Dịch giả: Nguyễn Ngọc Hiếu
Chương 19
Cao nhân đấu trí

     ông chí đã qua, ngày Tết dần đến.
Vốn đây là thời gian tống cựu nghênh tân, vui mừng phấn khởi, nhưng bầu không khí trong kinh thành lại đột nhiên trở nên căng thẳng vì một đạo ý chỉ của Hoàng đế.
“Vụ án chiếm đất Tân Châu, lệnh Tĩnh vương Tiêu Cảnh Diễm chủ thẩm, ba ti hỗ trợ. Điều tra rõ, phán quyết ngay, không được bao che. Khâm thử.”
Ngày thứ hai sau khi chính thức tiếp nhận thánh chỉ từ tay thái giám tuyên chỉ, Tiêu Cảnh Diễm đã tuyên bố danh sách quan chức ba ti bồi thẩm, trong ngoài triều vốn đã chấn động lập tức lại chấn động thêm một phen.
Nếu như việc Tĩnh vương chủ thẩm khiến khả năng thoát tội của Khánh quốc công trong vụ án này trở nên hết sức xa vời thì danh sách quan chức bồi thẩm này càng triệt để làm ông ta tuyệt vọng.
Mặc dù quan chức trong triều có người ba phải, có người bè cánh, có người nửa nọ nửa kia, nhưng có thể làm quan trong triều thì dù sao cũng tương đối thông minh, tất cả đều biết những người được Tĩnh vương lựa chọn là những người như thế nào.
Khánh quốc công lần này chạy trời không khỏi nắng, điều này gần như lập tức trở thành suy nghĩ chung của quan lại trong triều. Không những đám thân bằng cố hữu không một sai dám cứu giúp, thậm chí ngay cả Dự vương Tiêu Cảnh Hoàn, chỗ dựa lớn nhất của ông ta mà mọi người đều công nhận cũng tỏ thái độ rất kỳ lạ.
Bộ Hình là địa bàn của Dự vương, địa điểm thẩm án của Tĩnh vương chủ yếu ở đây. Vốn mọi người đều cho rằng hắn ít nhiều sẽ bị cản trở vài phần, không ngờ Dự vương lại cực kỳ phối hợp, cần người nào hay thứ gì đều chỉ cần nói một câu, không bao giờ gặp phiền phức. Thậm chí người nào vô tình sơ suất gây cản trở còn bị răn dạy nghiêm khắc.
Tình hình của Khánh quốc công vốn đã nguy hiểm, nay bị thí xe giữ tướng là điều không thể tránh khỏi, hy vọng duy nhất là cuối cùng ông ta sẽ được Hoàng đế ân xá tha mạng, còn vinh hoa phú quý của quân hầu nhất phẩm thì chắc chắn là không còn.
Sau khi vụ án chiếm đất được xét xử gần mười ngày, còn chưa kết án, các địa phương đã bắt đầu nghe được phong thanh.
Đơn tố giác các vụ án tương tự từ bốn phương tám hướng bay về kinh thành, các hào môn từng có hành vi thôn tính đất đai cũng bắt đầu âm thầm trả ruộng và bồi thường cho dây cày, thỉnh thoảng cũng xảy ra một vài sự kiện uy hiếp và bịt miệng.
Trong quá trình xử lý những sự kiện tiếp theo này, Tĩnh vương đã thể hiện một phong cách hành sự sáng suốt, vừa chín chắn vừa quả quyết, vừa nghiêm khắc vừa linh hoạt, các quan chức bồi thẩm cũng phối hợp rất ăn ý.
Nhờ có Hoàng đế ủng hộ, Dự vương phối hợp và đoàn bồi thẩm có năng lực, một vụ đại án vốn có thể dẫn đến loạn lạc được Tĩnh vương giải quyết rất gọn gàng, được mọi người hết sức khen ngợi.
Không đến một tháng, vụ án đã cơ bản được giải quyết. Tổng cộng mười bảy người bao gồm Khánh quốc công và các thủ phạm chính bị phán treo cổ, gia sản bị tịch thu toàn bộ, nam đinh đi đày, nữ quyến được tha.
Sau khi kết án, Tĩnh vương và các quan chức bồi thẩm cùng nhau vào cung kiến giá, phục chỉ.
Hoàng đế Đại Lương nhanh chóng triệu bọn họ vào điện Hàm An.
Sau khi bước vào cửa điện, Tĩnh vương mới phát hiện Dự vương đã ở bên trong, hơn nữa hình như không phải mới vào.
“Diễm nhi, việc trẫm giao đã làm xong chưa?” Hoàng đế Đại Lương hỏi một câu.
“Nhi thần tuân theo ý chỉ của phụ hoàng, đã kết án Khánh quốc công cùng thân tộc tội chiếm đất dân cày và tội giết người. Hồ sơ vụ án ở đây, mời phụ hoàng xem xét.”
Hoàng đế Đại Lương tiếp nhận hồ sơ thái giám trình lên, lật xem một lượt, mơ hồ ở một tiếng rồi tiện tay đưa hồ sơ cho Dự vương ở bên cạnh, nhìn lướt qua các quan lại bên dưới, hỏi: “Hồ sơ là do người nào chắp bút?”
Tĩnh vương trả lời: “Chủ ti bộ Hình, Thái Thuyên.” Vừa nói vừa ra hiệu cho Thái Thuyên tiến lên bái kiến.
“Viết tốt lắm. Mạch lạc rõ ràng, chứng cứ đầy đủ.” Hoàng đế Đại Lương thoáng nhìn Thái Thuyên rồi ánh mắt lại nhìn về phía Tĩnh vương, yên lặng một lát rồi mới nói: “Ngươi cũng làm không tồi, còn phải xử lý tốt những sự việc tiếp theo, tiếp tục ổn định cục diện.”
“Nhi thần tuân chỉ.”
Dự vương cười, nói xen vào: “Vụ án này đúng là xử rất gọn gàng, phụ hoàng đã chọn đúng người. Một vụ án lớn như vậy, may mà là Cảnh Diễm, nếu là người ngoài thì chỉ e bây giờ vẫn còn đang tối mắt tối mũi.”
Hoàng đế Đại Lương mềm mỏng nhìn hắn, nụ cười lộ ra trên khuôn mặt. “Ngươi lần này cũng rất hiểu chuyện, làm cho trẫm yên tâm hơn nhiều. Trong các hoàng tử của trẫm, chỉ có ngươi là chững chạc và hiểu lý lẽ nhất. Nghe nói ngươi còn chủ động giúp Cảnh Diễm xử lý vài chuyện, đúng không?”
