã bắt đầu tan, chẳng bao lâu nữa kinh đô hoa lệ phía xa xa cũng sẽ cởi bỏ lớp áo sương mù mịt mờ để hiện ra hình dáng của mình.
“Niếp Phong, lại một năm nữa qua rồi…”
Từ khi Niếp Phong ra đi, một ngày dài tựa ba thu, nhưng rồi từng năm, từng năm cũng vẫn chậm rãi trôi qua. Nàng đứng trước mộ để phu quân đã khuất chứng kiến mình già đi theo từng năm, không biết nước mắt ai nóng hơn, trái tim ai đau đớn hơn, người dưới mộ hay người đến viếng?
Có lẽ sau khi nước mắt chảy hết sẽ là máu đào, đau đến cực hạn sẽ là tê liệt.
Thở dài một hơi, một khi âm dương cách biệt, tương kiến cũng trở thành ước vọng xa xỉ nhất trên đời. Ngón tay Hạ Đông lại một lần nữa nhẹ nhàng vuốt lên nét bút quen thuộc trên tấm bia mộ, đầu ngón tay lạnh như băng chạm vào mặt đá ráp, mỗi lần chạm vào, trái tim lại như thắt lại.
Gió núi vẫn thê lương hú bên tai chợt mang theo tiếng nói chuyện loáng thoáng từ phía sơn đạo.
Hai hàng mi dài của Hạ Đông nhíu chặt, sát khí lộ ra trên gương mặt âm u, lạnh lẽo.
Cô Sơn mùa đông vốn đã ít có người lui tới, huống chi nơi này vắng vẻ, hôm nay lại là mùng Năm Tết.
Năm nào cũng đến viếng mộ, đây là lần đầu tiên bị người khác quấy rầy.
“Tông chủ, bên kia có một lối đi nhỏ, còn đường chính thì ở bên này, ngài xem, đứng đây đã có thể nhìn thấy rồi…”
“Không sao, ta muốn đi đường nhỏ. Nơi này cây cối rậm rạp, nhìn ánh sáng nhảy nhót không phải cũng rất thú vị sao?”
“Vâng, ngài cẩn thận, trên đường có tuyết đọng trơn lắm.”
“Ngươi dìu ta như vậy thì có trượt chân cũng không ngã được.”
Tiếng nói chuyện văng vẳng xen lẫn tiếng bước chân đạp trên tuyết đọng.
Hạ Đông hít sâu một hơi, chậm rãi xoay người lại, mặt không biểu cảm.
“Hạ đại nhân…” Người tới hình như hơi bất ngờ. “Đúng là khéo thật…”
“Leo núi giữa ngày đông giá rét, Tô tiên sinh có thú vui thật tao nhã.” Hạ Đông bình tĩnh nói. “Có điều ta nhớ hình như hôm nay có một bữa tiệc quan trọng…”
“Chính vì không thích đến chỗ ồn ào như vậy nên ta mới tránh ra ngoài thành, nếu ở lại hàn trạch, bị người ta mời nhiệt tình quá cũng không tiện từ chối.” Mai Trường Tô thản nhiên nói, không hề che giấu. “Huống hồ Tô mỗ mới vừa khỏi bệnh, đại phu khuyên ta nên tập leo núi để phục hồi sức khỏe, cũng xem như một loại liệu pháp. Cô Sơn lại là ngọn núi gần thành nhất, vì vậy ta quyết định đến đây, không biết có làm phiền đại nhân hay không?”
“Núi Cô Sơn này lại không phải của ta, đương nhiên ai cũng có quyền tới.” Hạ Đông lạnh lùng nói. “Đây là phần mộ của chuyết phu, xưa nay ít có người lui tới cho nên ta hơi bất ngờ.”
“Đây chính là nơi an nghỉ của Niếp tướng quân sao?” Mai Trường Tô tiến lên trước một bước, giọng nói trầm ổn, chỉ có đôi mắt dưới hàng mi dài hơn lộ vẻ bi thương. “Một đời danh tướng, Tô mỗ vẫn ngưỡng mộ uy danh. Hôm nay đã hữu duyên tới đây, không biết ta có thể tế bái để tỏ lòng kính trọng hay không?”
Hạ Đông hơi sững sờ, nhưng nghĩ chàng đã tới đây, hai người cũng coi như là có giao tình, nếu biết rõ là phần mộ của vong phu mà chàng lại không có biểu thị gì thì cũng không hợp lễ. Còn chuyện kính trọng thật giả gì đó thì không cần tìm hiểu quá kĩ làm gì, vì vậy nàng liền gật đầu, nói: “Tiên sinh đã có lòng thì xin mời tiên sinh.”
Mai Trường Tô nhẹ nhàng gật đầu, chậm rãi đi tới phía trước bia mộ, ngồi xuống bốc đất thay hương, vái lạy ba lần thật sâu rồi quay lại, thấp giọng hỏi: “Lê Cương, ta nhớ ngươi lúc nào cũng mang rượu theo người?”
“Vâng.”
“Cho ta mượn một chút.”
“Vâng.” Lê Cương cung kính cởi bình rượu bằng bạc bên hông xuống, khom người đưa cho Mai Trường Tô.
Mai Trường Tô cầm lấy bình rượu, mở nắp ra, hai tay cầm bình, cao giọng ngâm:
“Tướng quân bách chiến thanh danh liệt.
Đứng trước sông Lương, quay đầu vạn dặm, bóng cố nhân đã khuất.
Gió tây lạnh thổi trên sông Dịch, khắp nơi là áo tang như tuyết.
Tráng sĩ xưa, khúc bi ca chưa tận.
Biết nhân gian có nhiều bi hận, chim muông cũng khóc ra huyết lệ.
Ai cùng ta say trăng sáng đêm nay.
Anh linh tướng quân ở đây, nếu có lòng tương giao, mời uống rượu này!”
Nói xong chàng đổ rượu xuống đất, lại đưa lên miệng uống một ngụm nhỏ, khẽ ho một tiếng rồi cố nhịn ho, dùng mu bàn tay lau vết rượu bên khóe môi, ánh mắt nghiêm nghị, gió thổi áo bay phần phật, chỉ cảm thấy bi phẫn trong lòng khó nén, không khỏi hú một tiếng dài.
Hạ Đông đứng phía sau chàng, dù không nhìn thấy vẻ mặt người tế mộ nhưng vẫn bị lời khấn của chàng làm cảm động không kiềm chế được, xoay người bám tay vào thân cây bên cạnh, rơi lệ.
“Niếp phu nhân, người đã mất rồi, xin hãy nén bi thương.” Một lát sau, giọng nói điềm đạm của Mai Trường Tô vang lên bên tai. Nghe chàng đổi cách xưng hô, Hạ Đông càng cảm thấy chua xót.
Nhưng suy cho cùng thì Hạ Đông không phải góa phụ khuê các, sự kiêu ngạo và kiên cường không cho phép nàng tỏ ra yếu mềm mà mất khống chế trước mặt người không quen biết.
