Dịch giả: Nguyễn Ngọc Minh
Trước ngai Tử thần

     ào thời đó hôn nhân chỉ là một sự mỉa mai diễu cợt sắp đặt do tay bọn thanh niên và bậc phụ mẫu. Ở hầu hết mọi nơi, thanh niên chiếm phần thắng trong khi những bậc cha mẹ thua thiệt. Người phụ nữ bị coi như một món hàng mà người ta mua bán chuyển giao từ nhà này sang nhà nọ. Với thời gian, nhan sắc của nàng tàn tạ và nàng trở thành món đồ dùng cũ kỹ bị bỏ vào xó tối.
Văn minh hiện đại đã làm người phụ nữ khôn ngoan hơn đôi chút, nhưng nó càng làm họ đau khố hơn vì sự biển lận của người đàn ông. Ngày xưa, người phụ nữ là người vợ hạnh phúc, nhưng ngày nay họ là người nhân tình khốn khổ. Thời trước họ mù lòa cất bước trong ánh sáng, nhưng bây giờ họ mở mắt bước đi trong bóng tối. Trước kia họ đẹp trong chất phác, đức hạnh trong giản dị, và kiên cường trong yếu đuối. Ngày nay họ xấu xí trong khôn ngoan của họ, hời hợt và giả dối trong kiến thức của họ. Có chăng, đến một ngày nào đó, sắc đẹp và kiến thức, khôn ngoan và đức hạnh, yếu đuối thể xác và mạnh mẽ tinh thần sẽ hòa hợp nơi người phụ nữ?
Tôi là một trong số những người tin tưởng rằng sự tiến triển tinh thần là một định luật của đời sống nhân loại, nhưng con đường tiến đến hoàn mỹ rất xa và đầy cam go. Nếu người phụ nữ tự thăng tiến ở một phương diện và đứng lại ở phương diện khác ấy là vì con đường mòn đầy gai góc dẫn lên đỉnh núi không phải không có những ổ mai phục của phường đạo tặc và sào huyệt của lũ lang sói.
Cái thế hệ khác thường này sinh tồn giữa cơn ngái ngủ và sự tỉnh táo. Nó cầm trong tay nắm đất quá khứ và hạt giống tượng lai. Nhưng dù sao, chúng ta có thể tìm thấy trong mỗi thành phố một phụ nữ tượng trưng cho tương lai.
Ở Beirut, Selma Karamy là tượng trưng của người phụ nữ Đông phướng tương lai. Nhưng, giống như nhiều người đi trước thời đại, nàng trở thành nạn nhân của hiện tại, để rồi giống như một đóa hoa bị bứt lìa cành và giòng sông cuốn trôi đi, nàng cất bước trong hàng ngũ của những kẻ chiến bại khốn đốn.
Công tử Bey Galib và Selma đã thành hôn và chung sống trong một ngôi nhà mỹ lệ tại Ras Beyrouth, nơi hầu hết các danh gia vọng tộc cư ngụ. Viên ngoại Karamy bị bỏ rơi trong căn nhà hiu quạnh giữa hoa viên và vườn cây như một mục tử cô độc giữa đàn mục súc.
Những ngày đêm rộn ràng lễ cưới đã qua đi, nhưng tuần trăng mật để lại kỷ niệm của thời gian u sầu đắng cay, như chiến trận bỏ lại trên chiến trường những xương cùng sọ của tử sĩ. Sự trang trọng của một hôn lễ Đông phương gây cảm hứng trong tim những người tuổi trẻ, nhưng khi cuộc vui bế mạc, họ bị thả rơi như sỏi đá xuống lòng biển sâu. Sự phấn khởi trong lòng họ giống như những dấu chân trên cát, chỉ tồn tại cho đến lúc những lượn sóng biển xóa nhòa.
