Dịch giả: Anh Tô
Chương tám

     mma. Phần lớn thời gian tôi thật sự ít quan tâm đến nó. Giờ thì có. Những gì tôi thấy ở trang trại siết chặt cuống họng tôi. Mẹ tôi nói nó là cô gái nổi tiếng nhất trường, tôi tin điều đó. Jackie nói nó là đứa xấu xa nhất, và tôi cũng tin điều đó. Sống trong niềm cay đắng của Adora có thể khiến ai đó trở nên không thành thật. Và tôi tự hỏi Amma cảm thấy thế nào về Marian? Bối rối ra sao khi phải sống trong cái bóng của một cái bóng. Nhưng Amma là một đứa trẻ thông minh - con bé cư xử đúng với bản chất khi không ở nhà. Ở gần Adora con bé phục tùng, ngọt ngào, đáng thương - như thể nó cần phải như thế, để giành được tình yêu của mẹ.
Nhưng những dấu vết bạo lực đó - cơn giận dữ kinh khủng, cách nó đánh bạn, và giờ là thứ tồi tệ này. Khuynh hướng nhìn ngắm và thực hiện những điều xấu xa. Điều đó đột nhiên làm tôi nhớ đến câu chuyện về Ann và Natalie. Amma không như Marian, nhưng có thể con bé khá giống bọn trẻ kia.
Trong buổi chiều muộn, chỉ trước giờ cơm chiều, và tôi quyết định ghé qua nhà Keenes lần thứ hai. Tôi cần những trích dẫn cho bài viết chính sắp tới và nếu tôi không có nó, Curry sẽ kéo tôi ra khỏi đây. Rời khỏi Wind Gap không hề làm tôi tổn thương với tư cách cá nhân, nhưng tôi cần chứng minh bản thân có thể tự xoay sở được, đặc biệt với uy tín của tôi đang lung lay. Đứa con gái tự cắt xẻo bản thân để tự dâng hiến mình sẽ không phải là lựa chọn hàng đầu cho những nhiệm vụ khó khăn.
Tôi lái xe ngang qua nơi phát hiện xác Natalie. Những vật Amma cho rằng vô giá trị không đáng ăn cắp nằm chỏng chơ: ba cây nến to bè đã được đốt từ lâu cùng với đám hoa rẻ tiền vẫn còn giấy gói của siêu thị. Một chiếc bong bóng hình trái tim bay bay lật phật trong gió.
Ở lối để xe gia đình Keene, anh trai Natalie ngồi ở ghế phụ trong chiếc xe mui trần màu đỏ, trò chuyện với một cô gái tóc vàng xinh vừa tầm với cậu ta. Tôi đậu xe phía sau, thấy chúng lén nhìn, rồi vờ như không để ý. Cô gái bắt đầu cười rất kịch, vẫy những ngón tay sơn đỏ qua mái tóc đen của gã con trai. Tôi gật đầu chào, một cách nhanh chóng và vụng về mà tôi chắc chúng không hề thấy, và lướt đến cửa trước.
Mẹ Natalie trả lời. Sau lưng bà, căn nhà tối tăm và im lặng. Khuôn mặt bà có vẻ cởi mở, bà không nhận ra tôi.
“Bà Keene, tôi rất xin lỗi đã làm phiền thế này, nhưng tôi thật sự cần nói chuyện với bà”.
“Về Natalie?”
“Vâng, tôi vào được không?” Đó cũng là một mánh nhỏ xấu xa để lách vào nhà mà không cần tự giới thiệu. Phóng viên cũng như ma cà rồng, Curry thích nói vậy. Chúng không thể vào nhà bạn nếu không được mời, nhưng một khi đã vào được, bạn không thể đuổi chúng đi cho đến khi chúng vắt kiệt bạn. Bà mở cửa.
“Ô, trong này xinh xắn và mát mẻ quá, cám ơn”, tôi nói. “Hôm nay nhiệt độ cao nhất có lẽ ở mức 90 [1], nhưng tôi nghĩ nó vượt quá rồi”.
“Tôi nghe nói sẽ đến 95”.
“Tôi tin là thế. Tôi có làm phiền nếu xin bà một ly nước không?” Một mánh khóe nhỏ nữa để tận dụng thời gian: Một người phụ nữ hiếm khi ném bạn ra ngoài nếu bạn cầu xin lòng hiếu khách của cô ta. Nếu bạn bị dị ứng hay bị lạnh, hỏi xin một chiếc khăn giấy còn tốt hơn. Phụ nữ quan tâm đến những gì yếu đuối. Hầu hết phụ nữ là vậy.
“Đương nhiên”. Bà dừng lại, nhìn tôi như thể nghĩ rằng lẽ ra bà phải nhận ra tôi rồi chứ nhưng lại quá ngượng ngùng để hỏi. Những người ở dịch vụ tang lễ, các linh mục, cảnh sát, bác sĩ, những người đến viếng - hẳn bà đã gặp rất nhiều người hơn hẳn mấy năm trước.
Trong khi bà Keene biến vào bếp, tôi chăm chú nhìn xung quanh. Hôm nay căn phòng trông hoàn toàn khác, vật dụng đã được trả về vị trí cũ. Trên chiếc bàn cách đó không xa có đặt tấm ảnh của hai đứa trẻ nhà Keene. Mỗi đứa dựa vào một bên cây sồi to, mặc quần jean và áo len đỏ. Thằng bé cười không thoải mái, giống như nó đang làm điều gì đó mà tốt nhất không nên chụp lại. Con bé cao bằng phân nửa anh trai và hoàn toàn căng thẳng, như một mẫu vật bằng dage [2].
“Con trai bà tên gì vậy?”
“Đó là John. Một thằng bé rất tốt, lịch sự. Tôi luôn tự hào về nó. Nó mới tốt nghiệp trung học thôi”.
“Họ đẩy nhanh thời gian một chút - khi tôi còn đi học ở đây, họ bắt chúng tôi chờ đến tận tháng Sáu”.
“Mmm. Thật tốt khi có một mùa hè dài hơn”.
Tôi cười. Bà cũng cười. Tôi ngồi xuống và nhấp một ngụm nước. Tôi không thể nhớ Curry khuyên phải làm gì khi đã lừa để được vào nhà.
“Chúng ta chưa chính thức gặp nhau. Tôi là Camille Preaker, phóng viên của tờ Chicago Daily Post. Chúng ta từng nói chuyện qua điện thoại đêm nọ”.
Bà ngưng lại. Quai hàm bắt đầu nghiến chặt.
“Đáng lẽ cô phải nói điều này trước chứ”.
“Tôi biết đây quả là thời gian khủng khiếp với bà, và nếu như tôi có thể hỏi một vài câu...”
“Cô không nên”.
“Bà Keene, chúng tôi muốn công bằng cho gia đình bà, đó là lý do tôi ở đây. Chúng tôi cung cấp càng nhiều thông tin cho mọi người thì....”
“Các người càng bán được nhiều báo. Tôi phát bệnh và mệt mỏi tất cả những chuyện này. Giờ thì tôi nói với cô lần cuối cùng: Đừng bao giờ trở lại đây. Đừng cố liên lạc với chúng tôi. Tôi hoàn toàn không có gì để nói với cô”. Bà đứng lên và cúi xuống trước mặt tôi. Như ở đám tang, bà đeo một chuỗi hạt gỗ với trái tim màu đỏ rực ở chính giữa. Nó đong đưa trên ngực áo như đồng hồ của nhà thôi miên. “Tôi nghĩ cô là đồ ăn bám”, bà quát vào mặt tôi. “Tôi nghĩ cô thật ghê tởm. Tôi hy vọng ngày nào đó cô nhìn lại và thấy mình tồi tệ cỡ nào. Bây giờ thì mời đi cho”.
Bà đi theo đến tận cửa, giống như không tin tôi thực sự rời đi cho đến khi thấy tôi bước ra khỏi nhà. Bà sập mạnh cửa sau lưng khiến cho chuông treo cửa rung lên khe khẽ.
Tôi đứng đỏ mặt ở bậc cửa, tự nhủ mặt trái tim màu đỏ sẽ là một chi tiết hay ho trong câu chuyện của mình, và nhận ra cô bé ngồi trong chiếc xe mui trần màu đỏ đang nhìn tôi chăm chú. Thằng nhóc đã đi mất.
“Chị là Camille Preaker phải không?” cô gọi.
“Đúng vậy”.
“Em nhớ chị”, cô gái nói. “Khi chị sống ở đây thì em còn rất nhỏ, nhưng bọn em đều biết chị”.
“Em tên gì?”
“Meredith Wheeler. Chắc chị không nhớ em đâu. Em chỉ là một đứa dở hơi khi chị học trung học”.
