IV Bậc thầy giải đố
CHƯƠNG 37

     nh lăn khỏi giường.
Buồn nôn, đầu ong ong, anh nhìn ra ngoài cửa sổ. Joan đang tiến về phía ngôi nhà. Richard đi cùng cô ta, sưng sỉa ôm đồm quà cáp. Anh ta không muốn có mặt ở đây. Còn một người phụ nữ khác nữa: nhân viên xã hội. Thấp, lộp cộp trên đôi giày cao gót chới với, nhìn ngôi nhà với vẻ xét đoán.
Họ đã đến cửa trước. Chuông reo.
Vô vọng rồi...
Anh đứng ở hành lang tầng hai, ngón chân co quắp trên thảm. Chỉ cần không cho cô ta vào, anh tự bảo mình. Anh sẽ cấm cửa. Bắt cô ta phải có lệnh của tòa. Như thế sẽ kéo dài thêm được vài giờ.
Parker ngập ngừng nhìn hai con đang ngủ. Anh muốn ôm lấy chúng mà nhảy ra cửa sau, lái nhanh tới Tây Virginia.
Nhưng cách đó không hiệu quả, anh biết.
Chuông lại reo.
Mình làm gì được? Làm sao mình trì hoãn đây?
Nhưng Joan sẽ vẫn biết nếu có điều không ổn. Trì hoãn càng khiến người phụ nữ đa nghi ấy thêm tò mò. Mà hai hay ba tiếng đồng hồ thì giúp gì cho anh?
Anh hít một hơi sâu và bắt đầu đi xuống cầu thang.
Anh có thể nói gì về những vết đạn trên tường? Máu? Có lẽ...
Parker sững lại ngay trên bậc nghỉ.
Choáng váng.
Một người phụ nữ mảnh mai, tóc vàng trong chiếc váy đen và áo sơ mi trắng ra mở cửa trong lúc đang quay lưng lại với anh.
Bản thân việc đó đã đáng kinh ngạc rồi. Nhưng thứ thực sự làm anh bị sốc là tình trạng ngôi nhà.
Chẳng chê vào đâu được.
Không thấy một mẩu kính hay đồ sứ vỡ. Cũng chẳng một lỗ đạn trên tường. Chúng đã được trát lại và sơn lót; mấy thùng sơn đang nằm trên lớp vải bạt màu trắng ở góc phòng khách. Chiếc ghế bị nổ tung vì đạn đêm qua đã được thay bằng chiếc tương tự. Tủ cũng là một cái mới tinh.
Xác của Digger thì không thấy đâu. Ở chỗ hắn nằm chết giờ là một chiếc thảm phương đông mới toanh.
Cùng với loan, Richard và nhân viên xã hội đang đứng trước cửa, người phụ nữ trong chiếc váy đen chợt quay lại. "Parker à", Margaret Lukas nói.
"Ừ", một giây sau, anh trả lời.
Cô mỉm cười kỳ lạ.
Anh thử lại, "Chào em!".
"Giấc ngủ của anh thế nào?", cô hỏi. Rồi đế thêm, "Ngủ ngon chứ?".
"Ừ", anh nói. "Ngon."
Lukas quay lại và gật đầu với các vị khách. Cô nói với Joan, "Chắc cô là vợ của Parker".
"Vợ cũ", Joan nói và bước vào trong. Nhân viên xã hội, một phụ nữ mập lùn, bước vào sau cô ta, tiếp theo là anh chàng Richard đẹp trai nhưng đần thối.
Parker đi xuống tiếp và không thể không chạm vào tường ở chỗ anh biết rằng đêm qua có một loạt vết đạn. Lớp vữa mượt như má của Stephie vậy.
Anh bị đau khủng khiếp ở trên vai và đầu, ở những chỗ va chạm vào sàn nhà đêm qua, trong lúc Digger đi vào qua cửa bếp. Nếu không phải vì chúng, anh đã nghĩ toàn bộ cuộc tấn công chỉ là một giấc mơ.