Sau khi nhanh chóng điều chỉnh lại hơi thở hỗn loạn của mình, nàng đưa tay lau nước mắt trên má, khôi phục vẻ mặt kiên định, lạnh lùng.
“Thịnh tình của tiên sinh khiến người còn sống cũng cảm động lây. Hạ Đông đa tạ tiên sinh!”
Mai Trường Tô vừa đáp lễ vừa khuyên nhủ: “Tế lễ chỉ là tấm lòng, ta thấy Niếp phu nhân ăn mặc phong phanh, không có áo khoác, phu nhân nên xuống núi cùng Tô mỗ luôn đi. Niếp tướng quân trên trời có thiêng cũng không muốn thấy phu nhân làm khổ mình như thế.”
Hạ Đông vốn đã tế bái xong, đang chuẩn bị xuống núi, vì vậy cũng không nói nhiều, hai người lặng lẽ xoay người, chậm rãi sánh vai đi xuống sơn đạo.
Trên đường đi chỉ có tiếng gió thổi tuyết rơi, hai người không nói một lời nào.
Đến tận lúc sắp xuống đến chân núi, đã có thể nhìn thấy quán trà lợp mái cỏ xa xa và những con ngựa buộc bên ngoài quán, Hạ Đông mới hỏi một câu lạnh nhạt: “Tiên sinh về thành à?”
Mai Trường Tô mỉm cười, nói: “Lúc này còn chưa quá ngọ, về thành vẫn sớm. Nghe nói cổ trấn gần đây có một bức thạch điêu tuyệt mĩ, ta muốn nhân dịp này đến xem một chút.”
“Thạch điêu ở trấn Xích Hà à? Quả thật đáng xem.” Hạ Đông dừng bước chân. “Ta còn có việc trong kinh, không thể đi cùng.”
“Xin Hạ đại nhân cứ tự nhiên.” Hoàn cảnh đã khác, Mai Trường Tô tự nhiên lại xưng hô như cũ. “Vụ án nội giám bị giết quả thật khó tra, đại nhân vất vả tra án nhưng vẫn cần bảo trọng thân thể.”
Ánh mắt Hạ Đông liếc tới, sắc như dao. “Tô tiên sinh nói thế là ý gì?”
“Sao? Vậy vụ án này không giao cho Huyền Kính ti à?”
Sắc mặt Hạ Đông càng lạnh lùng hơn.
Vụ án này bề ngoài là do phủ thống lĩnh cấm quân điều tra, còn nàng ta điều tra là phụng mật chỉ. Đành rằng một khi bắt đầu điều tra thì bị người khác biết cũng chỉ là chuyện sớm hay muộn, nhưng gã Tô Triết này biết quá sớm.
“Đây thực sự được xem như một vụ án kỳ quái, có lẽ sau này Huyền Kính ti sẽ có hứng thú.” Hạ Đông nói lấp lửng, không rõ ràng nhưng cũng không hoàn toàn phủ nhận, lại hỏi tiếp một câu: “Có điều hung thủ giết người gọn gàng như thế, nhất định là cao thủ giang hồ. Tô tiên sinh có cao kiến gì không?”
“Giang hồ rất nhiều kỳ nhân dị sĩ, ngay cả Lang Gia các hằng năm cũng phải không ngừng đổi mới bảng xếp hạng, ta sao dám nói bừa? Hơn nữa trong việc nắm bắt thông tin về các nhân vật giang hồ, Huyền Kính ti sao lại kém Giang Tả minh? Hiện nay có cao thủ nào đang ở kinh thành, có lẽ Hạ đại nhân còn nắm rõ hơn ta nhiều.”
Hạ Đông suy tư chốc lát, ánh mắt lạnh lẽo cực kỳ cảnh giác.
Huyền Kính sứ là tâm phúc của Hoàng đế, hiển nhiên không thể can dự việc tranh giành của các phe phái, không được phép nghiêng về bất cứ bên nào.
Hiện nay gã Tô Triết này gần như đã có thể coi là người của phe cánh Dự vương, lúc nói chuyện với hắn nhất định phải hết sức cẩn thận.
Mai Trường Tô mỉm cười, chậm rãi chuyển ánh mắt. Chàng đương nhiên biết lúc này Hạ Đông đang nghĩ gì.
Đưa mắt nhìn cả kinh thành, trừ những người biết rõ mục đích thật sự của chàng, sau khi biết chàng đã bị cuốn vào cuộc đấu đá, thái độ của những người khác đều có thay đổi hoặc nhiều hoặc ít, cho dù là Ngôn Dự Tân và Tạ Bật cũng không phải ngoại lệ.
Còn người chân thành đối đãi chàng trước sau như một thì chỉ có duy nhất Tiêu Cảnh Duệ mà thôi.
Trong mắt người khác, trước hết chàng là kỳ lân tài tử Tô Triết. Còn trong mắt Tiêu Cảnh Duệ, từ trước đến nay chàng vẫn chỉ là Mai Trường Tô. Bất kể chàng thể hiện tài hoa như thế nào, bất kể chàng gây ra bao nhiêu sóng gió, mục đích kết giao với chàng của người thanh niên đó thật sự chưa bao giờ thay đổi.
Tiêu Cảnh Duệ vẫn xem cuộc đấu đá bè phái này bằng một ánh mắt bình thản, đau buồn, nhưng lại không hề xa lánh. Hắn không cho rằng phụ thân mình lựa chọn sai, cũng không cho rằng lập trường của Tô huynh không đúng. Hắn chỉ cảm thấy buồn khi hai người này không thể đứng cùng một trận tuyến, nhưng không vì vậy mà từ bỏ tình bằng hữu giữa mình và Mai Trường Tô.
Hắn giữ vững thái độ thẳng thắn, thành khẩn từ trước đến nay, Mai Trường Tô hỏi hắn cái gì, hắn đều trả lời đúng sự thật, chưa bao giờ có ý định suy nghĩ xem: “Tô huynh hỏi như vậy để làm gì?” Không phải hắn không thể nghĩ ra, mà đơn giản là hắn không nghĩ.
Cả lời mời đến dự tiệc mừng sinh nhật lần này, Mai Trường Tô có thể thấy rõ tâm tư của người thanh niên đó: Huynh là bằng hữu của ta, chỉ cần huynh chịu đến, ta nhất định có thể bảo vệ huynh chu toàn.
Tiêu Cảnh Duệ không muốn phản kháng phụ thân, cũng không muốn thay đổi Mai Trường Tô, hắn chỉ muốn kết tình bằng hữu với Mai Trường Tô theo cách của riêng mình.
Ngay thẳng đường hoàng, chính là như vậy.
Thật đáng tiếc và thật đáng thương, một người như vậy lại sinh ra trong Tạ phủ.
