II - Thế thân
CHƯƠNG 14

     rông cô không khỏe lắm. Đặc vụ Lukas."
"Hôm nay là cả một ngày dài mà."
Gary Moss đang ở cuối độ tuổi bốn mươi, cơ thể nặng nề với mái tóc xoăn cắt ngắn vừa chớm bạc. Da của ông ta rất đen. Ông ta đang ngồi trên giường ở phòng số Hai, căn hộ nhỏ trên tầng một trụ sở. Ở đây có vài căn như thế, chủ yếu dùng cho lãnh đạo các cơ quan hành pháp đến thăm hay là chốn nghỉ đêm của giám đốc và phó giám đốc nếu họ cần lưu lại trong các chiến dịch lớn. Ông ta ở đây là vì có lẽ ông sẽ chẳng sống được quá hai giờ nếu nằm trong tay của Đặc khu, căn cứ vào những điều ông ta biết và người ông ta sẽ chống lại trước tòa.
Nơi này không đến nỗi tệ. Kiểu của Chính phủ nhưng có một chiếc giường đôi thoải mái, bàn, ghế tựa, bàn ăn, bếp, ti vi với các kênh cáp cơ bản.
"Cậu thanh tra trẻ đâu rồi? Tôi thích cậu ta."
"Hardy ấy à? Anh ta ở trong phòng Chiến tranh."
"Cậu ta đang bực mình với cô đấy."
"Tại sao? Vì tôi không để anh ta chơi trò cảnh sát à?"
"Đúng."
"Anh ta có phải bên điều tra đâu."
"Chắc rồi, cậu ta có kể cho tôi nghe. Cậu ta là kẻ ngồi bàn giấy giống hệt tôi. Nhưng cậu ta muốn được tham gia một chút. Cô đang cố bắt tên sát nhân ấy, phải không nào? Tôi có xem trên ti vi. Đó là lý do các cô hoàn toàn quên mất tôi."
"Chằng có ai quên ông cả, ông Moss."
Người đàn ông mỉm cười nhưng trông rất khổ sở, cô thấy tội nghiệp ông ta. Song Lukas không đến đây để an ủi. Các nhân chứng có cảm giác bất hạnh hay không được an toàn đôi khi quên đi những điều họ đã nghe hoặc trông thấy. Công tố viên Hoa Kỳ phụ trách vụ án tham nhũng này muốn đảm bảo rằng Gary Moss là một nhân chứng may mắn.
"Ông thế nào?"
"Nhớ nhà. Nhớ các con. Như thế này không đúng chút nào, trong lúc chúng sợ hãi nhường ấy, tôi lại chẳng thể có mặt bên chúng. Vợ tôi đang làm rất tốt. Nhưng một người đàn ông vẫn nên ở bên gia đình anh ta vào những lúc như thế này."
Lukas nhớ lại hai đứa bé, song sinh và mới năm tuổi. Những món đồ chơi nhựa nhỏ xíu được bện vào tóc chúng. Vợ của Moss là một phụ nữ nhỏ nhắn, với đôi mắt cảnh giác bạn sẽ thấy ở người vừa chứng kiến ngôi nhà của mình bị đốt trụi.
"Ông đang tổ chức mừng năm mới à?" Cô hất đầu vào chiếc mũ chóp nhọn có in hàng chữ "Chúc mừng năm mới". Bên cạnh đó là vài cái kèn.
Moss nhặt cái mũ lên. "Có người mang nó đến cho tôi. Tôi đã kể những chuyện mình làm được với một nửa áo ngực của Madonna chưa nhỉ?"
Lukas cười phá lên. Rồi cô nghiêm túc trở lại. "Tôi vừa gọi vào đường dây an toàn. Gia đình ông ổn cả. Có khá nhiều người đang trông chừng họ."
"Tôi chưa bao giờ nghĩ sẽ có người hại tôi hay gia đình tôi. Ý tôi là, khi quyết định đến gặp FBI để nói về những điều tôi phát hiện ra ở công ty ấy. Tôi nghĩ mình sẽ bị sa thải nhưng không bao giờ nghĩ người ta sẽ hãm hại chúng tôi."
Không ư? Một âm mưu hối lộ liên quan đến mười triệu đô la và có thể kết thúc bằng bản cáo trạng cho hàng chục nhân viên công ty cũng như các quan chức thành phố. Lukas ngạc nhiên vì Moss đã sống sót đến lúc nhận được sự bảo vệ của liên bang.
"Đêm nay, ông và gia đình đáng lẽ", cô hỏi, "sẽ làm gì?".
"Đến công viên Mall và xem pháo hoa. Để bọn trẻ thức khuya. Chúng thích thế còn hơn cả xem pháo hoa ấy chứ. Còn cô, đặc vụ Lukas? Cô có kế hoạch gì chưa?"
Không có gì. Cô hoàn toàn chẳng có kế hoạch nào. Cô đã không kể với ai chuyện này. Lukas nghĩ đến vài người bạn của mình: Một nữ cảnh sát ở Farifax, một lính cứu hỏa ở Burke, vài người hàng xóm, một người đàn ông cô gặp ở tiệc thử rượu, ai đó cô gặp ở lớp huấn luyện chó trong lúc cố gắng một cách không thành công để dạy dỗ con Jean Luc. Cô phần nào cũng khá gắn bó với họ và vài người khác nữa. Đôi khi cô tán gẫu cùng họ, đôi khi chia sẻ rượu với họ. Thi thoảng, cô cũng ngủ với một anh chàng. Tất cả đều mời cô đến dự tiệc mừng năm mới; cô nói với họ rằng mình sẽ tới một bữa tiệc lớn ở Maryland. Nhưng chỉ là nói dối. Cô muốn dành đêm cuối năm này cho riêng mình. Và cô chẳng muốn ai biết chuyện đó, chủ yếu là bởi không thế giải thích được tại sao. Nhưng vì vài lý do, cô nhìn Gary Moss, người đàn ông dũng cảm bị mắc kẹt trong cơn bão lửa của chính trường Washington D.c. này, và rồi kể cho ông sự thật, "Tôi định dành đêm nay với con chó của mình và xem một bộ phim".
Ông ta không hề nói lời cảm thông giả tạo mà liền vui hẳn lên "Ồ, cô nuôi chó à?".
"Có chứ. Giống Black Lab. Nàng ta ra dáng người mẫu thời trang lắm, nhưng ngu nhất hạng luôn."
"Cô nuôi nó bao lâu rồi?"
"Hai năm. Từ dịp Lễ tạ ơn."
