Dịch giả: Ngô Đăng Tâm
Chương 52

    
UẦN LỄ THỨ NHÌ CỦA THÁNG CHÍN, MAGGIE lại cũng ngồi trong gian phòng đơn độc của mình, chiến đấu với những hồn ma xưa cũ đã từng là kẻ thù ghê gớm đối với nàng, đã từng bị hủy diệt di, nhưng rồi bây giờ lại ngoi đầu dậy.
Đã quá nửa khuya, mưa tiếp tục quật mạnh vào cửa sổ, mang theo những trận cuồng phong như gào rú. Sau ngày Lucy tới viếng một hôm, thời tiết bỗng nhiên thay đổi. Không khí nóng bức và lặng trang đã hoàn toàn tan biến, thay vào đó là những cơn gió buốt giá cắt da và những trận mưa rào từng chập. Thời tiết thay đổi quá đột ngột và bất thường, khiến cuộc hành trình dự định đã bị hoãn lại để chờ lúc thuận tiện hơn.
Tại các vùng Thượng lưu sông Floss, mưa dầm suốt ngày nầy qua ngày khác khiến các vụ gặt hái đành ngưng trệ. Và, bây giờ suốt hai ngày qua, mưa vẫn dằn dai ờ vùng hạ lưu nầy, các vị bô lão đã bắt đầu lo ngại và kể lại cho con cháu chuyên sáu mươi năm về trước, cũng một cảnh tượng thời tiết kỳ lạ nầy, cũng vào Tiết Thu Phân, một trận thủy tai kinh khiếp đã xảy ra, cuốn phăng chiếc cầu, chôn vùì làng mạc và thị trấn, khiến cả một vùng rộng lớn trở thành hoang địa tiêu tàn.
Thế nhưng đối với những người thuộc thế hệ sau, chỉ chứng kiến vài ba cơn lụt nhỏ, thì các mẫu chuyện của những mái tóc bạc phơ kia không có gì đáng lưu tâm. Riêng Bob Jakin thì vẫn tin vào vận số may mắn của mình nên không khỏi cười nhạo bà mẹ của y khi bà tỏ ra hối tiếc vì đã cất nhà ở bờ sông nhưng lại nhận định rằng nếu không ở gần sông thì chẳng sắm ghe thuyền làm chi và như thế khi lụt lội xảy ra thì biết lấy gì để đi tới những chỗ xa hơn tìm thực phẩm.
Tuy nhiên, vào những lúc quá khuya nầy thì cả những kẻ vô tư cũng như những người hay bận tâm lo lắng nhứt cũng đều đang chìm đắm trong giấc ngủ. Người ta hy vọng là hôm sau, trời sẽ bớt mưa đi, rồi đâu lại vào đấy, chẳng có gì ghê gớm xảy ra. Chính những người trẻ tuổi đã từng biết như vậy qua bao lần kinh nghiệm kia mà! Vã lại đặt trường hợp tai biến có nguy hại thế nào đi nữa thì chỉ cùng lắm là bờ sông ở hạ lưu sẽ bị vỡ đi và nước sẽ tràn lên vào các thôn xóm thấp, và kết cuộc chỉ có những kẻ quá nghèo bị hại thôi, nhưng rồi họ sẽ được các ủy ban cứu trợ lo cho.
Thôn xóm đều đã ngủ vùi: quá nửa khuya rồi còn gì nữa. Phải, tất cả đều đã ngủ, chỉ trừ có Maggie và một vài người nào đó mang tâm sự não nề thôi. Nàng ngồi trong gian phòng khách nhỏ nhìn ra hướng bờ sông, với một ánh nến lung linh. Hầu hết cảnh vật trong phòng chìm trong bóng tối, chỉ trừ một lá thơ nằm ngay ở mặt bàn phía trước nàng. Bức thơ vừa nhận được sáng nay là một trong những lý do khiến nàng chưa ngủ được không còn ý thức được thời gian - cũng chẳng cần ngơi nghỉ- không một hình ảnh nghĩ ngơi nào đến với nàng, ngoại trừ sự an nghỉ xa diệu vợi mà từ đó nàng sẽ không bao giờ còn thức giấc nữa để trở về với cuộc sống lắm chông gai ở cõi trần nầy.