Mai Trường Tô lắc đầu than thở, chấm dứt suy nghĩ. Bánh xe vận mệnh đã cuồn cuộn đến gần, có nghĩ gì thêm nữa cũng chỉ là vô ích, bởi vì không ai có thể thay đổi được nhân quả của thời gian.
Lúc này Hạ Đông không chú ý tới sự cảm khái và yên lặng của chàng, ánh mắt nàng ta đang nhìn xuống con đường chạy quanh chân núi xa xa, khẽ thốt lên một tiếng.
Mai Trường Tô nhìn theo ánh mắt Hạ Đông, cũng không khỏi nhướng mày.
Chỉ thấy từ khu rừng rậm gần chân núi lần lượt nhảy ra khoảng gần trăm quan binh, người mang theo trường đao, người cầm câu liêm mũi nhọn, còn có người đeo một cuộn dây thừng. Từ những đôi giầy và y phục dính đầy bùn đất có thể thấy được những người này đã đi lại một hồi lâu trong rừng rậm.
“Tìm được không?” Một người thân hình to khỏe, nhìn trang phục có thể đoán được là bách phu trưởng cũng nhảy ra, tiếng nói oang oang như sấm.
“Không…”
“Không nhìn thấy gì cả…”
Đám thuộc hạ tới tấp đáp lời, vẻ mặt mọi người đều rất thất vọng.
“Chẳng phải có sơn dân báo rằng đã nhìn thấy ở chỗ này sao? Mẹ kiếp! Lại mất công lần nữa!” Bách phu trưởng thở hổn hển mắng một câu, ngẩng đầu lên, ánh mắt vô tình nhìn về phía Mai Trường Tô và Hạ Đông, không khỏi sững sờ.
Mai Trường Tô để lộ một nụ cười tươi rói, gật đầu tỏ ý chào hỏi.
Đúng là nhân sinh hà xứ bất tương phùng, bất cứ lúc nào cũng có thể gặp người quen…
“Sao? Đó là người quen của Tô tiên sinh à?” Hạ Đông thoáng nhìn vẻ mặt của Mai Trường Tô.
“Không xem như người quen, chỉ là đã từng nhìn thấy. Đó là người của Tĩnh vương phủ, mặc dù ta chỉ tới thăm Tĩnh vương gia một lần những vẫn có chút ấn tượng với vị nhân huynh này.”
Hạ Đông cảm thấy hơi kinh ngạc. “Một bách phu trưởng mà lại gây được ấn tượng cho Tô tiên sinh, chắc hẳn phải có chỗ hơn người?”
Mai Trường Tô gật đầu. “Không biết cái chỗ hơn người đó của hắn bây giờ đã đỡ hơn chưa…”
Lời này nghe có vẻ kỳ quái, Hạ Đông vừa cau mày định hỏi lại thì bách phu trưởng đó đã sải bước đi tới, không để ý đến Mai Trường Tô mà chỉ ôm quyền thi lễ với Hạ Đông. “Tại hạ bách phu trưởng Thích Mãnh dưới trướng Tĩnh quận vương, xin hỏi có phải Hạ đại nhân từ trên núi xuống không?”
Hạ Đông quan sát hắn một lát, khẽ gật đầu. “Không sai.”
“Lúc ở trên núi hai vị có thấy quái thú nào không?”
“Quái thú?” Hạ Đông nhíu mày. “Nơi này là khu vực thuộc kinh đô, làm sao lại có quái thú?”
“Có, đó là một con quái thú có lông màu nâu vẫn thường quấy nhiễu các sơn dân ở đây. Vì vậy bọn ta mới phụng mệnh đến vây bắt.”
Mai Trường Tô hỏi chen ngang: “Ta nhớ các ngươi đã lùng tìm nó một thời gian rồi, tại sao còn chưa bắt được?”
Thích Mãnh vốn là tham tướng tứ phẩm, nhưng lại vì mấy câu nói của Mai Trường Tô mà chức vụ giành được bằng huyết chiến lại bị giáng xuống thành bách phu trưởng, nếu nói trong lòng không có oán hận thì là nói dối. Có điều trong phủ Tĩnh vương cũng có những người ánh mắt tinh tường suy nghĩ thấu đáo, ngày ấy sau khi hắn bị phạt quân côn, ít nhất có ba người đã đến khuyên giải, phân tích lý lẽ rất rõ ràng khiến hắn xấu hổ toát mồ hôi.
Lúc này gặp lại Mai Trường Tô, cho dù trong lòng vẫn không thoải mái nên không muốn chủ động bắt chuyện với chàng, nhưng chàng đã mở miệng hỏi thì hắn cũng không thể làm ngơ không đáp.
“Ngoại ô phía đông lắm núi nhiều rừng, quái thú đó lại cực kỳ xảo quyệt. Bọn ta không thể ngày ngày canh gác ở đây, chỉ khi nào sơn dân đến báo thì mới tới lùng bắt, nhưng lần nào đến cũng không nhìn thấy bóng dáng nó, cũng không biết có phải những sơn dân đó nhìn nhầm hay không…”
Mai Trường Tô đưa mắt nhìn quanh, nghĩ bụng khu ngoại ô phía đông này đồi núi kéo dài, phạm vi rộng lớn, muốn lùng bắt một con quái thú cũng không khác gì tìm kim dưới biển, hỏi sao bọn họ lại vất vả mà không được việc gì như thế.
“Người dân ở đây tố giác thì nha môn phủ Kinh Triệu phải giải quyết chứ?” Hạ Đông lại hỏi.
“Quái thú đó lợi hại lắm, các bộ khoái nha môn Kinh Triệu đã vây bắt một lần, năm mươi người bị thương một nửa mà cuối cùng cũng không bắt được. Cao phủ doãn không có cách nào nên mới đến nhờ vương gia của bọn ta. Những chuyện không đâu làm được cũng chẳng có công lao gì lớn này cũng chỉ có vương gia của bọn ta chịu làm.”
Trong lòng Hạ Đông biết rõ bách phu trưởng nói không sai, nhưng nàng ta và Tĩnh vương vẫn có khúc mắc nên không muốn bình luận thêm, chỉ “hừ” một tiếng rồi quay sang Mai Trường Tô. “Ta về thành đây. Lúc khác gặp lại.”
“Hạ đại nhân đi thong thả.” Mai Trường Tô hạ thấp người hành lễ, đưa mắt nhìn Hạ Đông đến quán trà lấy con ngựa gửi ở đó trước khi lên núi, giơ roi thúc ngựa chạy đi rồi mới từ từ quay lại nhìn Thích Mãnh.
“Gì thế?” Thấy chàng nhìn mình, Thích Mãnh hơi chột dạ, đầu óc hoạt động rất nhanh, nhớ lại xem nãy giờ mình có nói sai câu nào hay không.