Bạn gái John Keene. Tên con bé rất quen, nhờ những người bạn của mẹ tôi, nhưng cá nhân tôi thì không nhớ con bé. Mẹ kiếp, con bé chỉ khoảng sáu hay bảy tuổi vào lần cuối cùng tôi sống ở đây. Tuy vậy nó còn nhớ tôi thì không ngạc nhiên cho lắm. Lũ con gái trưởng thành ở Wind Gap thích tìm hiểu những đứa lớn hơn một cách mê muội: ai đang hẹn hò với đám ngôi sao bóng đá, ai là nữ hoàng vũ hội, ai là tâm điểm. Bạn có thể kinh doanh sở thích như mấy tấm thẻ bóng chày. Tôi vẫn nhớ CeeCee Wyatt, nữ hoàng vũ hội của trường trung học Calhoon khi tôi còn là một đứa bé. Tôi từng mua mười một thỏi son ở hiệu thuốc, chỉ để cố tìm ra chính xác son môi màu hồng mà chị ấy đã dùng khi chào tôi vào một buổi sáng nọ.
“Chị nhớ em rồi”, tôi nói. “Không thể tin nổi là em đã biết lái xe”.
Con bé cười, có vẻ hài lòng với lời nói dối của tôi.
“Giờ chị là phóng viên à?”
“Ừ, ở Chicago”.
“Em sẽ kêu John nói chuyện với chị. Giữ liên lạc nhé”.
Meredith lái đi. Tôi chắc con bé cảm thấy khá ưng ý về bản thân - Giữ liên lạc nhé - trong khi thoa lại son bóng và không mảy may nghĩ đến cái chết của một đứa trẻ mười tuổi đang là chủ đề của cuộc trò chuyện.
Tôi gọi cho cửa hàng ngũ kim lớn trong thị trấn - nơi xác Natalie bị tống vào. Tôi bắt đầu tán dóc chuyện muốn làm lại phòng tắm và có thể lợp lại ngói mà không hề giới thiệu bản thân. Không quá khó để lái sang vụ giết người. “Tôi cho là rất nhiều người đang kiểm tra lại sự an toàn của nhà họ”, tôi thăm dò.
“Đó là sự thật, thưa cô. Chúng tôi đã hết dây xích khóa cửa và then cài cửa thì bán gấp đôi trong vài ngày”, giọng nói càu nhàu trả lời.
“Thật sao? Ông đã bán được bao nhiêu cái rồi?”
“Khoảng ba tá, tôi đoán vậy”.
“Hầu hết mọi gia đình sao? Hay chỉ những gia đình có con nít thôi?”
“Ồ vâng. Họ là những người có lý do để lo lắng, đúng không? Thật kinh khủng. Chún“Adora!” Và sau đó thở dài. “Chúa ơi, chị yêu quý, tay chị bị sao thế?”
“Chỉ là tai nạn thôi, thật đấy. Làm vài việc vặt quanh nhà. Trưa nay chị sẽ đi bác sĩ”. Tất nhiên bà sẽ đi. Bị giấy cắt thì bà cũng phải đi bác sĩ.
“Chuyện gì xảy ra vậy?”
“Ôi, thật tình chị không muốn nói về chuyện đó nữa. Chị muốn giới thiệu em với con gái chị, Camille. Con bé vừa ghé thăm”.
Bà chủ cửa hàng nhìn Amma, rồi nhìn tôi cười ngập ngừng
“Camille?” Một thoáng bừng tỉnh: “Em nghĩ em quên mất chị có đứa con gái thứ ba”. Bà thấp giọng khi nói từ “con gái” như thể nó là một lời nguyền. “Con bé ắt hẳn giống ba nó”, người phụ nữ nói, săm soi mặt tôi như thể tôi là con ngựa bà sắp mua. “Amma trông quá giống chị, và Marian cũng vậy, theo tấm hình. Đứa này, thì...”
“Nó không giống chị lắm”, mẹ tôi nói. “Nó có màu da của cha nó, và khung xương. Và tính khí của ông ấy”.
Đó là những gì nhiều nhất mà tôi từng nghe bà nói về cha tôi. Tôi tự hỏi bao nhiêu người bán hàng tình cờ nghe được các chi tiết về ông. Tôi chợt nghĩ tới việc trò chuyện với những nhân viên bán hàng ở miền nam Missouri, gom góp các thông tin thành một hồ sơ nhạt nhòa về ông.
Mẹ nhẹ nhàng vuốt tóc tôi. “Chúng tôi cần một chiếc váy cho bé cưng này. Thứ gì đó màu sắc một tí. Con bé hay mặc màu đen hay xám. Cỡ số bốn”.
Người phụ nữ ốm đến nỗi xương hông hằn lên chiếc váy của bà như những cái gạc, bắt đầu đi lòng vòng và mang đến những chiếc váy hấp dẫn màu xanh dương, xanh lá, hay màu hồng.
“Cái này mẹ mặc sẽ rất đẹp”, Amma nói, chìa một chiếc áo ngắn kim tuyến cho mẹ tôi.
“Ngừng lại, Amma”, mẹ tôi nói. “Nó lòe loẹt quá”.
“Có thực sự con làm mẹ nhớ đến cha không?” Tôi không thể không hỏi Adora. Tôi cảm thấy má mình nóng lên vì sự táo bạo này.
“Mẹ biết con sẽ không để yên chuyện này”, bà nói, chạm vào bóng của đôi môi mìnhphản chiếu trong chiếc gương cửa hàng. Băng gạc trên tay bà bị vấy bẩn.
“Con chỉ tò mò thôi. Con chưa bao giờ nghe mẹ nói tính tình của con làm mẹ nhớ đến...”
“Tính tình của con nhắc mẹ đến ai đó không giống mẹ. Và con đương nhiên không giống Alan, cho nên mẹ nghĩ đó phải là cha con. Giờ thì, không nói nữa”.
“Nhưng con chỉ muốn biết...”
“Camille, con lại làm mẹ chảy máu rồi”. Bà cầm bàn tay được băng bó lên, giờ chúng lấm tấm đỏ. Tôi muốn cào lên người bà.
Người bán hàng đâm sầm vào chúng tôi với đám váy. “Đây là cái nhất định con phải có”, bà nói, tay cầm một chiếc váy nhẹ màu lam. Hở vai.
“Và bé cưng này thì thế nào”, người phụ nữ nói, hất đầu về phía Amma. “Ắt hẳn con bé hợp với thứ gì đó trong cửa hàng chúng tôi”.
“Amma mới mười ba. Con bé chưa đủ tuổi cho kiểu quần áo này đâu”, mẹ tôi nói.
“Mới mười ba, lạy Chúa lòng lành. Tôi cứ quên suốt, con bé trông như một cô gái trưởng thành. Chị chắc hẳn lo đến phát bệnh về những chuyện đang xảy ra tại Wind Gap nhỉ”.
Mẹ tôi vòng tay quanh Amma, hôn lên đầu nó. “Đôi khi chị nghĩ chị sẽ không phải lo lắng nữa. Chị muốn nhốt con bé ở đâu đó”.
“Như những người vợ đã chết của Yêu Râu Xanh [1]”, Amma rên rỉ.
“Như Rapunzel [2]”, mẹ tôi nói. “Nào, tiếp nào, Camille - cho em gái thấy con xinh đẹp dường nào”.
Bà theo tôi vào phòng thay đồ, im lặng và chừng mực. Trong căn phòng nhỏ bé có gương, với mẹ tôi ngồi ngay ngoài cửa, tôi xem xét những lựa chọn của mình. Không cầu vai, hai dây, tay ngắn. Mẹ đang trừng phạt tôi, tôi tìm thấy một chiếc đầm hồng tay lửng và nhanh chóng trút bỏ áo ngoài và váy, tròng nó vào. Đường viền cổ thấp hơn tôi tưởng: Những từ ngữ trên ngực tôi đang căng ra dưới ánh đèn neon, như những con giun bò loằng ngoằng dưới da. Rên rỉ, sữa, đau, chảy máu.
“Camille, để mẹ xem”.
“Không, nó không hợp”.
“Để mẹ xem”. Thu nhỏ cháy bỏng bên hông trái tôi.
“Để con thử cái khác”. Tôi cuống cuồng mặc những chiếc khác. Chúng đều hở hang. Tôi bắt gặp hình ảnh mình trong gương. Tôi thật sự khiếp hãi.
“Camille, mở cửa ra”.
“Camille sao vậy mẹ?” Amma kêu lên.
“Cág tôi hy vọng quyên góp được một ít cho gia đình Natalie”. Ông dừng lại. “Cô có muốn ghé qua xem vài mẫu ngói không?”
“Chắc tôi sẽ làm thế, cám ơn ông”.
Lại thêm một nhiệm vụ trong bài báo được hoàn tất, và tôi thậm chí không cần đưa đầu mình ra cho một bà mẹ đang đau buồn chửi rủa nữa.
