HỒI 45
Hành Động Phản Kích

     rên mặt biển sóng to gió lớn, “Kỳ Binh Hào” phá sóng tiến lên. Nó không trực tiếp đi đến địa điểm mục tiêu mà trước hết vòng một vòng lớn ở phía đông, rời xa bờ. Sau khi xác định không bị địch nhân phát hiện hành tung mới tiến về phía căn cứ địa.
Nếu thuyền đi trên sông, kể cả là sông lớn như Đại Hà, Đại Giang thì muốn giấu tai mắt địch nhân là một việc vô cùng khó. Nhưng trên mặt biển, lại do cao thủ điều khiển thuyền như Lão Thủ thì có thể khẳng đi tới lui vô ảnh vô tung.
Mấu chốt thắng bại của lần này là có thể bí mật hành sự hay không. Rất nhiều khả năng là cho tới lúc này, phía Thiên Sư quân vẫn cho rằng Lưu Dụ đang ở Kiến Khang.
Hoàn Huyền đang làm gì?
Lưu Dụ một mình đứng trên đài chỉ huy, mặc cho gió biển thổi tới. Đồ Phụng Tam và Tống Bi Phong đều nghỉ ngơi trong phòng. Gã muốn ở một mình để có thể tĩnh tâm nghĩ về tình cảnh bản thân.
Gã rất ít khi nghĩ tới Hoàn Huyền vì mỗi lần nghĩ tới Hoàn Huyền, gã lại liên tưởng tới Đạm Chân và nỗi sỉ nhục với hắn, cùng với đó là nỗi cừu hận xé lòng. Đó là những tình cảm mà gã hết sức tránh né.
Ài! Yến Phi nói rất đúng. Con người không thể vĩnh viễn sống trong cừu hận. Đó cũng là việc mà không ai có thể làm được.
Lưu Dụ chưa từng chính diện giao phong với Hoàn Huyền, nhưng theo lời Đồ Phụng Tam thì gã cũng rõ Hoàn Huyền không chỉ là đao thủ siêu quần, còn là một tài năng về quân sự. Chỉ xét việc hắn có thể nhẫn nhịn đến hôm nay, vẫn không thu thập Ân Trọng Kham và Dương Toàn Kỳ là biết hắn hiểu rất sâu về binh pháp, không làm việc theo tình cảm.
Sự thất bại của quân viễn chinh là việc không thể tránh khỏi. Từ tất cả các loại dấu hiệu mà xét thì bại cục của quân viễn chinh đã trở thành sự thật. Nhược điểm lớn nhất của quân viễn chinh là sự cố kỵ lẫn nhau giữa hai người chỉ huy cao nhất là Tạ Diễm và Lưu Lao Chi. Tình hình này làm hai người không thể hợp tác tốt đẹp để phát huy sức chiến đấu.
Tên tiểu nhân ti bỉ Lưu Lao Chi sẽ đâm sau lưng Tạ Diễm. Hắn sẽ lợi dụng sự ngoan cố ngu xuẩn của Tạ Diễm để tiêu diệt toàn bộ người của Tạ Diễm và người vốn thuộc hạ của Hà Khiêm. Vậy thì Bắc Phủ binh sẽ hoàn toàn rơi vào tay hắn. Nhưng dù Lưu Lao Chi mưu kế sâu xa thế nào cũng không tưởng nổi Lưu Dụ gã lại rình mò bên cạnh, đợi cơ hội tốt để thu nhận thành quả.
Sở dĩ Lưu Dụ nghĩ tới Hoàn Huyền vì sau khi gã đánh bại Thiên Sư quân, gã sẽ phải đối mặt với Hoàn Huyền. Đó là việc đã được chú định rồi, ai cũng không thể thay đổi được.
Đồ Phụng Tam đến bên gã, nhíu mày thắc mắc: “Vì sao ngươi không nhân cơ hội này nghỉ ngơi cho tốt. Tối nay chúng ta sẽ tới Hải Diêm quan sát tình hình Thiên Sư quân và quân viễn chinh giao chiến.”
Lưu Dụ đáp: “Chỉ cần chúng ta có thể liên lạc được với Nguỵ Vịnh Chi là có thể hiểu tường tận tình hình quân viễn chinh.”
Đồ Phụng Tam hỏi: “Người đó vẫn có thể tin tưởng được sao?”