“Đó là nhi thần sợ Cảnh Diễm ít khi đến bộ Hình, có một số việc không được thuận tiện, cho nên mới giúp Cảnh Diễm mấy việc vặt.” Dự vương vừa cười vừa xua tay.
“Ngươi là người lòng dạ rộng rãi, trẫm rất thích. Người đâu…” Hoàng đế Đại Lương khẽ giơ tay lên triệu nội thị tới gần. “Lấy vàng ngọc, gấm vóc thưởng cho Dự vương.”
“Nhi thần cảm tạ long ân của phụ hoàng.”
Tĩnh vương vất vả tra án, hoàn thành nhiệm vụ vừa nhanh vừa tốt mà chỉ được khen mấy câu không mặn không nhạt. Dự vương chỉ không gây thêm rắc rối cho Tĩnh vương mà lại được trọng thưởng như thế. Đám quan chức ba ti cùng đi với Tĩnh vương đến phục chỉ nhìn thấy cảnh này, dù ngoài miệng không nói nhưng trong lòng đều rất bất bình.
Nhưng trước sự thiên vị của phụ hoàng, sự đắc ý của Dự vương và sự thông cảm của đồng liêu, chính bản thân Tĩnh vương lại không có biểu hiện gì khác thường.
Bất công và ấm ức là chuyện đã quen nhiều năm nay, sự mù quáng và thiên vị của Lương đế giờ đây đã không thể làm hắn chán nản nữa rồi, ngược lại chỉ kích thích ý chí chiến đấu hừng hực của hắn.
Sau khi cáo lui khỏi điện Hàm An, Tĩnh vương vừa cáo từ quan chức ba ti, Dự vương đã từ trong điện đuổi theo, còn cách rất xa đã kêu lên: “Cảnh Diễm, ngươi chờ một chút.”
Nếu với tính tình trước kia thì Tĩnh vương nhất định sẽ đi thẳng, coi như không nghe thấy. Nhưng đối với Tiêu Cảnh Diễm bây giờ, chuyện yêu ghét cá nhân đã không còn là gì nữa, cho nên hắn dừng bước, bình tĩnh xoay người lại.
Dự vương đã chạy đến gần, nụ cười thân thiện nở rộ trên môi, nắm tay Tĩnh vương giải thích: “Ngươi đừng ấm ức, phụ hoàng hết sức hài lòng về việc làm của ngươi lần này, người định đợi đến khi ngươi giải quyết hết những sự tình tiếp theo rồi mới phong thưởng một thể… Ta được thơm lây, không công mà hưởng lộc, nếu ngươi không chê thì ta sẽ sai người đưa số vàng ngọc, gấm vóc đó đến phủ của ngươi…”
“Hoàng huynh không cần khách khí. Ta chỉ lo việc quân, không cần những thứ này.”
“Có phải cho ngươi dùng đâu? Những thứ này là cho các đệ tức dùng mà…”
Tĩnh vương nhíu mày, thản nhiên nói: “Hoàng huynh không biết trong phủ của ta chỉ có thứ phi à? Theo lễ chế không được dùng mấy thứ này, đa tạ ý tốt của hoàng huynh.”
Dự vương sững người, dù là một người rất khéo ăn khéo nói nhưng giờ khắc này hắn lại không nói nên lời.
Xét theo lễ chế, Tĩnh vương chỉ là quận vương chứ không phải thân vương, thứ phi của hắn thì cấp bậc càng thấp, không được đeo vàng ngọc và mặc gấm vóc màu vàng.
Nhưng kỳ thực quy củ này cũng không được chấp hành nghiêm khắc, không cần nói các thứ phi mà thậm chí một số phu nhân hầu tước cũng từng đeo vàng ngọc giả cho sang, Hoàng đế cũng coi như không thấy, không quá để ý đến chuyện này.
Nhưng với tính tình nghiêm túc, Tĩnh vương lại nhất định phải tuân thủ quy củ này. Hắn không thể nói Tĩnh vương sai, đành ngượng ngùng cười hai tiếng, nói: “Là ta suy nghĩ không chú đáo. Có điều ngươi tài cán như vậy, phong thân vương cũng chỉ là chuyện sớm hay muộn, không có trở ngại gì lớn… Đúng rồi, giờ đã sắp đến tháng Giêng, mùng Năm Tết ta sẽ mở tiệc, Cảnh Diễm ngươi nhất định phải đến, mấy năm trước đều không mời nổi ngươi…”
Tĩnh vương thầm nghĩ, mấy năm trước ngươi có bao giờ mời ta đâu? Có điều hắn cũng biết rõ lời này của Dự vương là để chứng tỏ mối quan hệ hữu hảo giữa hai người cho người ngoài xem, cho nên cũng không làm khó hắn, chỉ chậm rãi gật đầu. “Cũng nên đến vấn an hoàng huynh, hoàng tẩu.”
Thấy vẻ mặt hắn mặc dù vẫn lãnh đạm như trước, nhưng ít nhất cũng đã chịu trả lời, có thể thấy việc dạo này mình thường xuyên bênh vực hắn đã có hiệu quả, trong lòng Dự vương rất vui. Hắn đang định hỏi han thêm vài câu thì một nữ quan của Hoàng hậu tới giục hắn đến cung Chính Dương, hắn đành phải bỏ lại một câu: “Có chuyện phiền phức gì cứ việc tới tìm ta” rồi vội vã đi trước.
Đối với sự săn đón của Dự vương, Tiêu Cảnh Diễm xử lý tương đối tỉnh táo, vừa không nhiệt tình đáp lại vừa làm mọi người cảm thấy như có như không. Bởi vì trong ấn tượng của mọi người thường ngày, hắn vẫn là một kẻ rất lạnh lùng, cứng rắn, cho nên một chút “như có như không” này cũng đủ để dẫn đến vô số phán đoán.
Thấy mình vừa vất vả đánh đổ một Khánh quốc công, bây giờ lại mọc ra một Tĩnh vương còn khó chơi hơn, Thái tử cực kỳ bực mình.
Chỉ có Tạ Ngọc vẫn nhẫn nhịn được, dù mấy lần bị Dự vương cố tình khiêu khích trên triều nhưng vẫn chỉ thầm chịu đựng.