Thấy hắn tỏ ra căng thẳng, Mai Trường Tô không khỏi bật cười. “Không tồi, không tồi! Mấy ngày không gặp, ngươi đã học được cách tự xem xét bản thân rồi. Xem ra Tĩnh vương điện hạ quả thật không lơ là dạy dỗ thuộc hạ. Vừa rồi, những lời ngươi nói trước mặt Hạ Đông không có gì không ổn, có điều sau này nếu có thể không nói thì tốt nhất đừng nói. Tĩnh vương điện hạ bây giờ cần làm nhiều mà nói ít, Tĩnh vương cũng hiểu rõ điều này, các ngươi là thuộc hạ thì càng nên hiểu rõ.”
Mai Trường Tô chẳng qua chỉ là một bình dân, không phải mưu thần bên cạnh Tĩnh vương, lại có chút khúc mắc với Thích Mãnh, lẽ ra chàng không có tư cách giáo huấn hắn. Nhưng không biết vì sao chàng chỉ đứng bình thản ở đó mà lại có một khí thế thu phục lòng người khiến Thích Mãnh bất giác gật đầu. “Ta biết rồi.”
Lúc này Lê Cương đã sai người đánh xe ngựa tới, đặt ghế làm bậc, đỡ Mai Trường Tô lên xe.
Xe ngựa sắp chuyển bánh, Mai Trường Tô đột nhiên vén rèm xe, vươn người ra nói với Thích Mãnh như thể vừa nhớ ra điều gì đó: “Ngươi hỏi thăm người dân ở đây xem quái thú đó thích ăn gì, sau đó đặt bẫy dụ nó đến là được.”
Thích Mãnh ngẩn ra, còn chưa phản ứng lại thì rèm xe đã hạ xuống, người đánh xe vung roi, xe ngựa lắc lư chuyển bánh.
Buổi tối Mai Trường Tô hồi phủ được biết Dự vương quả nhiên đã đích thân tới mời mình. Vì không tin chàng không có nhà, hắn còn nhất quyết vào hậu viện xem xét, sau đó chắc là do khách khứa còn đợi ở phủ không thể chờ lâu cho nên hắn mới bất mãn ra về.
Mùng Mười đã qua, khắp nơi trong kinh thành bắt đầu kết hoa đăng chuẩn bị đón Nguyên Tiêu.
Trong cung cũng không ngoại lệ, từ Hoàng hậu cho tới phi tần, các cung các viện đều vắt óc làm các loại đèn hoa tinh xảo để giành được lời khen ngợi của Hoàng đế vào rằng tháng Giêng sắp tới.
Tuy nhiên đối với một số người thì bầu không khí vui vẻ, tốt lành này chỉ là bề ngoài.
Đồng thời với việc gấp rút điều tra vụ án nội giám bị giết, đại thống lĩnh cấm quân Mông Chí cũng tăng cường bố trí phòng vệ, gia tăng cường độ tuần tra và nhanh chóng thu được hiệu quả, liên tiếp ngăn chặn hai vụ định phóng hỏa trong cung của các thái giám.
Đáng tiếc là nghi phạm bị bắt đã lập tức tự sát nên không tra hỏi được gì, nhưng sau khi kiểm tra thân phận thì những nghi phạm này quả thật là thái giám nội vụ trong cung chứ không phải người bên ngoài trà trộn vào.
Vì vậy Ngôn Hoàng hậu bị Hoàng đế Đại Lương trách tội trước triều thần, buộc phải tháo trâm thỉnh tội. Bà ta hiểu rõ trong cung có xảy ra bất cứ rắc rối gì thì người chịu trách nhiệm sẽ là mình chứ không phải các phi tần khác, càng không liên quan gì đến Việt phi, vì vậy chỉ có thể lưu tâm gấp bội, nghiêm khắc cai quản hoạt động của các cung.
Hoàng hậu là con gái thái phó tiền triều, mười sáu tuổi trở thành chính phi của Hoàng đế Đại Lương, khi đó vẫn còn là quận vương. Sau đó Hoàng đế Đại Lương lên ngôi nên được thụ phong Hoàng hậu, cai quản lục cung đến bây giờ.
Mặc dù sớm đã không còn ân ái, cũng không có con, nhưng chừng đó năm làm chánh cung nương nương cũng không phải vô ích, bà ta vẫn biết cách quản thúc hậu cung rất hiệu quả, năm đó Việt phi là quý phi được sủng ái mà cũng không gây ra sóng gió gì lớn, giờ đây khi Hoàng hậu đã quyết ý chỉnh đốn hậu cung thì cục diện chắc chắn sẽ được khống chế yên ổn.
So với trong cung bận rộn không ngừng thì Mai Trường Tô ở ngoài cung có vẻ nhàn hạ hơn rất nhiều. Sau khi điều tra được vài cao thủ giang hồ có liên lạc với Trác Đỉnh Phong hiện nay đang ở kinh thành, vị tông chủ Giang Tả minh này vội âm thầm điều một kiếm khách vô danh vào kinh, lần lượt khiêu chiến từng người theo đúng quy củ giang hồ, tất cả đều bị đánh cho nửa tháng không xuống giường được, mọi chuyện rất gọn gàng, sạch sẽ.
Mà sau khi gây ra một phen sóng gió ở kinh thành, vị kiếm khách vô danh này lại lặng lẽ ra đi không còn tung tích. Nhất thời tin đồn bay khắp nơi, mọi người đều ra sức phỏng đoán người này rốt cuộc là người phương nào, bảng cao thủ Lang Gia sang năm có xuất hiện tên hắn hay không…
Không còn trợ thủ, Trác Đỉnh Phong lại nhạy cảm phát hiện hình như lúc nào cũng có người theo dõi, hơn nữa cách thức theo dõi cực kỳ cao minh, mặc dù có cảm giác không đúng nhưng lại không phát hiện được chính xác.
Trong tình hình đó, ông ta cũng đành phải án binh bất động, giằng co với đối thủ.
Tạ Ngọc là người cẩn thận, làm việc nhất quyết không để lại chứng cớ. Ông ta lo lắng Huyền Kính sứ đã có hành động cho nên cũng không dám giục Trác Đỉnh Phong động thủ. Tình trạng giằng co cứ thế duy trì, kinh thành tự nhiên cũng được yên bình.
Hoạt động chủ yếu trong ngày Tết là chúc Tết, còn hoạt động chủ yếu vào lễ Nguyên Tiêu là tụ tập bằng hữu dẫn theo gia quyến ra ngoài xem hoa đăng.
Mặc dù trong cung ngoài cung đều bí mật tăng cường cảnh giới, nhưng đối với Mai Trường Tô vẫn ẩn giấu sau màn thì những hoạt động giải trí cần có vẫn nhất định phải có, nhất là Phi Lưu, trời còn chưa tối đã ăn mặc đẹp đẽ để chuẩn bị ra ngoài xem hoa đăng rồi.
Bởi vì đêm nay không giới nghiêm nên phố xa đều chật kín người, Lê Cương hết sức căng thẳng, không chỉ sắp xếp hộ vệ bao quanh bốn phía mà còn dặn dò Phi Lưu nhất định phải nắm chặt tay Tô ca ca, dù thế nào cũng không được lạc nhau.