Richard chọn Gritty’s cho cuộc hẹn ăn tối của chúng tôi, một “nhà hàng gia đình” với một quầy salad phục vụ đủ loại thức ăn, trừ salad. Rau diếp có sẵn trong thùng nhỏ xỉn màu và nhầy nhụa mỡ ở cuối quầy. Richard đang tán chuyện với nữ chủ quán mập mạp trong khi tôi đỏ mặt vì đến trễ tầm mười hai phút. Cô gái có khuôn mặt tròn như mấy chiếc bánh rán đang xoay tròn trên kệ sau lưng cô, dường như không để ý tôi đang rụt rè đứng phía sau. Cô ta hoàn toàn bị đắm chìm trong khả năng ăn nói của Richard: trong tâm trí mình, cô bắt đầu viết sẵn nội dung cho nhật ký tối nay.
“Preaker”, anh ta nói, mắt vẫn dán vào cô gái. “Sự chậm chạp của cô thật là tai tiếng. Cô thật may khi có JoAnn ở đây bầu bạn với tôi”. Cô gái khúc khích, sau đó liếc tôi khi dẫn đến một bàn ở góc và ném cái thực đơn dính mỡ trước mặt. Trên bàn vẫn còn thấy vệt ly còn đọng lại của người khách trước.
Cô phục vụ xuất hiện, đẩy cho tôi một ly nước nhỏ, cỡ bằng ly uống rượu, và trao cho Richard một khay nhựa đựng soda. “Hey, Richard - tôi vẫn còn nhớ đó, thấy không?”
“Đó là lý do vì sao cô là người phục vụ yêu thích nhất của tôi, Kathy”. Dễ thương ghê.
“Chào, Camille, tôi nghe nói cô đã về thị trấn”. Tôi không muốn nghe câu đó một lần nào nữa. Nhìn kỹ lại thì cô phục vụ hóa ra lại là cô bạn cùng lớp tôi. Chúng tôi từng là bạn trong một học kỳ của năm thứ hai vì cùng cặp kè với hai gã bạn thân - gã của tôi là Phil, còn của cô ấy là Jerry - những gã lôm côm chơi đá bóng vào mùa thu và chơi quyền anh vào mùa đông, và cùng trải qua năm tháng tiệc tùng trong phòng nghỉ dưới tầng hầm nhà Phil. Tôi chợt thấy ký ức lóe lên khi hai chúng tôi, lúc đó đã quá say để giáp mặt với mẹ anh ta trên nhà, đang nắm tay nhau giữ thăng bằng khi đi tè ngay trên tuyết bên ngoài cửa kính trượt. Tôi nhớ cô đã kể cho tôi nghe chuyện làm tình với Jerry trên chiếc bàn bida. Điều đó giải thích tại sao cảm giác lại nhớp nháp như vậy.
“Chào, Kathy, thật tốt khi gặp cậu. Mọi chuyện thế nào?”
Cô ta vung cánh tay chỉ một vòng nhà hàng.
“Ồ, cậu có thể đoán mà. À, đây là những gì có được khi cậu dính với nơi này đúng không? Bobby gửi lời chào. Kidder”.
“Ồ, đúng rồi! Chúa ơi...” Tôi quên mất họ đã kết hôn. “Anh ấy sao rồi?”
“Vẫn là Bobby già chát thôi. Lúc nào rảnh thì cậu ghé chơi nhé. Nếu có thời gian. Chúng mình sống ở đường Fisher”.
Tôi có thể hình dung tiếng đồng hồ tích tắc ầm ĩ khi tôi ngồi trong phòng khách cùng Bobby và Kathy Kidder, cố nói điều gì đó. Phần lớn là Kathy sẽ đảm nhận cuộc trò chuyện, cô ấy luôn luôn như thế. Cô ấy thuộc kiểu người đọc to bảng hiệu giao thông hơn là âm thầm hiểu chúng. Nếu anh ấy vẫn là Bobby già thì vẫn là một người trầm lặng, nhã nhặn, một gã trai hiếm khi quan tâm đến chuyện gì và đôi mắt xanh lơ chỉ tập trung khi xoay quanh chủ đề săn bắn. Thời trung học, anh ta giữ lại tất cả móng guốc của đám nai săn được, luôn mang đôi cuối cùng trong giỏ, lôi chúng ra và gõ nhịp lên bất cứ bề mặt nào có thể. Tôi luôn cảm thấy chúng như tín hiệu morse của con nai đã chết, một tín hiệu cấp cứu thông báo cho đám nai trong tương lai.
“Nhân tiện, hai người dùng buffet phải không?”
Tôi gọi bia, làm gián đoạn mọi thứ trong giây lát. Kathy liếc nhìn đồng hồ sau lưng. “Ừm, chúng tôi không phục vụ cho đến tám giờ. Nhưng để tôi xem có xoáy được cho cô một chai không - vì tình bạn cũ nhá?”
“Chà, tôi không muốn cô gặp rắc rối đâu”. Nghe như Wind Gap có luật lệ uống rượu riêng vậy. Tám giờ chỉ là cách ai đó nghĩ ra để khiến bạn thấy tội lỗi thôi.
“Chúa ơi, Camille, nó sẽ là điều thú vị nhất xảy ra với tôi khá lâu rồi đấy”.
Trong khi Kathy tìm cách thó cho tôi một ít bia, Richard và tôi gắp đầy đĩa với phi lê gà chiên, hạt, khoai tây nghiền, và, trong trường hợp của Richard, là một muỗng thạch Jell-O đang tan ra trên đồ ăn của anh ta khi chúng tôi quay trở lại bàn. Kathy dè dặt đặt chai bia ở ghế tôi.
“Lúc nào cũng uống sớm vậy hả?”
“Tôi chỉ uống bia thôi”.
“Vậy, hai người định nói chuyện ở đâu?”, Meredith nói. Tôi đấu tranh xem có nên đuổi con bé đi không, vì lo là nó không biết lúc nào hay làm sao để ngậm miệng lại. Nhưng cậu ấy có vẻ cần người bầu bạn và tôi thì không muốn dọa cậu ấy sợ.
“Hai đứa ngồi ở đâu trong phòng khách cũng được”, tôi nói. “Chị sẽ đi lấy ít trà ngọt”.
Đầu tiên, tôi phóng lên lầu, nhét băng mới vào máy ghi âm và lắng nghe tiếng động từ phòng mẹ tôi. Hoàn toàn im lặng trừ tiếng quạt vù vù. Bà đang ngủ chăng? Nếu vậy, Alan nằm cuộn mình bên cạnh bà hay chỉ ngồi trên ghế ở bàn trang điểm sang trọng để nhìn bà? Thậm chí sau từng ấy thời gian, tôi không còn đoán về cuộc sống riêng tư giữa Adora và chồng bà. Đi ngang phòng Amma, tôi thấy nó ngồi nghiêm chỉnh trên thành ghế xích đu, đọc cuốn Các vị thần Hy Lạp. Từ khi về đây, tôi thấy con bé toàn đóng vai Joan d’Arc, vợ của Yêu Râu Xanh và Công nương Diana - tất cả đều là những nhân vật tử vì đạo. Rồi nó cũng sẽ tìm ra vai diễn đáng thương giữa các vị thần. Tôi để nó yên lặng như thế.
Tôi rót trà trong bếp. Sau đó, trong khi đếm đến mười, tôi ấn những chiếc răng nĩa vào mu bàn tay. Da tôi im bặt.
Trở vào phòng khách thì bắt gặp Meredith vắt chân mình trên đùi John, hôn cổ cậu. Khi tôi đặt khay trà lách cách xuống bàn, nó không hề ngừng lại. John nhìn tôi và từ từ quay đi.
“Hôm nay anh không vui gì cả”, cô bĩu môi.
“Vậy đó John, chị rất vui khi em quyết định nói chuyện với chị”, tôi bắt đầu. “Chị biết mẹ em đã rất miễn cưỡng”.
“Vâng. Mẹ em không muốn nói chuyện với ai cả, nhưng đặc biệt là... giới báo chí. Bà sống rất khép kín”.
“Nhưng em thì ổn đúng không?” Tôi giục. “Em mười tám, chị đoán thế”.
“Vừa qua mười tám”. Cậu ta nhấp trà một cách trang trọng, giống như đang lường chiếc muỗng trong miệng.
“Vì chị thực sự muốn là miêu tả em gái em cho độc giả”, tôi nói. “Cha của Ann Nash đã nói về em ấy và chị không muốn Natalie biến mất trong chuyện này. Mẹ em có biết em nói chuyện với chị không?”
“Không, nhưng sẽ ổn thôi. Em nghĩ chúng ta rồi phải đồng ý chuyện này sẽ bị phản đối”. Cậu ta cười ngập ngừng.
“Mẹ anh ấy là rất kỳ quặc khi liên quan đến truyền thông”, Meredith nói, uống ly của John. “Bà là người vô cùng kín đáo. Ý em là em thậm chí còn không rõ bà ấy có biết em là ai không, mà tụi em đã bên nhau hơn một năm rồi phải không?” Cậu gật đầu. Cô cau mày thất vọng, tôi đoán, khi cậu không thêm vào những chi tiết lãng mạn cho câu chuyện của họ. Cô bỏ chân ra khỏi đùi cậu, khoanh lại và bắt đầu mân mê thành ghế.