Mùa Xuân đã đi qua, cả Hạ vả Thu, nhưng tình yêu tôi dành cho Selma lớn mãi cùng ngày tháng đến thành một ngưỡng vọng câm nín - thứ tình cảm của một trẻ mồ côi hướng về linh hồn người hiền mẫu trên cõi trời. Nỗi đam mê của tôi đổi thành mối sầu mù lòa không thấy gì khác ngoài chính nó. Mối cảm xúc đã làm tôi rơi nước mắt nhường chỗ cho sự phiền não hút máu từ tim tôi; và những tiếng thở dài của thương yêu trở thành lời nguyện cầu bất tuyệt dành cho Selma cùng chồng, và sự bình an cho cha nàng.
Hy vọng và nguyện cầu của tôi thành vô ích, vì nỗi khổ của Selma là một căn bệnh triền miên không thứ gì ngoài cái chết có thể chữa khỏi.
Công tử Bey là một người đàn ông mà mọi thứ xa hoa trên đời tự nhiên đưa tới; nhưng dù vậy y vẫn chưa vừa lòng tham. Sau khi kết hôn với Selma, y bỏ mặc cha nàng trong cô đơn và cầu mong cho ông cụ sớm chết đi để thừa kế gia tài.
Tính tình công tử Bey giống hệt ông chú; chỉ khác mỗi một điều là vị Giám mục đạt tham vọng một cách thầm kín, dưới sự che chở của bộ áo tu sĩ và chiếc thánh giá vàng đeo trước ngực; trong khi cháu ông hành động công khai. Vị Giám mục đến nhà thờ vào buổi sáng, thời giờ còn lại trong ngày ông dùng để bòn rút những cô nhi quả phụ và những người chất phác chân phương. Còn công tử Bey dùng ban ngày để đi tìm thỏa mãn nhục dục. Ngày chủ nhật, Giám mục Bulos Galib giảng Phúc âm; nhưng suốt trong tuần ông chẳng bao giờ thực hành những điều ông đã giảng, vì còn bận dự vào những thủ đoạn chính trị. Lợi dụng thế lực và ảnh hưởng của ông chú, công tử Bey coi việc ăn hối lộ của những kẻ mua danh cầu tước như một phương tiện kinh doanh.
Giám mục Bulos là một đạo chích ẩn mình trong bóng tối, còn cháu ông, công tử Bey, là một tên lưu manh kiêu hãnh cất bước giữa ban ngày. Tuy nhiên, người dân Đông phương đặt tin cậy vào những người này - bầy lảng sói và bọn đồ tể làm băng hoại xứ sở họ vì túi tham không đáy và đôi tay sắt bóp nát đồng loại.
Tại sao trong mấy trang này tôi viết về những kẻ phản bội ở những xứ nghèo khó thay vì dành tất cả những khoảng đó cho chuyện một phụ nữ khốn khổ mang trái tim tan nát? Tại sao tôi dư nước mắt khóc những kẻ bị áp bức thay vì dành tất cả nước mắt tôi để hoài niệm một phụ nữ yếu đuối đã bị hàm răng Tử thần nghiến nát cuộc đời?
Nhưng, hỡi độc giả thân mến, quý vị có nghĩ rằng một phụ nữ như thế chẳng khác nào một nước bị một số tăng lữ và những kẻ cầm quyển áp bức? Quý vị có tin rằng mối tình bị phá đám đó đã dẫn một phụ nữ đến nằm mồ, cũng giống như sự vô vọng hằng đeo đuổi loài người trên trái đất? Người phụ nữ đối với một nước giống như đốm lửa với cây đèn. Nếu dầu trong đèn cạn, đốm lửa có mờ không?
Thu đã đi qua, gió thổi lá vàng lìa cành dọn đường cho Đông đến, nó vừa tới vừa tru tréo khóc than. Tôi lưu lại thủ đô Beirut, không một bằng hữu, ngoài những giấc chiêm bao đem linh hồn tôi lên đỉnh trời rồi chôn vùi thật sâu trong lòng đất.
