Dịch giả: Trần Bình
Chương 9
Bassington-ffrench

     hông để mất thời gian, Frankie bắt tay vào việc ngay. Ngay tối hôm ấy cô hỏi cha:
- Cha ơi, cha có biết dòng họ Bassington-ffrench không ạ?
Quận công Marchington đang đọc một xã luận chính trị, nghe không rõ câu hỏi.
- Washington ư?! A, những người Mỹ ấy. Mọi cuộc họp, mọi trò khỉ... lãng phí tiền bạc và thời gian.
- Đây là dòng họ Bassington-ffrench kia mà - Frankie nói rõ lại - Đó là một gia đình ở Yorkshire, đúng không ạ?
- Không, ở Hampshire. Có hai nhánh, một ở Anh, một ở Ái Nhĩ Lan. Bạn con ở đâu?
- Con không biết.
- Con muốn hỏi gì?
- Họ có giàu không?
- Họ nhà Bassington-ffrench ấy ư? Cha cũng không biết. Người ở Ái Nhĩ Lan bị phá sản còn người ở Hampshire lấy được người vợ Mỹ thừa kế một gia tài rất lớn.
- Một người trong dòng họ ấy bữa nọ về đây tìm một ngồi nhà để thuê.
- Thật là kỳ cục! Tìm nhà ở nơi khỉ ho, cò gáy này ư?
“Đúng thế!” Frankie nghĩ.
Hôm sau cô đến văn phòng của Công ty môi giới nhà đất Wheeler và Owen.
Ông Owen đứng lên tiếp Frankie.
- Chúng tôi có thể giúp gì cho cô, tiểu thư France? Cô không định bán lâu đài đấy chứ?
Ông Owen bật cười về ý nghĩ hài hước ấy.
- Không. Đây là lý do tôi đến gặp ông: một người trong số bạn bè tôi bữa nọ đã tới đây... một người tên là Bassington-ffrench. Ông ấy tìm một ngôi nhà.
- A! Tôi nhớ cái tên ấy rồi. Hai chữ “f” nhỏ, phải không?
- Đúng thế.
- Ông ta hỏi tôi về những ngôi nhà nhỏ cần bán. Vì hôm sau ông ta phải trở về Londres nên tôi không thể giới thiệu hết được, nhưng ông ta có vẻ không vội vàng lắm. Tôi đã giới thiệu một vài ngôi nhà nhưng chưa nhận được câu trả lời của ông ta.
- Ông ấy viết thư cho ông từ Londres hay từ nông thôn?
- Xem nào - Ông Owen gọi người thư ký - Frank! Địa chỉ của ông Bassington-ffrench.
- Ngài Roger Bassington-ffrench, ở lâu đài Meroway Court, làng Staverley, quận Hants, Thành phố Hampshire. - Người thư ký trả lời.
- A! Đây không phải là Bassington-ffrench mà tôi quen! Có thể đây là một người anh em họ. Tôi ngạc nhiên khi thấy ông ấy về đây mà không tới thăm tôi. Ông ấy tới văn phòng của ông hôm thứ tư, đúng không?
- Vâng, trước sáu giờ ba mươi, giờ đóng cửa văn phòng. Tôi nhớ rõ vì hôm ấy có một vụ tai nạn xảy ra. Một người rơi từ vách đá xuống vực và chính ông Bassington-ffrench ngồi canh giữ xác người cho đến khi cảnh sát tới nơi. Khi trở về đây ông ta rất ngao ngán.
Cô rời khỏi văn phòng môi giới, đầu óc lộn xộn. Như Bobby đã nói, mọi hành động của Bassington-ffrench đều rất rõ ràng không có gì đáng nghi ngờ. Ông là thuộc nhánh Bassington-ffrench ở Hampshire. Ông ta cho địa chỉ và đã kể lại với ông Owen về vụ tai nạn... Có thể là Bassington-ffrench vô tội không?
Frankie vẫn tiếp tục suy nghĩ.