Hai hôm trước khi nhận được thơ, nàng đã tới Thánh đường lần cuối. Kể từ hôm đó, những trận mưa dai dẵng đã cầm chân nàng mãi trong nhà, nhưng cũng còn có một nguyên nhân khác nữa.
Thoạt tiên, mục sư Kenn chẳng bận tâm mây đôi với những lời bóng gió có ác ý bêu riêu ông với Maggie, tuy nhiên, ông đã phải hoàn toàn chú trọng tới vấn đề nầy, vì lẽ mới đây, một tín đồ trong giáo phận ông đã nặng lời bày tỏ sự bất bình của y, cho rằng làm như thế là nguy hại đến thanh danh của giáo khu. Mặc dầu nhận thấy rằng mọi sự đàm tiếu đều quá đáng và ghê tỡm, nhưng với trách nhiêm đặc biệt lớn lao của ông đối với toàn thể tín đồ trong địa phận mình, ông đành phải chọn lựa con đường lẫn tránh «sự xuất hiện » của quỷ dữ một «sự xuất hiện » mà tầm quan trọng của nó tùy thuộc vào khối óc của từng người. Dĩ nhiên là đối với những đầu óc thấp kém và thô lậu hơn thì «sự xuất hiện » đó có một tầm vóc lớn lao hơn. Có lẽ ngại rằng uy tín của mình sẽ bị tổn thương nếu tiếp tục bất chấp những sự phê phán thiễn cận kia, có lẽ vì quan tâm đến trách vụ của mình nên cuối cùng, ông đành nhượng bộ dẫu rằng nhượng bộ là cả một sự khổ đau đối với ông.
Thế là mục sư Kenn đi tới quyết định khuyên Maggie phải rời khỏi thành phố St Ogg’s nầy một ít lâu, và ông đã thực hiện nhiệm vụ khó khăn đó với tất cả sự tế nhị. Ông chỉ dám dùng những từ ngữ mơ hồ để chỉ cho Maggie biết rằng việc ông muốn giữ Maggie ở lại đã phát sinh mối bất đồng giữa ông và các tín hữu. Ông yêu cầu nàng cho phép ông viết thơ giới thiệu tới một giáo hữu của ông để người nầy nhận làm giáo viên kèm trẻ cho gia đình ; hoặc nếu không, ông chắc chắn sẽ tìm ra cho nàng một chổ mà ông tin rằng rất tốt đối với một thiếu nữ.
Maggie đã ngồi nghe với đôi môi run run, và chỉ có thể nói được những tiếng yếu ớt, nhẹ như hơi thở «Rất cám ơn ông» rồi ra về dưới cơn mưa, với một tâm trạng sầu thảm đơn côi hơn bao giờ hết. Nàng sẽ là một kẻ lang thang cô độc, nàng sẽ đi giữa những khuôn mặt xa lạ để họ nhìn ngắm nàng với đôi chút thắc mắc - Những ngày sắp tới đó làm sao có thể là nguồn vui được. Nàng phải bắt đầu một cuộc sống mới, trong đó nàng phải cố ngoi lên để chấp nhận những tư tưởng mới - và hỡi ơi, thật chán nãn vô cùng! Trong cuộc sống lang thang làm gì có được một căn nhà, một sự giúp đỡ nào? Ngay cả những người thương hại nàng hiện cũng đã bắt buộc tỏ ra cứng rắn.
Nhưng nàng có cần phải kêu ca không? Có cần phải co rút lại như thế để tránh những nỗi khỗ ãi của cuộc đời, mà mình nhận thấy có thể làm nhẹ bớt gánh nặng của những kẻ đáng thương, và biến sự say mê lầm lẫn kia thành một sức sống mới của tình thương xả kỷ hay không? Trọn hôm sau, nàng ngồi luôn trong gian phòng đơn độc, với khung cửa sổ đục mây mờ và ướt át mưa, miên man nghĩ tới những ngày tương lai đó, và tự chiến đấu để tạo cho mình sức kiên trì.
Và sang ngày thứ ba - ngày mà nàng ngồi với bức thơ trước mặt.