Một tâm hồn buồn thảm tìm thấy thoải mái trong cô đơn. Nó chán ngấy nhân thế, như một con nai bị thương lìa đàn để sống trong hang cho đến khi lành vết thương hoặc là từ giã cõi đời.
Một hôm tôi nghe tin viên ngoại Karamy lâm bệnh. Tôi rời nơi tru ẩn hiu quạnh và đi bộ đến nhà ông theo một lộ trình mới, một con đường nhỏ nằm giữa rặng ô liu, tránh con đường chính rộn tiếng ngựa xe.
Tới nơi, tôi thấy ông cụ nằm trên giường, yếu đuối xanh xao. Đôi mắt ông sâu hoắm, trông như hai thung lũng u tối bị những hồn ma của đớn đau ám chướng. Nụ cười trước kia vẫn làm rạng rỡ khuôn mặt ông, nay tắc nghẹn những đau đớn dằn vặt; và những lóng xương bàn tay thanh nhã bây giờ trông như những cành cây trụi lá run rẩy trong cơn bão. Khi tôi lại gần thăm hỏi bệnh trạng, ông quay gương mặt xanh xao về phía tôi, đôi môi run run cố nở một nụ cười, và ông nói thều thào: “Con ơi, hãy sang... sang phòng bên kia an ủi Selma và đem nó sang đây ngồi bên giường bác”.
Tôi sang phòng bên cạnh, thấy Selma nằm trên trường kỷ che đầu bằng hai cánh tay và vùi mặt trên chiếc gối để cha nàng khỏi nghe tiếng nàng thổn thức. Chậm chạp tiến đến gần, tôi gọi tên nàng như một tiếng thở dài hơn là tiếng thì thầm. Nàng hốt hoảng cựa mình, như thể vừa bị đánh thức trong cơn ác mộng, rồi ngồi dậy nhìn tôi với đôi mắt long lanh, ngỡ ngàng không biết tôi là một bóng ma hay một người thực. Sau một hồi trầm lặng đưa chúng tôi lên đôi cánh kỷ niệm của giờ phút đã dìm chúng tôi trong men rượu tình, Selma gạt nước mắt và nói: “Anh thấy không, thời gian đã biến đổi chúng ta nhiều quá! Cuộc bể dâu đã làm thay đổi dòng đời và bỏ chúng ta giữa những đổ vỡ này. Chính nơi đây mùa Xuân đã kết hợp hai ta bằng sợi dây tình, và bây giờ cũng chính nơi đây chúng ta đang đứng trước ngai của Tử thần. Mùa Xuân tươi đẹp như thế, ngờ đâu mùa Đông lại khủng khiếp dường này”.
Khi thốt những lời trên, nàng lại lấy tay bụm mặt, tựa hồ nàng chắn cho đôi mắt khỏi thấy con ma quá khứ phía trước nàng. Tôi đặt tay trên đầu nàng và bảo: “Nào, Selma, nào, chúng ta phải như những ngọn tháp vững chắc trước cơn bão táp. Chúng ta hãy hiên ngang như những chiến sĩ dũng cảm đối diện với kẻ địch có vũ khí tronơ tay. Nếu bị giết, chúng ta sẽ chết như những kẻ tuẫn tiết; và nếu thắng, chúng ta sẽ sống như những anh hùng. Chống chọi chướng ngại và cam khổ cao cả hơn chạy trốn cầu an. Con thiêu thân bay lượn quanh ngọn đèn cho đến lúc chết đáng khâm phục hơn con mọt suốt đời sống trong tăm tối. Nào, Selma, chúng ta hãy vững vàng cất bước trên con đường cam go này với đôi mắt hướng về mặt trời để khỏi trông thấy những đầu lâu và rắn độc trong đám đá lởm chởm và trong gai góc. Nếu bị nỗi sợ chận lại giữa đường, chúng ta sẽ chỉ nghe thấy lời diễu cợt từ tiếng nói của đêm tối; nhưng nếu lên được đỉnh núi một cách can đảm, chúng ta sẽ đoàn tụ với những hồn thiêng trong khúc khải hoàn, hoan ca. Hãy tươi tỉnh lên, Selma; lau sạch nước mắt và xóa bỏ u sầu trên nét mặt em đi. Đứng lên em, chúng ta ra ngồi bên giường cha em; sự sống của người tùy thuộc ở sự sống của em, và nụ cười của em là phương thuốc duy nhất của người”.