Ngoài vụ án chiếm đất, hai vụ án rất được trong ngoài triều chú ý cũng đều có tiến triển mới. Hai vụ án này hầu như được phủ doãn phủ Kinh Triệu trình báo lên cùng một ngày, nhưng bộ Hình nhận án lại áp dụng phương pháp xử lý hoàn toàn bất đồng.
Vụ án giấu xác dưới giếng cạn được xét xử bởi đội ngũ giỏi nhất, lấy thế chẻ tre nhanh chóng hoàn thành một loạt trình tự điều tra, thu nhập bằng chứng, thẩm vấn, phán quyết, bẩm báo. Dù Lâu Chi Kính thà chết không nhận nhưng do có bằng chứng phạm tội xác thực nên vẫn bị tạm thời cách chức, bắt giam. Chỉ còn đợi Hoàng thượng phê duyệt, vị thượng thư bộ Hộ từng oai phong một thời nay sẽ trở thành quá khứ.
Nhưng vụ án giết người của Hà Văn Tân cũng là một vụ án có tang chứng vật chứng rõ ràng lại bị gác sang một bên. Văn Viễn bá đến giục, Tề Mẫn liền chỉ ra rất nhiều điểm đáng ngờ để đối phó, lần nào câu trả lời cũng là đang tiếp tục điều tra, dần dần lại có khuynh hướng chuyển thành một vụ ngộ sát, Văn Viên bá tức giận đến mức nằm trên giường không dậy nổi.
Tóm lại, cục diện cuối năm cũ hình như rất thuận lợi đối với Dự vương khiến hắn cực kỳ vui sướng, không khỏi hơi đắc ý, vênh váo. Mà người kịp thời cho Dự vương một gáo nước lạnh để đầu óc tỉnh táo lại chính là tài nữ Tần Bát Nhã của Hồng Tụ Chiêu.
Ba lầu xanh lớn đứng thành thế chân vạc trên phố Loa Thị chính là Diệu Âm phường, Dương Liễu Tâm và Hồng Tự Chiêu. Diệu Âm phường và Dương Liễu Tâm đã được thành lập từ lâu, còn Hồng Tụ Chiêu mới xuất hiện được mấy năm, nhưng xem tình hình gần đây thì danh tiếng của Hồng Tụ Chiêu hình như đang ngày càng thịnh, dần dần đã có xu thế “Trường Giang sóng sau đè sóng trước”.
Đó là bởi vì âm nhạc của Diệu Âm phường và vũ điệu của Dương Liễu Tâm luôn cần khách làng chơi là người biết thưởng thức, còn bí quyết thu hút khách của Hồng Tụ Chiêu là sắc đẹp lại là vũ khi tung hoàng cả bốn phương tám hướng.
Trên đời này có lẽ vẫn có nam nhân không thích âm nhạc và vũ điệu, nhưng tuyệt đối không có nam nhân không thích người đẹp.
Các cô nương ở Hồng Tụ Chiêu luôn luôn nổi tiếng về sắc đẹp, bước vào cửa chọn bất cứ một ai, cho dù người đó không biết hát, không biết múa, không biết ngâm thơ, không biết vẽ tranh, không biết cười đùa nịnh khách, không biết khéo léo ăn nói, nhưng chắc chắn là rất đẹp.
Xinh đẹp, thùy mị, không kiêu ngạo, đây chính là điểm đặc sắc của các cô nương Hồng Tụ Chiêu.
Nếu một người bị cô nương Cung Vũ ở Diệu Âm phường đóng cửa không tiếp hoặc không thể may mắn trở thành người duy nhất được các cô nương Tâm Dương và Tâm Liễu tiếp đãi mỗi ngày, người đó có thể đến Hồng Tụ Chiêu để tìm sự an ủi. Các cô nương ở đây không có tính khí thanh cao lập dị, từ trước đến nay đều không bao giờ đẩy khách ra cửa, tiền đề là khách phải trả đủ tiền. Các cô nương xinh đẹp đều có giá rất cao, càng xinh đẹp hiển nhiên lại càng cao giá. Có điều trong thành Kim Lăng này, thứ không thiếu nhất chính là các đại gia coi bạc trắng như đá sỏi.
Tần Bát Nhã, mưu sĩ thần bí, xinh đẹp, rất được tin cậy trong phủ Dự vương chính là bà chủ của lầu xanh Hồng Tụ Chiêu này. Nhưng bản thân ả không phải ca kỹ, cũng không tiếp khách, ả thật sự chỉ là bà chủ mà thôi. Mặc dù cũng có sắc đẹp đủ làm điên đảo chúng sinh nhưng Tần Bát Nhã chưa từng công khai lộ diện ở Hồng Tụ Chiêu. Trong kinh thành không có quá ba người biết ả mới là ngưởi sở hữu thật sự của lầu xanh này.
Ngoài tiền bạc thu về như nước, một thứ khác Hồng Tụ Chiêu thu về cho Tần Bát Nhã chính là tin tình báo. Bình thường khi bỏ tiền mua vui đều là lúc thần kinh người ta thả lỏng nhất, miệng cũng khó giữ kín nhất, chỉ cần một chút kỹ xảo là có thể thăm dò được rất nhiều tin tức hữu dụng.
Các cô nương ở Hồng Tụ Chiêu đều đã trải qua huấn luyện đặc biệt, các nàng được học cách làm cho khách khứa nói nhiều hơn về đủ thứ chuyện trên đời, sau đó dựa vào trí nhớ ghi lại đại khái nội dung nghe thấy, mỗi ngày báo lên trên một lần.
Đa số thời gian của Tần Bát Nhã đều dùng để sàng lọc các tin tức thu được này, mỗi ngày phải đọc đến cả trăm tờ bẩm báo, sau đó lọc ra các tin tức hữu dụng, lại tiếp tục tìm hiểu các tin tức này một cách có tính định hướng.
Nhưng đây không phải thủ đoạn duy nhất của Tần Bát Nhã để thu thập tin tức. Ngoài các cô nương ở chốn phong trần, Tần Bát Nhã còn cố ý bồi dưỡng một số cô nương khôn ngoan sắc sảo, nghĩ cách gả các nàng vào phủ đệ triều thần làm thiếp, từ đó thu về rất nhiều tư liệu ít người biết đến.
Đối với Dự vương, nữ tử thông minh, xinh đẹp này quan trọng không kém bất cứ một mưu sĩ nào trong phủ, đương nhiên trong lòng hắn còn hy vọng tương lai không xa, cô nương xinh đẹp này sẽ không chỉ là mưu sĩ của hắn.