Đó là thơ của Stephen. Chàng vừa từ Hòa Lan về tới, hiện đang có mặt tại Mudport nhưng không một bạn bè nào hay biết cả. Cũng chính tại nơi trú ngụ ở Mudport, Stephen ngồi viết gởi về cho nàng, nhờ một người thân tín tại St Ogg’s chuyền trao. Từ đầu, tới cuối lá thơ là một tiếng than trách vô cùng thống thiết: một tiếng than, oán trách sự hy sinh vô bổ của chàng - và của chính nàng, oán trách về ý niệm của nàng đã làm sụp đồ hết hy vọng của chàng - những hy vọng của người mà nàng yêu, và đã yêu nàng say đắm, như một sự tôn thờ chưa hề có một người đàn ông nào dâng hiến cho một người đàn bà tới mức đó của đời mình.
« Họ đã viết cho anh, bảo rằng em sắp thành hôn với ông Kenn. Làm như anh có thể tin được vậy! Có thể họ đã thêu dệt một vài điều gì đó về anh trước mặt em. Có thể họ bảo anh đang «du lịch». Thân xác anh đã kéo lê từ nơi nầy sang nơi khác, nhưng chính anh thì không bao giờ rời khỏi cái nơi xót xa đau khổ mà em đã bỏ anh - nơi mà anh đã giận như điên như dại khi nhận ra em đã bỏ đi rồi.
« Maggie ơi! Còn có ai đau xót bằng anh nữa? Còn có gì nhục nhã bằng? Còn ai nữa, ngoài anh ra đã từng bị cái nhìn yêu đương tha thiết ấy đốt rụi cả linh hồn, đến không còn một hình ảnh nào khác hơn em có thể hiện ra nơi đó? Maggie, hãv ban cho anh một lời gọi trở về với em - hãy gọi anh trở về với em trở về cùng sự sống và những gì tốt đẹp! Anh đã mất hết cả hai rồi. Chẳng còn gì đáng bấu víu nữa cả, anh hoàn toàn dửng dưng với mọi vật chung quanh. Hai tháng đi qua chỉ càng làm cho anh nhận chân hết sức rõ ràng rằng, mình không còn gì để sống, nếu bên cạnh chẳng có em. Hãy viết cho anh chỉ võn vẹn thế nầy thôi: « Hãy trở về!» Chỉ trong hai hôm là anh sẽ có mặt bên em. Maggie, chẳng lẽ em đã quên đi mất những giờ mình sống bên nhau? - trong tầm mắt nhìn nhau - trong khoảng cách gần nhau? - Nghe nhau nói những tiếng yêu thương? »
Ngay khi mới đọc thơ, Maggie tưởng chừng như cơn sóng lòng thật của nàng đã dâng lên. Trước lối vào của một hang động âm u, chúng ta thừa can đảm để quay lưng về phía ánh sáng của mặt trời ; nhưng bây giờ, sau khi đã vào sâu trong vùng u tối và bắt đầu cảm thấy chán chường, mệt mỏi, ta sẽ phải làm gì khi bỗng nhiên lại có một lỗ hỏng mở ra ở phía trên như mời mọc ta trở về ánh sáng? Cái nhảy tung của sự thèm khát tự nhiên bị khổ đau dồn nén lâu ngày bao giờ cũng rất mãnh liệt.
Luôn nhiều giờ, Maggie có cảm tưởng là cuộc chiến đấu nội tâm của mình đã hoàn toàn vô hiệu. Luôn nhiều giờ bất cứ ý tưởng nào được nàng cầu viện đều cũng bị đánh bật đi trước hình ảnh Stephen đang khắc khoải trông chờ lời gọi ngắn gọn của nàng thôi. Nàng không hề đọc thơ mà chính thật là đã nghe Stephen nói lên những lời đó, và âm tiết của chàng đã khiến cả người nàng run rẩy. Suốt hôm trước, đầu óc nàng chỉ chứa toàn viễn ảnh của một tương lai đơn lẻ, trong đó nàng phải gánh lấy hối tiếc và chỉ có thể kiên trì với lòng tin vào chính mình thôi. Nhưng bây giờ - nằm sát tầm tay - giống như một lời kêu gọi bên tai - là một hình ảnh tương lai khác, trong đó mọi sự chịu đựng gian lao và gắng sức được biến thành những nếp sống thần tiên đặt nền tảng trên sức mạnh của yêu đương.