“Và chị nghe bây giờ em đang sống ở ngoài cùng gia đình Wheeler?”
“Nhà em có một chỗ ở phía sau, một căn nhà xe cũ”, Meredith nói. “Em gái em rất tức giận vì đấy từng là chỗ lui tới thường xuyên của nó và đám bạn hư hỏng. Trừ em gái chị. Em gái chị thật tuyệt. Chị biết em gái em, đúng không? Kelsey?”
Tất nhiên, từng mảnh ghép câu chuyện đều liên quan đến Amma.
“Kelsey lớn hay Kelsey nhỏ?” tôi hỏi.
“Cả hai. Thị trấn này có quá nhiều Kelsey. Con bé nhà em là con bé cao”.
“Chị gặp rồi. Bọn nó có vẻ thân thiết”.
“Tốt hơn là thế”, Meredith nói một cách chắc chắn. “Amma bé bỏng điều hành ngôi trường đó. Có mà ngu mới ở phe đối lập với con bé”.
Bấy nhiêu là quá đủ về Amma rồi, tôi nghĩ, nhưng những hình ảnh nó trêu chọc những đứa con gái xấu xí hơn ở khu tủ đồ cá nhân đập vào óc tôi. Năm hai trung học là khoảng thời gian rất tệ hại.
“Vậy thì, John, em đã thích nghi với chỗ ở mới chưa?”
“Anh ấy ổn”, Meredith chen vào. “Chúng em đặt tủ đựng vật dụng cá nhân cho anh ấy - mẹ em thậm chí còn đưa cho anh ấy một máy nghe CD”.
“Ô, thật à?” Tôi nhìn xoáy vào John. Đến lúc phát biểu rồi, anh bạn. Đừng có bẽn lẽn như con gái chứ.
“Em chỉ cần ra khỏi nhà ngay lúc này”, cậu nói. “Mọi người đều đã tới giới hạn, chị biết đấy, vật dụng của Natalie ở khắp nơi và mẹ em không cho ai chạm vào cả. Giày của em ấy ở sảnh và đồ bơi thì treo ở giá trong phòng tắm chung nên em phải thấy nó mỗi buổi sáng. Em không thể chịu được”.
“Chị có thể tưởng tượng được chuyện này”. Tôi hiểu và nhớ lại chiếc áo khoác màu hồng bé xíu của Marian vẫn treo ở tủ đồ trong phòng cho đến khi tôi học xong cao đẳ:10px;'>
“Tôi có thể nghe mùi cồn trong hơi thở khi cô bước vào, giấu dưới lớp mùi Certs - cây lộc đề?” Anh ta cười với tôi, như thể chỉ tò mò thôi chứ không có ý lên án gì cả. Tôi cá rằng anh ta rất mạnh mẽ khi thẩm vấn.
“Certs, có; rượu, không”.
Sự thật đó là lý do tôi đến trễ. Ngay khi lái ra khỏi bãi đỗ xe, tôi nhận ra hớp rượu mình vừa uống sau khi rời khỏi nhà Keenes cần thứ gì đó để che đậy nên đã đến cửa hàng tiện lợi cách đó vài dãy nhà để mua ít bạc hà. Mùi lộc đề.
“Okay, Camille”, anh ta nói nhẹ nhàng. “Đừng lo lắng. Đó không phải việc của tôi”. Anh cắn một miếng khoai nghiền được nhuộm đỏ trong Jell-O, và im lặng. Như thể hơi bối rối.
“Vậy, anh muốn biết gì về Wind Gap?” Tôi cảm giác như mình đã làm anh ta khá thất vọng, như kiểu bậc cha mẹ vô tâm thất hứa dẫn con đi sở thú trong ngày sinh nhật. Tôi sẵn sàng kể sự thật cho anh ấy, sẵn lòng trả lời không ngừng để anh vui lên - và tôi đột ngột tự hỏi có phải đó là lý do anh ta đề cập đến việc uống rượu của tôi ngay khi bắt đầu câu chuyện không. Một gã cớm thông minh.
Anh ta nhìn tôi chằm chằm. “Tôi muốn biết những vụ bạo lực. Mỗi nơi đều có sự căng thẳng của riêng nó. Nó có công khai không, hay bị che giấu? Nó dính líu tới nhóm người nào đó - đánh nhau ở quầy rượu, nhóm hãm hiếp - hay nó là cá thể, cá nhân? Ai dính líu tới nó? Ai là mục tiêu?”
“Chà, tôi không biết mình có thể đưa ra những tuyên bố chi tiết rà soát toàn bộ lịch sử các vụ bạo lực từng xảy ra ở đây không”.
“Kể những vụ bạo lực cô thật sự chứng kiến khi lớn lên ở đây đi”.
Mẹ tôi với đứa trẻ.
“Tôi thấy một người phụ nữ làm đau một đứa trẻ”.
“Phát vào đít? Đánh nó?”
“Bà ta cắn nó”.
“Ok. Trai hay gái?”
“Con gái, tôi nghĩ vậy”.
“Con của bà ấy à?”
“Không”.
“Tốt đấy, tốt đấy. Vậy là một hành động bạo lực cá nhân nhắm vào một bé gái. Ai liên quan đến nó, tôi sẽ điều tra thử”.
“Tôi không biết tên. Chắc là họ hàng của ai đó bên ngoài thị trấn”.
“Chà, phải có ai đó biết tên bà ta chứ? Ý tôi là, nếu bà ta còn ở đây, điều này đáng tìm hiểu thử”.
Tôi có thể thấy tay chân mình đang rời ra, trôi dập dềnh gần đó như khúc gỗ trong cái hồ đầy dầu. Tôi ấn mạnh đầu ngón tay vào răng nĩa. Chỉ riêng việc kể câu chuyện thành tiếng cũng làm tôi hoảng sợ. Tôi chưa từng nghĩ Richard muốn tìm hiểu chi tiết.
“Này, tôi nghĩ đây chỉ là hồ sơ tóm lược nạn bạo lực thôi chứ”, tôi nói, âm thanh trống rỗng ong ong phía sau tai. “Tôi không nhớ rõ chi tiết nào. Đó là một người phụ nữ tôi không biết và không biết bà ấy sống với ai. Tôi đoán là bà đã rời khỏi thị trấn”.
“Tôi nghĩ phóng viên thì không suy đoán”. Anh ta lại cười.
“Lúc đó tôi không phải phóng viên, tôi chỉ là một bé gái...”
“Camille, tôi đã làm khó cô, tôi xin lỗi”. Anh giật mạnh chiếc nĩa ra khỏi ngón tay tôi, cẩn thận đặt nó xuống bàn, quay về phía anh ta, cầm tay tôi lên và hôn. Tôi có thể thấy chữ son môi khắc sâu trong cổ tay phải mình. “Tôi xin lỗi, tôi không định làm thế. Tôi là một cảnh sát tồi”.
“Tôi thấy khó mà nói anh là một cảnh sát tồi”.
Anh nhăn răng cười. “Đúng, nói cho cùng thì cũng vì cái vẻ đẹp trai khốn kiếp!”
Chúng tôi cùng nốc rượu trong một lúc. Anh ta xoay hũ muối và nói, “Tôi có thể hỏi cô thêm vài câu được không?” Tôi gật đầu. “Vụ tiếp theo cô có thể nghĩ tới là gì?”
Mùi salad cá ngừ từ dĩa bốc lên nồng nặc khiến bụng tôi quặn lại. Tôi tìm Kathy để lấy thêm bia.
“Lớp Năm. Hai thằng nhóc dồn một bé gái vào chân tường trong giờ giải lao buộc con bé phải nhét ‘cây gậy’ của nó vào người”.
“Mà con bé không muốn? Chúng ép con bé à?”
“Ừm... cũng gần như vậy, tôi đoán thế. Chúng là kẻ chuyên bắt nạt học sinh khác, chúng bảo con bé làm, và nó làm”.
“Và cô thấy điều đó hay chỉ nghe thấy?”
“Chúng kêu vài đứa chúng tôi ra nhìn. Khi thầy giáo phát hiện, chúng tôi đã phải xin lỗi”.
“Xin lỗi con b cảnh sát, và họ biết sự thật trogn vòng một tiếng đồng hồ. Nó thậm chí còn tệ hơn với anh. Không ai thực sự nghĩ anh giết em gái mình”. John nắm lấy một lọn tóc Meredith và nhẹ nhàng luồn ngón tay mình nhẹ gốc tới ngọn. Từ kích thích ngẫu nhiên lóe sáng từ hông phải tôi. Tôi tin cậu bé. Cậu ta khóc ở nơi công cộng và kể những câu chuyện ngu ngốc về em gái mình và nghịch tóc bạn gái và tôi tin cậu. Tôi gần như có thể nghe Curry nhạo báng sự ngây thơ của mình.
“Nói đến những câu chuyện”, tôi bắt đầu. “Chị cần phải hỏi em điều này. Có thật là Natalie làm hại một đứa bạn học ở Philadelphia không?”