Selma hiền từ, dịu dàng nhìn tôi và nói: “Có phải trong khi anh khuyên nhủ em phải nhẫn nại, chính anh cũng đang cần điều đó? Một kẻ đang đói có nhường phần ăn của mình cho một người đói khác không anh? Hoặc một người bệnh cho kẻ khác liều thuốc mà chính họ đang cần không anh?”
Nàng đứng dậy, đầu hơi cúi về phía trước, và chúng tôi sang phòng ông cụ ngồi bên cạnh người. Selma cố tạo một nụ cười và giữ điệu bộ bình tâm; cha nàng thì cố làm cho con gái tưởng rằng bệnh tình của ông đã khả quan hơn; nhưng cả hai cha con đều biết nỗi khổ của nhau và cùng nghe ra những tiếng thở dài thầm lặng. Họ giống như hai sức quân bình làm mỏi mòn lẫn nhau một cách ngấm ngầm. Trái tim người cha muốn chảy tan vì tình cảnh thương tâm của con gái. Họ là hai linh hồn thanh khiết - một trong hai ra đi là hồn kia sẽ bị đầy ải trong đau thương - quyến luyến nhau trong thương yêu và cái chết; và tôi đứng giữa hai người với trái tim quằn quại của mình. Chúng tôi là ba kẻ do bàn tay định mệnh quây quần rồi lại bị bàn tay định mệnh bóp nát; một ông lão giống như một ngôi nhà bị cơn lụt hủy hoại, một người con gái tượng trưng cho một bông huệ bị một lưỡi liềm sắc bén hớt ngang; một thanh niên giống một cây non yếu ớt bị một trận mưa vùi dập; và cả ba chúng tôi đều là những đồ chơi trong bàn tay định mệnh.
Viên ngoại Karamy khẽ cử động, đuỗi bàn tay yếu đuối về phía Seima, bằng một giọng thương cảm và dịu dàng ông bảo: “Hãy cầm tay cha, con yêu quý” Selma nắm tay ông, đoạn ông nói: “Cha đã sống trọn đời người, và cha cũng đã nếm đủ mùi đời. Cha đã bình tâm vượt qua các chặng đường đời. Cha đã mất mẹ con khi con mới ba tuổi đầu. Người đã để con lại như một báu vật trong tay cha. Cha nhìn con khôn lớn, và gương mặt con ghi tạc lại những nét của mẹ con như những vì sao phản ảnh trong một hồ nước im lìm. Tính nết, sự thông minh, và sắc đẹp của con là của mẹ con, ngay cả cách ăn nói và những cử chỉ của con cũng vậy. Con là nguồn an ủi độc nhất của cha trong cuộc đời vì con là hình bóng của mẹ con trong mọi hành vi và lời nói. Giờ đây cha đã già rồi, chỉ còn chờ an nghỉ trong đôi cánh êm ái của Tử thần. Hãy yên tâm, con gái yêu của cha ạ, cha đã thọ đủ để thấy con khôn lớn. Vui lên đi con, vì cha còn sống trong con sau khi chết. Sự ra đi của cha hôm nay hay ngày mai, ngày mốt nào có khác gì đâu. Vì ngày tháng mòn mỏi phôi pha, như lá mùa thu. Giờ cuối cùng của đời cha đang vội tới và hồn cha khao khát được đoàn tụ cùng mẹ con”.