Lần này Tần Bát Nhã phát hiện chuyện bất ổn là nhờ phân tích một báo cáo mới nhận được.
Trong lúc trêu đùa với một cô nương, vị khách nọ buột miệng nói: “Ra ngoài chơi thì phải vui vẻ, cô nương này bận thì tìm cô nương khác, tội gì phải treo cổ chết ở một thân cây? Nàng xem tên Hà Văn Tân đó đến lầu xanh tranh giành ghen tuông với người ta, hắn tưởng thế là uy phong lắm chắc? Tâm Liễu cô nương có hay ho đến mấy cũng không quan trọng bằng tính mạng mình, hắn còn tưởng rằng có thể dựa vào lão già mà thoát được tội chết, đúng là…”
Tần Bát Nhã phát hiện những lời này có vấn đề, lập tức sai người điều tra vị khách này, phát hiện hắn là một trưởng sử trong phủ Kỷ vương, hoàng thúc đương triều. Gã này cực kỳ háo sắc, trong ngày xảy ra vụ án hắn cũng đang mua vui ở Dương Liễu Tâm, chỉ là không có mặt ở hiện trường.
Tần Bát Nhã vẫn chưa hết nghi ngờ, lại sai người tiếp tục khai thác thông tin từ hắn, cuối cùng khai thác được một tin tức kinh người. Kết hợp với một vài thông tin đã nắm được trong tay, Tần Bát Nhã ý thức được tính nghiêm trọng của tình hình nên lập tức đi gặp Dự vương.
“Ngươi nói Văn Viễn bá đã có nhân chứng quan trọng trong tay, chẳng qua đang xem thái độ của bộ Hình nên mới nhẫn nhịn chưa đưa ra?” Chỉ mới nghe mấy câu, Dự vương đã cau mày. “Tại sao hắn lại nhẫn nhịn được như vậy?”
“Bởi vì Văn Viễn bá đã mất tín nhiệm đối với bộ Hình.” Tần Bát Nhã nói hết sức chắc chắn. “Như tình hình hiện nay, vụ án này hoàn toàn không thiếu nhân chứng, chỉ cần bộ Hình có ý định xét xử công bằng thì không cần có thêm nhân chứng này cũng có thể kết án. Nếu bộ Hình nhất định phải gỡ tội cho Hà Văn Tân thì ông ta có đưa ra thêm nhân chứng này cũng vô dụng, ngược lại còn làm cho bộ Hình có thể biết trước để đối phó.”
Dự vương chậm rãi gật đầu. “Ta hiểu rồi, ý ngươi là Văn Viễn bá đang đợi bộ Hình kết án, nếu như kết quả phán quyết khiến ông ta không hài lòng thì ông ta sẽ đưa nhân chứng này tới thẳng trước mặt Hoàng thượng kêu oan?”
“Đúng.”
“Hoàng thượng sẽ tin sao?” Dự vương cười lạnh, nói. “Văn Viễn bá đầu óc nóng lên nên nghĩ mọi chuyện quá đơn giản, nhưng tại sao ngươi cũng căng thẳng theo? Bộ Hình kết án nhất định sẽ xử lý êm đẹp tất cả mọi chuyện, chỉ dựa vào Văn Viễn bá mang một người đến trước mặt Hoàng thượng nói suông thì có tác dụng gì?”
Đôi mắt trong suốt như nước mùa thu của Tần Bát Nhã hơi xao động. “Người khác không được, nhưng nhân chứng này thì được.”
Thấy ả nói rất trịnh trọng, Dự vương không khỏi giật mình.
“Xin thứ cho Bát Nhã thất trách, ngày đó hiện trường hỗn loạn, nhân chứng đông đảo, lúc ta phụng mệnh đến điều tra vụ án đã có sơ sẩy, không để ý trong số các nhân chứng đã tận mắt chứng kiến vụ án được phủ Kinh Triệu gọi đến lấy lời khai lại thiếu mất một người…” Tần Bát Nhã mím môi, hai lúm đồng tiền nhàn nhạt thoáng hiện bên má khiến vẻ mặt nghiêm túc của ả vẫn có nét dễ thương. “Sau đó một tên trưởng sử ở phủ Kỷ vương đến Hồng Tụ Chiêu nói một vài lời làm ta sinh nghi, cho nên đối chiếu lại một lần nữa, nhờ vậy mới phát hiện không phải phủ doãn phủ Kinh Triệu Cao Thăng triệu tập sót người này, mà là hắn không thể triệu tập được người đó…”
“Ngươi nói đi nói lại mãi, tóm lại nhân chứng này là ai?”
“Kỷ vương gia.”
Dự vương không khỏi giật mình. “Kỷ vương thúc?”
“Vâng, trong ngày hôm đó còn có hai người khách ở cùng tầng xảy ra án mạng, một người trong đó chính là Kỷ vương thúc. Có thể ông ta đã tận mắt chứng kiến toàn bộ quá trình xảy ra vụ án…”
“Ai da, việc này khó rồi đây!” Dự vương sầm mặt. “Kỷ vương thúc mặc dù không quan tâm đến chuyện triều chính, chỉ thích phong hoa tuyết nguyệt, ham mê nữ sắc nhưng tính tình ông ấy lại cực kỳ cương trực, chỉ cần Văn Viễn bá nhờ thì ông ấy nhất định sẽ bằng lòng nói ra chân tướng trước mặt Hoàng thượng…”
“Không sai. Có thể là bởi vì cảm thấy đã có nhiều nhân chứng, mình không cần thiết phải ra mặt nên hôm sau ngày xảy ra vụ án, Kỷ vương gia đã mang thê thiếp đến biệt viện ở suối nước nóng nghỉ ngơi một thời gian, cho nên ông ấy không biết tình hình xử án sau đó, vì vậy cũng không có động tĩnh gì, chúng ta cũng không phát hiện ra ông ấy chính là một trong những nhân chứng.”