John cứng người, quay sang Meredith, và lần đầu tiên trông cậu không thoải mái. Cậu cho thấy tôi hình ảnh chân thật của cụm từ xoắn môi. Cả người nhảy dựng lên và tôi đã nghĩ cậu sẽ phóng ra cửa, nhưng cậu lại ngồi xuống và hít một hơi.
“Tuyệt. Đây là tại sao mẹ tôi ghét giới truyền thông”, cậu lầm bầm. “Có một bài báo về chuyện này ở quê nhà. Chỉ có vài đoạn nhưng nó viết Natalie như một con thú”.
“Vậy thì kể chị nghe chuyện gì đã xảy ra đi”.
Cậu nhún vai. Nghịch móng tay. “Chuyện xảy ra trong lớp nghệ thuật, mấy đứa nhỏ cắt giấy và vẽ tranh, và con bé kia bị thương. Natalie luôn là đứa bé nóng nảy, và cô bé này luôn luôn ra vẻ ta đây khi Natalie ở quanh đó. Và một lần Natalie tình cờ có cây kéo trên tay. Nó không giống một vụ tấn công có chủ đích. Ý em là, lúc đó con bé chỉ mới chín tuổi”.
Tôi thoáng nhớ lại hình ảnh Natalie, đứa trẻ căng thẳng trong bức hình gia đình Keene, đâm kéo vào mặt đứa bạn gái. Dòng máu đỏ tươi bất ngờ hòa lẫn bảng màu nước nhàn nhạt.
“Điều gì xảy ra với đứa bé?”
“Họ giữ được mắt trái. Mắt phải thì, ờ thì, hỏng”.
“Natalie tấn công cả hai mắt?”
Cậu đứng lên, trỏ xuống mặt tôi từ góc độ gần như chính xác với mẹ cậu đã làm. “Natalie thu mình lại hơn một năm để cố vượt qua điều đó. Con bé giật mình với những cơn ác mộng trong hàng tháng trời. Nó mới chín tuổi. Đó là một tai nạn. Tất cả chúng tôi đều thấy khủng khiếp. Cha tôi đã gây quỹ cho bé gái đó. Chúng tôi muốn rời đi để Natalie có thể bắt đầu lại. Đó là lý do vì sao chúng tôi tới đây - cha tôi nhận công việc đầu tiên ông có thể tìm được. Chúng tôi rời đi ngay trong đêm, như những kẻ tội phạm. Đến nơi này. Đến thị trấn chết tiệt này”.
“Bình tĩnh John, em biết anh đã có khoảng thời gian kinh hoàng như vậy”, Meredith thì thầm.
Cậu ta ngồi xuống, bắt đầu vùi đầu vào tay và khóc.
“Em không có ý nói mình rất hối hận khi đến đây. Ý em là con bé đã đến đây, giờ thì nó đã chết. Tất cả mọi người đã cố gắng giúp nó. Và nó lại chết”. Cậu thốt ra tiếng khóc, và Meredith miễn cưỡng vòng tay quanh cậu. “Ai đó đã giết em gái em”.
Sẽ không có buổi tiệc tối nào tối nay vì Cô Adora thấy không khỏe, Gayla thông báo với tôi. Tôi đoán cách mẹ tôi yêu cầu đệm chữ Cô trước tên bà và cố tưởng tượng cuộc trò chuyện diễn ra như thế nào. Gayla, người giúp việc giỏi nhất trong những gia đình danh giá nhất gọi tiểu thư của họ bằng tên trịnh trọng. Chúng ta đều muốn là những người tốt nhất đúng không? Đại loại thế.
Không biết cuộc cãi vã giữa tôi với mẹ hay với Amma mới là nguyên nhân của vấn đề, tôi cũng không rõ. Tôi đã nghe họ líu ríu như những con chim xinh đẹp trong phòng mẹ tôi, chính xác là Adora buộc tội Amma đã lấy xe golf đi chơi mà không được phép. Như tất cả những thị trấn nông thôn khác, Wind Gap bị máy móc ám ảnh. Hầu hết các gia đình đều sở hữu khoảng một chiếc xe rưỡi (phần rưỡi được tính cho những chiếc xe cổ lỗ xỉ hay một mảnh xe cũ kỹ nào đó, tùy theo người sở hữu là ai), cộng thêm thuyền, jet skis, mô-tô, xe kéo, và, ở thành phần thượng lưu, là xe golf, thứ mà đám trẻ không có bằng lái dùng để vi vu quanh thành phố. Thực tế điều này là trái luật, nhưng chẳng ai ngăn chúng. Tôi đoán mẹ đang cố gắng hạn chế sự tự do của Amma sau các vụ giết người. Tôi sẽ làm vậy. Cuộc cãi vã ầm ĩ như một vụ cò kè gần nửa tiếng đồng hồ. Đừng nói dối mẹ, con gái bé bỏng... Câu cảnh cáo rất quen thuộc đến nỗi nó khiến tôi nhớ lại cảm giác bất an trước đây. Thỉnh thoảng Amma cũng nên bị ép buộc như thế.
Khi điện thoại reo, tôi nhấc máy để Amma không bị mất đi động lực của mình, và rất ngạc nhiên khi nghe âm thanh êm dịu từ cựu đội trưởng đội cổ vũ, vốn là bạn cũ của tôi, Katie Lacey. Angie Papermarket tập hợp các cô gái cho Buổi Tiệc Sầu Muộn. Uống một lô rượu vang, xem phim buồn, khóc, tán chuyện. Tôi nên đến. Angie sống trong khu Giàu Xổi mới phất lên của thị trấn - những căn biệt thự to ở ngoại ô Wind Gap. Gần giống Tennessee. Từ giọng nói của Katie, nếu tôi nói ra điều đó thì có thể khiến cô ấy ganh tị hoặc tự mãn, hoặc cả hai. Katie là một trong những cô gái luôn muốn những gì người khác có, ngay cả khi không hề muốn.
Khi tôi gặp lại Katie và bạn cô tại nhà Keenes thì nhận thấy ít nhất mình phải ra ngoài dự một bữa tiệc tối. Hoặc là nó hoặc là viết cho xong cuộc nói chuyện của tôi với John, điều mà có thể khiến tôi buồn bã kinh khủng. Thêm nữa, như Annabelle, Jackie, và đám bạn vịt trời của mẹ tôi, những cuộc gặp gỡ thế này tiết lộ nhiều thông tin hơn hàng tá cuộc phỏng vấn thông thường.
Ngay khi cô dừng lại trước nhà, tôi nhận ra rằng Katie Lacey, giờ là Katie Bruker, theo đúng dự đoán, đã xoay xở rất tốt với bản thân mình. Tôi biết điều này từ việc cô chỉ mất năm phút đến đón tôi (nghĩa là nhà cô chỉ cách đây một dãy nhà) và chiếc xe đang lái một trong những chiếc SUV [4] ngu ngốc, to đùng, có rất nhiều tiện nghi và giá còn đắt hơn cả căn nhà của vài người khác. Ngay phía sau, tôi nghe tiếng máy DVD rúc rích Chương trình trẻ con mặc dù không có bóng dáng bọn trẻ trên xe. Phía trước là bảng định vị lặp đi lặp lại nội dung chỉ đường một cách không cần thiết.
Chồng cô, Brad Brucker, đang theo cha vợ học việc và khi Bố Già nghỉ hưu, anh ta sẽ tự kinh doanh một mình. Họ quan tâm đến những hóc môn làm tăng trọng đám gà với tốc độ khủng khiếp gây tranh cãi. Mẹ tôi luôn nhăn mũi khó chịu khi nghe chuyện đó - bà không bao giờ dùng bất kỳ thứ gì để đẩy nhanh tiến trình phát triển. Điều này không có nghĩa là bà tránh xa hóc môn. Những đám heo của mẹ tôi được chích hóa chất cho đến khi chúng mập mạp và đỏ hồng như những trái sơ-ri mọng nước, cho đến khi chân chúng không đỡ được cái bụng ục ịch nữa. Nhưng quá trình này được tiến hành chậm rãi hơn.
Bard Brucker là kiểu chồng sẽ sống ở nơi Katie bảo, thụ thai cho Katie khi cô yêu cầu, mua cho Katie ghế Pottery Barn khi cô muốn, và câm miệng những lúc khác. Anh ta thuộc dạng ưa nhìn nếu bạn nhìn đủ lâu và có dương vật to bằng ngón tay đeo nhẫn của tôi. Tôi biết điều này đầu tiên nhờ vào sự trao đổi cơ học khá nhẹ nhàng vào năm đầu tiên. Nhưng hiển nhiên những điều bé nhỏ vẫn tiến triển tốt. Katie đang ở cuối thai kỳ đầu của đứa con thứ ba. Họ vẫn cố gắng cho đến khi có được cậu con trai. Tụi này thực sự muốn có một thằng nhóc chạy quanh nhà.