Khi ông nói những lời đầy thương cảm này, nét mặt ông rạng rỡ. Rồi ông luồn tay dưới gối lấy ra một tấm ảnh nhỏ lồng khung vàng. Đôi mắt không rời bức ảnh, ông nói: “Này, Selma, con hãy nhìn hình mẹ con đây”.
Selma chùi nước mắt, sau một hồi lâu lặng ngắm, nàng hôn đi hôn lại bức ảnh và kêu lên: “Ôi mẹ yêu dấu của con! Mẹ ơi!” Rồi nàng áp đôi môi run rẩy lên bức ảnh như muốn trút cả hồn nàng vào hình bóng đó.
Tiếng đẹp nhất trên môi loài người là tiếng “Mẹ”, và lời gọi đẹp nhất là lời gọi “Mẹ ơi”. Một tiếng chứa đầy hy vọng và thương yêu, một tiếng hiền từ êm ái xuất phát từ đáy lòng. Mẹ là tất cả - người là nguồn an ủi của chúng ta trong u sầu, nguồn hy vọng của chúng ta trong khốn đốn, và sức mạnh của chúng ta trong yếu đuối. Người là nguồn thương yêu, bao dung, cảm mến và tha thứ. Kẻ nào mất mẹ tức là mất một linh hồn thanh khiết phù trợ và che chở cho y không dời.
Mọi vật trong thiên nhiên đều biểu dương hình ảnh người mẹ. Mặt trời là mẹ của đất và ban cho đất sức nóng như nguồn dinh dưỡng; nó không chịu từ biệt bầu trời vào ban đêm trước khi ru đất vào giấc ngủ bằng tiếng ca của biển cả cùng lời hát của chim muông và suối nguồn. Đất lại là mẹ của cây cối và muôn hoa. Đất sinh sản ra chúng, nuôi dưỡng, và bón mớm cho chúng.
Cây và hoa trở thành mẹ hiền của quả và mầm hạt. Mẹ, căn nguyên của mọi sự sống, là linh hồn bất diệt, tràn trề vẻ đẹp và thương yêu.
Selma Karamy chưa từng biệt mẹ nàng, vì bà đã mất đi khi Selma còn bé bỏng, nhưng Selma đã khóc khi nàng trông thấy tấm ảnh và kêu than: “Mẹ ơi!” Tiếng “Mẹ” ẩn náu trong tim chúng ta, đến với đôi môi chúng ta trong những giờ khắc buồn thảm và hạnh phúc, tựa như hương thơm tỏa ra. Từ bông hồng hòa lẫn với bầu không khí khi nó trong sáng cũng như khi nó vẩn đục.
Selma đăm đăm nhìn di ảnh mẹ, rồi hôn liên tiếp cho đến khi mỏi mệt và gục xuống bên giường cha.
Ông cụ đặt hai tay lên đầu nàng và nói: “Con yêu quý, cha vừa cho con thấy hình ảnh mẹ con. Bây giờ hãy nghe cha đây, cha sẽ cho con nghe lời nói của người”.
Nàng ngẩng đầu lên, như một con chim nhỏ trong tổ nghe tiếng vỗ cánh của mẹ, và chăm chú nhìn cha nàng.
Ông cụ nói: “Khi ông ngoại con mất thì mẹ con còn đang cho con bú; người khóc than thương xót, nhưng người khôn ngoan và can đảm chịu đựng. Sau khi xong tang lễ, người ngồi bên cha trong phòng này, cầm tay cha và nói ‘Farris, cha em đã mất rồi. Từ nay mình là nguồn an ủi duy nhất của em trên đời này. Tình thương của con tim phân chia ra như các cành của một cây bách hương; nếu cây mất đi một cành lớn, nó sẽ đau đơn nhưng nó không chết. Nó sẽ dồn tất cả sức sống vào cành bên cạnh để lớn lên bù vào khoảng trống’. Đó là lời mẹ con nói với cha khi ông ngoại con mất, nay con cũng nên nói điều tương tự khi Tử thần mang thể xác cha về nơi yên nghỉ và linh hồn cha về bàn tay săn sóc của Trời”.