“Không lạc!” Phi Lưu cảm thấy lời dặn của Lê đại thúc là một sự sỉ nhục đối với mình.
“Ngươi ra ngoài sẽ biết, trước kia từng có người đã bị chen chết trên đường vào đêm Nguyên Tiêu, chỉ sơ ý một chút là sẽ lạc nhau. Phi Lưu, ngươi nhất định không được khinh thường.”
“Không lạc!” Phi Lưu vẫn rất tức giận.
Mai Trường Tô nhìn cười vỗ vỗ đầu thiếu niên, dịu dàng nói: “Ngươi nhầm rồi, ý của Lê đại thúc là Tô ca ca sẽ đi lạc, không phải nói Phi Lưu của chúng ta đi lạc.”
Phi Lưu ngẩn người, nghiêm túc suy nghĩ một hồi lâu, đột nhiên nắm chặt tay Mai Trường Tô, lớn tiếng nói: “Không lạc!”
Lê Cương lúc này mới thở phào một hơi, đưa tay lau mồ hôi trên trán.
Tiếng trống canh một vang lên, đoàn người bắt đầu ra khỏi cổng phủ, vừa rẽ vào con phố chính tổ chức hội hoa đăng liền cảm nhận được bầu không khí ồn ào náo nhiệt, chen vai sát cánh.
Trong ánh đèn đủ màu sắc của vô số loại hoa đăng, dòng người cuồn cuộn như nước, tiếng cười tiếng nói vang trời.
Đây là ngày mà khoảng cách về cấp bậc và địa vị ở kinh đô Đại Lương trở nên mờ nhạt nhất trong năm, quan to quý tộc cũng thế, bình dân đầy tớ cũng vậy, mọi người không có sự khác biệt quá lớn giữa đám người xem hoa đăng đông đúc. Thậm chí rất nhiều người trong các danh gia vọng tộc còn xem việc mặc áo vải đeo mặt nạ chen chúc xem hoa đăng vào Tết Nguyên Tiêu như một thú vui, chỉ có các phu nhân và khuê nữ thân phận cao quý mới quây màn ngăn cách, tuy nhiên cũng có nhiều người đóng giả nữ tử bình dân, đeo mạng che mặt đi lại thoải mái. Vì vậy mà Tết Nguyên Tiêu cũng trở thành ngày tốt nhất để tình nhân hẹn ước.
Cũng giống như tất cả những đứa trẻ khác, Phi Lưu rất thích các loại đèn lấp lánh chói mắt này. Đèn thỏ, đèn cá vàng, đèn kéo quân, đèn tiên nữ, đèn bí đỏ, đèn bươm bướm, chiếc nào cũng khiến hắn nhìn không chớp mắt. Mỗi lần Mai Trường Tô hỏi hắn có mua hay không, hắn đều lập tức trả lời là có, vì vậy còn chưa đi được nửa con phố mà trên tay mỗi người đã cầm ít nhất hai, ba chiếc đèn.
“Tông chủ, không nên chiều trẻ con như vậy…” Lê Cương không nhịn được oán trách. “Phi Lưu nhất định chỉ mong có thể mang cả con phố về nhà…”
“Đúng!” Thiếu niên mừng rỡ, lập tức tán thành.
“Không sao, lát nữa gặp bọn họ, ngươi sai mấy người mang số đèn này về nhà. Nhà chúng ta rất rộng, cứ treo hết lên trước hiên cho Phi Lưu chơi mấy ngày.” Mai Trường Tô cười, trả lời Lê Cương xong lại quay sang dỗ dành Phi Lưu: “Phi Lưu này, theo phong tục thì các loại đèn này chỉ treo trong tháng Giêng thôi. Hết tháng Giêng sẽ phải bỏ xuống, biết chứ?”
“Biết.”
Lê Cương cười khổ, đành không nhắc tới chuyện này nữa, vươn cổ về phía trước nhìn. “Đông người thế này biết tìm thế nào được?”
“Tìm đèn hoa đào đi. Ta đã bảo bọn họ chờ dưới đèn hoa đào…”
Mai Trường Tô vừa dứt lời, một hộ vệ đã kêu to: “Nhìn bên kia kìa!”
Mọi người nhìn theo hướng hắn chỉ, một chiếc đèn hoa đào cực lớn từ từ được kéo lên cách chỗ mọi người đứng khoảng năm mươi bước về phía trước. Cánh đỏ nhị vàng, chế tạo cực kỳ tinh tế, ngay cả giữa ngàn vạn đèn đuốc mà chiếc đèn hoa đào này vẫn hết sức nổi bật.
“To quá, muốn không nhìn thấy cũng khó.” Mai Trường Tô vừa cười vừa dẫn tùy tùng đi tới chiếc đèn. Chỉ có năm mươi bước ngắn ngủi mà mọi người phải đi mất gần một khắc, cuối cùng hai nhóm người mới tụ tập lại với nhau.
“Tiểu Phi Lưu, tặng ngươi chiếc đèn hoa đào này, thích không?” Ngôn Dự Tân cười, lắc lắc cán đèn rất dài.
“Có!”
“Phải đa tạ Ngôn ca ca.” Mai Trường Tô nhắc nhở.
“Đa tạ!”
“Đường đông thế này, muốn đến Diệu Âm phường theo ý ngươi thì e là phải đi đến sáng…” Mai Trường Tô thở dài nhìn dòng người như thủy triều. “Ta bắt đầu hối hận vì đã nhận lời ra ngoài với các ngươi rồi…”
“Không việc gì.” Tiêu Cảnh Duệ nói. “Cũng chỉ có phố lớn mới đông người thôi, chúng ta đi ngõ nhỏ có thể đến thẳng cửa sau của Diệu Âm phường. Dự Tân thuộc đường này lắm, gần như cứ vài ngày hắn lại đi một lần…”
Ngôn Dự Tân liếc hắn. “Thuộc đường thì có gì mất mặt? Đại anh hùng phải yêu cái đẹp, đại danh sĩ nào mà chẳng phong lưu…”
“Được rồi, ngươi đừng phong lưu vội, mọi người đi luôn đi, đến muộn một lát thì có lẽ chỗ ngồi ngươi đặt trước cũng không giữ được… Mấy khi Cung Vũ cô nương ra đại sảnh diễn tấu nhạc khúc mới chứ?” Tạ Bật đứng ra hòa giải, mọi người chen lấn một hồi cuối cùng cũng đến được chỗ rẽ vào ngõ, tất cả cùng thở phào nhẹ nhõm.
Không đi phố lớn mà đi ngõ nhỏ, mặc dù lộ trình xa hơn một chút nhưng tốc độ lại nhanh hơn mấy lần.
Bước trên mặt ngõ lát đá xanh dưới ánh trăng lành lạnh, bên tai lại vang lên tiếng người huyên náo từ phố lớn cách đó không xa, mọi người đều có cảm giác rất khó thích ứng.