Thế nhưng, không phải sự hứa hẹn vui tươi tràn ngập đó đã làm thành sức mạnh quyến rủ mãnh liệt đối với Maggie mà chính là cái giọng thảm khổ, bi thiết của Stephen, chính sự nghi ngờ đối với quyết định trước kia của mình đã làm cho cán cân tình cảm bị nghiêng đi, khiến nàng đã một lần đứng vụt lên, lấy giấy viết ra, viết ngay ba chữ: «Hãy trở về!»
Tuy nhiên, ngay khi tới sát hành động quyết định, đầu óc nàng bỗng như tê liệt, và tâm trạng mâu thuẫn của những ngày tháng trong quá khứ vụt trở về. Không, nàng phải đợi chờ ; nàng còn phải nguyện cầu. Nguồn ánh sáng mà nàng đã đánh mất đâu đây có thể sẽ lại chói lòa trong tâm trí: nàng - có thể sẽ cảm nghĩ như bao nhiêu ngày tháng đả đi qua - cái ngày mà nàng đă bỏ đi, đã từ chối tình yêu trong khoảnh khắc mà nghị lực hoàn toàn chiến thắng. Phải rồi nàng có thể sẽ cảm nghĩ y hệt như lúc có Lucy bên cạnh, như lúc bức thơ của Philip làm rung động tất cả những kỷ niệm êm đềm.
Maggie vẫn ngồi yên, mãi quá khuya, không một chút động đậy qua điệu bộ, cũng không một gợn nhẹ trong tâm não, nàng cứ ngồi như thế đợi chờ nguồn sáng trở về. Những dòng chữ trong quyển sách cũ kỷ mà nàng đã học thuộc lòng từ lúc bé bỗng trở lại trên môi và biến thành những tiếng thì thầm chìm lấp giữa âm thanh gào rú của gió mưa:
« Ta đã nhận lấy thập tự giá, ta đã nhận lấy nó từ tay con, ta sẽ mang lấy nó, mang cho tới khi ta chết, bởi vì chính con đã giao nó cho ta.
Rồi có tiếng như nấc nghẹn tiếp theo:
« Hãy tha thứ cho em, Stephen ! Mọi việc rồi sẽ qua đi. Rồi anh sẽ trở về với Lucy.»
Nàng lấy lá thơ, đưa vừa ngọn nến. Sáng mai, nàng sẽ viết cho chàng những lời vĩnh biệt cuối cùng.
«Ta sẽ mang lấy nó đến khi ta chết... Nhưng còn bao lâu nữa cái chết mới tới đây? Mình hãy còn quá trẻ và lành mạnh.. Làm sao mình có đủ kiên nhẫn và nghị lực? Mình sẽ bị sa ngã hay không? - và sẽ còn chịu đựng những thử thách nào? »
Cùng một lúc với lời than tuyệt vọng, Maggie quỳ thụp xuống bên bàn, cúi mặt, hồn lâng lâng bay bổng tới « Lượng thương xót trên cao...» Lạy Chúa, nếu đời con còn phải kéo dài hơn nữa, xin cho con sống để làm những điều thánh thiện và an ủi.
Ngay lúc đó, Maggie bỗng thấy lạnh buốt nơi gối và bàn chân. Nước từ ngoài đổ vào. Nàng đứng phắt lên, nước đang cuồn cuộn chảy qua khe cửa. Nàng hiểu ra ngay lụt đã tới.
Tâm trạng phiền khổ mà nàng đã gánh chịu trong suốt mười hai giờ qua dường như đã giúp cho nàng hoàn toàn bình tĩnh. Không một tiếng la hốt hoảng, nàng cầm nến hối hả lên lầu gọi Bob Jakin. Cửa phòng để mở, nàng đi thẳng vào, lay anh ta dậy:
- Bob, lụt đã tới rồi, nước tràn vào nhà! Dậy coi mấy chiếc thuyền ra sao!