Selma trả lời ông, trong khi nước mắt nàng tuôn trào và tim nàng tan nát: “Khi mẹ mất ông ngoại thì cha thay thế chỗ của ông; nhưng bây giờ ai thay chỗ của cha khi cha đi rồi? Mẹ đã được hưởng sự săn sóc của người chồng yêu thương thành thật, mẹ đã tìm thấy an ủi ở đứa con gái bé bỏng, và ai sẽ là nguồn an ủi của con khi cha đi rồi? Cha đã vừa là cha vừa là mẹ vừa là người bạn thân của con”.
Rồi Selma quay lại nhìn tôỉ, cầm vạt áo tôi và nói: “Đây là người bạn độc nhất của con sau khi cha đi, nhưng làm sao chàng có thể an ủi con trong khi chính chàng cũng đang đau khổ? Làm sao con tim tan nát tìm được an ủi trong một linh hồn thất vọng. Một phụ nữ đau buồn không thể tìm an ủi trong nỗi buồn của một người bạn, hoặc con chim không thể bay bằng đôi cánh gẫy. Chàng là người bạn của hồn con, nhưng con đã trót đặt cả gánh nặng khổ đau lên vai chàng và lệ con làm mờ mắt chàng, đến nỗi chàng chẳng còn trông thấy gì ngoài bóng tối. Chàng là người anh con yêu quý, nhưng con ái ngại thấy chàng phải chia sớt cùng con nỗi buồn và giúp con vơi đi nước mắt; điều này càng tăng thêm cay đắng và đốt cháy tim con”.
Lời Selma như những mũi kim chích vào tim tôi, tôi cảm thấy hết chịu đựng nổi. Ông cụ ủ rũ lắng nghe nàng nói, và run rẩy như ngọn đèn trước gió. Đoạn ông duỗi tay ra: “Con ơi, hãy để cha đi an lành. Cha đã bẻ gẫy chấn song của cái lồng này rồi; để cha bay đi, đừng cản cha, vì mẹ con đang gọi cha về. Bầu trời quang đãng, đại dương yên tĩnh, và con thuyền sẵn sàng ra khơi; con đừng trì hoãn cuộc hành trình. Hãy để thể xác cha yên nghỉ với những người đang yên nghỉ; hãy để giấc chiêm bao của cha kết thúc và hồn cha thức giấc với bình minh. Linh hồn con hãy choàng lấy hồn cha trong phút ly biệt và ban cho cha một nụ hôn hy vọng; chớ để một giọt u sầu, đắng cay nào rơi xuống thân thể cha, e rằng cỏ hoa sẽ từ chối nguồn dinh dưỡng này. Con đừng nhỏ lệ khổ lụy lên tay cha, sợ rằng trên mồ cha gai góc sẽ mọc lên. Con cũng đừng vẽ trên trán cha những vết hằn khổ nhục, kẻo mai sau gió ngàn đọc thấy sẽ từ chối mang bụi bậm của hài cốt cha về những cánh đồng cỏ xanh tươi... Cha hằng yêu quý con lúc sinh thời, con ơi, cha sẽ yêu quý con khi cha chết, và hồn cha sẽ luôn luôn trông nom bảo vệ con”.
Đoạn viên ngoại nhìn tôi với đôi mắt hé mở và nói: “Con trai của bác, hãy thương yêu Selma như con là anh ruột nó, như cha con đã cư xử với bác. Con hãy giúp em qua cơn đau khổ và đừng để nó khóc than, vì khóc than cho người chết là sai lầm. Con hãy kể chuyện vui và hát những lời ca ngợi cuộc sống cho nó nghe để họa may nó quên được mối sầu. Và con hãy nhắc nhở với cha con về bác; hãy xin người kể cho con nghe những chuyện thời niên thiếu và hãy nói rõ rằng bác đã yêu mến người, qua sự hiện diện của con, trong giờ phút cuối cùng của đời bác”.
