CHƯƠNG 10

     ầu năm 1954, súng nổ mạnh trên lưu vực sông Nậm-hu, dọc đường số 9 và số 13.
Thượng Trung - Lào đánh to.
Mặt phía Đông, bốn mươi hai tiểu đoàn của tên tướng Bô-pho sa lầy trong cuộc hành binh Át-lăng. Các trung đoàn chủ lực liên khu 5 tràn lên giải phóng Bắc Tây Nguyên.
Giữa lúc ấy, các đơn vị lẻ tẻ của Hạ Lào bí mật rút về khu, chuẩn bị phối hợp mở chiến dịch tiêu diệt Phân khu Át-tô-pơ, nối liền vùng giải phóng từ Xây-thả- von qua thung lũng sông Xê-công, tiếp với Bắc Tây Nguyên để xuôi thẳng đến bờ biển.
Một đêm tháng giêng, trung đội 8 lặng lê rời Xây- thả-von đi về hướng Đông. Bộ đội đến sông Xê-liên khi mặt trời lên ngót con sào.
Thác Đầu-sấu réo đều, phun nước thành mây mù tỏa trên các mỏm đá, óng ánh như cầu vồng. Anh em cởi quần lội qua sông, nước chỉ đến ngực. Sợi mây song treo lơ lửng trên mặt sông, quá tầm tay với. Một lệnh ngắn chạy dọc hàng quân:
- Chuyền lên: cơm nửa cục, đun nước uống. Tiến.
Huy cầm nắm xôi trèo hối hả lên đỉnh tảng đá Sừng-trâu, rồi gọi:
- Anh Tiến lên đây! Tàu bay ném bom vùng Hàng Rào. Sáu chiếc. Đúng chỗ Na-bua!
Tiến đang ngồi xổm rửa mặt vụt đứng phắt lên, chiếc ca rơi đánh xoảng. Anh em chung quanh nhốn nháo. Mấy tiếng chửi khẽ. Tin dữ như mũi kim trở ngược trong lòng mọi người. Nhưng Tiến lại chậm chạp ngồi xuống, nhặt ca múc nước như không nghe thấy gì. Thiết quay lại hói bâng quơ:
- Liệu đồng bào giải tán kịp không hè?
Tiến nín lặng không đáp.
Bộ đội lần lượt vào rừng, giở cơm nắm ra ăn. Tiến lững thững đi cuối cùng. Anh dừng trên bãi sỏi một lúc, rồi rê về phía tảng đá Sừng-trâu.
Trong rừng, bếp cúi ẩm nhả một cột khói xoáy tròn lên ngọn cây. Bân ngồi bên nồi nước đang sủi tăm, cất tiếng hò khoan. Giọng Bân trong và ấm. Thiết gõ que củi làm nhịp.
Ớ... ơ...
Chèo qua vạt bắp bên sông
Đưa chàng Vệ quốc mà lòng em vui
Thu Bồn sông chảy (thì) ai xuôi
(Chứ) bến ni em đậu chờ người em thương...
Câu hò cũ đã năm năm, kể từ buổi chiều các cô áo trắng quần đen chèo thuyền đưa bộ đội tình nguyện qua sông Thu Bồn, tiến sang Lào. Cò trắng nối nhau chấp chới ngược sông, rơi vào bóng Trường Sơn. O con gái Quảng uốn mình, mái chèo vuốt ngọt làn nước trong như thạch... Hình ảnh chơi vơi nổi lên, rõ nét dần.
...Anh đi lên núi lên rừng
Qua Lào giúp bạn, anh đừng có quên
Mai tê độc lập (mà) bình yên
 Anh về thắng trận (đà) có thuyền em đưa
Ớ ơ hò khoan ơ...
Sớm nay lời dặn dò cũ đã năm năm lại ngân trên dòng Xê-liên, nước cũng xanh mát như nguồn Thu Bồn. Những chiến sĩ quốc tế ngồi trên bờ sông lạ, nghe tiếng hò ấm áp rưng rưng như hơi thở của Quê Mẹ tỏa vào lồng ngực.
Đời người lính cách mạng là một chuỗi dài đến và đi. Kỷ niệm chồng lên kỷ niệm, vui buồn lẫn lộn đã quen. Rời Xây-thả-von không lời từ biệt, những người con Việt lại lên đường, đi tìm nhiệm vụ mới và những người thân mới trên quê hương Lào. Mỗi khi lòng nao nao, họ lại nghĩ đến Tổ quốc trong câu hò động viên, một buổi chiều qua sông...
Trung đội trưởng Tiến từ đỉnh tảng đá Sừng-trâu trèo xuống, đi vào rừng. Môi anh mím chặt nhưng vẫn hơi rung.
Nhìn quanh đơn vị một lượt, anh dần dần trở lại thư thái, như có một bàn tay mát dịu vuốt qua ngục. Câu nói tư lự dạo nào lại vẳng đến: “Chúng mình như kíp thợ xây nhà. Nhà ấm lửa đỏ đèn...”. Còn nguyên vẹn đây những người bạn, đồng chí, anh em, những người thợ xây nhà không biết mỏi của Tiến...
Bỗng nhiên Tiến cảm thấy xúc động lạ lùng, vừa thương mến vừa kiêu hãnh. Giọng anh hơi khác khi ra lệnh tiếp tục hành quân:
- Cự ly sáu thước, tuyệt đối im lặng. Tổ đồng chí Bân cảnh giới tránh dân, phòng phục kích. Chuẩn bị!
Toán quân nhỏ kéo dài trên con đường rừng lỗ chỗ vết chân voi, đi về hướng mặt trời mọc. Đá ong lách cách. Con chim nôk-lạng réo một hồi dài tiễn chân. Người cuối cùng đã khuất.
Rừng Lào quen thuộc từ từ khép bức rèm cây sau lưng họ.

Bắt đầu tháng 7-1956
Xong tháng 4-1958

Hết

 

Xem Tiếp: ----