Moss nói, "Năm ngoái tôi mua cho bọn trẻ một con chó lai. Bé xíu. Chúng tôi tưởng đã mất nó trong vụ gài bom nhưng cuối cùng nó thoát được. Nó đủ thông minh để bỏ lại chúng tôi và tự đào thoát khỏi đám cháy. Cô định xem phim gì đấy?".
"Chưa biết chắc. Có thể là phim dành cho nữ giới. Cái gì đó hay ho và tràn đầy nhựa sống, làm cho tôi phải khóc."
"Tôi không nghĩ các đặc vụ FBI được phép khóc đâu."
"Chỉ khi nào hết nhiệm vụ thôi. Việc chúng tôi định làm là giữ ông ở đây đến thứ Hai, ông Moss ạ, rồi ông sẽ được chuyển đến nhà an toàn  của Cục Cảnh sát Hoa Kỳ."
"Ha. Tommy Lee Jones. Kẻ đào tẩu. Chẳng phải phim ấy rất hay sao?"
"Tôi chưa xem."
"Lúc nào đấy thuê xem đi."
"Có thể. Ông sẽ ổn cả, Gary. Ông đang ở nơi an toàn nhất có thể rồi. Không ai tấn công ông ở đây được đâu."
"Chừng nào mấy tay lao công kia thôi làm tôi sợ chết khiếp." Moss cười phá lên.
Ông ta đang cố phấn chấn. Nhưng Lukas có thể thấy nỗi sợ của người đàn ông này: Nó như nhịp đập trên những mạch máu lộ ra nơi cái trán xương xẩu. Sợ cho ông, sợ cho gia đình ông.
"Chúng tôi sẽ mang bữa tối cho ông."
"Một cốc bia nhé?", ông ta hỏi.
"Một lốc luôn thì sao?"
"Ồ, thế chứ."
"Ông thích loại nào?"
"À, Sam Adams." Rồi ông ngần ngại, "Cái đó cũng nằm trong ngân sách à?".
"Miễn là tôi kiếm được."
"Tôi sẽ để phần cho cô một lon mát lạnh. Hãy trở lại đây sau khi tóm được tên điên nhé!"
Ông ta nghịch cái mũ. Trong một giây, cô đã tưởng ông ta sẽ đội nó lên đầu nhưng chắc Gary cũng nhận ra cử chỉ ấy thật thảm hại. Ông ném nó lên giường.
"Tôi sẽ quay lại sau", cô nói với ông ta.
"Cô đi đâu đấy?"
"Xem bản đồ."
"Bản đồ à. Chúc cô may mắn, đặc vụ Lukas."
Cô bước qua cánh cửa. Cả hai không ai chúc người còn lại một năm mới hạnh phúc.
Bên ngoài, trong không khí mát lạnh, Parker, Cage và Lukas đi dọc vỉa hè sáng lờ mờ trên đường đến Cục lưu trữ đo đạc địa hình cách trụ sở Cục điều tra sáu dãy nhà.
Washington D.c. cũng có những địa điểm xinh đẹp và kiến trúc tuyệt vời của riêng mình. Nhưng vào lúc hoàng hôn một chiều mùa đông như thế này, nó trông thật âm u. Khoản ngân sách trang trí Giáng sinh hạn hẹp cũng không thắp sáng được các con phố ảm đạm. Parker Kincaid nhìn lên trời. Một màu u ám. Anh nhớ người ta đã dự báo rằng sẽ có tuyết và ngày mai, bọn Who sẽ muốn ra ngoài chạy xe trượt.
Họ sẽ tỉa bụi cây ở sân sau như anh đã hứa với Robby, rồi cả ba bốn con sẽ hướng về phía tây tới núi Massanutten bằng những chiếc xe trượt tuyết cùng bình ủ chocolate nóng.
Lukas chen ngang những suy nghĩ của anh bằng câu hỏi, "Sao anh lại theo ngành Tài liệu?".
"Thomas Jefferson", Parker trả lời.
"Là sao?"
"Đáng lẽ tôi sẽ theo ngành Sử. Tôi muốn trở thành chuyên gia về lịch sử thời Jefferson. Đó là lý do tôi đi học ở Đại học Virginia."
"Ông ấy đã thiết kế trường đại học ấy, phải không?"
"Cơ sở đầu tiên thôi. Hàng ngày, tôi đến phòng lưu trữ ở đó và Thư viện Quốc hội ở Đặc khu. Một hôm, tôi đang ngồi trong thư viện ở Charlottesville, xem xét lá thư Jefferson viết cho con gái là Martha. Bức thư nói về tình trạng nô lệ. Jefferson cũng có nô lệ nhưng ông không tin vào chế độ ấy. Song lá thư được viết ngay trước khi ông qua đ", Parker nói, để mắt đến hai lính gác cầm súng tự động đứng ngay cạnh thang máy.
Lukas nói, "Nào, các dư chất mà Rhyme tìm được là gì?".
Parker nhìn vào cuốn sổ mình mang theo. Anh đọc, "Đá granite, lưu huỳnh, bồ hóng, tro, đất sét và gạch".
Tobe Geller ngồi xuống một chiếc máy tính, bật nó lên và gõ điên cuồng trên bàn phím. Hình ảnh Washington, D.c. hiện lên màn hình. Độ sắc nét thật đáng kinh ngạc. Nó là hình ảnh 3D. Parker nghĩ một cách hơi ngô nghê rằng Robby và Stephie sẽ khoái chơi Mario Bros trên một màn hình như thế này biết bao.
Lukas nói với Parker, "Chúng ta bắt đầu từ đâu?".
"Từng dấu vết một", anh trả lời. "Rồi bắt đầu thu hẹp các khả năng. Giống như giải đố vậy."
Ba con diều hâu cùng bắt mất gà của bác nông dân...
"Đầu tiên, đá granite, bụi gạch và đất sét", anh lẩm bẩm. "Chúng chỉ dẫn tới các địa điểm phá dỡ, các công trình xây dựng.." Anh quay sang Geller, "Chúng có nằm trên cơ sở dữ liệu này không?".
"Không", viên đặc vụ trẻ trả lời. "Nhưng chúng ta có thể tìm được ai đó ở Sở cấp phép Xây dựng."
"Làm đi", Parker ra lệnh.
Geller gọi bằng máy bàn vì không điện thoại di động nào có thể bắt sóng ở tận dưới này, hơn nữa, Parker cho rằng các bức tường ở đây đều có chất cản sóng giống như mọi cơ sở an ninh khác ở Washington.
"Tiếp theo là gì?", Parker tự hỏi. "Lưu huỳnh và bồ hóng... Nghe giống bên công nghiệp. Tobe, cậu đánh dấu các khu vực dựa trên mức độ ô nhiễm không khí được chứ?"