“Ôi…” Dự vương ngồi phịch xuống ghế, dùng ngón tay day mi tâm, vẻ mặt mệt mỏi. “Kỷ vương thúc khó đối phó, bản vương lại không thể ép ông ấy nói dối vì con trai của một bề tôi được. Nếu Văn Viễn bá mời được Kỷ vương thúc đến gặp phụ hoàng kêu oan cho ông ta thì bộ Hình tuyệt đối không làm gì được. Xem ra Hà Văn Tân không cứu được nữa rồi…”
“Quan điểm của ta cũng là như vậy, có việc nên làm, có việc không nên làm, dù thế nào cũng không thể vì chuyện nhỏ mà làm hỏng chuyện lớn.” Do không có thiện cảm với loại người quần là áo lượt như Hà Văn Tân nên Tần Bát Nhã không cảm thấy sự hy sinh này có gì to tát. “Cho dù Hà đại nhân có đắc lực đến mấy thì đó cũng là chuyện con trai của hắn tự gây ra, không thể bắt điện hạ giải quyết cho hắn bằng bất cứ giá nào đúng không? Nếu vì một đứa con trai chết mà suy sụp thì ông ta cũng không xứng đáng với sự coi trọng của điện hạ.”
Dự vương nhìn ả một cái, thở dài, nói: “Ta hiểu ý ngươi, có điều Hà Kính Trung là người được việc, thằng con trai này hình như quả thật là tử huyệt của ông ta, con trai độc nhất mà, nhà ai mà chẳng như vậy? Đương nhiên ngươi nói cũng đúng, bảo vệ không nổi thì không thể miễn cưỡng, bản vương sẽ nói với Tề Mẫn, bảo hắn tiếp xúc kín đáo với Kỷ vương gia trước đã, nếu thái độ của vương thúc cứng rắn quá thì không cần phải miễn cưỡng. Nếu thật sự không còn đường sống thì cũng chỉ còn cách lấy mạng đền mạng.”
“Vương gia thánh minh.” Tần Bát Nhã mỉm cười, gương mặt như gió xuân.
Dự vương đưa tay khoác tay giai nhân, dịu dàng nói: “Bản vương may mắn có ngươi, bao nhiêu chuyện đều nhờ có tuệ nhãn của ngươi phát hiện. Dạo trước vừa phát hiện bộ mặt thật của Tạ Ngọc, hôm nay lại kịp thời ngăn chặn sai lầm của bộ Hình. Ngươi lập được công lớn như vậy, bản vương biết phải thưởng ngươi thế nào?”
Tần Bát Nhã cúi đầu, nhẹ nhàng lui lại một bước, rút cánh tay ngọc ra khiến đầu ngón tay mềm mại thoáng chạm vào lòng bàn tay hắn, không biết vô tình hay cố ý, cười duyên một tiếng. “Bát Nhã tuy là nữ lưu nhưng xưa nay vẫn hướng tới các truyền kỳ vua sáng tôi hiền, chỉ hận sinh ra đã là thân nữ nhi, tài trí có hạn, cuộc đời này không thể phong hầu phong tướng. Giờ đây được điện hạ tin dùng, có cơ hội phục vụ thánh chủ tương lai là đã thỏa ý nguyện rồi, không dám trông chờ được thưởng.”
“Tương lai nếu ta có thể lên ngôi báu thì ngươi chính là nữ thừa tướng của ta, long sàng cũng có thể chia cho ngươi một nửa, còn có gì không thể thưởng cho ngươi chứ?” Dự vương nói, trong giọng nói đã mang ý bỡn cợt. “Chỉ sợ ngươi lại không muốn cũng chưa biết chừng.”
Tần Bát Nhã cười nhẹ, không tức giận, cũng không có ý định trả lời, chỉ khẽ thi lễ, nhỏ giọng nói: “Xin điện hạ sớm báo cho Tề thượng thư về chuyện của Kỷ vương gia. Bát Nhã còn có chút công việc cần giải quyết, xin cáo từ trước.”
Thái độ như gần như xa của ả lại làm cho Dự vương ngứa ngáy trong lòng, muốn vuốt ve an ủi thêm nhưng lại không tiện càn rỡ bởi hắn thật sự coi trong nữ nhân này, vì vậy đành ho một tiếng, cố gắng kiềm chế dục vọng, trơ mắt nhìn ả đi mất.

*

Thượng thư bộ Hình Tề Mẫn nhanh chóng nhận được tin tức do người của phủ Dự vương đưa tới.
Vốn đã bàn bạc xong xuôi với thủ hạ về việc mua chuộc nhân chứng thế nào, lật lại lời khai ra sao, sửa lại kết quả khám nghiệm kiểu gì, tóm lại tất cả mọi việc đã làm xong tám, chín phần mười, không ngờ lại bị dội một chậu nước lạnh.
Vừa nghe nói còn có một nhân chứng nhìn thấy tận mắt là Kỷ vương gia, Tề Mẫn lập tức biết mọi chuyện đã hỏng bét.
Mặc dù ý của Dự vương là bảo hắn thăm dò ý tứ của Kỷ vương trước, nhưng Tề Mẫn biết có thăm dò hay không cũng không có gì khác nhau.
Mọi người đều biết tính tình Kỷ vương rất thẳng thắn, hơn nữa dù ông ta không thẳng thắn cũng sẽ không tội gì phải khai man vì một tên tiểu tử quần là áo lượt. Kể cả trong trường hợp Văn Viễn bá không đưa rất bất cứ yêu cầu nào với ông ta thì khi Hoàng đế hỏi, chắc chắn ông ta cũng sẽ nói thật.
Có điều Dự vương đã dặn phải thăm dò thì cũng không thể không thăm dò gì cả, cho nên Tề Mẫn xin nghỉ hai ngày, chuẩn bị đích thân đến sơn trang gần suối nước nóng của Kỷ vương một chuyến.
Cho dù trước khi xuất phát, Tề Mẫn đã chuẩn bị tâm lý cho một chuyến đi vô ích, nhưng hắn tuyệt đối không nghĩ tới kết quả này sẽ đến sớm như vậy, nhanh như vậy.
Nguyên nhân thượng thư bộ Hình trở về mà không được việc gì lại không phải vì thái độ cứng rắn của Kỷ vương, nói thật, khi Tề Mẫn biết mình đi chuyến này là hoàn toàn công toi thì hắn còn chưa nhìn thấy Kỷ vương.
Thực ra chuyện không hề phức tạp, chỉ là có chút trùng hợp.
Hổ Khâu là một thánh địa, sơn trang san sát, biệt viện của Kỷ vương là khu vực quy mô lớn nhất trong đó. Tất cả những người có giao tình với Kỷ vương đều sẽ chọn cách ở nhờ trong biệt viện này mỗi khi đến Hổ Khâu. Chẳng hạn như Ngôn Dự Tân, người được Kỷ vương coi là bạn vong niên vì tính phong lưu hào hiệp.