Anh nhận ra Joan đang trừng trừng nhìn mình bằng nụ cười không chút hài lòng. "Tôi vừa bảo, 'Chào anh' đấy!"
"Chào em, Joan", anh nói "Chào Richard." Parker bước ra giữa phòng khách và hôn lên má Joan, bắt tay chồng cô ta. Richard mang theo một túi đầy ắp gấu bông.
Joan không giới thiệu Parker với nhân viên xã hội nhưng cô ta bước lên rồi bắt tay anh. Hình như cô ta có nói tên. Parker còn đang mụ mẫm hết cả người nên chẳng để ý lắm.
Joan nhìn Lukas, 'Tôi không nghĩ mình đã gặp nhau. Cô là..'.
"Jackie Lukas. Một người bạn của Parker."
Jackie à? Parker nhướng một bên lông mày. Viên đặc vụ có thấy nhưng không nói gì thêm.
Joan liếc cơ thể thon gọn của Lukas bằng cái nhìn trung lập. Rồi mắt cô ta, màu mắt quá giống Robby nhưng biểu cảm lại khác xa, đảo khắp phòng khách.
"Anh vừa?... Anh vừa làm gì đấy? Trang trí lại hay gì à? Tối qua, tôi đã không để ý."
"Tôi rảnh rỗi một lát. Nên nghĩ cần sửa sang chút đỉnh."
Vợ cũ ngắm anh. "Trông anh kinh quá, Parker. Anh ngủ không ngon à?"
Lukas cười phá lên. Joan liếc cô.
"Parker mời tôi tới ăn sáng", Lukas giải thích, dành cho hai người phụ nữ một cái nhìn kiểu đồng phạm. "Rồi anh ấy lên gác để đánh thức lũ trẻ và lại lăn ra ngủ với chúng."
Tiếng làu nhàu của Joan nhắc lại điều cô ta vừa mới nói: Đúng kiểu của anh ta.
Chỗ máu đâu rồi nhỉ? Đã có nhiều máu thế cơ mà.
Lukas hỏi các vị khách, "Mọi người muốn uống cà phê không? Bánh cuộn nhé? Parker tự làm đấy".
"Tôi xin ít cà phê", nhân viên xã hội nói. "Và có lẽ là nửa cái bánh cuộn."
"Bánh nhỏ lắm", Lukas nói. "Hay lấy cả cái nhé!"
"Vậy cũng được."
Lukas biến vào trong bếp và một lát sau, quay ra với một cái khay. Cô nói, "Parker nấu ăn khá lắm".
"Tôi biết", Joan trả lời, không hề bị ấn tượng với tài năng của chồng cũ.
Lukas đưa cà phê cho từng người và hỏi Parker, "Đêm qua mấy giờ anh mới từ bệnh viện về?".
"Ừm."
"Bệnh viện à? Bọn trẻ ốm à?", Joan hỏi bằng giọng lo lắng một cách kịch tính, trong lúc liếc nhìn nhân viên xã hội.
"Anh ấy đi thăm một người bạn", Lukas đáp lời.
"Anh không biết là mấy giờ", Parker nói. "Muộn lắm à?" Câu trả lời thực ra lại là câu hỏi; Lukas là tác giả kịch bản nên anh cảm thấy mình nên dựa theo.
"Bạn nào?", Joan tra hỏi.
"Harold Cage", Lukas nói. "Ông ấy ổn cả. Chỉ bị gãy xương sườn. Họ nói thế phải không?"
"Gãy xương."
"Trượt chân ngã phải không nhỉ?", Lukas tiếp tục màn diễn đáng nhận giải thưởng của mình.
"Phải", Parker nhái theo. "Trượt chân ngã".
Anh hớp một ngụm cà phê do Lukas đưa cho.
Nhân viên xã hội đã ăn đến cái bánh thứ hai. "Chà, tôi xin công thức cho món này được chứ?"
"Chắc chắn rồi", Parker nói.
Joan tiếp tục giữ nụ cười hiền lành trên khuôn mặt. Cô ta đi quanh phòng khách thám thính. "Chỗ này trông khác quá!" Lúc đi ngang chồng cũ, cô ta thì thầm, "Sao hả Parker, đang ngủ với Jackie gầy gò bé nhỏ đấy à?".