Lưu Dụ quả quyết đáp: “Tuyệt đối có thể tin tưởng được. Ta không nhìn lầm hắn đâu.”
Đồ Phụng Tam hỏi: “Việc đó dễ thôi. Khi Hải Diêm thất thủ, bọn ta ngấm ngầm vào Hải Diêm tìm hắn được không?”
Lưu Dụ nhíu mày đáp: “Chỉ sợ ta chưa vào thành đã bị người ta nhận ra rồi.”
Đồ Phụng Tam cười nói: “Không ai cần ngươi phải dùng bộ mặt thật, nghênh ngang vào thành cả. Ngươi chẳng phải là thám tử xuất sắc nhất của Bắc Phủ binh sao? Phàm là thám tử đều biết dịch dung cải trang mà.”
Lưu Dụ bật cười thốt: “Ta thật hồ đồ.”
Gã bất chợt nhớ lại tối hôm cùng Yến Phi đột nhập Tạ gia. Mình vì quá khẩn trương, không giữ được bình tĩnh nên mất hết cả tỉnh táo, quên cả bản lĩnh thám tử của mình.
Ài! Tạ Chung Tú!
Bỗng nhiên, trong lòng gã ẩn hiện hình bóng mỹ lệ của Giang Văn Thanh.

***

Trên bến thuyền tiểu Kiến Khang của Biên Hoang tập có hơn hai mươi chiếc thuyền hàng. Chiến mã không ngừng được đưa lên thuyền.
Hai mươi lăm chiếc thuyền hàng này chuyên dùng để chở ngựa, được trang bị đầy đủ, đảm bảo ngựa trên thuyền sẽ được thoải mái nghỉ ngơi, không phải khổ sở chịu cảnh gió tuyết.
Hiện giờ, thứ mà Biên Hoang tập không thiếu nhất là chiến mã. Không những có thể đủ dùng cho nhu cầu chiến đấu, mà còn có thể cung ứng với số lượng lớn cho phương Nam.
Một chiến lược hoàn chỉnh chủ yếu do Vương Trấn Ác suy nghĩ đề xuất. Kế hoạch của hắn được các Hoang nhân mà đứng đầu là Mộ Dung Chiến hết sức ủng hộ, mọi người nhất trí, hành sự theo đúng kế hoạch của hắn. Quả thật có thể ‘nhân tẫn kì tài, vật tẫn kì dụng’, dùng sở trường của mình đánh sở đoạn của địch.
Bộ đội Hoang nhân dùng để đánh bắc Dĩnh khẩu lần này chỉ cốt tinh không cốt nhiều. Quân chủ lực chỉ hai ngàn người, nhưng đều là tinh nhuệ của Hoang nhân. Họ không những công phu cưỡi ngựa rất giỏi còn có kinh nghiệm phong phú chiến đấu trên đất tuyết. Ba người Vương Trấn Ác, Mộ Dung Chiến và Thác Bạt Nghi cũng là những thống soái tinh thông việc chiến đấu trên đất tuyết.
Bộ đội tiên phong xuất phát trước, chia làm hai đội theo bờ sông tiến lên. Mỗi đội trăm người do Diêu Mãnh và Tiểu Kiệt mỗi người suất lĩnh một đội, thăm dò tình hình phía trước.
Tiếp đó là hai lộ quân mỗi lộ một ngàn khinh kỵ do Thác Bạt Nghi và Mộ Dung Chiến mỗi người chỉ huy một lộ, men theo Dĩnh Thủy tiến lên phía bắc, có thể cứu ứng lẫn nhau nếu bị địch nhân đánh úp.
Nhưng khả năng bị đánh úp rất thấp vì địch nhân không đủ binh lực để chống lại Hoang nhân đánh vỗ mặt. Theo thống kê của Cao Ngạn thì nhân số của địch khoảng ba ngàn, nhưng đa số là lính công binh. Có thể tham gia chiến tranh không quá một ngàn năm trăm người.