Đến đường Loa Thị, cảnh tượng càng phồn hoa sặc sỡ như ngợp trong vàng son.
Ngôn Dự Tân thích nghe nhạc, là khách quen của Diệu Âm phường, những người cùng đi với hắn cũng đều có thân phận bất phàm, vì thế đám người vừa vào cổng đã được tiếp đón cực kỳ chu đáo. Hai vị cô nương áo đỏ xinh đẹp, đáng yêu dẫn bọn họ đến vị trí đã đặt trước.
Đại sảnh diễn nhạc của Diệu Âm phường rất rộng rãi, cửa sổ thiết kế trên cao, đỉnh đầu là mái vòm, hiệu quả giữ âm thanh cực tốt.
Lúc này các bàn trong sảnh gần như đã kín khách, nhưng vì có hạn chế về nhân số nên không ồn ào, chật chội.
Mặc dù có rất nhiều người quyền thế đến chậm không được đi vào nhưng không xuất hiện tình trạng phá phách.
Nguyên nhân là các lầu các sảnh khác ở Diệu Âm phường cũng đều có những tiết mục đặc sắc, hơn nữa con em thế gia cũng đều là người sĩ diện, dù có không vui thì cũng chưa đến mức gây rối ở lầu xanh làm trò cười cho thiên hạ, dù sao thì loại người như Hà Văn Tân cũng không nhiều.
Đa số những người đến trước giành được chỗ ngồi trong đại sảnh đều là bạn nhạc của nhau, nhân lúc Cung Vũ chưa xuất hiện, mọi người không ngừng qua lại hỏi han, chúc tụng. Ngay cả Mai Trường Tô ngồi yên một chỗ cũng có mấy người đến chào hỏi, mặc dù chàng hoàn toàn không biết họ là ai.
Sau một hồi lộn xộn, Tiêu Cảnh Duệ và Tạ Bật lần lượt hoàn thành các thủ tục xã giao trở lại vị trí, chỉ có Ngôn Dự Tân còn chưa thấy về. Có lẽ mỗi người ở đây đều có giao hảo với hắn, chưa đến giờ biểu diễn thì hắn cũng chưa về được.
“Sao? Tô huynh lại bắt đầu hối hận vì đã cùng đi với bọn ta à?” Tạ Bật cầm ấm trà bằng tử sa lên, vừa rót trà vừa hỏi.
Mai Trường Tô đưa mắt nhìn quanh, than thở: “Lộn xộn thế này thì làm sao mà thưởng thức âm nhạc được nữa?”
“Cũng không thể nói như vậy được.” Đây là một trong rất ít lần Tiêu Cảnh Duệ bác lời Tô huynh của hắn. “Tiên nhạc của Cung Vũ cô nương có thể dẹp yên tất cả. Chỉ cần nàng xuất hiện là Tu La trường cũng trở thành nơi thanh tĩnh, Tô huynh không cần lo lắng.”
Hắn vừa nói xong, đột nhiên hai tiếng chuông khẽ vang lên, dù không to nhưng lại xuyên thấu tiếng xôn xao trong sảnh, dường như xen vào giữa hai nhịp tim đập của mỗi người làm lòng người cũng bình yên lại.
Lông mày Mai Trường Tô khẽ động, chỉ nháy mắt sau Ngôn Dự Tân cũng đã trở lại chỗ ngồi, tốc độ xuất quỷ nhập thần của hắn không kém Phi Lưu bao nhiêu.
Lúc này hai tiểu đồng để tóc trái đào, đi ra vân đài ở mé nam đại sảnh, chậm rãi kéo màn sân khấu bằng nhung tơ màu son sang hai bên, sau màn không bày biện nhiều, chỉ có một đàn, một kỷ và một chiếc ghế.
Ánh mắt mọi người cùng nhìn về phía lối đi ở bên trái vân đài, bởi vì mấy lần Cung Vũ cô nương ra đại sảnh diễn nhạc trước kia đều đi ra từ chỗ đó.
Quả nhiên một lát sau, vạt váy màu phấn hồng đã xuất hiện bên màn, một quả cầu nhỏ bằng nhung vàng rung rung trên mũi giày thêu. Chiếc giày dừng lại một lát rồi bước ra, bóng dáng một người cũng xuất hiện trông tầm mắt của quan khách.
“Ồ…” Tiếng kêu thất vọng lập tức vang lên trong sảnh.
“Các vị đều là khách quen của Diệu Âm phường, xin hãy nể mặt ta một chút.” Ma ma của Diệu Âm phường – bà chủ Tân tam di phất khăn tay cười duyên. “Cung cô nương sẽ ra ngay, các vị không cần phải bày sắc mặt như vậy cho ta xem.”
Tân tam di tuy đã có tuổi nhưng phong vận vẫn còn, bà ta đi một lượt các bàn, vừa đi vừa cười đùa trêu trọc, đi đến đâu tiếng cười vui vang lên đến đó.
Sức chú ý của mọi người bị bà ta thu hút, đến lúc tỉnh ra mới phát hiện Cung Vũ cô nương đã ngồi ngay ngắn trước đàn, không ai phát hiện nàng đi ra từ lúc nào.
Thân là át chủ bài của Diệu Âm phường, chỉ bán nghệ không bán thân, Cung Vũ tuyệt đối là cô nương khó gặp nhất đường Loa Thị. Mặc dù nàng không nổi danh vì sắc đẹp mà nổi tiếng vì nhạc kỹ, nhưng thực ra dung nhan của Cung Vũ cũng rất xinh đẹp, mắt phượng mày liễu, da trắng như tuyết, khí chất tao nhã không hề yếu đuối, cho dù áo vải trâm tre cũng vẫn giống như tiên nữ giáng trần.
Mặc dù nàng chưa bao giờ xuất hiện trên Lang Gia bảng, nhưng không ai có thể phủ nhận Cung Vũ là một mĩ nhân.
Thấy mọi người đều phát hiện Cung Vũ đã ra sân khấu, Tân tam di liền yên lặng lùi sang một bên, ngồi xuống chiếc ghế đặt trên hành lang quan sát tình hình trong sảnh.
Không cười nói vui vẻ như Tân tam di vừa rồi, sau khi xuất hiện, Cung Vũ không nói một lời. Sau khi chỉnh đàn xong, nàng chỉ mỉm cười dịu dàng rồi đưa tay bắt đầu diễn nhạc.
Đầu tiên là ba khúc cổ mọi người đều biết gồm “Dương Quan tam điệp”, “Bình sa lạc nhạn” và “Như tiều vấn đáp”, nhưng chính vì là khúc nhạc quen thuộc nên lại càng có thể cho thấy tài nghệ của người chơi nhạc đã đến mức lô hỏa thuần thanh, đưa tình vào nhạc hay chưa.