"Không, Joan. Bọn tôi chỉ là bạn"
 “À..”
'Tôi lấy thêm cà phê nhé!", Lukas nói.
"Để anh giúp", Parker cũng nói.
Trong bếp, anh đóng chặt cửa lại và quay sang Lukas. Anh thì thào, "Làm thế nào? Thế quái nào...?".
Cô cười phá lên, chắc chắn là vì biểu hiện trên mặt anh. "Tối qua anh gọi đến Trại tạm giam. Nói là anh thấy sợ. Gác ca đêm đã gọi cho tôi. Tôi cố gọi điện cho anh. Bell Atlantic nói đường dây nhà anh bị cắt. Đội SWAT của hạt Fairfax đến đây lúc ba rưỡi, âm thầm đột nhập và phát hiện một cái xác dưới nhà, còn anh thì đang ngủ trên tầng. Ai đã bắn hạ Digger vậy? Không phải anh đấy chứ?"
"Một thằng bé. Nó nói Digger đã giết bố nó. Digger mang nó đi cùng. Đừng hỏi tôi tại sao. Thằng bỏ đã bỏ chạy... Giờ trả lời tôi một câu nhé: Cái xác trên xe buýt là ai?"
"Tài xế. Chúng tôi cho là Digger đã để anh ta sống rồi bắt anh ta chạy tới cửa sau. Sau đó, Digger bắn anh ta và bình xăng phát nổ, khi lửa bốc lên, hắn đã trèo ra ngoài qua cửa sổ. Dùng khói để ngụy trang. Trốn thoát trong đám kẹt xe. Khôn hơn vẻ ngoài nhỉ."
Nhưng Parker lắc đầu. "Không, là Fielding đấy. Hắn đã bảo Digger làm vậy. Hắn chẳng định hy sinh anh ta một chút nào. Đây sẽ không phải vụ cuối cùng của chúng. Có thể còn thêm nhiều năm tới... Nhưng còn ngôi nhà." Parker vẫy cả hai tay. "Làm thế nào...?"
"Cage đấy. Ông ấy đã gọi vài cuộc".
Đúng là người tạo ra kỳ tích.
"Tôi không biết phải nói gì."
"Chúng tôi đã đưa anh vào vụ lộn xộn này. Đây là điều tối thiểu mà chúng tôi làm được."
Parker sẽ không tranh cãi với câu đó.
"Chờ đã... Cô vừa bảo mình tên gì nhỉ? Jackie?"
Cô ngập ngừng. "Biệt danh", cô nói. "Gia đình vẫn gọi tôi như thế. Tôi không dùng tên đó nhiều lắm."
Trên cầu thang có tiếng bước chân khẽ khàng khi bọn trẻ đi xuống phòng khách. Parker và Lukas có thể nghe thấy tiếng chúng vọng qua cửa bếp. "Mẹ! Mẹ à!"
"Chào con", Joan nói. ;Nghe thôi."
"Hả?"
"Qua đài. Tôi không xem ti vi."
"Đúng nhỉ. Anh không bao giờ xem." Cage nói với Lukas, “Vùng đất hoang phí', anh ta gọi ti vi như vậy. Anh ta đọc rất nhiều. Ngôn từ là mảng chính của Parker. Phạm vi chuyên môn, bất kể từ ấy có nghĩa quái quỷ gì. Anh kể với tôi là con gái anh đọc ngấu nghiến các thứ nhỉ. Nó vẫn làm thế chứ?".
"Tên ở tàu điện ngầm", Parker nói. "Vì hắn mà ông ở đây phải không?"
"Vụ METSHOOT", Lukas nói. "Chúng tôi gọi tắt như thế. Hắn đã giết hai mươi ba người. Làm bị thương ba mươi bảy. Sáu đứa trẻ bị thương nặng. Còn có..."
"Các vị muốn gì?", anh ngắt lời vì lo rằng con của mình có thể nghe được câu chuyện.