Nhóm ba người, gồm đại thiếu gia lúc nào cũng vui vẻ của phủ quốc cữu, đại công tử phủ Ninh Quốc hầu hơi sầu muộn và nhị công tử phủ Ninh Quốc hầu hơi ủ rũ vừa đưa thiếp cầu kiến ngoài cổng biệt viện, Kỷ vương gia đã lập tức vui mừng đi ra đón.
Mặc dù vai vế khác nhau, tuổi tác chênh lệch rất nhiều nhưng Kỷ vương cả đời chỉ thích phong hoa tuyết nguyệt vẫn giữ được tính phóng khoáng của thời thanh niên, qua lại với đám vãn bối này rất thoải mái, không hề có khoảng cách thế hệ.
Có khách đến nhà, là ba người trẻ trung tràn đầy sức sống, trong đó lại có người ông ta thích nhất là Dự Tân, Kỷ vương vui vẻ bày tiệc rượu đãi khách, ăn uống thỏa thuê. Mọi người càng uống càng hào hứng, đương nhiên là không có chuyện gì không nhắc đến.
Chủ đề ban đầu đương nhiên là phấn hồng son đỏ.
Bình phẩm về người đẹp ở kinh thành, kiến thức của Kỷ vương tuyệt đối không kém các chủ Lang Gia các, vừa nói đến chuyện này đã mặt mày hớn hở.
Ngôn Dự Tân cũng là người thương hoa tiếc ngọc, ngưỡng mộ nhất chính là Cung Vũ ở Diệu Âm phường. Hai người vừa trò chuyện đã tâm đầu ý hợp, nói từ Diệu Âm phường đến Dương Liễu Tâm, sau đó nhân tiện nói đến luôn vụ án mạng ở Dương Liễu Tâm.
Kỷ vương rượu vào líu lưỡi. “Ta biết, khi… khi đó ta cúng có mặt…”
Ngôn Dự Tân mở to mắt. “Ngài… ngài cũng ở đó? Thế… thế làm sao mà chết?”
Mặc dù Kỷ vương đã hơi líu lưỡi nhưng thần trí vẫn còn rất tỉnh táo, không những tỉnh táo mà ông ta còn rất hưng phấn. Nghe Ngôn Dự Tân hỏi, ông ta lập tức kể lại một lượt từ đầu đến cuối cực kỳ sinh động.
Hai người còn lại nghe vào tai cũng để đó, nhưng Ngôn Dự Tân là một người giao du rất rộng, lại thích buôn chuyện, hôm sau hắn đến trang viên của các quý tộc khác ở Hổ Khâu đã ba hoa chích chòe về vụ huyết án mà Kỷ vương chứng kiến tận mắt này.
Thế là khi Tề Mẫn tới Hổ Khâu, gần như tất cả mọi quý nhân đang nghỉ ngơi ở đây đều đã biết Hà Văn Tân quả thật tự tay đánh chết người ta, Kỷ vương gia đã chứng kiến tận mắt…
Trong tình hình này, việc thăm dò ý tứ của Kỷ vương đã hoàn toàn vô nghĩa, thượng thư bộ Hình đành phải thầm than một tiếng: “Hà đại nhân ơi Hà đại nhân, không phải ta không hết lòng giúp ngươi, mà là con trai của ngươi… đúng là quá… đen đủi.”

*

Theo vương pháp của Đại Lương, các tử tù chỉ bị xử tử vào hai thời điểm cố định hằng năm, một vào mùa xuân, một vào mùa thu, được gọi là xuân quyết và thu quyết.
Sau khi Hà Kính Trung biết con trai mình không còn hy vọng thoát tội, chắc chắn sẽ bị xử tử, hắn đành thỉnh cầu Tề Mẫn kéo dài thời gian đến sau xuân quyết mới kết án, như vậy con trai hắn sẽ có thể sống thêm nửa năm, trông chờ một cơ hội xoay chuyển tình thế nào đó lại xuất hiện.
Nhưng Văn Viễn bá chẳng lẽ lại không biết tính toán này của Hà Kính Trung? Hiện trong tay ông ta có một nhân chứng quan trọng, quan điểm và thái độ của mọi người ở kinh thành cũng đều nghiêng về phía ông ta, cho nên ông ta càng tỏ ra cứng rắn, suốt ngày đến bộ Hình ép phải nhanh chóng xét xử.
Mấy ngày trước, Thái tử vừa mất một thượng thư bộ Hộ là Lâu Chi Kính, giờ đây có cơ hội trả thù này, há có thể dễ dàng buông tha? Hắn sai khiến đám ngự sử phe mình liên tục dâng sớ vạch tội Tề Mẫn lạm dụng chức quyền không chịu xử án.
Tình hình này mới diễn ra vài ngày, bộ Hình đã bắt đầu không chống đỡ được. Dự vương thấy đằng nào cũng phải xử tử rồi, sống thêm nửa năm cũng không có ý nghĩ gì, vì vậy ngầm cho phép Tề Mẫn mấy ngày sau thăng đường, nhân chứng vật chứng đầy đủ, nhanh chóng kết tội Hà Văn Tân giết người vì hận thù cá nhân, tuyên án chém đầu.
Một ngày sau khi vụ án được phán quyết, Hà Kính Trung đã ốm liệt giường, thái y chẩn đoán là tinh thần suy sụp, khí mạch không thông, cần phải nghỉ ngơi.
Lúc này chính là cuối năm, bộ Lại phải tiến hành bình xét đánh giá quan chức, để xuất thưởng phạt, thăng giáng. Quan lại đương chức đương quyền các nơi nhân cơ hội chúc Tết lũ lượt sai người đưa lễ đến kinh thành, quan lại đang đợi bổ nhiệm cũng có thể ngang nhiên thăm viếng khắp nơi, lấy ly do chúc Tết để khơi thông quan hệ.
Bất kể là từ phương diện nào, đầy đều là thời gian bận rộn nhất của bộ Lại. Hà Kính Trung vừa ốm liệt giường, cục diện trong bộ lập tức hỗn loạn.
Cũng như rất nhiều thu nhập bí mật của Thái tử đến từ bộ Hộ, đại bộ phận thu nhập của Dự vương cũng đến từ quyền miễn nhiệm nhân sự của bộ Lại, cơ hội thu vào một lượng bạc trắng khổng lồ dịp cuối năm này không thể bị ảnh hưởng vì bệnh tình của thượng thư bộ Lại.