Một người đi thuê nhà phải tới nơi sớm hơn và ở lại vào ngày hôm sau để đi thăm nhà. Không thể đến gặp nhà môi giới vào sáu giờ ba mươi chiều và trở về Londres ngay sáng sớm hôm sau. Vậy thì tại sao ông ta phải tới đây, chỉ viết thư thôi cũng đủ. Không nghi ngờ gì nữa: Bassington-ffrench là thủ phạm.
Frankie đến đồn cảnh sát. Thanh tra Williams là người quen cũ của cô. Ông ta đã từng bắt được bà hầu phòng vào làm việc ở lâu đài với căn cước giả và chuồn khỏi lâu đài với hấu hết nữ trang của Frankie.
- Xin chào ông thanh tra.
- Xin chào tiểu thư Frances. Không bị mất trộm chứ, tôi hy vọng là như vậy?
- Chưa đâu. Tôi đến để đặt ra cho ông vài câu hỏi do tò mò thôi.
- Tùy cô, cô hỏi tôi sẽ trả lời, thưa tiểu thư Frances.
- Thưa ông thanh tra, người rơi từ vách đá xuống vực có đúng tên là Alexandre Pritchard không?
- Alexandre Pritchard, đúng thế.
- Trong người ông ta chỉ có một tấm ảnh thôi, đúng không? Có người nói có những ba tấm!
- Rất đơn giản, thưa tiểu thư. Các nhà báo thường hay cường điệu vấn đề và làm tình hình rối tung lên.
- Đúng thế. Tôi còn nghe được nhiều chuyện rất khó tin... (Cô ngừng một lát rồi nói theo trí tưởng tượng của mình) Một số người còn nói trong túi của ông ta căng phồng những truyền đơn của cánh tả; những người khác lại bảo đó là ma túy, còn nhóm thứ ba thì nói đó là những tờ giấy bạc giả.
Ông thanh tra cười.
- Trong túi người chết chỉ có một chiếc khăn tay, một gói thuốc lá, hai tờ giấy bạc... Không có ví, không có lấy một bức thư. Chúng tôi đã mất nhiều thời gian để tìm người trong tấm ảnh ấy.
Frankie thay đổi đề tài câu chuyện.
- Hôm qua tôi đi thăm anh Jones, con trai ông mục sư... Người vừa bị đầu độc. Thật là lạ lùng!
- Đó là câu chuyện nhảm nhí. Chưa bao giờ có hiện tượng này cả. Cậu ta không có lấy một kẻ thù trên đời.
- Người ta có ý kiến gì về thủ phạm không?... Tôi rất muốn biết chuyện đó. - Frankie hỏi, mắt sáng lên vì tò mò.
Người thanh tra cảnh sát rất hãnh diện, ông đang tiếp chuyện một tiểu thư con một vị Quận công nước Anh.
- Người ta đã tìm thấy một chiếc xe hơi hiệu Talbot trong vùng, xe sơn màu xanh sậm. Một khách trọ nói mình đã nhìn thấy nó mang biển số GG 8282 chạy theo hướng Saint-Botolph.
- Và ông cho rằng...
- Đó là biển số xe của linh mục nhà thờ Saint-Botolph.
Frankie bật cười.
- Và ông không cho rằng linh mục ở Saint-Botolph là thủ phạm chứ?
- Theo điều tra thì cả ngày hôm ấy xe của linh mục không rời khỏi nhà để xe.
- Như vậy chiếc Talbot ấy mang biển số giả ư?
- Vâng, chúng tôi cho là như vậy.
Frankie xin phép viên thanh tra để ra về và nghĩ: “Ở nước Anh này thì thiếu gì xe Talbot màu xanh sậm”.
Tới nhà, cô vào ngay thư viện tìm cuốn danh bạ điện thoại của quận Marchbolt mang về phòng mình. Cô nghiên cứu hàng tiếng đồng hồ. Kết quả thật đáng bối rối. Trong vùng có đến bốn trăm tám mươi hai người có tên là Evans...
Frankie suy nghĩ về kế hoạch điều tra cho những ngày tới.