Lukas trả lời, "Chuyện này rất quan trọng. Chúng tôi cần anh giúp".
"Các vị muốn cái quái gì ở tôi mới được chứ? Tôi về hưu rồi?"
Cage nói, "ừ ừ. Chắc chắn là về hưu rồi".
Lukas cau có nhìn từ người nọ sang người kia.
Việc này đã được tập trước chăng? Kiểu cảnh sát tốt/cảnh sát xấu? Có vẻ không giống thế. Tuy nhiên, một quy tắc quan trọng khác trong cuốn cẩm nang làm cha mẹ vô hình của anh là: "Hãy làm quen với việc một chọi hai". Giờ anh đã sẵn thế phòng thủ rồi.
"Anh vẫn còn làm công tác giám định tài liệu. Anh có mặt trên Những trang vàng. Anh còn có cả một website. Nó đẹp đấy. Tôi thích hình nền màu xanh dương đó."
Parker kiên quyết, "Tôi giám định tài liệu dân sự thôi".
Lukas nói, "Cage bảo tôi rằng anh từng là trưởng phòng phòng Tài liệu trong suốt sáu năm. Ông ấy nói anh là nhà giám định tài liệu giỏi nhất cả nước".
Cô ấy có đôi mắt mệt mỏi quá, Parker nghĩ. Có lẽ cô mới chỉ ba mươi sáu hay ba mươi bảy. Dáng đẹp, gọn gàng, nhanh nhẹn, khuôn mặt cũng đẹp. Thế nhưng cô đã trải qua những gì... Hãy nhìn vào đôi mắt kia mà xem. Giống như hai viên đá màu xanh xám. Parker từng biết những đôi mắt như vậy.
"Ba ơi, kể cho con nghe về Người chèo thuyền đi".
"Tôi chỉ làm thuê thôi. Không phải pháp y hình sự."
"Anh ta còn được đề bạt làm SAC của quận Eastem. Phải, phải, tôi không đùa đâu." Cage nói cứ như thể không nghe thấy lời Parker. "Chỉ có điều anh ta đã từ chối."
Lukas ngước cặp lông mày nhạt của mình lên.
"Và đó là chuyện của nhiều năm trước rồi", Parker tiếp lời.
"Chắc chắn rồi", Cage nói. "Nhưng anh vẫn không bị rỉ sét, đúng không Parker?"
"Cage, nói thẳng ra đi!"
"Tôi đang cố làm anh mệt mỏi", viên đặc vụ tóc xám nói.
"Không thể được."
"À, tôi là người tạo ra kỳ tích mà. Nhớ không?" Ông ta quay sang nói với Lukas, "Cô biết không, Parker không chỉ phát hiện được các giấy tờ giả mạo; anh ta còn truy ra tung tích của kẻ khác từ những gì họ viết, họ mua giấy ở đâu, bút ở đâu, những chuyện đại loại như vậy. Người giỏi nhất trong ngành đấy".
"Cô ấy hẳn sẽ bảo ông đã nói vậy rồi", Parker cất lời một cách chua chát.
"Hồi tưởng lại mọi chuyện một lần nữa hả?", Cage nhận xét
Parker đang run, nhưng không phải vì lạnh. Mà vì rắc rối hai người này mang tới. Anh nghĩ về bọn Who. Anh nghĩ về bữa tiệc của ba bố con tối nay. Về cô vợ cũ. Anh mở miệng định bảo với ông già Cage cao kều cùng cô nàng Lukas mắt mệt mỏi là cả hai hãy biến khỏi đời anh. Nhưng cô đã đi trước một bước. Cô nói thẳng thừng, "Anh nghe này. Tên nghi phạm...".
Parker nhớ lại: Đối tượng chưa lộ diện. Một tên tội phạm chưa xác định được danh tính.
"... và đồng phạm của gã, tên xạ thủ, đã cùng lên kế hoạch cho vụ tống tiền này. Cứ bốn tiếng một lần, tay xạ thủ sẽ bắn vào đám đông bằng khẩu súng tự động, bắt đầu từ bốn giờ chiều nay trừ khi thành phố chịu trả tiền. Ngài thị trưởng đã chấp thuận và chúng tôi đã thả tiền đúng chỗ. Nhưng tên nghi phạm lại chẳng bao giờ xuất hiện. Tại sao? Bởi vì gã đã chết."