"Chẳc chắn được. Có một file của bên EPA  đây", Cậu ta vui vẻ nói thêm, "nó cũng tính toán mức độ xâm nhập của các chất khí ảnh hưởng đến thần kinh và vũ khí hóa học luôn".
Thêm nhiều phím bấm.
Ngành nghề chủ yếu của Đặc khu Columbia là các cơ quan hành chính, không phải nền công nghiệp, và các khu thương mại quanh đây chủ yếu được dùng để cất giữ và phân phối sản phẩm. Nhưng trên màn hình vẫn có những khu vực của thành phố bắt đầu được đánh dấu, lại còn bằng đúng sắc vàng, màu chỉ sự ô nhiễm phần lớn xuất hiện ở đông nam thành phố.
"Có thể nghi phạm đang sống gần đó", Lukas nhắc. "Có các khu công nghiệp nào liền kề với khu vực nhà dân?"
Geller tiếp tục gõ, kiểm tra chéo các khu công nghiệp có người sinh sống. Cách này loại được một số nơi nhưng không nhiều; hầu hết các khu vực đều xen lẫn với các vùng dân cư.
"Vẫn còn nhiều quá", Lukas nói.
"Hãy thêm vào một nhân tố nữa. Bụi tro", Parker nói. "Thịt động vật bị đốt cháy về cơ bản."
Tay Geller ngập ngừng trên bàn phím. Cậu ta lẩm bẩm,"Cái đó có thể là gì nhỉ?".
Lukas lắc đầu. Rồi hỏi, "Có nhà máy chế biến thịt nào ở các khu vực ấy không?".
Đó là một gợi ý hay, chính Parker cũng đang định nói vậy.
Geller trả lời, "Không thấy".
"Nhà hàng thì sao?", Cage gợi ý.
"Có lẽ là quá nhiều", Parker nói.
"Hàng trăm cái", Geller xác nhận.
"Còn chỗ nào có thịt cháy nữa?", Lukas hỏi, nhưng không nhắm vào ai.
Câu đố...
"Các bác sĩ thú y", Parker tự hỏi. "Họ có thiêu hủy xác bọn thú không nhỉ?"
"Có thể", Cage nói.
Geller gõ rồi đọc trên màn hình. "Có hàng chục cơ sở. Ở khắp mọi nơi"
Rồi Lukas nhìn lên Parker và anh thấy sự lạnh lùng lúc trước đã biến mất, thay vào đó là một thứ khác. Có lẽ là sự háo hức. Đôi mắt xanh dương của cô vẫn kiên định như đá, đúng là thế, nhưng giờ chúng lấp lánh như đá quý. Cô nói, "Thế còn hài cốt của con người?".
"Nhà hỏa táng!", Parker nói. "Phải rồi! Bột đá granite có thể từ chỗ làm bia mộ. Hãy tìm một nghĩa trang đi!"
Cage liếc nhìn bản đồ rồi chỉ ra, "Arlington?".
Nghĩa trang quốc gia chiếm trọn một khu vực rộng lớn ở phía tây của dòng Potomac. Khu vực xung quanh nó hẳn là bị bao trùm trong bụi đá granite.
Nhưng Parker chỉ ra, "Nó không nằm gần khu công nghiệp nào cả. Làm sao có chỉ số ô nhiễm đáng kể được?".
Rồi Lukas trông thấy. "Kia kìa!" Cô đưa một ngón tay được phủ lớp sơn không bóng nhưng mịn hoàn hảo ra chỉ. "Gravesertd."
Tobe Geller khoanh vùng khu vực đó trên bản đồ và phóng to nó lên.
Gravesend...
Khu vực này là một phần trong góc phần tư phía đông nam của Đặc khu Columbia. Parker chỉ biết rất sơ sài về nó. Xung quanh Nghĩa trang Memorial là một dải các căn hộ chung cư nghèo nàn, nhà máy lụp xụp và bãi đất trống. Hồi đầu thế kỷ XVIII, nó đã từng là bãi tha ma của dân nô lệ. Parker chỉ vào một phần khác của Gravesend. "Tuyến Metro dừng ngay tại đây. Nghi phạm có thể lên tàu đi thẳng tới Judiciary Square, Tòa thị chính. Gần đó cũng có tuyến xe buýt nữa."
Lukas cân nhắc chuyện đó. "Tôi biết khu này vì từng bắt tội phạm ở đó. Có rất nhiều địa điểm phá dỡ hay công trường xây dựng xung quanh. Nó cũng kín đáo lắm. Chẳng ai thèm đặt nghi vấn về người khác. Nhiều kẻ trả tiền mặt để thuê nhà ở đây mà chẳng bị nghi ngờ. Đó sẽ là địa điểm tuyệt vời cho một ngôi nhà an toàn".
Một kỹ thuật viên trẻ ngồi gần họ nhấc điện thoại lên và đưa cho Tobe Geller. Ngay khi viên đặc vụ nghe máy, khuôn mặt trẻ trung của cậu ta liền giãn ra thành nụ cười nhiệt thành. "Tốt lắm" cậu ta nói với đầu dây bên kia. "Mang nó đến phòng Thí nghiệm Tài liệu ngay". Rồi cúp máy. "Có cái này... Ai đó đã quay lại được vụ xả súng ở Nhà hát Mason."
"Một cuộn băng về Digger à?", Cage hào hứng hỏi.
"Họ chưa biết chính xác trong đoạn phim có gì. Có vẻ như chất lượng rất tồi tệ. Tôi muốn tiến hành phân tích ngay. Các vị tới Gravesend à?"
"Phải", Parker nói. Nhìn vào đồng hồ. Hai tiếng rưỡi nữa là đến vụ tấn công tiếp theo.
"Gọi MCP1 nhé?", Geller hỏi Lukas.
"Ừ. Đặt một cái đi."
Parker nhớ ra đó là trạm điều hành di động. Một trung tâm được trang bị đầy đủ máy thông tin liên lạc công nghệ cao cùng các thiết bị giám sát Anh đã từng làm việc trong đó vài lần, mỗi khi phải phân tích tài liệu ngay tại hiện trường.
"Tôi sẽ cho lắp ngay một thiết bị phân tích dữ liệu video", Geller nói, "và tiến hành trên đoạn phim. Cô sẽ ở đâu?".
Lukas nói đồng thanh với Parker. "Đây." Cả hai cùng chỉ vào một bãi đất trống gần nghĩa trang.
"Quanh dó không có nhiều căn hộ", Cage chỉ ra.
Parker nói, "Nhưng nó gần với các cửa hàng và nhà hàng nhất".
Mobile Command Post.
Lukas liếc nhìn anh và gật đầu. "Chúng ta nên thu hẹp phạm vi tìm kiếm bằng cách đến hỏi những nơi này trước tiên. Họ sẽ là những người tiếp xúc nhiều nhất với dân địa phương. Tobe, gọi cả c p. và Hardy cùng đi rồi đưa họ tới xe chỉ huy."