Bộ đội trên bộ sẽ hành quân không ngừng, toàn tốc tiến lên. Trước khi mặt trời lên sẽ dừng lại. Khi đó đội thuyền hàng do hai chiếc Song Đầu chiến thuyền dẫn đường sẽ theo đường thuỷ đến, dùng chiến mã khoẻ mạnh trên thuyền thay thế chiến mã đã mệt mỏi do hành quân. Nếu như trời không có tuyết lớn thì trước khi trời sáng bọn họ sẽ ở chỗ cách bắc Dĩnh Thuỷ không quá hai mươi dặm.
Đội thuyền hàng sẽ chở chiến mã mỏi mệt quay về Biên Hoang tập, còn hai chiếc Song đầu chiến thuyền do Cơ Biệt và Hồng Tử Xuân mỗi người chỉ huy một chiếc. Trên thuyền chở đầy hoả khí lợi hại sẽ tuỳ thời phối hợp với bộ đội trên bộ toàn diện tấn công địch nhân, đánh thẳng vào trận địa địch.
Toàn bộ kế hoạch tác chiến được tính toán dựa trên cơ sở sức phòng ngự của địch nhân yếu ớt, binh lực không đủ và sỹ khí thấp. Dưới sự hành hạ của gió tuyết, địch nhân sẽ biến thành đám quân mệt mỏi. Ngược lại, Hoang nhân lại được chuẩn bị đầy đủ, khí thế lên cao như mặt trời.
Khi Trác Cuồng Sinh và Cao Ngạn đến bên bọn Mộ Dung Chiến, Vương Trấn Ác, Lưu Mục Chi, Phí Nhị Phiết, Hô Lôi Phương, Bàng Nghĩa và Phương Hồng Sinh thì Thác Bạt Nghi và một ngàn kỵ sỹ đã chuẩn bị sẵn sàng ở bờ bên kia, tùy lúc có thể lên đường.
Một đội một ngàn kỵ binh khác, người nào cũng tinh thần phấn chấn. Chỉ cần Mộ Dung Chiến ra lệnh một tiếng là có thể lên ngựa, phi theo bờ sông lên đường.
Hành động trên quy mô lớn của họ hấp dẫn một đám đông Hoang nhân đến tiễn hành. Lại có một đám khách du ngoạn Biên Hoang đến như thể để xem một tiết mục nhiệt náo, làm cả khu bến cảng như một biển người, đám đông náo nhiệt vô cùng hùng tráng.
Bàng Nghĩa lấy làm kỳ hỏi: “Ồ! Tại sao không thấy Tiểu Bạch Nhạn nhỉ? Nàng không đến tiễn tình lang ra chiến trường ư?”
Phí Nhị Phiết tiếp sức: “Vậy chẳng phải sẽ bị Tiểu Bạch Nhạn đá đít sao? May là ngươi ngồi thuyền chứ nếu ngươi cưỡi ngựa thì mông ngựa sẽ gặp tai ương rồi.”
Mọi người cười rộ.
Trước khi Cao Ngạn kháng nghị thì Trác Cuồng Sinh đã đáp thay gã: “Tiểu Bạch Nhạn bay về phương Nam rồi. Cao thiếu gia đang thương tâm muốn chết, các vị có thể tích đức, tha cho Cao thiếu gia tình thâm nghĩa trọng của chúng ta chăng?”
Mộ Dung Chiến ngạc nhiên hỏi: “Ta còn tưởng Tiểu Bạch Nhạn sẽ vĩnh viễn không bỏ đi nữa.”
Cao Ngạn cười khổ: “Các ngươi nói đủ chưa? Con bà nó! Chẳng phải giờ là lúc đi đánh nhau sao? Các ngươi lại dường như nhàn rỗi quá hoá cuồng, chuyên quản chuyện trong nhà của lão tử vậy.”
Mọi người lại cười ồ.
Cao Ngạn bất mãn nói: “Ta muốn cho các ngươi biết ta đã báo cáo hết rồi. Lão từ vừa mới vào sinh ra tử về, hoàn thành nhiệm vụ gian nan nhất. Vậy mà vừa mới về đã lại phải đến chiến trường ngay. Các ngươi muốn làm lão tử mệt chết sao?”