"Anh có tin vào vận may không?", Cage nói- "Trên đường tới lấy hai mươi triệu đô la, gã đã bị một chiếc xe đưa hàng tông phải"
Parker hỏi, "Tại sao tên xạ thủ không đi lấy tiền?".
"Bởi vì chỉ dẫn duy nhất dành cho hắn là giết chóc", Lukas nói "Hắn chẳng liên quan gì đến chuyện tiền nong cả. Kiểu tay trái/tay phải kinh điển ấy." Lukas dường như thấy ngạc nhiên khi Parker không hề phát hiện ra chuyện đó. "Tên nghi phạm thả xạ thủ ra với mệnh lệnh duy nhất là tiếp tục bắn giết nếu hắn không nhận được cuộc gọi báo dừng lại. Bằng cách đó, chúng ta sẽ phải dè chừng khi phái các đội đặc nhiệm đi bắt hung thủ. Còn nếu ta tóm tên nghi phạm thì gã sẽ có cơ hội mặc cả đổi lấy việc ngăn cản tay xạ thủ."
"Vậy là", Cage nói. "Chúng ta phải tìm ra hắn. Tên xạ thủ."
Cánh cửa sau lưng Parker từ từ hé mở.
Anh nhanh chóng nói với Lukas, "Cài khuy áo của cô vào"
"Sao cơ?", cô hỏi.
Khi Robby bước ra ngoài, Parker liền nhanh chóng vươn người ra, kéo hai vạt áo của Lukas lại, che đi khẩu súng lục to tướng trên thắt lưng của cô. Cô cau mày khi anh thì thầm, "Tôi không muốn thằng bé thấy vũ khí của cô".
Anh vòng cánh tay ôm vai cậu con trai. "Này, Who. Con thế nào?"
"Stephie giấu cái điều khiển rồi."
"Đâu có", con bé kêu lên. "Không giấu, không giấu!"
"Con đang thắng thì nó giấu cái điều khiển đi."
Parker vừa nói vừa cau mày, "Chờ đã, cái đó có dây nối cơ mà?".
"Nó rút dây rồi."
"Stephie... effie. Có phải cái điều khiển sắp xuất hiện trong vòng năm giây nữa không? Bốn, ba, hai..
"Con tìm thấy rồi!", con bé la lên.
"Đến lượt anh!", Robby cũng kêu và lại chạy lên tầng hai.
Một lần nữa, Parker để ý thấy đôi mắt Lukas dõi theo Robby khi thằng bé trèo lên cầu thang.
"Tên nó là gì?", Lukas hỏi.
"Robby."
"Nhưng anh vừa gọi nó là gì?"
"Ồ. 'Who' á. Tôi đặt biệt danh cho bọn nhỏ đấy."
"Theo tên Wahoo à?", cô hỏi. "Đội tuyển của trường đại học cũ?"
"Không. Nó là từ cuốn sách Tiến sĩ Seuss cơ." Parker tự hỏi làm sao cô ta biết anh từng học Đại học Virginia. "Nghe này, Cage, tôi xin lỗi. Nhưng thực sự, tôi không giúp ông được."
"Anh có hiểu được vấn đề ở đây không, chàng trai?", Cage hỏi. "Mối liên kết duy nhất, đầu mối duy nhất chúng tôi có được chính là lá thư tống tiền."
"Đưa qua PERT  ấy."
Đội ứng phó với các bằng chứng vật chất của Cục điều tra.
Cặp môi mỏng của Lukas càng trở nên mỏng hơn. "Nếu phải làm như vậy thì chúng tôi sẽ làm. Và tôi sẽ kiếm một nhà tâm lý học ngôn ngữ từ Quantico đến. Chúng tôi sẽ cử đặc vụ đi kiểm tra từng công ty sản xuất giấy và bút bi trên khắp cả nước. Nhưng.. "
"... đó chính là những gì chúng tôi hy vọng anh sẽ tiếp quản", Cage nói tiếp. "Anh có thể xem xét bức thư, nói cho chúng tôi biết cái gì là cái gì. Những điều mà không ai khác làm được. Có lẽ là nơi nghi phạm sống. Hoặc nơi tên xạ thủ sẽ nổ súng tiếp theo.