Viên đặc vụ trẻ lưỡng lự với cái nhìn nghi hoặc. "Hardy à? Chúng ta có cần anh ta không?"
Parker cũng tự hỏi điều tương tự. Hardy có vẻ là người tử tế, một cảnh sát khá giỏi. Nhưng anh ta chưa đủ tầm với một vụ như thế này và điều đó có nghĩa là anh ta, hoặc một ai khác, có thể sẽ bị thương.
Nhưng Lukas nói, "Nếu không phải anh ta, bên Đặc khu sẽ lại nhét một người khác vào thôi. Ít nhất, chúng ta còn kiểm soát được Hardy. Dường như anh ta chẳng ngại ngồi ghế sau".
"Chính trị thật chán ngắt", Cage lẩm bẩm.
Trong lúc Geller mặc áo khoác, Lukas nói, "Còn nhà tâm lý học? Người ở Georgetown? Nếu ông ta vẫn chưa đến trụ sở thì bảo ai đó đưa ông ta sang Gravesend nhé!".
"Được." Geller chạy đến chỗ thang máy, đúng như dự đoán, cậu chàng bị soát người rất kỹ.
Lukas nhìn chằm chằm vào bản đồ Gravesend. "Chỗ đó lớn quá!"
'Tôi có ý này", Parker nói. Anh suy nghĩ ngược với những điều đã biết về nghi phạm dựa trên bức thư. Và nói, "Chúng ta đã nghĩ rằng có thể gã dành nhiều thời gian bên máy tính, nhớ không?".
"Đúng rồi", Lukas nói.
"Hãy lấy danh sách những người sống ở Gravesend đăng ký dịch vụ trực tuyến."
Cage phản đối, "Có đến vài ngàn mất".
Nhưng Lukas chỉ ra, "Tôi không nghĩ vậy. Đây là một trong những khu vực nghèo nhất thành phố. Máy tính là thứ cuối cùng trong danh mục chi tiêu của những người này".
Cage nói, "Đúng. Thôi được, tôi sẽ bảo đội kỹ thuật chuẩn bị danh sách".
"Nhưng khu vực tìm kiếm vẫn rộng quá", Lukas lẩm bẩm.
"Tôi có vài ý tưởng khác", Parker nói trong lúc đi đến cửa thang máy, nơi anh cũng bị các bảo vệ mặt mày nghiêm túc lục soát thật kỹ cứ như một tên móc túi tiềm năng.

 

Kennedy chậm rãi đi vòng quanh chiếc thảm màu lục sẫm trong văn phòng của mình.
Jefferies đang nghe điện thoại. Rồi anh ta cúp rc;u? Hắn có chó không? Lần bị bắt gần nhất của hắn là trong tình huống nào?
Câu hỏi này dẫn tới câu hỏi nọ, chẳng bao lâu sau, Parker Kincaid sẽ không nói liệu chữ viết tay này có khớp với chữ ký trong tờ khai ở DMV  không, mà thay vào đó lại đoán định nơi nghi phạm có thể đang lẩn trốn. Gần như lúc nào anh cũng đúng.
Nhưng anh đã từ chối lời đề nghị. Thời gian làm việc của một trưởng phân cục rất dài, trong khi vào giai đoạn ấy anh cần phải ở nhà. Vì lợi ích của lũ trẻ.
Tất nhiên anh không hề muốn chia sẻ bất kỳ điều gì trong số đó với Lukas.
Anh thắc mắc liệu cô có hỏi thêm không, nhưng cô chẳng nói gì. Cô chỉ lôi điện thoại ra và gọi.
Parker tò mò về Cục lưu trữ đo đạc địa hình mà họ đang đi đến. Anh hỏi, "Chính xác thì..
"Im nào!", Lukas đột ngột thì thào.
"Sao.. anh định hỏi.
"Im lặng! Tiếp tục bước đi! Và đừng nhìn lại!"
Anh nhận ra cô không hề nói chuyện điện thoại mà chỉ giả vờ.
Cage hỏi, "Cô cũng thấy hắn à? Tôi thấy hắn cách ta khoảng hai mươi mét".
"Gần ba mươi. Không thấy vũ khí. Hắn có vẻ õng ẹo. Di chuyển không vững vàng."
Parker nhận ra đó là lý do Lukas quan tâm đến anh nãy giờ và tại sao cô lại dừng chân để ngắm mấy chiếc váy trong cửa hiệu: Cô nghi ngờ có ai đó đang theo dõi họ và muốn kẻ đó tưởng là cô không biết. Anh cũng liếc vào một cửa sổ khi họ bước ngang qua và trông thấy một người đang băng qua đường để sang phía vỉa hè họ đang đi.
Lúc này Parker mới để ý cả Cage và Lukas đều đang cầm vũ khí. Anh không hề biết họ rút ra lúc nào. Họ cầm những khẩu súng tự động màu đen, trên ống ngắm là ba điểm sáng màu xanh lục bé xíu. Khẩu súng công vụ của anh là loại súng lục già cỗi và điều anh nhớ nhất là chuyện ghét cay ghét đắng cái luật buộc anh phải vác theo nó mọi lúc; ý nghĩ mang theo một khẩu súng đầy đạn lởn vởn gần bọn Who làm anh lo lắng mãi không yên.
Lukas lẩm bẩm gì đó với Cage và ông gật đầu. Quay sang Parker, cô nói, "Hãy ra vẻ tự nhiên!".
Ồ chắc rồi...
"Cô nghĩ có phải Digger không?", anh hỏi.
"Có thể", cô nói.
"Kế hoạch?", Cage thì thầm.
"Hạ hắn", cô đáp lại một cách bình tĩnh.
Lạy Chúa, Parker nghĩ. Digger đang ở sau lưng họ! Với khẩu súng tự động. Hắn đã theo dõi trụ sở Cục điều tra và biết được họ chính là những người phụ trách vụ án. Họ suýt bắt được hắn ở nhà hát; có lẽ tên đồng phạm đã dặn hắn hạ hết điều tra viên nếu họ có vẻ sắp bắt được hắn.
"Ông lo mặt phố", Lukas nói với Cage. "Kincaid, anh phụ trách ngõ. Trong trường hợp có đồng phạm."
"Tôi..."
"Suỵt."
"Đếm đến ba. Một... hai...
"Nhưng tôi.. ”, Parker định nói.
“Ba."
Họ tách ra rất nhanh. Cage bước hẳn xuống phố, chặn các xe đang đi.