 Nàng đốt một ngọn nến nửa cho Bob, trong khi vợ y ôm chầm lấy đứa bé, cuống quít. Không chần chờ được nữa, Maggie chạy vội trở xuống xem mực nước đã tới đâu. Nước đã ngập hết một bực thang. Giữa lúc đang bối rối trước cơn nước dâng quá mau, nàng bỗng giựt mình vì một tiếng động vang ầm bắn tung khung cửa sổ... rồi nước tràn qua đó. Maggie gọi lớn:
- Thuyền đâm vào cửa sổ, Bob, xuống mau chuẩn bị!
Và không một chút run sợ rụt rè, nàng phóng xuống nước, lúc bấy giờ đã ngang tới gối, rồi giữa ánh sáng nhạt nhòa của ngọn nến, nàng leo lên bệ cửa sổ, bò vào thuyền. Bob cũng vừa tới nơi, chân không giầy vớ, với một chiếc đèn lồng trên tay. Vừa lên chiếc thuyền có Maggie, anh ta rối rít:
- May quá, cả hai chiếc thuyền đều có đây, không bị đứt giây...
Và anh ta lần qua chiếc thuyền kia, sắp đặt lại dầm chèo. Tiếng của anh ta lạc đi trong âm thanh hỗn loạn:
- Nước lên mau quá, chắc chắn chỉ chút nữa là ngập luôn mấy phòng trên nhà thấp quá, bây giờ tôi phải đem Prissy, đứa nhỏ với mẹ tôi ra... Không thể ở trong nhà được... nhưng còn cô...
Anh ta bỗng ngưng ngang, nhìn đăm đăm vào Maggie đang đứng sững dưới mưa, với mái chèo trên tay, mái tóc huyền ướt đẫm.
Maggie không nói được gì, một đợt nước vừa lùa qua hung hản, cuốn cã hai chiếc thuyền ra xa khỏi lòng sông.
Ngay trong những giây phút đầu tiên, Maggie chẳng cảm xúc gì cũng chẳng nghĩ ngợi gì mà chỉ thấy như mình bị cuốn lôi ra khỏi sự sống nhiều khổ lụy, đang ở trên ngưỡng cửa sự chết... Không hề bị đớn đau... và nàng đang ở một mình với Chúa trong bóng tối.
Toàn thể sự việc diễn ra quá mau -như trong mộng - khiến mọi sợi dây liên hệ với những ngày sống đã qua như bị cắt đứt cả đi. Nàng thẩn thờ ngồi xuống, thẩn thỉr nắm lấy mái chèo, không còn biết hiện cảnh của mình ra sao nữa. Nhưng rồi nàng cũng chợt tỉnh ra vì trời bỗng ngưng đổ mưa. Nàng nhận thấy một vật lờ mờ chia đôi vòm trời u ám và mặt nước mênh mông. Nàng đã bị nước cuốn quá xa rồi - đó là lời mời gọi đáng sợ nhứt của Thượng đế (như cha nàng thường nói tới) - và cũng là chuyện đã từng biến thành ác mộng trong thời kỳ thơ ấu của nàng. Ý nghĩ đó khiến nàng chợt nhớ tới nhà mình - nhớ tới Tom, tới mẹ và những người đã cùng nghe cha nàng nói về câu chuyện mời gọi đáng sợ kia.
« Lạy Chúa, con đang ở đâu đây? Đường nào đưa tới nhà con.
Nàng bật khóc giữa cô đơn áo não.
Chuyện gì đã xảy ra tại nhà máy xay? Đã có lần thủy tai suýt hủy diệt nơi đó rồi. Chắc mẹ và anh nàng đang nguy khốn không ai tiếp cứu. Ôi, họ ở đó chỉ có hai người phải làm sao?... Trước mặt nàng vụt hiện ra hai khuôn mặt thương yêu đang dõi mắt vào bóng tối nhưng chẳng thấy một ai.
Bây giờ, thuyền đã ra nơi mặt nước êm ả - có lẽ là đã quá xa các ruộng đồng ngập lụt. Maggie nhìn vào trời đất mông lung, cố tìm một vật nào đó để định hướng nhà mình.