Nói về tôi, chưa có chồng nhưng vẫn yên ổn! Nói về cô ấy, tóc mới, Chương trình vitamin mới, Brad, hai đứa con gái của cô, Emma và Mackenzie, Hội Phụ nữ ở Wind Gap, và công việc kinh khủng họ làm trong Lễ Diễu hành Lễ Thánh Patrick [4]. Rồi thở dài: mấy đứa con gái tội nghiệp. Phải, thở dài: câu chuyện của tôi về mấy bé gái tội nghiệp. Thực tế là cô cũng không quan tâm lắm, vì cô nhanh chóng quay lại đề tài Hội Phụ nữ và gần đây nó trở nên lộn xộn thế nào vì Becca Hart (tên thời con gái là Mooney) đảm nhiệm vai trò giám đốc hoạt động. Becca thuộc dạng không mấy nổi tiếng ở thời chúng tôi nhưng lại đột nhiên vươn tới vị trí ngôi sao khoảng năm năm trước, khi dính vào Eric Hart, có cha mẹ sở hữu Go-Kart, một công ty du lịch lướt sóng, đánh golf tại phần xấu xí nhất của Ozarks. Tình huống này khá đáng tiếc. Tối nay cô cũng sẽ có mặt và tôi tự thấy cô sẽ không hòa hợp được.
Căn nhà của Angie giống như những ngôi nhà mà lũ trẻ con hay vẽ: là hình ba chiều và khá chung chung. Khi bước vào phòng, tôi nhận ra mình không hề muốn ở đây đến mức nào. Đó là Angie, đã giảm 10 pound một cách không cần thiết kể từ thời trung học, cười dè dặt với tôi và quay lại chuẩn bị món nước xốt đun. Đó là Tish, người luôn đóng vai trò người mẹ nhí, luôn giữ tóc cho bạn khi bị nôn, và thỉnh thoảng khóc lóc rất kịch vì cảm giác không được yêu thương. Tôi nghe nói cô đã kết hôn với một gã ở Newcastle, một gã quái đản nhỏ con (theo tông giọng thì thầm của Katie) có cuộc sống vững chắc. Mimi cuộn mình trên ghế bành da màu sô cô la. Vẫn tươi rói như thời niên thiếu, vẻ ngoài của cô không hề chuyển sang dáng vẻ trưởng thành. Chẳng ai để ý. Mọi người đều nhìn cô theo kiểu “cô nàng nóng bỏng”. Để chứng minh điều này: gã trai to con của cô ta, Joey Johansen, một gã ngọt ngào ở đội bóng bầu dục năm cuối, đột nhiên đòi hỏi được cô gọi thân mật bằng Jo-ha (thực sự đó là tất cả những gì tôi nhớ về hắn ta). Becca đáng thương ngồi giữa họ, có vẻ phấn khởi nhưng vụng về, ăn mặc kệch cỡm theo kiểu gần giống chủ nhà (Không biết có phải Angie đã đưa Becca đi mua sắm không nhỉ?). Cô hăm hở mỉm cười với tất cả những ai thoáng nhìn mình, nhưng không ai thèm trò chuyện với côhể chơi trò gì đó hay ho trong thị trấn nhỏ này”.
Tôi nhướng mày.
“Kéo kẹo kéo? Bắt heo?” Anh ta đếm các trò chơi trên đầu ngón tay. “Tự làm kem? Chạy xuống Đường Chính với một trong những chiếc Shriners nhỏ xinh? Ồ, có hội chợ địa phương nào là lạ gần đây không - tôi có thể thể hiện một chút sức mạnh vì cô”.
“Thái độ đó chắc khiến dân địa phương vô cùng yêu mến anh nhỉ”.
“Kathy thích tôi”.
“Vì anh boa cho cô ấy”.
Chúng tôi dừng lại ở công viên Garrett, bị kẹt trong những chiếc xích đu quá nhỏ so với mình và đung đưa qua lại trong đêm tối oi ả. Đây là nơi người ta nhìn thấy Natalie Keene còn sống lần cuối cùng, nhưng không ai trong chúng tôi đề cập đến điều này. Băng qua sân bóng, đài phun nước bằng đá bắn lên những tia nước liên tục và sẽ không kết thúc cho đến khi lễ Lao động.
“Tôi thấy rất nhiều học sinh trung học tiệc tùng ở đây ban đêm”. Richard nói. “Gần đây Vickery quá bận đến mức không đuổi chúng đi được”.
“Thậm chí nó cũng đã như vậy khi tôi còn đi học. Uống rượu không phải là chuyện to tát ở đây. Tất nhiên là trừ ở Gritty’s”.
“Tôi thích nhìn cô ở tuổi mười sáu. Để tôi đoán, cô như đứa con gái hoang dã của người truyền đạo: có ngoại hình, tiền bạc, và đầu óc. Đấy là công thức đem lại rắc rối ở đây, tôi đoán thế. Tôi có thể hình dung cô ở ngay đằng kia”. Anh nói, chỉ về phía khán đài nứt nẻ. “Uống còn hơn tụi con trai”.
Đó là điều ít kinh khủng nhất mà tôi từng làm ở cái công viên này. Không chỉ là nụ hôn đầu tiên mà còn là lần mút dương vật đầu tiên của tôi, ở tuổi mười ba. Một đàn anh trong đội bóng chày lôi tôi vào rừng và kẹp chặt lấy tôi. Hắn ta đã không chịu hôn tôi cho đến khi tôi làm vậy và rồi hắn vẫn không hôn vì nơi mà miệng tôi đã tiếp xúc trước đó. Tình yêu tuổi trẻ. Không lâu sau đó là đêm hoang dại ở bữa tiệc của đội bóng, câu chuyện đã khiến Richard nổi giận. Lớp tám, bốn thằng con trai. Nhiều hơn bất cứ điều gì tôi từng làm trong mười năm qua. Tôi như thấy từ độc ác nóng rẫy bên xương chậu.
“Tôi có người để chia sẻ những trò vui”, tôi nói. “Bề ngoài và tiền bạc giúp anh có khởi đầu tốt đẹp ở Wind Gap”.
“Còn đầu óc?”
“Đầu óc thì giấu đi. Tôi có nhiều bạn nhưng không gần gũi ai cả, anh hiểu chứ?”
“Tôi có thể tưởng tượng được điều đó. Cô có thân thiết với mẹ mình không?”
“Không hẳn”. Tôi đã uống khá nhiều và mặt thì nóng bừng.
“Tại sao?” Richard xoay chiếc đu lại đối diện với tôi.
“Tôi chỉ nghĩ vài phụ nữ sinh ra không phải để làm mẹ. Và vài người thì sinh ra không phải để làm con gái”.
“Bà có bao giờ đau cô không?” Câu hỏi đó đánh gục tôi, đặc biệt là sau cuộc trò chuyện trong buổi ăn tối. Bà từng làm tôi đau chưa? Tôi chắc chắn rằng ngày nào đó tôi sẽ mơ về những ký ức có bà, cào cấu hay cắn xé hay cấu véo tôi. Tôi thấy như nó đã xảy ra. Tôi hình dung mình tự lật áo lên chỉ cho anh ta thấy những vết sẹo, gào lên, có, nhìn đi! Khoan dung.
“Đó là một câu hỏi kỳ quặc, Richard”.
“Tôi xin lỗi, cô có vẻ khá... buồn. Giận dữ. Hay gì đó”.
“Đó là dấu hiệu của người có mối quan hệ tốt đẹp với cha mẹ”.
“Tội lỗi”. anh cười. “Hay là tôi đổi chủ đề?”
“Ừ”.
“Okie, để xem nào... một cuộc trò chuyện nhẹ nhàng. Câu chuyện bên xích đu”. Richard nhăn mày để nặn ra ý tưởng gì đó. “Được rồi, màu sắc yêu thích của cô, vị kem yêu thích của cô và cô thích mùa nào nhất?”
“Xanh, cà phê, và mùa đông”.
“Mùa đông à. Không ai thích mùa đông cả”.
“Trời mau tối, tôi thích điều đó”.
“Tại sao?”
Vì điều đó có nghĩa là một ngày đã kết thúc. Tôi thích tính những ngày trôi qua trên lịch - 151 ngày đã qua và không có điều khủng khiếp. 152 ngày và thế giới vẫn chưa sụp đổ. 153 ngày và tôi không làm ai suy sụp. 154 ngày và không ai thực sự ghét tôi. Đôi khi tôi cảm giác mình sẽ không bao giờ cảm thấy an toàn cho đến khi có thể đếm những ngày cuối cùng của đời mình trên một bàn tay. Ba ngày nữa trôi qua và tôi không phải lo lắng gì về cuộc đời nữa.