Im lặng ngự một lúc, tôi có thể thấy vẻ xanh xao của cái chết trên khuôn mặt ông cụ. Rồi ông mở mắt nhìn chúng tôi và thì thầm:
- Đừng gọi bác sĩ, kẻo họ có thể dùng thuốc thang kéo dài thêm bản án của cha trong tù ngục này. Tháng ngày nô lệ qua rồi, hồn cha đi tìm tự do trên các tầng trời. Và cũng đừng gọi linh mục đến bên giường cha, vì những lời kinh cầu nguyện nào có cứu vớt được cha nếu cha là kẻ tội lỗi, cũng đâu có giúp được cha mau lên Thiên đàng nếu cha vô tội. Ý con người không thể thay ý trời, cũng như nhà thiên văn không đổi thay được hướng đi của tinh tú. Nhưng sau khi cha chết, các con cứ để cho các y sĩ và linh mục làm gì tùy họ, vì thuyền cha sẽ tiếp tục giong buồm đến khi tới bến.
Đến nửa đêm viên ngoại mở đôi mi mắt mệt mỏi lần chót và chú mục vào Selma; nàng đang quỳ bên giường cha. Ông cố cất tiẽng mà không nổi vì thần chết đã làm ông nghẹn lời; nhưng cuối cùng ông cụ cũng thều thào được: “Đêm tối đã qua rồi... ôi, Selma... ôi... Ôi, Selma...”. Rồi ông gục đầu, sắc mặt trắng bệch, và tôi có thể thấy một nụ cười phảng phất trên môi ông khi ông trút hơi thở cuối cùng.
Selma cầm tay cha thăm dò. Bàn tay lạnh ngắt. Đoạn nàng ngẩng đầu nhìn mặt ông. Gương mặt mơ hồ tấm mạng của cái chết. Selma uất nghẹn đến độ nàng không thể nhỏ lệ, hoặc thở dài, hoặc dù chỉ cử động. Trong một lúc lâu nàng nhìn ông đăm đăm không chớp mắt, như đôi mắt một pho tượng. Rồi nàng khom lưng, trán chạm nền nhà và nói: “Chúa ơi! Xin ngài hãy xót thương và chữa lành đôi cánh gãy của chúng con”.
Viên ngoại Karamy đã khuất bóng; linh hồn ông được ấp ủ trong cõi Vô Cùng, thân xác ông trở về với lòng đất. Công tử Bey giành quyền sở hữu gia tài của ông, và Selma trở thành người tù một đời - một đời hệ lụy đắng cay.
Tôi lạc loài trong sầu não và ảo giác. Ngày đêm săn đuổi tôi như chim ưng hành hạ con mồi. Nhiều lần tôi cố lãng quên nỗi bất hạnh bằng cách miệt mài trong sách vở và kinh điển của bao đời trước, nhưng chẳng khác nào lấy dầu dập lửa, bởi tôi chẳng thấy gì trong diễn trình của dĩ vãng ngoài sự bi thảm, và chẳng nghe thấy gì khác hơn là những tiếng thổn thức, oán than. Sách Job kể chuyện chiến đấu với thiên sứ làm tôi say mê hơn là tập Nhã Ca, và tôi thích những bài Ai Vãn của tiên tri Jérémie hơn ca khúc của vua Salomon. Vở bi kịch Hamlet gần gũi với tâm hồn tôi hơn mọi vở kịch khác của các tác giả Tây phương. Bởi chưng sự vô vọng làm suy yếu thị giác và bưng bít tai ta. Ta chẳng trông thấy gì ngoài bóng ma định mệnh đeo đẳng bên cạnh, và chỉ có thể nghe được tiếng đập của con tim bứt rứt trong lồng ngực.