Lukas quay lại và lao về hướng họ vừa đi qua. "Đặc vụ liên bang!" cô hét. "Anh kia! Đứng yên, hai tay đặt lên đầu."
Parker liếc vào trong ngõ và tự hỏi mình phải làm gì nếu trông thấy có tên đồng phạm nào ở đó. Anh rút điện thoại ra, bấm sẵn 911 và đặt tay lên nút Gọi. Anh chỉ nghĩ được có thế.
Nhìn lại đằng sau, anh thấy Lukas. Phía trước cô, một người đàn ông đột ngột dừng lại rồi quay đầu bỏ chạy xuống phố.
"Đứng lại!"
Lukas đang chạy dọc vỉa hè. Người đàn ông rẽ sang phải, biến mất trong dòng xe cộ. Cô cố đuổi theo nhưng một chiếc xe bỗng rẽ ngoặt; người lái xe không trông thấy và suýt tông phải cô. Lukas lăn người lên vỉa hè, chỉ cách lá chắn vài phân.
Lúc cô lại bắt đầu chạy theo thì tên kia đã biến mất. Parker trông thấy cô lôi điện thoại ra và nói gì đó. Một lát sau, ba chiếc xe không biển hiệu, kèm đèn đỏ lóe sáng trên bảng điều khiển phanh kít ở ngã tư. Cô trao đổi với một trong ba tài xế và mấy chiếc xe liền phóng vút đi.
Lukas từ từ đi bộ trở lại chỗ Parker. Cage cũng tiến về phía họ. Lukas giơ hai tay lên một cách bực bội.
Cage nhún vai. "Anh trông thấy hắn không?"
"Không", Parker trả lời.
"Tôi cũng không thấy", Lukas lẩm bẩm. Rồi cô liếc vào tay Parker. "Vũ khí của anh đâu?"
"Cái gì của tôi?"
"Anh phụ trách ngõ cơ mà. Chúng ta gặp biến mà anh lại không rút vũ khí ra sao?"
"À, tại vì tôi không có. Đó là chuyện tôi đã cố nói với cô."
"Anh không mang gì?", cô hỏi một cách khó tin.
"Tôi là thường dân", Parker nói. "Sao tôi phải có súng chứ?"
Lukas nhìn Cage một cách khinh thị, ông liền nói, "Cứ tưởng anh ta có".
Cô cúi xuống và kéo ống quần bò lên. Lôi một khẩu súng nhỏ ra khỏi bao ở cổ chân rồi đưa cho Parker.
Anh lắc đầu. "Không, cảm ơn."
"Cầm lấy đi!", cô khăng khăng.
Parker liếc khẩu súng trên tay cô. "Tôi không thoải mái với súng ống. Tôi ở bên Khoa học hình sự, không phải đội tác chiến. Hơn nữa, khẩu công vụ của tôi là súng lục, không phải loại tự động. Lần cuối tôi bắn là ở trường bắn tại Quantico. Sáu bảy năm trước rồi".
"Tất cả những gì anh phải làm là ngắm bắn và bóp cò", cô nói, giờ đã cực kỳ giận dữ. "Chốt an toàn giật rồi. Phát đầu tiên là hai viên đạn liên tiếp, phát thứ hai một viên. Vì thế chỉ việc ngắm cho đúng". Parker tự hỏi cơn giận bất chợt này đến từ đâu.
Anh không cầm khẩu súng.
Cô thở dài, khiến một làn khói mỏng thoát ra từ miệng cô giữa trời đêm lạnh giá. Cô không nói gì mà chỉ đẩy khẩu súng về gần phía anh hơn.
Parker quyết định có đấu tranh cũng chẳng để làm gì. Anh đưa tay ra và cầm lấy khẩu súng. Liếc nó một cái rồi trượt vào trong túi áo. Lukas quay đi, không nói không rằng và họ tiếp tục tiến về phía trước. Cage nhìn anh nghi ngờ, tiếp theo là nhún vai rồi gọi điện thoại.
Trong lúc họ đi trên phố, Parker cảm nhận sức nặng của khẩu súng trong túi áo: Một lực kéo khổng lồ, lớn hơn trọng lượng ba bốn trăm gram của nó rất nhiều. Thế nhưng anh chẳng thấy thoải mái hơn chút nào khi có nó bên mình. Anh tự hỏi tại sao. Một phút trôi qua anh mới nhận ra câu trả lời. Không phải vì mẩu kim loại nóng bỏng này nhắc anh nhớ rằng Digger có thể vừa mới ở ngay đằng sau họ ít phút trước, định giết cả anh lẫn Cage và Lukas. Cũng chẳng phải vì nó nhắc anh nhớ đến Người chèo thuyền bốn năm về trước hay về nỗi hoảng loạn của đứa con trai.
Không, thực tế là vì khẩu súng dường như có một quyền năng đen tối nào đó, giống chiếc nhẫn ma thuật trong cuốn sách của J. R. R Tolkien, một quyền năng sẽ khuất phục anh và mỗi phút càng mang anh rời xa lũ trẻ hơn. Thứ quyền năng có thể chia tách anh với các con mãi mãi.

*

Digger đang đứng trong một con hẻm.
Bất động, nhìn quanh.
Quanh đây không có đặc vụ hay tay cảnh sát nào. Cũng chẳng có ai truy đuổi hay săn lùng hắn. Không có ai bắn hắn. Hay bắt hắn quay lại Connecticut, nơi hắn thích các rừng cây, nhưng lại ghét cay ghét đắng những căn phòng có chấn song mà người ta ép hắn phải ngồi trong đó hết giờ này sang giờ khác, chẳng được làm gì, nơi người ta ăn cắp xúp của hắn và chuyển kênh ti vi để hắn không xem được các đoạn quảng cáo ô tô hay chó con nữa, chỉ có kênh thể thao.
Pamela đã bảo hắn, "Anh béo quá rồi. Anh mất hết cơ bắp. Sao anh không đi chạy nhỉ? Đi mua một đôi.. click,"... giày chạy Nike đi. Nhé. Tới trung tâm thương mại ấy. Em có việc phải làm".
Trong một phút, Digger nghĩ mình đã trông thấy Pamela. Hắn nheo mắt. Không, không, chỉ là một bức tường trống trơn trong hẻm.
Con có hứa sẽ yêu thương, trân trọng, tôn trọng và... click... tuân phục?
Một ngày mùa thu nọ, hắn đi chạy với Pamela qua những tán lá đỏ và vàng. Hắn đã cố bắt kịp, mồ hôi mồ kê và ngực đau như thắt, giống hệt cơn đau đầu sau khi viên đạn bắn lung tung trong não hắn. Pamela chạy trước và rốt cuộc hắn chỉ còn một mình. Rốt cuộc hắn phải lẻ loi đi bộ về nhà.