Ồ, mặt nước mênh mông và vòm trời đầy mây đang vén lên... từ từ làm nỗi bật những bóng đen: Phải rồi, nàng bị trôi dạt vào đồng ruộng - kia là những tàng cây, con sông nằm ở đâu? Nhìn ra sau, một dãy cây cối nhô lên và phía trước là không có gì cả - vậy là dòng sông ở ngay phía trước.
Nàng cầm chèo lên, bắt đâu với hy vọng ngập tràn. Dường như bình minh đã lên mau hơn nàng tưởng, nàng đã có thể nhìn thấy bóng dáng lờ mờ của bọn gia súc được lùa lên trên cao để tránh lụt. Nàng tiếp tục bơi theo nhịp ánh sáng ban mai, quần áo dán sát vào da thịt, tóc bị gió thổi tung nhưng nàng không còn cảm nhận được gì nữa cả - ngoại trừ niềm phấn khởi gia tăng cho sức khoẻ để cố hướng thuyền đi. Cùng với ý nghĩ có thể cứu được hai mạng người ruột thịt của mình, nàng cũng nôn nao ý tình hòa giải với Tom: còn sự cãi vã nào, điều xích mích hay bất đồng nào lại có thể tồn tại được khi người ta cùng đứng chung bên bờ vực thảm họa kinh hoàng, khi mà mọi nếp sống bên ngoài của cuộc đời không còn cần thiết nữa, và người ta lại phải quay về với những nhu cầu cần thiết của thời cổ sơ? Maggie đã hoàn toàn quên khuấy những cử chỉ lạnh lùng, tàn nhẫn của anh mình và chỉ nuôi một hy vọng duy nhất, một hy vọng không gì lay chuyển nổi là hai anh em sẽ sớm đoàn tụ với nhau.
Từ xa, một khối đen ngòm to lớn hiện ra, và gần hơn, Maggie đã nhận thấy triều lưu của dòng sông. Các khối đen đó, đúng rồi, chính là St Ogg’s. Thế là đủ lắm rồi, bây giờ nàng có thể biết phải nhìn về phía nào để nhận diện những chòm cây quen thuộc - những cây liễu xám, những cây dẽ giờ đã trờ vàng - và phía trên chúng là mái nhà thân yêu! Nhưng, hiện thời, chẳng có gì tụ lại thành hình dáng hay màu sắc mà chỉ có mờ nhòa, u ám.
Sức khoẻ lại được như tăng cường, nàng cố gắng lái thuyền đi vào dòng nước con sông Floss, nếu không nàng sẽ chẳng bao giờ vượt qua nổi con sông ngánh Ripple để về được tới nhà. Đó là tâm trạng của nàng trong khi nàng tưởng tượng càng lúc càng rõ ràng hơn tới cảnh vật quanh nhà.
Nhưng, có lẽ thuyền đã bị cuốn khá xa rồi và nàng không sao có thể trở về với dòng sông được nữa. Lần đầu tiên, từ nhiều giờ qua, nàng cảm thấy sợ hãi, nhưng không còn cách nào nữa cả, không thể ngập ngừng và cuối cùng, thuyền nàng đã tới dòng sông.Thuyền lướt mau hơn, dễ dàng hơn. Ánh mắt nàng cũng đã lờ mờ nhận ra bóng dáng mà nàng tin là những thân cây quen thuộc với mái nhà yêu quý. Nàng chẳng còn cách dòng nước đục bùn của con sông ngánh Ripple bao xa nữa.
Chúa ơi! Có những khối gì đen ngòm đang lều bều trôi trên đó, những cái khối đáng sự đó có thể ập vào thuyền. Ôi, những khối gì kia?
Tim Maggie bắt đầu đập loạn. Nàng thừ người ra vì quá sợ trong khi thuyền tiếp tục trôi đi. Nhưng, cơn hãi hùng cũng qua mau khi những kho vựa của thành phố St Ogg’s hiện ra. Thế là nàng đã vượt qua cửa sông Ripple. Và, bây giờ, nàng phải vận dụng toàn lực, phải hết sức khéo léo để đưa thuyền ra khỏi dòng nước cuốn. Nàng đã nhìn thấy chiếc cầu sập đổ những cột buồm của một con tàu nào đó ở xa trên đồng ruộng chìm sâu dưới nước. Nhưng chẳng có một chiếc thuyền nào trên dòng sông.