Nhưng sốt ruột cũng chỉ để sốt ruột, Hà Kính Trung quả thật đã bị chuyện của con trai làm cho suy sụp chứ không phải là giả ốm, quát tháo trách mắng đều vô dụng, ông ta vẫn không thể nào bò dậy được. Dự vương thấy tình hình ngày càng xấu đi, không thể không triệu tập đám mưu sĩ cùng thương thảo cách giải quyết hậu quả của việc này.
Hai ngày sau, Dự vương đích thân đến phủ thượng thư của Hà Kính Trung, đuổi tất cả mọi người ra ngoài, thân thiết an ủi vị thần tử này một phen.
Không ai biết hắn an ủi thế nào, chỉ biết vài ngày sau Hà Kính Trung đã dưỡng bệnh xong, lại bắt đầu xử lý công vụ, hơn nữa còn nhanh chóng giải quyết những lộn xộn của mấy ngày trước, ngày nào cũng bận tối mắt tối mũi, đánh giá các quan lại, tiếp kiến quan lại địa phương, thường xuyên làm việc đến tận đêm khuya, có thể nói là biến đau thương thành sức mạnh, liều mạng làm việc cho Dự vương khiến phe phái Thái tử không hiểu ra sao.
Nhưng lúc này Thái tử còn tạm thời không có nhiều tâm tình để ý tới Hà Kính Trung, hắn đang phải quan tâm đến một việc khác, mà việc này cũng chính là vấn đề khó khăn của bộ Lễ hiện nay.
Một trong những chuyện quan trọng nhất của hoàng thất cuối năm chính là tế lễ.
Tế tổ, tế trời, tế đất, tế thần.
Đối với triều đình và hoàng tộc, quy chế tế lễ có chính xác hay không là việc lớn quan hệ đến mọi chuyện năm sau có được thuận lợi hay không, không được phép qua loa dù chỉ một chút.
Tạ Ngọc rất nhạy cảm, phát hiện cơ hội hết sức có lợi cho Thái tử đã đến.
Theo lễ chế Đại Lương, dưới phi vị không được dự lễ tế, phải quỳ hầu bên ngoài. Nhưng cũng theo lễ chế Đại Lương, sai khi Thái tử vẩy rượu tế lễ sẽ phải quỳ vuốt y phục của song thân phụ mẫu để tỏ lòng hiếu kính.
Mâu thuẫn xuất hiện ở đây.
Việt thị đã bị giáng xuống tần vị, nhưng bà ta lại là mẹ đẻ của Thái tử, một bên cấp bậc rất thấp, một bên thân phận cực cao, khiến bộ Lễ hết sức khó xử khi sắp xếp tập tục tế lễ.
Tạ Ngọc bí mật đề nghị Thái tử lợi dụng cơ hội này vào cung khóc lóc kể lể với Hoàng đế, thỉnh cầu phục lại phi vị cho mẫu thân, dù không thể lập tức phục vị thành quý phi thì ít nhất cũng phải thành cung chủ của một cung, có chỗ ở độc lập của mình, cũng có thể tiếp Hoàng đế ngủ lại qua đêm, từ đó dần dần lấy lại ân sủng của Hoàng đế.
Nghe chủ ý này, Thái tử cực kỳ mừng rỡ, sau khi chuẩn bị kĩ càng liền vào cung quỳ dưới gối Hoàng đế Đại Lương khóc lóc, than vãn nguyên một canh giờ, ra sức thể hiện tấm lòng hiếu thảo của mình.
Hoàng đế Đại Lương hơi khó xử.
Việt thị vốn là phi tần được ông ta yêu thương nhất, không phải ông ta không muốn nhân cơ hội này để xá tội, nhưng Việt thị vừa mới bị giáng vị có vài tháng, nếu xá tội sớm như vậy thì sợ rằng quận chúa Nghê Hoàng sẽ lạnh lòng.
“Phụ hoàng, bên chỗ quận chúa hài nhi sẽ đích thân đến tạ lỗi.” Thái tử đã được chỉ điểm, biết Lương đế đang do dự vấn đề gì, lập tức ôm chân ông ta, nói. “Quận chúa là người rất trọng đại nghĩa, nhất định sẽ hiểu việc này là vì lễ tế cuối năm. Hài nhi nguyện nhận hình phạt trước mặt quận chúa để chuộc tội thay mẫu thân.”
Hoàng đế Đại Lương nghe hắn khóc lóc mãi cũng động lòng, liền sai người triệu thượng thư bộ Lễ Trần Nguyên Thành đến.
Vị Trần lão thượng thư này là nguyên lão hai triều, cả đời không nghe một lời, không dựa một người, tất cả chỉ biết một chữ “Lễ”. Thái tử và Dự vương ra sức lôi kéo mà ông ta đều không hề dao động.
Cũng vì có vị lão thượng thư này tọa trấn nên bộ Lễ mới may mắn trở thành bộ duy nhất trong số sáu bộ không nghiêng về phe phái nào, duy trì thế trung lập siêu nhiên.
Trần lão thượng thư không biết nguyên nhân thật sự khiến Việt quý phi bị truất, chỉ được xem chỉ dụ, còn tưởng rằng đại khái là tranh chấp vụn vặt trong cung đình.
Vốn ông ta vẫn đang đau đầu về việc sắp xếp tế lễ, lúc này thấy Hoàng đế gọi đến hỏi có nên phục phi vị cho Việt tần hay không, đương nhiên ông ta sẽ không tỏ ý phản đối.
Mặc dù bộ Lễ không có dị nghị, thậm chí còn rất tán thành, nhưng Hoàng đế Đại Lương vẫn còn hơi do dự.
Đúng lúc này, Tạ Ngọc vào cung xin gặp Hoàng đế, lấy cớ tấu bẩm việc quân nhu vùng Tây Bắc.
Lúc này Hoàng đế Đại Lương không biết quan hệ giữa Tạ Ngọc và Thái tử, nghĩ rằng ông ta cũng là người của phe võ thần, liền sai người triệu ông ta vào để thăm dò ý kiến đối với chuyện có nên phục vị cho Việt thị hay không.
Tạ Ngọc suy nghĩ một lát rồi trả lời: “Thần cho rằng Thái tử hiền đức, Việt thị có nhiều công lao, lại ở hậu cung nhiều năm, xưa nay vẫn dốc lòng hầu hạ bệ hạ, chưa hề nghe nói có khuyết điểm gì, chỉ vì lý do bất kính trong khi hầu hạ mà giáng từ quý phi nhất phẩm xuống bậc tần thì thật sự là hơi nặng. Khi đó vốn cũng đã có người phản đối, nhưng vì đây là việc nhà của Bệ hạ nên không ai dám xen vào. Nay Bệ hạ đã đổi ý muốn khai ân thì chỉ cần một đạo ý chỉ, có gì phải do dự?”