Digger lo lắng về sai lầm ở nhà hát. Hắn lo ngại về tất cả các cảnh sát và đặc vụ ở đó, lo rằng người chỉ dạy hắn mọi điều sẽ chẳng vui khi hắn không bắn chết được nhiều người như kế hoạch phải thế.
Digger nghe tiếng còi hú từ đằng xa. Rất nhiều tiếng còi.
Hắn bắt đầu đi qua hẻm. Để mặc chiếc túi mua hàng lủng lẳng trên cánh tay. Khẩu Uzi bên trong túi lại nặng trịch vì đã được nạp thêm đạn.
Phía trước mặt, trong con hẻm, hắn nhìn thấy có sự chuyển động. Hắn dừng bước. Có một thằng bé. Da màu và gầy nhẵng. Khoảng mười tuổi. Thằng bé đang nghe ai đó nói chuyện với mình. Ai đó mà Digger không trông thấy.
Đột nhiên, Digger nghe tiếng Pamela, "Có... có... có... con với anh á? Có... có...có... con của anh?".
Nếu chúng ta có một hay ba hay bốn đứa trẻ, em sẽ biết tôi càng yêu em nhiều hơn.
Rồi ký ức về bài hát tan biến vì có tiếng giấy rách, khẩu súng cùng ống giảm thanh rơi ra khỏi đáy túi. Hắn cúi xuống nhặt chúng và trong lúc ấy cũng nh&igraheight:10px;'>
"Một bản báo cáo à? Cái đó chỉ để giữ ghế thôi. Nghe tôi này! Tôi rất tin tưởng vào lực lượng FBI. Họ đã xử lý các vụ xả súng như thế này nhiều rồi. Nhưng họ sắp ngăn chặn được tên sát nhân chưa? Nói ngắn gọn. Không vòng vèo."
Hardy có vẻ không thoải mái. "Họ có vài đầu mối. Họ nghĩ đã khoanh vùng được khu vực quanh ngôi nhà an toàn của nghi phạm, kẻ đã chết vì bị xe tông ấy ạ."
"Ở đâu?"
Một khoảng ngừng. Ông mường tượng cảnh Hardy tội nghiệp đang xoắn đây điện thoại, một bên là Cục điều tra, bên kia là ông chủ của anh ta. Tệ quá đi chứ.
"Tôi không được phép tiết lộ thông tin tác chiến cho bất kỳ ai, thưa ngài. Tôi rất tiếc."
"Chính thành phố của tôi đang bị tấn công, người dân của tôi đang bị sát hại. Tôi muốn có câu trả lời."
Lại yên lặng. Kennedy nhìn lên Wèndell Jefferies, anh chàng chỉ lắc đầu.
Kennedy ép cơn giận của mình xuống, cố tỏ ra biết điều hơn khi nói, "Để tôi nói cho anh nghe mình đang nghĩ gì nhé. Toàn bộ âm mưu này là để kiếm tiền cho lũ người kia. Không phải để giết chóc".
"Tôi cũng nghĩ vậy, thưa ngài."
"Nếu tôi có cơ hội nói chuyện với tên sát thủ, ở cái nhà an toàn đó hay nơi hắn định tấn công lúc tám giờ, tôi nghĩ mình có thể thuyết phục hắn từ bỏ. Tôi sẽ thương thuyết với hắn. Tôi có thể làm vậy."
Kennedy tin điều đó. Bởi vì một trong những tài năng của ông (về mặt này thì y hệt người trùng tên với ông từ thập kỷ Sáu mươi) chính là khả năng thuyết phục. Chính ông đã dỗ ngon dỗ ngọt để hàng chục vị chủ tịch và CEO ghê gớm nhất của Đặc khu chấp nhận mức thuế sẽ hỗ trợ cho Dự án 2000. Chính ông đã khuyên được Gary Moss tội nghiệp đưa ra những cái tên trong vụ bê bối của ủy ban Giáo dục.
Chỉ cần hai mươi phút với tên giết người này, cho dù phải chằm chằm nhìn xuống nòng súng máy đang chĩa vào người mình, với ông là đủ rồi. Ông sẽ thiết lập được một loại thỏa thuận nào đó.
"Theo cách họ mô tả hắn", Hardy nói, "tôi không nghĩ hắn là loại chịu thương thuyết đâu ạ".
"Việc đó anh phải để cho tôi, thanh tra ạ. Giờ thì, ngôi nhà đó ở đâu?"
'Tôi.."
"Nói cho tôi."
Đường dây bị nhiễu sóng. Nhưng viên thanh tra vẫn không nói gì.
Giọng Kennedy càng hạ thấp hơn nữa. "Anh không nợ bên Cục điều gì cả, con trai. Anh biết bọn họ cảm thấy ra sao về chuyện anh ở trong đội rồi đấy. Anh chỉ hơn chân chạy đi pha cà phê một chút xíu thôi"
"Sai rồi, thưa ngài. Đặc vụ Lukas đã cho tôi tham gia vào đội".
"Có à."
"Tương đối."
"Cậu không cảm thấy mình là một tay lái thứ ba à? Tôi hỏi như thế bởi vì tôi đang cảm thấy vậy. Nếu Lanier được làm theo ý mình, cậu biết Nghị sĩ Lanier chứ?"
"Vâng thưa ngài."
"Nếu ông ta làm theo ý mình thì việc duy nhất của tôi đêm nay là ngồi trên bục cao ở công viên Mall mà xem bắn pháo hoa. Cậu và tôi, Đặc khu Columbia là quê nhà của chúng ta. Vậy nên, thôi nào con trai, cái nhà trú ẩn chết tiệt ấy ở chỗ nào?"
Kennedy nhìn Jefferies bắt chéo hai ngón tay. Làm ơn đi... Như thế sẽ rất tuyệt. Tôi sẽ có mặt ở đó, cố thuyết phục gã sát thủ ra ngoài với hai bàn tay giơ lên. Dù hắn đầu hàng hay bị giết. Và bằng cách nào thì uy tín của tôi cũng sẽ được vãn hồi. Dù thế nào, tôi cũng không còn là vị thị trưởng chỉ biết vừa theo dõi vụ án trên kênh CNN vừa hớp bia nữa rồi.
Kennedy nghe có giọng nói ở đầu dây bên kia. Rồi Hardy lên tiếng trở lại. "Xin thứ lỗi, ngài thị trưởng, tôi phải đi. Có mấy người ở đây. Tôi chắc chắn là đặc vụ Lukas sẽ liên lạc với ngài."
"Thanh tra..."
Đầu dây tút dài.

 

Gravesend.