Maggie cương quyết đứng lên, xử dụng mái chèo; nhưng thủy lượng dâng tràn và sức chảy xiết của dòng sông lại cuốn nàng ra xa khỏi cây cầu. Nàng vẳng nghe tiếng người nào đó từ một khung cửa sổ gọi to, dường như nói với nàng. Mãi tới lúc gần Tofton, nàng mới lái thuyền ra khỏi được dòng nước cuốn. Rồi, sau một cái nhìn vội vàng về phía nhà của dượng Deane nằm ở cuối sông nàng cầm cả chèo, cố sức bơi mau qua những cánh đồng ngập nước, tiến về nhà máy.
Màu sắc đã bắt đầu hiện rõ, nàng nhận ra mình đang băng đi trên những cánh đồng Dorlcote, nàng cũng đã thấy khá rõ bóng dáng của các thân cây, cùng những tàng tùng trên đồi Scotch ở về bên phải - và những cây dẽ bên nhà, ôi chúng đã bị chìm dưới nước quá sâu! Và mái ngói nhà máy xay, đâu rồi? Những mảnh khối nhấp nhô trôi trên sông Ripple là gì? A, không phải là ngôi nhà của nàng đâu! Nhà nàng vẫn còn kia - vẫn đứng vững mặc dầu bị ngập trọn từng dưới...
Không còn nổi vui mừng nào hơn được nữa. Maggie cặp thuyền vào phía trước nhà. Thoạt tiên, nàng chẳng nghe một tiếng động nào cả, chẳng thấy một bóng hình di chuyển. Thuyền nàng đang ở ngang dãy cửa sổ từng trên. Nàng thất thanh:
- Tom, đâu rồi! Má ơi, má đâu? Maggie đây!
Từ cửa sổ gác thượng, có tiếng Tom vọng ra:
- Ai đó? Có thuyền sẵn đó không?
- Em đây, Tom — Maggie đây, Má đâu rồi?
- Má không có nhà đi Garum từ hôm kia. Để anh xuống cửa sổ phía dưới.
Vừa mở cửa sổ ra, Tom đã hết sức ngạc nhiên:
- Có một mình hả, Maggie?
- Dạ. Chúa đưa em về tới anh. Lên mau đi! Còn ai nữa không?
Tom lên thuyền
- Không. Chắc người quản lý chết chìm rồi. Một phần của nhà máy đổ ụp, anh nghe có tiếng cây ngã và gạch đá. Anh gọi lớn nhiều lần nhưng không có tiếng trả lời. Đưa chèo cho anh, Maggie!
Mãi tới khi lái thuyền ra khá xa, Tom mới quay lại nhìn thẳng Maggie và nhận ra mọi việc. Bao nhiêu cảm nghĩ cùng đổ về một lúc với một sức mạnh kinh hồn - tựa như một cuộc xuất thần. Bao nhiêu sự việc tiềm ẩn từ trong các góc tối của cuộc sống bỗng hiện rõ lên khiến Tom ngẩn ngơ chẳng nói một lời nào.
Hai anh em im lặng nhìn nhau: ánh mắt Maggie rực tràn sức sống: ánh mắt Tom lờ mờ hối hận. Cảm nghĩ bao giờ cũng dễ dàng hơn nói nên lời. nhưng cuối cùng rồi đâu đó cũng bật lên được một âm thanh - một tiếng kêu của thời nhỏ dại:
- Maggie!
Maggie nghẹn ngào, sung sướng. Mãi một lúc lâu nàng mới nói được:
“Minh tới nhà Lucy nghe, anh? Phải biết coi Lucy có được an toàn không rồi mình tới tiếp cứu những người còn lại.
Tom chèo không biết mỏi, dĩ nhiên là phải nhanh hơn Maggie nhiều. Chẳng mấy lúc, thuyền đã trở lại dòng sông, rồi tới Tofton.
Maggie nhận định:
- Ngôi Park House vẫn còn cao hơn mực nước. Chắc họ đã đưa Lucy tới đó.