Trình Thương Cổ cười đáp: “Cao thiếu gia ngươi thân thể cao quý, chúng ta làm sao dám không nghĩ cho ngươi? Vì thế lần này mới đặc biệt cho ngươi dùng thuyền thay chân, sau khi lên thuyền có thể ngủ con mẹ nó vài canh giờ. Khi thời gian hành động đến, Trấn Ác và Lưu tiên sinh sẽ gọi ngươi dậy. Với sự thông thuộc của ngươi đối với địa thế, hoàn cảnh của bắc Dĩnh Thuỷ mà quyết định chi tiết tấn công. Ngươi nói xem, ngươi không đi làm sao được? Chúng ta không phải muốn làm khó cho ngươi mà chính là tôn trọng ngươi.”
Cao Ngạn chán nản nói: “Các vị đại ca có lệnh, tiểu đệ còn nói gì được nữa?”
Gã chuyển sang Lưu Mục Chi hỏi: “Tiên sinh cũng đi đánh nhau sao?”
Lưu Mục Chi có chút không vui đáp: “Ta chưa từng trải qua chiến tranh nên không muốn bỏ lỡ cơ hội.”
Mộ Dung Chiến vui vẻ nói: “Đến giờ rồi.”
Chiến sỹ phụ trách truyền tin nghe thấy lập tức đưa tù và lên miệng thổi một tràng “tu tu tu”.
Đội kỵ binh bờ bên kia hò hét vang lừng rồi thúc ngựa tiến lên. Chiến sỹ bên bờ bên này cũng lên ngựa. Người xem hò hét hoan hô cổ vũ, khung cảnh vô cùng tráng lệ.
Mộ Dung Chiến cười lớn: “Lần này không những chúng ta phải đoạt lại bắc Dĩnh khẩu mà còn phải làm thịt cái tên ngu ngốc lang tâm cẩu phế Hồ Bái nữa để báo thù cho Chúc lão đại.”
Nói xong, hắn lên ngựa dẫn đầu phóng đi.

***

Lưu Dụ và Đồ Phụng Tam từ đỉnh đồi nhìn ra. Hải Diêm lửa cháy bùng bùng, chiếu sáng cả bầu trời. Tiếng vó ngựa, tiếng la hét không ngừng truyền tới. Bến thuyền phía nam thành đậu đầy nhóc thuỷ sư chiến thuyền Bắc Phủ binh, phải đến hơn trăm chiếc. Cờ xí trên đỉnh cột buồm bay phấp phới dưới ánh lửa cháy. Dưới tình cảnh đó, ngoài việc diễu võ dương oai, chúng lại còn gây cảm giác nhe nanh múa vuốt, làm người ta cảm thấy sự tàn nhẫn và lạnh khốc của chiến tranh.
Lưu Dụ nói: “Hải Diêm thất thủ rồi!”
Đồ Phụng Tam trầm giọng: “Có lẽ là Từ Đạo Phúc đã cung kính hai tay dâng Hải Diêm lên cho quân viễn chinh. Nhưng quân viễn chinh khẳng định không được vui mừng cho lắm vì đó chỉ là một toà thành không, không có dân, cũng chẳng có lương thảo. Dưới tình huống đó, bọn ta chỉ sợ không cách nào trà trộn vào thành tìm Nguỵ Vịnh Chi được.”
Lưu Dụ nhíu mày suy nghĩ.
Đồ Phụng Tam ngạc nhiên hỏi: “Ngươi nghĩ gì thế?”
Lưu Dụ đáp: “Ta đang nghĩ trận chiến giữa tiểu Phi và Tôn Ân thắng bại thế nào? Cuộc quyết chiến của họ chắc có kết quả rồi. Thật kỳ quái, khi Thiên Sư quân và người Yên liên thủ tiến tới xâm phạm Biên Hoang tập, Tôn Ân luôn có bộ dạng là Tổng chỉ huy. Lão không những khiêu chiến tiểu Phi, mà còn tự thân hoà nhập vào chiến tranh. Nhưng từ đó trở đi, lão lại biến thành không ưu ái lo lắng cho Thiên Sư quân nữa. Đến khi Thiên Sư quân công hãm Cối Kê, Tôn Ân đại sự không quản, lại chỉ truy kích Đạo Uẩn phu nhân, dùng đó để hạ chiến thư đối với tiểu Phi. Chừng như trên thế gian này, ngoài tiểu Phi thì không còn sự vật nào có thể lãm lão hứng thú nữa. Ngươi thấy có kỳ quái không?”