Chiếc xe chở Parker và Cage xóc nảy trên những ổ gà rồi dừng lại ở vỉa hè, nơi rác rưởi chất thành đống ngay trên phố. Trớ trêu thay, phần thân nóng rực của chiếc Toyota lại đỗ ngay cạnh van lấy nước cứu hỏa.
Cả hai trèo ra. Lukas đi xe của mình, một chiếc Ford Explorer màu đỏ, và đã chờ sẵn ở bãi đất trống họ hẹn trước. Cô đang đứng chống hai tay lên hông, nhìn xung quanh.
Mùi nước giải và phân cùng gỗ cháy, tro tàn nồng nặc.
Hai đấng sinh thành của Parker đã di du lịch vòng quanh thế giới sau khi cha anh nghỉ dạy môn Lịch sử, có lần họ đặt chân tới một khu ổ chuột ở Ankara, Thổ Nhĩ Kỳ. Parker vẫn còn nhớ là thư mẹ viết cho anh, bà vốn là người rất thích thư qua tin lại. Đó là lá thư cuối cùng anh nhận được từ cha mẹ trước khi cả hai qua đời. Nó được đóng khung treo trên tường trong phòng làm việc của anh, bên cạnh bức tường danh vọng của tụi Who.
Những con người nơi đây đã bị bần cùng hóa, và chính điều đó, chứ không phải sự khác biệt về chủng tộc, cũng chẳng phải văn hóa hay chính trị, càng không phải tôn giáo, đã khiến trái tim họ hóa đá.
Lúc này, anh nghĩ về những lời của mẹ khi nhìn quang cảnh hoang tàn xung quanh.
Hai thanh niên da màu đang dựa vào bức tường vẽ graffiti nhằng nhịt, nhìn những người mới đến mà rõ ràng thuộc lực lượng hành pháp, rồi từ từ bỏ đi, khuôn mặt lộ rõ vẻ khó chịu và bất mãn.
Parker thấy lo lắng, không phải vì mối nguy hiểm mà vì phạm vi rộng lớn của chỗ này. Nó rộng xấp xỉ mười sáu kilomet vuông, gồm các khu ổ chuột, nhà tạm, các xí nghiệp nhỏ và bãi đất bỏ hoang. Làm sao họ tìm nổi nhà trú ẩn của nghi phạm trong khu vực trải rộng như thế này?
Trên đời cũng có những câu đố mà Parker chưa thể giải được.
Ba con diều hâu..,
Khói bay tới chỗ anh đứng. Nó bốc lên từ những chiếc thùng đầu mà những người vô gia cư cùng các băng nhóm dùng để đốt củi hay rác rưởi nhằm giữ ấm. Anh còn thấy cả hàng đống xác xe ô tô. Bên kia phố là một tòa nhà có vẻ bị bỏ hoang; dấu hiệu duy nhất cho thấy có người ở là một ngọn đèn sáng đằng sau chiếc khăn tắm màu đỏ che ô cửa sổ vỡ kính.
Ngay bên kia trạm dừng tuyến Metro, phía trên một bức tường gạch cao và xập xệ là ống khói của nhà hỏa táng vươn thẳng lên trời đêm. Không thấy khói bốc lên từ đó nhưng bầu trời phía trên vẫn gợn sóng vì nhiệt độ nó tỏa ra. Có lẽ ngọn lửa của nhà hỏa táng luôn luôn được giữ lại. Parker rùng mình. Cảnh tượng này nhắc anh nhớ đến những bức ảnh xưa cũ về...
"Địa ngục", Lukas lẩm bẩm. "Trông như địa ngục vậy."
Parker liếc nhìn cô.
Cage rùng mình đồng tình.
Một chiếc xe tới nơi. Đó là Jerry Baker trong chiếc áo chống đạn và áo gió. Parker thấy rằng dù ăn mặc như đặc vụ tác chiến, anh ta vẫn đang mang đôi ủng cao bồi. Cage đưa cho anh ta chồng ảnh của nghi phạm in ra từ máy tính: Chỉ là gương mặt người chết trong nhà xác. "Chúng ta dùng cái này để đi hỏi thăm. Ở cuối phố ư? Đó là mô tả duy nhất chúng ta có về tên Digger."
"Không nhiều lắm."
Lại một cái nhún vai nữa.
Thêm nhiều chiếc xe con và xe tải không biển báo xuất hiện, đèn hiệu trên bảng điều khiển của họ phản chiếu trên dãy cửa sổ trước mặt. Những chiếc xe công vụ của FBI. Cả xe cảnh sát Đặc khu màu đen trắng với đèn hiệu xoay tròn. Tổng cộng có khoảng hai mươi lăm người cả nam và nữ, phân nửa là đặc vụ liên bang, còn lại là cảnh sát mặc sắc phục. Baker ra hiệu cho họ tập trung quanh xe tải của Lukas rồi phát các bản in.
Lukas nói với Parker, "Anh muốn kể sơ qua tình hình với họ không?".
"Chắc chắn rồi."
Cô kêu gọi, "Mời các bạn lắng nghe đặc vụ Jefferson đây".
Mất một giây Parker mới nhận ra đó là "nghệ danh" của mình. Anh quyết định nếu phải hoạt động ngầm, chắc chắn anh sẽ thất bại.
"Người đàn ông trong bức ảnh mà các bạn đang cầm là thủ phạm chịu trách nhiệm trong vụ xả súng tại Metro và Nhà hát Mason. Chúng tôi nghĩ gã đã xây dựng kế hoạch từ một nhà trú ẩn nằm đâu đó tại Gravesend này. Tuy giờ gã đã chết nhưng tên tòng phạm, tay xạ thủ, vẫn còn ở ngoài kia. Vì vậy, chúng ta cần tìm ra nơi trú ẩn của chúng và phải thật nhanh." "Anh có một cái tên không?", một trong các cảnh sát Đặc khu hỏi. "Nghi phạm, kẻ đã chết, là một John Doe", Parker nói và giơ bức ảnh lên. "Xạ thủ có biệt danh. Hắn là Digger. Tất cả chỉ có thế. Mô tả về hắn đăng ở cuối bức ảnh."
Parker nói tiếp, "Các bạn có thể thu hẹp phạm vi truy hỏi một chút. Ngôi nhà trú ẩn này có lẽ sẽ nằm gần một công trường phá dỡ hay xây dựng nào đó và cách nghĩa trang không xa. Gần đây, nghi phạm đã mua loại giấy này...". Parker giơ chiếc túi bóng kính đựng lá thư tống tiền và phong bì lên. "Loại giấy này đã bị mặt trời chiếu vào, tức là có khả năng nghi phạm mua nó từ một quầy hàng trưng bày văn phòng phẩm bên trong hoặc gần một cửa sổ hướng nam. Vậy nên, mọi người hãy tới mọi cửa hàng tiện lợi, hàng thuốc, hàng tạp phẩm và quầy báo có bán giấy viết. Ồ, nhớ tìm cả loại bút gã dùng nữa. Đó là một chiếc bút bi AWI mực đen. Có lẽ giá tầm ba mươi chín hay bốn mươi cent gì đấy!"