“Ôi, ngươi không biết.” Hoàng đế Đại Lương khó xử nói. “Tội của Việt thị có nguyên do khác… Vì Thái tử, Việt thị đã có việc làm khinh nhờn Nghê Hoàng, trẫm sợ nếu đặc xá quá sớm đã làm lạnh lòng các tướng sĩ nam cương…”
Tạ Ngọc làm bộ cúi đầu trầm ngâm suy nghĩ hồi lâu rồi mới bước lên một bước, nhỏ giọng nói: “Nếu là vì điều này thì thần lại cho rằng càng nên xá tội…”
Lương đế ngẩn ra. “Ngươi nói thế là ý gì?”
“Bệ hạ nghĩ xem, Việt thị thân là hoàng quý phi, thân mẫu của Thái tử, là quân. Quận chúa Nghê Hoàng là con gái bề tôi, là võ quan triều đình, là thần. Nếu vì bề trên nhất thời sai sót mà lòng mang oán hận thì không phải là đạo làm thần. Mặc dù quận chúa công cao, nên được ân sủng nhưng Bệ hạ đã hạ chỉ giáng chức hoàng phi, xử phạt Thái tử vì quận chúa, thật sự đã là một ân sủng cực lớn rồi. Nếu quận chúa là một bề tôi trung thành thì khi đó nên xin Bệ hạ ân xá cho Việt thị. Đương nhiên… là thân nữ nhi thì ai cũng không khỏi có chút hẹp hòi, suy nghĩ không chu đáo, chuyện này cũng không cần nhắc tới. Nhưng tế lễ cuối năm là nghi lễ trọng yếu của đất nước, phục phi vị cho Việt thị là quốc thái dân an, trăm họ cùng vui, bên nào nặng bên nào nhẹ đã rất rõ ràng, Mục vương phủ bên kia thì chỉ cần phái một nội sứ qua giải thích vài câu là được, ân sủng quá hậu không khỏi sẽ dung túng ngang ngược.” Nói tới đây, trên mặt Tạ Ngọc lộ ra một nụ cười ý tứ sâu xa. “Thần là người xuất thân từ binh nghiệp, đương nhiên biết trong quân thường có những người cậy công cao mà coi thường quân chủ, Bệ hạ nên chèn ép một chút mới tốt.”
Hoàng đế Đại Lương cau mày, trên mặt lại không có biểu hiện gì khác thường, chỉ “hừ” một tiếng. “Nghê Hoàng không phải là người như thế, ngươi suy nghĩ nhiều quá rồi.”
Tạ Ngọc vội sợ hãi tạ tội. “Thần đương nhiên không phải nói quận chúa Nghê Hoàng. Thần chỉ nhắc nhở Bệ hạ một câu mà thôi. Nhớ năm đó quân Xích Diễm lớn mạnh đến mức độ ấy, làm sao không phải vì không khống chế từ sớm…”
Hai má Lương đế khẽ giật, bàn tay bất giác nắm chặt tay vịn ngai rồng, yên lặng nửa khác rồi lạnh lùng nói: “Tuyên thị chiếu Kim Môn!”
Tuyên thị chiếu vào tất nhiên là cần thảo thánh chỉ.
Thái tử nhất thời không khống chế được, ngoài mặt lộ rõ vẻ vui mừng khôn xiết, bị Tạ Ngọc trừng mắt nhìn mới vội vàng kiềm chế lại.
“Chuyện hôm nay thần định tấu bẩm không phải việc gấp.” Tạ Ngọc khom người nói. “Bệ hạ đã có chuyện cần xử lý thì thần xin cáo lui trước.”
“Được.” Hoàng đế Đại Lương phất tay cho phép hắn ra ngoài, mệt mỏi nghiêng người, đưa tay chống cằm.
Thái tử vội vàng sai người mang gối mềm chăn lụa đến, tự tay đắp cho Hoàng đế Đại Lương.
“Ngươi không cần ở đây hầu hạ trẫm nữa. Hôm nay trẫm sẽ tuyên… Đi trước báo cho mẫu thân ngươi yên tâm..” Hoàng đế Đại Lương thở dài, nhỏ giọng nói.
“Nhi thần cảm tạ long ân của phụ hoàng.” Thái tử khấu đầu chạm đất ba lần, lại nói: “Xin phụ hoàng yên tâm, tối nay hài nhi sẽ đến phủ Mục vương…”
“Không.” Hoàng đế Đại Lương giơ một tay lên ngăn cản hắn, sắc mặt âm trầm. “Tại sao ngươi vẫn không nhớ? Ngươi là Thái tử, là Đông cung Thái tử. Ngươi không cần phải đến Mục vương phủ, trẫm sẽ sai người đến.”
“Vâng.” Thái tử không dám phản bác, vội vàng cúi đầu, lại khấu đầu một lần nữa rồi mới đứng dậy, ra ngoài.
Bên ngoài đang có gió lạnh, Thái tử mặc áo khoác da cừu do thái giám đưa đến, đi bộ ra ngoại điện.
Kỳ thực hắn là chủ Đông cung, vốn có đặc quyền ngồi xe bốn bánh trong cung, nhưng để thể hiện sự kính trọng, xe của Đông cung bình thường đều dừng ngoài cửa ngoại điện. Đám người hầu đều đang chờ đợi trong gió tuyết, vừa thấy chủ của mình đi ra đều vội vàng bước lên đón.
“Đến nội cung!” Chỉ ra lệnh mấy chữ, Thái tử đã vén vạt áo nhảy lên chiếc xe bốn bánh phủ gấm vàng, hành động vội vã như thể sợ lạnh.
Tuy nhiên khi màn xe bằng gấm thêu màu vàng hạ xuống ngăn cản mọi thứ bên ngoài, Đông cung Thái tử vẻ mặt đang bình tĩnh đột nhiên lại cắn răng thật chặt, vẻ oán hận hiện lên trên mặt, dường như không thể tiếp tục kìm nén sự giận dữ, khó chịu trong lòng.
Thái tử à? Ta là Thái tử sao? Phụ hoàng, nếu ngươi thật sự coi ta là một Thái tử thì tại sao lại sủng ái Dự vương, nâng đỡ hắn đến mức có thể đối địch với ta như thế?