Một bậc thầy về âm nhạc như Cung Vũ hoàn toàn không có khả năng lỗi nhịp, bản nhạc dạt dào trôi chảy, đưa người vào cảnh, khiến người nghe ai cũng nghe âm mà quên âm, chỉ cảm thấy trong lòng như được gột rửa, khung cảnh như thật như ảo.
Sau ba khúc cổ cầm, thị nữ lại ôm đàn tì bà đến.
Sau “Hán cung thu nguyệt” đau buồn, ai oán là “Xuân giang hoa nguyệt dạ” tươi vui, nhẹ nhàng. Tiếng đàn đã dứt, dư âm vấn vương, người người đều như chìm trong ý cảnh của sông xuân trăng sáng, ung dung tận hưởng không muốn trở về hiện thực.
Tinh thần bay bổng, Ngôn Dự Tân tay cầm trâm ngọc, gõ nhịp ngâm nga:
“Sông xuân sóng nước liền ngang bể
Vầng trăng trên mặt biển lên cao
Ánh trăng theo sóng đẹp sao
Sông xuân muôn dặm chỗ nào không trăng
Dòng sông chảy quanh rừng hoa ngát
Trăng soi hoa như tuyết trập trùng
Sương bay trắng một khoảng không
Trên soi cát trắng chẳng trông thấy gì
Trời nước một màu không vướng bụi
Mảnh trăng tròn cô độc giữa trời
Bên sông ai mới thấy trăng
Trăng sông thoạt mới soi người năm nao
Người sinh mãi kiếp nào cho biết
Ngắm trăng sông năm lại như năm
Trăng sông chẳng biết đợi ai
Dưới trăng chỉ thấy sông dài nước trôi…”
Hắn vừa bắt đầu ngâm, Cung Vũ đã chớp thu ba, ngón tay ngọc lại múa trên dây đàn, lấy nhạc tả thơ, lấy thơ đệm nhạc, nhạc thơ hòa hợp như sớm đã diễn luyện nhiều lần, không có một chút nào thiếu hài hòa.
Nhạc dừng thơ hết, khắp sảnh yên lặng như tờ, Cung Vũ dương mày nói một tiếng: “Rượu đâu!”
Thị nữ dâng hũ vàng li ngọc, nàng uống đầy một li, đặt li xuống khay, xoay tay cầm đàn tì bà lên ôm trước ngực, một tiếng đàn chát chúa vang lên.
Tải tửu hành, khúc mới của Thập Tam tiên sinh, kính mời chư vị đánh giá.”
Chỉ một câu này, không nói gì thêm.
Tiếng đàn vang lên, lại biến thành âm thanh giáo mác. Mãnh liệt đau thương, vang vọng sục sôi, tạp mà vẫn êm, lại không hề chói, lúc như ngâm vịnh khi say, lúc như rượu tráng hùng tâm, trầm bổng đan xen, ngang tàng mạnh mẽ. Khúc nhạc này lại được diễn tấu sau khúc nhạc cổ “Xuân giang hoa nguyệt dạ” tinh tế nên càng khiến mọi người tỉnh hẳn cơn mê, chỉ cảm thấy hào khi dâng trào, không thể không cầm chén ngẩng đầu cảm khái.
Một khúc đã hết, Cung Vũ chậm rãi đứng dậy, vén áo thi lễ, đại sảnh yên tĩnh một thoáng rồi tiếng khen ngợi vang lên không dứt.
“Tối nay chỉ nghe một khúc cuối cùng này cũng đã là đủ rồi.” Tiêu Cảnh Duệ không nhịn được uống liền hai chén, than thở: “Khúc này của Thập Tam tiên sinh ngang tàng rạo rực, cho dù là nam nhi đánh trống cũng khó có thể mạnh mẽ hơn được. Ai ngờ Cung cô nương liễu yếu đào tơ, ngón đàn lại có thể diễn tả được cảnh tượng hào hùng như vậy, thật khiến chúng ta phải xấu hổ.”
“Ngươi có thể hiểu được như vậy thì cũng có thể nói là người tri âm rồi.” Mai Trường Tô nâng chén lên môi, khẽ nhấp một ngụm, ánh mắt lại chuyển lên phía Cung Vũ.
Ánh mắt hai người chỉ thoáng tiếp xúc, gương mặt Cung Vũ đã hơi ửng đỏ, một tầng sắc mỏng manh càng thêm tình vận.
Sau khi đứng dậy thi lễ đáp tạ tiếng vỗ tay vang dội trong sảnh, nàng yểu điệu tiến lên trước một bước, đôi môi đỏ hé nở, nói khẽ: “Mời các vị yên lặng một lát.”
Trong tiếng ồn ào xung quanh, lẽ ra lời nói nhỏ nhẹ của nàng sẽ không có hiệu quả, nhưng cùng lúc đó tiếng chuông cũng vang lên lần nữa như đánh thẳng vào ngực người ta, khung cảnh lập tức ổn định trở lại.
“Hôm nay là Tết Nguyên Tiêu, được các vị ủng hộ ghé thăm Diệu Âm phường, tiểu nữ rất lấy làm vinh hạnh.” Cung Vũ tươi cười, giọng nói trong trẻo như khánh bạc, mọi người không nhịn được bắt đầu ngưng thần lắng nghe. “Để các vị được tận hoan, Cung Vũ sẽ đưa ra một trò chơi, không biết các vị có vui lòng tham gia hay không?”
Vừa nghe nói còn có tiết mục tiếp theo, tất cả khách khứa đều mừng rỡ, lập tức mồm năm miệng mười: “Có, có!”
“Trò chơi này gọi là “Nghe âm thanh đoán nhạc cụ”, do hôm nay đông khách, khó tránh khỏi ồn ào, cho nên mỗi một bàn hiện đang ngồi sẽ tạo thành một đội, tiểu nữ sẽ tấu âm sau màn, mọi người đoán xem đó làm âm thanh của nhạc cụ nào. Đội trả lời đúng nhiều nhất, Cung Vũ sẽ có đại lễ dâng tặng.”
Tất cả những người ở đây đều tinh thông âm luật, không ai sợ khó, mọi người tới tấp tán thành.
Cung Vũ mỉm cười lui lại, hai tiểu đồng để tóc trái đào lúc trước lại đi ra kéo rèm vào. Đại sảnh dần yên tĩnh, mọi người bắt đầu ngưng thần lắng nghe. Một lát sau, âm thanh đầu tiên vang lên sau tấm màn.
Do tất cả những người ở đây đều sành âm nhạc, nếu diễn nguyên cả bản nhạc thì quá đơn giản, cho nên Cung Vũ chỉ phát ra đơn âm.
Sau một thoáng yên lặng, một người ngồi ở bàn gần cửa sổ mé đông đứng lên, lớn tiếng nói: “Hồ cầm!”
Một tiểu nha đầu tóc mới vừa đủ dài để buộc chạy tới tặng một đóa mẫu đơn bằng lụa, người nọ hết sức đắc ý ngồi xuống.
Tiếng thứ hai lại vang lên.