Parker hỏi, "Thế còn Stan thì sao?".
Stanley Lewis hiện đang là trưởng phòng phòng Tài liệu của Cục. Parker biết anh ta rất giỏi; chính anh đã thuê Lewis làm chuyên viên phân tích từ nhiều năm trước. Anh nhớ lại rằng họ đã dành cả buổi tối để uống bia và thi nhau giả mạo chữ ký của John Hancock. Lewis đã thắng.
"Anh ta đang ở Hawaii dự phiên tòa xử Sanchez. Cho dù có dùng đến một chiếc Tomcat, chúng tôi cũng không thể lôi anh ta về kịp thời hạn tiếp theo."
"Lúc bốn giờ", Lukas nhắc lại.
"Lần này không giống lần trước đâu, Parker", Cage khẽ nói. "Chuyện ấy sẽ không bao giờ lặp lại."
Đầu Lukas lại quay mòng mòng những gì đang xảy ra giữa hai người đàn ông. Nhưng Parker không giải thích điều Cage vừa nói có nghĩa gì. Anh sẽ không nói về chuyện quá khứ nữa; ngày hôm nay anh đã phải chịu đựng quá khứ như thế là đủ rồi.
"Tôi xin lỗi. Có lẽ lúc khác thì được. Nhưng giờ thì không".
Anh đang tưởng tượng xem chuyện gì sẽ xảy ra nếu Joan phát hiện anh lại tham gia vào một vụ điều tra nóng.
"Chết tiệt, Parker, tôi phải làm gì đây?"
"Chúng tôi không có gì cả", Lukas giận dữ nói. "Không có đầu mối. Chúng tôi chỉ còn vài giờ nữa trước khi tên điên này lại bắn vào một đám đông khác. Trong đó còn có bọn trẻ con.
Parker đột ngột vẫy tay để ngăn lời cô nói. "Tôi sẽ phải yêu cầu hai người rời khỏi đây ngay lập tức. Chúc may mắn!"
Cage nhún vai nhìn Lukas. Cô đưa cho Parker tấm danh thiếp có dấu mạ vàng của Bộ Tư pháp trên đó. Chính anh cũng từng có tấm danh thiếp như vậy. Phông chữ Cheltenham khít khao. Cỡ chín.
"Số điện thoại di động ở phía dưới... Nghe này, ít nhất, nếu chúng tôi có câu hỏi nào, anh không phiền khi chúng tôi gọi anh chứ?"
Parker do dự. "Không, tôi không phiền."
"Cảm ơn anh."
"Tạm biệt", Parker nói rồi lùi vào trong nhà.
Khi cánh cửa đóng lại, Robby đang đứng trên bậc cầu thang.
"Họ là ai đấy hả ba?"
Anh nói, "Một người từng làm việc cùng ba ấy mà".
"Cô kia có súng hả ba?", Robby hỏi. "Người phụ nữ ấy?"
"Con trông thấy súng à?", Parker hỏi thằng bé.
"Vâng"
"Vậy thì ba đoán là cô ấy có một khẩu."
"Ba có làm việc cùng cô ấy không ạ?", thằng bé lại hỏi.
"Không, chỉ có ông đi cùng thôi."
"Ồ, cô ấy xinh thật."
Parker định nói, "So với một cảnh sát". Nhưng anh lại thôi.