“Chỉ vì tôi thích đêm tối”. Tôi sẵn sàng chia sẻ nhiều hơn, không nhiều lắm, nhưng nhiều hơn, và rồi một chiếc IROC vàng bị hỏng máy kêu rùn rùn đỗ cạnh đường và Amma cùng với đám bạn tóc vàng của nó ngồi đầy phía sau xe. Amma dựa vào cửa xe tài xế, trêu chọc thằng nhóc có mái tóc vàng dài dơ bẩn bết lại theo kiểu người ta có thể thấy ở một gã chạy một chiếc IROC vàng. Ba cô gái đứng cạnh con bé, hông lộ ra, đứa cao nhất quay mông về chúng và ưỡn người, vờ như cột lại dây giày. Động tác đẹp đấy.
Đám con gái lướt về phía chúng tôi, Amma vẫy tay một cách kỳ quặc để xua đám khói đen. Tôi phải thừa nhận rằng chúng là một đám trẻ nóng bỏng. Tóc vàng dài, khuôn mặt trái tim, và chân thon. Những chiếc váy ngắn với áo thun bé xíu khoe ra những vòng bụng trẻ con phẳng lì. Và ngoại trừ con bé Jodes, phần cổ áo quá cao và cứng nhắc nên chắc chắn là hàng độn, còn lại đều có ngực, đầy, săn chắc và chín rục. Tất cả được nuôi nấng bằng sữa, thịt bò, thịt lợn trong những năm đầu tiên. Tất cả những hóc môn chúng ta bơm vào đám vật nuôi. Không lâu sau sẽ sớm thấy những đứa trẻ sơ sinh lại có núm vú.
“Chào, Dick”. Amma gọi. Con bé đang mút một chiếc kẹo Blow Pop cực lớn.
“Chào các cô gái”.
“Chào Camille, biến em thành ngôi sao rồi à?” Amma hỏi, cuộn lưỡi xung quanh kẹo mút. Mớ tóc tết bím kiểu Alps đã biến mất cùng với đám quần áo nó mặc đến trang trại, đám quần áo bốc mùi, tất cả mọi thứ. Giờ thì nó mặc một chiếc áo dây và chiếc váy ngắn phủ qua đũng quần chừng một inch.
“Chưa”. Nó có làn da mịn màng, không sợ bị bôi bẩn hay nhăn nheo, gương mặt con bé quá hoàn hảo và vô tư như thể vừa được sinh ra. Bọn chúng có vẻ chưa xong việc. Còn tôi muốn chúng biến đi cho khuất mắt.
“Dick, khi nào thì anh sẽ chở tụi em đi dạo?” Amma hỏi, nhảy xổ vào đám đất dơ bẩn trước mặt chúng tôi, chân kéo lên làm thoáng lộ chiếc quần lót.
“Tôi sẽ làm điều đó khi bắt các em. Có lẽ tôi cũng phải bắt đám con trai đi cùng nữa. Đám con trai trung học là quá già so với các em đấy”.
“Họ không phải học sinh trung học”, con bé cao nói.
“Phải”, Amma khúc khích. “Họ bỏ học rồi”.
“Amma, em bao nhiêu tuổi?” Richard hỏi.
“Vừa qua mười ba”.
“Sao anh luôn luôn quan tâm quá nhiều đến Amma vậy?” con bé tóc màu vàng đồng xen ngang. “Tụi em cũng có mặt ở đây mà phải không. Chắc anh thậm chí còn không biết tên tụi em nữa là”.
“Camille, cô gặp Kylie, Kelsey và Kelsey chưa?” Richard nói, chỉ lần lượt vào con bé dáng cao, con bé tóc màu đồng, và con bé mà em gái tôi gọi là...
“Đó là Jodes”, Amma nói. “Có hai Kelsey, cho nên bạn ấy được gọi bằng họ. Để không bị nhầm. Đúng không, Jodes?”
“Họ cũng có thể gọi tớ là Kelsey nếu họ muốn”, cô bé lúc nào cũng nghe theo những mệnh lệnh giống như sự trừng phạt vì vẻ ngoài kém xinh xắn. Chiếc cằm mỏng manh.
“Và Amma là em cùng mẹ khác cha với cô, đúng không?” Richard tiếp tục. “Tôi không đến nỗi gà mờ nhỉ”.
“Không, anh có vẻ biết tất cả mọi thứ đó chứ”, Amma nói. Con bé nói với giọng rất quyến rũ, ngay cả khi tôi không cho rằng đó là câu nói mang hàm ý khác. “Vậy thì, hai người đang hẹn hò với nhau hay sao? Em nghe nói Camille đây là một cô gái rất nóng bỏng. Ít nhất là chị ấy đã từng như thế”.
Richard phá lên cười, có vẻ sốc. Chữ không xứng đáng nóng bừng trên chân tôi.
“Đó là sự thực, Richard. Ngày trước thì tôi đại loại thế”.
“Đại loại thế”, Amma mỉa mai. Hai đứa khác cười. Jodes vẽ trên đất những đường ngoằn ngoèo bằng một cây que. “Anh nên nghe những chuyện này, Dick à. Họ nói anh rất nóng bỏng. Hay có thể anh đã như vậy sẵn rồi”.
“Thưa quý cô, chúng tôi phải đi rồi, nhưng như mọi khi, chắc chắn luôn luôn có điều gì đó”. Richard nói, và nắm tay tôi để giúp ra khỏi xích đu. Nắm lấy nó, siết chặt hai lần khi bước đến chiếc xe.
“Chẳng phải anh ấy quá lịch sự sao”, Amma nói với theo, và cả bốn đứa cất bước theo chúng tôi. “Không thể giải quyết vụ án, nhưng có thể giành thời gian dìu Camille đến chiếc xe ngớ ngẩn của anh ta”. Bọn chúng đi sát bên cạnh, Amma và Kylie giẫm vào gót chân chúng tôi, theo đúng nghĩa đen. Tôi cảm thấy bệnh hoạn cuộn lên khi giày xăng đan của Amma lướt qua dây chằng gót chân. Rồi n&oacuc nở. Gương mặt cô biến dạng, sưng phồng và nhem nhuốc. Mascara đen vấy vào chiếc áo cô mặc.
“Chúng bắt Ann cho đám con trai xem... vùng kín của mình”, Angie nói.
“Chúng luôn bắt nạt những bé gái đó chỉ vì chúng hơi khác biệt”, Katie nói, chùi nước mắt một cách kỹ lưỡng bằng tay áo.
“Chúng là ai?” Becca hỏi.
“Hỏi Camille, cô ấy là người đưa tin cả vụ này”, Katie nói, nâng cằm - một cử chỉ tôi còn nhớ từ thời trung học. Nó có nghĩa là cô ta đang châm chích bạn, nhưng cảm thấy rất chính đáng. “Cậu biết em gái cậu kinh khủng thế nào, đúng không Camille?”
“Tớ biết đám con gái có thể xấu xí đến mức nào”.
“Nên cậu bênh vực nó?” Katie trừng mắt lên.Tôi thấy mình bị lôi vào ban chính trị của Wind Gap và hoảng sợ. Con gái đánh nhau bắt đầu đập thình thịch lên bắp chân tôi.
“Ôi, Katie, tớ không đủ hiểu nó để bênh vực hay phản đối nó”, tôi nói, giả bộ mệt mỏi.
“Có lần nào cậu từng khóc cho những bé gái đó chưa?” Angie nói. Bây giờ thì họ thành một nhóm, nhìn trừng trừng vài tôi.
“Camille chưa có con”, Katie nói một cách đạo đức giả. “Tớ không nghĩ cậu ấy cảm nhận được nỗi đau theo cách chúng ta đang cảm thấy”.
“Tớ cảm thấy rất buồn cho bọn trẻ”, tôi nói, nhưng nghe có vẻ giả tạo, như ứng viên trong cuộc thi sắc đẹp cầu mong cho hòa bình thế giới. Tôi có thấy buồn, nhưng rõ ràng nó lại có vẻ rẻ tiền với tôi.
“Tớ không cố ý tàn nhẫn”, Tish bắt đầu, “nhưng giống như nửa trái tim của cậu không hoạt động nếu cậu chưa từng có con. Nó luôn bị đóng kín”.
“Đồng ý”, Katie nói. “Tớ chưa từng thật sự là phụ nữ cho đến khi cảm nhận được Mackenzie bên trong mình. Ý tớ là, ngày nay có rất nhiều đề tài về việc tôn giáo mâu thuẫn với khoa học, nhưng với trẻ con thì cả hai phía đều đồng tình. Kinh Thánh nói cần phải ra hoa kết quả và sinh sôi, và khoa học thì, để tóm tắt lại, đó là lý do phụ nữ được sinh ra đúng không? Để sinh con đẻ cái”.
“Sức mạnh phụ nữ”, Becca thì thầm trong hơi thở.
Becca chở tôi về vì Katie muốn ngủ lại nhà Angie. Đoán rằng vú nuôi sẽ chăm sóc mấy đứa con cưng của cô ta vào sáng hôm sau. Becca nói vài chuyện đùa về nỗi ám ảnh làm mẹ của phụ nữ, và tôi tán đồng bằng những tràng cười nho nhỏ. Cậu nói thiệt là dễ, cậu đã có hai con. Tôi thấy vô cùng ảm đạm.