Tiêu Cảnh Duệ lập tức giơ tay lên, cười nói: “Hồ già!”
Tiểu nha đầu lại chạy tới tặng mẫu đơn. Ngôn Dự Tân bực bội trách gã bằng hữu: “Sao ngươi lại nhanh mồm nhanh miệng như vậy?”
Tạ Bật không nhịn được đẩy hắn một cái, cười mắng: “Chúng ta là một đội mà!”
Tiếng thứ ba vang lên.
Ngôn Dự Tân đứng bật dậy, hét lớn: “Lô quản!” Thế là lại nhận được một đóa mẫu đơn.
Tiếng thứ tư vang lên.
Công tử quốc cữu và một người bàn khác gần như đồng thời hô lên hai chữ: “Không hầu.” Tiểu nha đầu lúng túng hết nhìn người này lại nhìn người kia, có lẽ là cảm thấy bàn này đã có hai đóa, vì vậy quyết định phân phát theo nguyên tắc ủng hộ người yếu thế.
Tiếng thứ năm vang lên.
Đại sảnh yên lặng một hồi, Mai Trường Tô nói nhỏ một tiếng vào tai Tạ Bật, Tạ Bật lập tức giơ tay lên, nói: “Đồng giác!”
“Đồng giác là cái gì?” Ngôn Dự Tân nhìn đóa mẫu đơn vừa nhận được, ngẩn ngơ hỏi một câu.
“Một loại nhạc cụ dùng trong nghi lễ và cử quân nhạc trong quân ở biên giới, đa số được làm từ sừng động vật, các ngươi ở kinh thành rất hiếm khi nhìn thấy.” Mai Trường Tô vừa giải thích xong, tiếng thứ sáu lại vang lên. Những người bàn này đang mải nghe chàng giải thích, chợt bàn bên cạnh đã có người hét lớn: “Cổ huân!”
Kế tiếp, các loại nhạc cụ như sáo trúc, bang cổ, hề cầm, đàn sắt, khánh đá, phương hưởng, bài tiêu lần lượt được dùng đến, đội của mấy người vừa có khả năng thẩm âm như Mai Trường Tô vừa có phản xạ nhanh nhạy như Ngôn Dự Tân nên đương nhiên thành tích rất tốt.
Cuối cùng màn sân khấu nhẹ nhàng rung động, một tiếng giòn giã vang lên. Đại sảnh lại yên lặng một lát, vài người đứng lên nhưng không đoán được nên đành ngồi xuống.
Ngôn Dự Tân cau mày, cắn môi suy nghĩ hồi lâu, cuối cùng vẫn đành phải dò hỏi: “Tô huynh, huynh nghe ra đó là cái gì không?”
Mai Trường Tô nhịn cười, nhỏ giọng nói một chữ. Ngôn Dự Tân vừa nghe đã trợn tròn mắt, buột miệng thất thanh: “Mõ?”
Vừa dứt lời, tiểu nha đầu đã chạy tới. Cùng lúc đó, màn sân khấu cũng được kéo ra, Cung Vũ nhẹ nhàng đưa mắt nhìn quanh đại sảnh, thấy bên này xếp cả đống mẫu đơn, nàng không khỏi mỉm cười vui vẻ.
“Đại lễ! Đại lễ!” Ngôn Dự Tân rất vui vẻ vẫy tay với Cung Vũ. “Cung cô nương tặng bọn ta đại lễ gì?”
Ánh mắt long lanh, gương mặt trắng hồng, tươi tắn như hoa, Cung Vũ nói không nhanh không chậm: “Cung Vũ tuy là người bán nghệ nhưng xưa nay không bao giờ diễn nhạc bên ngoài Diệu Âm phường. Lần này để đáp tạ người thắng cuộc, sắp tới tư gia nào trong đội thắng cuộc có yến tiệc, Cung Vũ sẵn lòng mang đàn đến phủ, trợ hứng cả ngày.”
Lời vừa nói ra, đại sảnh ồn ào.
Cung Vũ không phải kỹ nữ, tính tình lại cao ngạo, quả thật chưa từng nhận lời mời đến bất cứ phủ đệ nào, cho dù là vương công quý tộc cũng đừng hòng bắt nàng dời gót sen khỏi đường Loa Thị. Đây chính là lần đầu tiên Cung Vũ bằng lòng ra ngoài hầu tiệc, mọi người đều vừa kinh ngạc vừa ghen tị, Ngôn Dự Tân thì cười tít mắt, nói: “Cung Vũ cô nương chịu đến thì dù không có tiệc ta cũng phải mở tiệc!”
Mai Trường Tô lại khẽ nghiêng đầu, hạ giọng hỏi nhỏ: “Lời hứa này của Cung cô nương có thời hạn không? Phải tổ chức ngay trong vài ngày tới hay là có thể kéo dài một thời gian, chẳng hạn như đến tháng Tư…”
Câu này của chàng lập tức nhắc nhở Ngôn Dự Tân, hắn vội hỏi theo: “Đúng rồi, trong tháng Tư có được không?”
Cung Vũ cười, nói: “Trong năm nay, bất cứ lúc nào cũng được.”
“Tuyệt quá!” Ngôn Dự Tân vỗ lưng Tiêu Cảnh Duệ. “Dạ yến sinh nhật của ngươi, món quà này đã đủ trọng chưa?”
Tiêu Cảnh Duệ biết hắn có ý tốt nên không lên tiếng phản đối. Do tiệc sinh nhật của hắn luôn luôn rất thoải mái, trước kia từng có bằng hữu dùng lụa mỏng phủ lên một người đẹp dẫn vào, bị phụ thân hắn bắt gặp, cuối cùng cũng chỉ lắc đầu cười trừ cho qua. Huống chi Cung Vũ là bậc thầy âm luật, danh tiếng vang dội chốn kinh thành, hiển nhiên nàng đến sẽ không có vấn đề gì.
Hơn nữa trưởng công chúa Lỵ Dương cũng thích âm luật, chỉ là không tiện lui tới Diệu Âm phường, bây giờ có cơ hội mời Cung Vũ đến phủ tấu nhạc cho mẫu thân, đối với Tiêu Cảnh Duệ cũng là một chuyện đáng để vui mừng.
“Quyết định như vậy đi, Mười hai tháng Tư, mời Cung cô nương di giá tới phủ Ninh Quốc hầu.” Ngôn Dự Tân vỗ tay chốt lại vấn đề.
Tạ Bật giả vờ ghen tị, nói đại ca quá được ưu ái. Mấy người bên cạnh đi tới chúc mừng, Ngôn Dự Tân phấn khởi đáp lễ. Cung Vũ mỉm cười gạt lọn tóc mai về phía sau. Trong cảnh náo nhiệt, chỉ có ánh mắt Mai Trường Tô vẫn buông xuống nhìn chén rượu trên bàn rồi bưng lên uống một hơi cạn sạch. Rượu nuốt xuống họng, chàng cũng lặng lẽ thở dài.