Anh chỉ có thể nghĩ ra đến đó. Với một cái gật đầu, anh nhường sân lại cho Lukas. Cô bước lên đứng trước các đặc vụ. Nhìn khắp một lượt trong im lặng cho đến khi tất cả bọn họ đều chú ý vào mình. "Nghe này! Đúng như đặc vụ Jefferson đã nói, tuy nghi phạm đã chết nhưng chắc chắn xạ thủ vẫn còn sống. Chúng ta không biết hắn có mặt ở Gravesend hay không và cũng chẳng biết hắn có sống trong nhà trú ẩn này không. Nhưng tôi muốn tất cả mọi người ở đây hãy cứ đinh ninh rằng hắn chỉ đang ở sau các bạn chừng ba mươi mét và có tầm ngắm rõ ràng. Hắn chẳng ngại bắn hạ các sĩ quan cảnh sát đâu. Vì vậy, trong lúc di chuyển ở khu vực này, tôi muốn tất cả mọi người phải tìm kiếm các vị trí phục kích. Tôi muốn bên tay cầm vũ khí của các bạn phải rảnh, tất cả khuy áo khoác và áo choàng đều mở, bao súng không được khóa".
Cô ngừng nói một lát. Giờ cô đã có sự chú ý toàn diện của tất cả mọi người. Chính cô gái gầy gò với mái tóc gần như bạch kim này.
"Lúc tám giờ tối nay, phải, chỉ còn hơn hai tiếng nữa thôi, thủ phạm sẽ tìm một nơi nào đó đông người và xả rỗng băng đạn lần nữa. Giờ, tôi không muốn phải làm việc ở hiện trường ấy hay phải nhìn vào đôi mắt của một người vừa mất đi cha mẹ hay con cái. Tôi không muốn phải nói với họ rằng tôi rất tiếc nhưng chúng ta chẳng thể tìm được tên quái vật trước khi hắn lại giết người. Rằng chuyện này sẽ không lặp lại nữa. Tôi sẽ không để sự việc ấy xảy ra. Các bạn cũng vậy."
Parker thấy mình bị cuốn theo những lời nói cương quyết và đều đều của cô. Anh nghĩ về bài phát biểu của Hội huynh đệ trong tác phẩm Henry V của Shakespeare, chính là lần đầu tiên Robby được nhìn thấy rạp hát. Thằng bé thuộc lòng bài ấy chỉ trong vòng một ngày, sau khi họ trở về từ Trung tâm Kennedy.
"Được rồi", Lukas nói. "Có ai cần hỏi gì không?"
"Có thông tin gì thêm về vũ khí của hắn không?"
"Hắn được trang bị một khẩu Uzi tự động với những băng đạn rất dài và một ống giảm thanh. Chúng ta không còn thông tin nào khác".
"Chúng tôi được tự do hành động đến mức nào?", một đặc vụ hỏi.
"Để bắn hạ xạ thủ ư?", Lukas trả lời. "Tự do tuyệt đối. Còn gì khác không?" Không ai giơ tay. "Được rồi. Chúng ta đang trong tình trạng khẩn cấp. Tôi không muốn ai nói nhăng nói cuội gì cả. Đừng báo cáo nếu các bạn chưa tìm được gì. Tôi không quan tâm chuyện đó. Chỉ cần nhìn thấy nghi phạm, lập tức gọi hỗ trợ, dọn dẹp bối cảnh và tiếp cận mục tiêu. Giờ thì đi tìm ngôi nhà đó cho tôi."
Bất thần Parker rất cảm động vì những lời lẽ ấy. Đã nhiều năm rồi, anh chưa khai hỏa một lần nào nhưng đột nhiên, giờ chính anh cũng muốn dự phần vào việc tiêu diệt Digger.
Lukas chia dần các đặc vụ và cảnh sát tới từng phần của Gravesend mà cô muốn họ kiểm tra, Parker thấy rất ấn tượng; cô có một cảm giác rất đáng nể về địa lý khu vực này. Anh chợt nghĩ, vài người đúng là sinh ra để làm cảnh sát.
Một nửa số đặc vụ đã bắt đầu tản ra, đi bộ; nửa khác thì lên ô tô và lái đi. Chỉ còn lại Cage, Lukas cùng Parker đứng trên vỉa hè. Cage gọi điện thoại. Ông nói chuyện một lúc rồi cúp máy.
"Tobe lấy được xe MCP rồi. Họ đang trên đường đến. Cậu ta đang phân tích cuộn băng thu được ở nhà hát. Ồ, cả nhà tâm lý học từ Georgetown cũng đang trên đường tới."
Hầu hết đèn đường đều không sáng, vài cái còn có vẻ bị đạn bắn vỡ. Đèn neon của vài cửa hiệu vẫn còn đang mở chiếu ánh sáng xanh nhờ xuống mặt đường. Hai đặc vụ đang đi hỏi dọc con phố. Cage nhìn quanh và thấy có hai chàng trai đang xoa tay trên một thùng đầu đốt lửa. Cage nói, "Tôi sẽ đến nói chuyện với chúng". Ông đi vào bãi đất ấy. Có vẻ như bọn chúng muốn bỏ đi nhưng lại nghĩ làm vậy sẽ càng đáng nghi hơn. Mắt chúng khóa vào ngọn lửa trong lúc ông bước tới và cả hai cùng im lặng.
Lukas gật đầu về phía quầy bán pizza cách đó nửa dãy nhà. "Tôi sẽ mua một cái", cô nói với Parker. "Anh muốn ở đây chờ Tobe và nhà tâm lý học không?"
"Có chứ."
Lukas đi ra phố, bỏ lại Parker một mình.
Nhiệt độ tiếp tục xuống thấp. Không khí lúc này đã có thêm chút giá lạnh mà anh vô cùng yêu thích khi mỗi độ thu sang: Nó gợi nhớ đến ký ức về việc lái xe đưa lũ trẻ tới trường trong khi đang cầm trên tay những cốc chocolate nóng hổi, đi mua sắm cho tiệc tối Lễ tạ ơn, chọn bí ngô ở hạt Loudon. Nhưng đêm nay, anh chỉ cảm nhận được duy nhất sự buốt lạnh ở sống mũi và hai bên tai cùng các đầu ngón tay; cảm giác ấy chẳng khác gì vết rạch của dao cạo. Anh nhét hai bàn tay vào sâu trong túi áo.