Tôi mặc áo ngủ sạch sẽ và ngồi thẳng đơ giữa giường. “Đêm nay không còn gì cho mày say sưa nữa”, tôi thì thầm. Tôi tự vỗ vào má và thả lỏng hai vai. Tôi gọi mình là cưng. Tôi muốn cắt lên thân mình: Đường lóe trên bắp đùi, dơ bẩn đốt cháy đầu gối. Tôi muốn khắc cằn cỗi lên da. Đó là cách tôi tồn tại, không dùng đến nội tâm. Trống rỗng và tinh khiết. Tôi hình dung xương chậu nứt nẻ của mình mở ra, để lộ một lỗ hổng sạch sẽ, giống như tổ của một con thú đã biến mất.
Những đứa con gái đó. Điều gì đang xảy ra với thế giới này? Mimi đã khóc, nhưng nó không đáng kể, lời than vãn quá quen thuộc. Nhưng lúc này tôi đang cảm nhận được nó. Có điều gì không ổn, ngay tại đây, vô cùng sai lầm. Tôi có thể hình dung Bob Nash ngồi bên giường Ann, cố nhớ lại điều cuối cùng ông nói với con gái mình. Tôi thấy mẹ Natalie, đang khóc khi cầm chiếc áo thun cũ của con bé. Tôi thấy mình, một đứa trẻ mười ba tuổi, tay cầm một chiếc giày hoa, khóc nức nở đến tuyệt vọng trên sàn phòng em gái đã chết. Hay Amma, một đứa trẻ-người lớn mười ba tuổi với cơ thể tuyệt đẹp và mong ước cháy bỏng được trở thành đứa bé mà hằng ngày mẹ mình vẫn than khóc. Mẹ tôi khóc lóc về Marian. Cắn đứa bé đó. Amma, bắt nạt những đứa yếu kém hơn, cười lớn khi nó và bạn bè cắt tóc Natalie, những lọn tóc rơi xuống sàn. Natalie, đâm vào mắt bé gái kia. Da tôi bắt đầu gào thét, tai ong lên với nhịp tim đập. Tôi nhắm mắt, vòng tay ôm lấy người, và thổn thức.
Sau mười phút úp mặt vào gối, tôi bắt đầu ngừng khóc, điểm lại những suy nghĩ vang trong đầu: những câu trích dẫn của John Keene có thể dùng cho bài báo, sự thật là hợp đồng thuê nhà của tôi ở Chicago sẽ hết hạn vào tuần sau, mùi táo chua lòm trong giỏ rác cạnh giường.
Và rồi, ngoài cửa, Amma nhẹ nhàng thì thầm tên tôi. Tôi cài nút áo trên cùng, kéo tay áo xuống và cho nó vào. Con bé mặc một chiếc áo ngủ hoa màu hồng, mái tóc vàng thả qua vai, chân trần. Con bé thật sự rất đáng yêu, không thể dùng từ nào tốt hơn.
“Chị đang khóc à”, con bé nói, có vẻ sửng sốt.
“Một chút”.
“Vì bà ấy à?” Từ cuối cùng nặng nề trầm xuống, tôi có thể hình dung nó tròn và nặng, lún sâu xuống gối.
“Một chút, chị nghĩ vậy”.
“Em cũng vậy”. Con bé nhìn xuống các phần còn sót lại của tôi: cổ áo ngủ, cổ tay áo. Con bé đang cố lướt qua những vết sẹo. “Em không biết chị đã tự làm tổn thương mình”, nó nói.
“Không còn nữa”.
“Vậy thì tốt, em nghĩ thế”. Con bé hơi lảo đảo ở cạnh giường. “Camille, có bao giờ chị cảm thấy những điều xấu sắp xảy ra không, và chị không thể ngăn nó? Chị không thể làm gì mà chỉ có thể chờ đợi?”
“Như một cuộc tấn công bất ngờ?” Tôi không thể không nhìn da con bé, nó quá mượt mà và ngăm ngăm, như một cây kem ấm áp.
“Không. Không hẳn”. Con bé nói như thể tôi trả lời sai câu đố và làm nó thất vọng. “Nhưng, dù sao thì, em mang cho chị một món quà”. Nó đưa ra một gói vuông bọc giấy và bảo tôi mở nó cẩn thận. Bên trong là một điếu thuốc được gói gọn gàng.
“Tốt hơn rượu vodka chị hay uống”, Amma nói, nhanh chóng biện hộ. “Chị uống nhiều quá. Cái này tốt hơn. Nó không làm chị buồn”.
“Amma, thực sự thì...”
“Em có thể nhìn những vết cắt của chị không?” Con bé cười e ngại.
“Không”. Im lặng. Tôi nhặt điếu thuốc lên. “Và Amma, chị không nghĩ em nên...”
“Em đã làm rồi, nên chị lấy hay không thôi. Em chỉ cố gắng tỏ ra dễ thương”. Con bé cau mày và xoắn góc áo ngủ.
“Cám ơn em. Thật dễ thương khi em muốn an ủi chị”.
“Em có thể dễ thương mà, chị biết đấy”, con bé nói, trán vẫn còn nhíu lại. Dường như nó đang rưng rưng nước mắt.
“Chị biết. Chỉ là chị tự hỏi sao bây giờ em lại quyết định nên đối xử tốt với chị”.
“Đôi khi em không thể. Nhưng ngay lúc này thì em có thể. Khi mọi người đều ngủ và mọi thứ im lặng, nó dễ dàng hơn”. Con bé vươn tay ra như con bướm trước mặt tôi, rồi buông xuống, vỗ nhẹ đầu gối tôi, và rời đi.
Chú thích:
[1] Câu chuyện cổ nổi tiếng của Pháp được viết bởi Charles Perrault, kể về một người giàu có có biệt danh là Râu Xanh, ông ta rất xấu xí. Râu Xanh cưới vài người vợ nhưng sau đó những người vợ này đều mất tích mà không ai hiểu nguyên do. Sau này, Râu Xanh cưới thêm một người vợ, khi đi ra ngoài, hắn giao cho cô một chìa khóa dặn cô được đi khắp nơi trong lâu đài trừ cánh cửa của chiếc chìa khóa này. Sau khi hắn đi, cô vợ tò mò mở cửa và nhận thấy đây là nơi hắn cất giữ xác những người vợ đã chết. Rất hoảng sợ cô bàn với chị gái mình tìm cách không để hắn phát hiện, nhưng sau cùng do chiếc chìa khóa dính máu, cô đã bị phát hiện và bị hắn nhốt lại chờ giết. Cuối cùng, với mưu mẹo của người chị và anh em trai, cô gái đã giết được Râu Xanh và thừa hưởng toàn bộ gia sản của hắn, sống sung sướng và cứu giúp người nghèo chung quanh.
[2] Một đôi vợ chồng đang mong có được một đứa con, sống bên cạnh một khu vườn có tường bao quanh vốn là của một mụ phù thủy. Người vợ đang khát khao được mang thai một đứa con mong đợi bấy lầu, để ý tới một cây rau rapunzel, mọc trong vườn và vô cùng mong muốn được ăn cây rau ấy, đến mức nếu không được ăn nó bà sẽ chết mất. Hai đêm đầu, người chồng trèo qua tường vào trong khu vườn ấy để hái rau cho vợ, nhưng tới đêm thứ ba, khi ông đang leo qua tường để về nhà, mụ phù thủy, tên là Dame Gothel, bắt được ông và quy cho ông tội ăn trộm. Ông van xin được tha, và người phụ nữ già đồng ý để ông đi, với điều kiện phải trao cho mụ đứa con sắp sinh sau đó của hai người. Tuyệt vọng, ông đành đồng ý. Khi đứa con gái được sinh ra, mụ phù thủy mang đứa trẻ đi và tự mình nuôi nấng, đặt tên em bé là Rapunzel. Rapunzel lớn lên trở thành cô bé xinh đẹp nhất thế gian với mái tóc vàng rất dài. Khi Rapunzel 12 tuổi, mụ phù thủy giam giữ nàng trong một tòa tháp sâu thẳm trong rừng, không có bậc thang hay cửa ra vào, chỉ có một căn phòng và một chiếc cửa sổ.
[3] Nguyên văn: speak in tongues - còn được hiểu là nói trong khi bất tỉnlh hay phát ngôn tình cờ mà người nói không có chủ đích, có thể bằng tiếng nước ngoài hay ngôn ngữ tự sáng tạo ra.
[4] Dòng xe thể thao đa dụng nhỏ.
[5] Một ngày lễ thánh lớn được chào mừng trên thế giới, đặc biệt là Giáo hội Ireland. Vào ngày 17 tháng Ba, các giáo dân thường đi lễ nhà thờ, mặc đồ xanh lá cây và bắt đầu mùa chay. aid=15665&chuongid=19')">Lời cám ơn ---~~~mucluc~~~--- ---~~~cungtacgia~~~---