00005.jpg
Khi đã trở về phòng làm việc dưới tầng hầm và ở một mình, Parker nghĩ về bức thư trước mặt với cái tên QI. Các thủ tục trong phòng Thí nghiệm Tài liệu của FBI quy định rằng tài liệu bị nghi vấn phải được đặt mật danh Q ấy. Các tài liệu gốc và mẫu văn tự viết tay, còn được gọi là "đã nhận biết", thì được đánh đấu K. Đã nhiều năm trôi qua kể từ lúc anh vẫn còn gọi những bản di chúc và hợp đồng mình cần phân tích dưới cái tên Q. Cách nghĩ của một cảnh sát cứ chen ngang vào đời sống cá nhân của anh như thế này thật là đáng lo ngại. Gần bằng sự xuất hiện của Joan.
Quên Cage đi, quên Lukas đi.
Tập trung nào...
Trở lại với lá thư, kính lúp cầm tay đặt trước mặt.
Giờ anh để ý thấy tác giả, dù có phải Jefferson hay không, đã dùng đến một chiếc bút ngòi thép; anh có thể trông thấy dòng chảy độc nhất của mực vào những khe trên lớp giấy do ngòi bút vạch ra. Rất nhiều kẻ mạo danh tin rằng toàn bộ tài liệu cổ đều được viết bằng bút lông và chuyên sử dụng chúng. Nhưng hồi thế kỷ XVIII, bút ngòi thép rất thông dụng và Jefferson viết hầu hết các lá thư của mình bằng loại bút ấy.
Thêm một điểm cộng nữa bên mục tài liệu thật.
00006.jpg
Parker buộc mình không được nghĩ đến nội dung của bức thư mà phải kiểm tra một đường mực ở nơi vắt ngang qua nếp gấp trên giấy. Anh quan sát thấy không có mực vương trên rãnh giấy. Điều đó có nghĩa là bức thư đã được viết trước rồi mới gập lại sau. Anh biết rằng Thomas Jefferson là người rất kỹ tính về chuyện viết lách và ông chẳng bao giờ viết thư trên một mảnh giấy đã bị gập trước đó. Tài liệu này lại giành thêm một điểm nữa...
Parker ngẩng đầu lên và vươn vai. Anh đưa tay bật đài. Đài phát thanh quốc gia lại đang phát về vụ xả súng ở Metro.
"... báo cáo rằng tổng số người chết đã lên đến con số hai mươi tư. Cô bé năm tuổi LaVelle Williams đã chết vì vết thương do đạn bắn. Mẹ của bé bị thương trong vụ tấn công và đã nhập viện trong tình trạng nguy kịch..."
Anh tắt đài.
Nhìn vào lá thư, di chuyển chiếc kính lúp trên tài liệu một cách chậm rãi. Thụp xuống một chỗ nhấc tay khi người viết kết thúc một từ và nâng chiếc bút lên khỏi mặt giấy. Đây chính là kiểu điển hình của Jefferson khi ông kết thúc các nét bút.
Còn nét mực loang trên giấy thì sao?
Cách mực thẩm thấu sẽ cho bạn biết rất nhiều về loại vật liệu đã được dùng cũng như thời điểm hình thành tài liệu. Càng trải qua nhiều năm, mực càng thấm sâu vào trong giấy. Nét mực loang ở đây gợi ý rằng nó đã được viết ra từ rất lâu, dễ đến hai trăm năm nay rồi. Nhưng như mọi khi, anh vẫn lưu trữ thông tin này để truy xét lại; có nhiều cách giả vết mực loang.
Anh nghe tiếng thịch của bàn chân trẻ con trên cầu thang, Chúng dừng lại rồi vang to hơn khi đứa thứ nhất rồi đến đứa thứ hai nhảy nốt ba bậc cuối để chạm xuống sàn.
"Ba ơi, bọn con đói", Robby gọi từ đỉnh cầu thang xuống tầng hầm.
"Ba lên ngay đây."
"Bọn con ăn phô mai nướng được không ạ?"
"Nhé ba!", Stephie bồi thêm.
Parker tắt ngọn đèn sáng trắng trên bàn mình. Anh để lại bức thư vào két sắt rồi đứng một lúc trong phòng làm việc tù mù chỉ được chiếu sáng bằng ngọn đèn Tiffany giả đặt trong góc, bên cạnh chiếc sô pha cũ kỹ.
00007.jpg
Anh trèo lên cầu thang.