Rồi không ai nói với ai một lời nào nữa cả ; họ đang ở trong một tình trạng nguy hiểm mới. Một vài phần băng gỗ của các nhà máy bị đổ sụp hiện lều bều trên mặt sông. Mặt trời đã lên cao, quang cảnh điêu tàn của trận thủy tai khủng khiếp trải dài chung quanh họ - quá rõ ràng nhưng cũng quá dễ nhận ra sự nguy hiểm của chính minh đối với những khối lớn bập bềnh trên mặt nước. Một đám đông trên một chiếc tàu đang cố len lỏi giữa những nhà cửa bị ngập lụt tại Tofton, không ngớt kêu lớn:
- Lái thuyền ra khỏi dòng sông, mau đi!
Nhưng Tom không thể nào làm ngay điều đó được, trong khi tử thần hiện ra trước mắt. Những mảnh gỗ to lớn không biết từ đâu đã hợp nhau thành một tảng khổng lồ đang trôi tới... Tom kêu lớn, giọng khàn lạc:
- Nó tới, Maggie
Rồi chàng, buông chèo, hốt hoảng phóng tới ôm chầm lấy em mình.
Khoảnh khắc kế tiếp, con thuyền đã biến mất ở mặt sông và cái khối khổng lồ kia tiếp tục trôi đi với điệu bộ chiến thắng vô cùng ghê tởm.
Sau đó, đáy thuyền lại nhô lên... một chấm đen giữa biển nước mênh mông vàng nắng.
Con thuyền đã nhô lên nhưng hai anh em họ đã chìm sâu trong cái ôm siết nhau, chẳng bao giờ có thể bị tách rời nhau nữa họ đã sống lại được những giây phút thần tiên nhứt cuộc đời khi cả hai cùng nắm tay nhau, trong tinh yêu ruột thịt, chạy tung tăng trên những cánh đồng đầy hoa cúc.
Tạo hóa chấn chỉnh lại những tàn phá do chính mình gây ra - chấn chỉnh bằng ánh sáng mặt trời và sức lao tác của con người.
Năm năm sau, những dấu vết hoang tàn do trận lụt gây ra chẳng còn lại bao nhiêu. Mùa Thu thứ năm vẫn vàng rực màu lúa chín. Các kho vựa trên bờ sông Floss lại tấp nập và vang vang tiếng người làm việc trong hy vọng.
Tất cả mọi người - cả nam lẫn nữ - được kể tới ở truyện này đều còn sống - ngoại trừ số phận của hai người mà ta đã biết.
Tạo hóa chấn chỉnh lại những tàn phá do chính mình gây ra - nhưng không phải là tất cả những cây cối bị tróc lên vẫn chưa bén rễ sâu vào đất, đây đó trên các sườn đồi vẫn còn sót lại những dấu vết hoang toàn. Đối với con mắt của những kẻ đã từng sống lâu tại nơi này, không bao giờ có chuyện sửa chữa hoàn toàn được.
Nhà máy xay Dorlcole đã được xây dựng lại. Và ngôi nhà thờ Dorlcote cũng đă lấy lại được quang cảnh tươi mát êm đềm.
Gần bên ngôi mộ xây bằng gạch trong sân - nơi an nghỉ cuối cùng của một người cha mà chúng ta đã biết là một ngôi mộ khác được dựng lên ngay sau trận lụt, dành cho hai thi hài được tìm thấy vẫn còn ôm siết lấy nhau. Và đó cũng là mục tiêu thăm viếng thỉnh thoảng của hai người đàn ông, trong khi cả hai đều cùng mang một cảm nghĩ như nhau là niềm vui duy nhứt cũng như nỗi buồn sâu đậm nhứt đời mình đều bị chôn vùi luôn dưới mộ.
Một người đã tới viếng ngôi mộ đó - nhiều năm sau - với một khuôn mặt mỹ miều bên cạnh.
Người kia chỉ tới có một mình. Bạn tâm tình của con người đó là những cây cối ở Thung Lũng Đỏ nơi mà niềm vui bị chôn vùi dường như hãy còn nhảy múa - như một bóng ma.
Bia mộ được khắc tên « Tom và Maggie Tulliver » bên dưới là dòng chữ:
«Trong cõi chết họ không bị chia lìa »
 
GEORGE ELIOT
 Ngô Đăng Tâm dịch

Xem Tiếp: ----