Đồ Phụng Tam gật đầu: “Quả thực vô cùng kỳ quái. Cứ theo như tin tình báo ta nhận được thì Tôn Ân sau cuộc chiến lần thứ hai với Yến Phi đã đem quân vụ giao cho Từ Đạo Phúc, giáo vụ giao cho Lư Tuần phụ trách. Còn bản thân lão lại một mình ở Ông Châu, không những không lý gì tới sự việc của Thiên Sư quân, mà còn không nghe không hỏi đối với thế sự. Đến Từ, Lư hai người cũng không hiểu sự thay đổi của lão.”
Hắn lại không hiểu hỏi: “Ngươi chừng như đã từng thảo luận qua chuyện này với ta. Phải chăng giờ ngươi có suy nghĩ gì mới hơn?”
Lưu Dụ đáp: “Ta từng đề cập tới việc tam bội hợp nhất với ngươi để thuyết minh cho ngươi biết không hề có thiên thạch gì rơi xuống cả, ta càng không phải là chân mệnh thiên tử gì. Nhưng ngươi không những không để chuyện đó trong lòng, lại còn thừa nhận rằng tiểu đệ là người quật khởi ứng với thiên mệnh nữa.”
Đồ Phụng Tam than: “Ta tuyệt không phải là không đem chuyện ngươi nói cho biết để ở trong lòng. Mà là những dị sự như tam bội hợp nhất đó đã vượt qua tầm hiểu biết của ta. Ài! Ta chỉ là một người bình thường, chỉ hy vọng những việc phát sinh quanh mình theo thường tình hợp đạo lý, như vậy thì ta mới có cảm giác an toàn. Nhưng việc tam bội hợp nhất rõ ràng là việc vượt quá khỏi thường tình đạo lý, làm ta nghĩ đến vỡ đầu không không hiểu được, làm người ta khó tin hơn cả thuyết quỷ thần nữa. Vì thế, rất tự nhiên là ta gạt việc đó ra khỏi đầu, không nghĩ đến nó nữa. Ngươi nói xem bọn ta có thể làm gì? Việc đó làm người ta suy nghĩ tới phát điên mất.”
Lưu Dụ trầm ngâm không nói.
Đồ Phụng Tam hiều kỳ hỏi: “Rốt cuộc là ngươi nghĩ ra được cái gì? Tại sao khi nhìn Hải Diêm, lại liên tưởng tới việc đó?”
Song mục Lưu Dụ kỳ quang lấp loáng đáp: “Cứ theo như lời tiểu Phi thì tam bội hợp nhất có thể khai mở tiên môn.”
Đồ Phụng Tam hỏi: “Đó chính là vấn đề ta đã hỏi ngươi ngày trước. Tam bội sau khi hợp bích thì tiên môn đã xuất hiện sao?”
Lưu Dụ đáp: “Ta cũng hỏi tiểu Phi cùng một câu đó. Khi đó thần thái hắn có chút cổ quái, tuy trả lời không chứng thực được tiên môn, nhưng ta hiểu được hắn nói chưa hết.”
Đồ Phụng Tam xua tay: “Ta hiểu rồi. Phải chăng ngươi nghĩ khi tam bội hợp nhất, tiên môn thực sự đã mở ra. Yến Phi cũng cảm giác được sự tồn tại của tiên môn, nhưng chỉ vì nguyên nhân nào đó nên Yến Phi không nói cho ngươi biết sự thật.”
Lưu Dụ đáp: “Chỉ có cách giải thích đó là hợp lý nhất. Không chỉ tiểu Phi cảm giác được tiên môn, mà Tôn Ân cũng đồng thời cảm giác được. Chính vì thế, từ đó đến nay, Tôn Ân ngoài trừ việc liên quan đến tiên môn thì hoàn toàn không còn hứng thú gì nữa.”
Đồ Phụng Tam lắc đầu: “Lời ngươi chỉ nói đúng một phần. Ít nhất thì Tôn Ân vẫn có hứng thú rất lớn đối với tiểu Phi.”
Lưu Dụ đáp: “Lão đối với tiểu Phi có hứng thú có khả năng vẫn là có quan hệ với tiên môn.”
Đồ Phụng Tam hít sâu một hơi nói: “Ngươi nói làm ta cảm thấy rợn cả gai ốc lên rồi. Những việc đó có lẽ ít nghĩ đến thì tốt hơn.”
Tiếng vó ngựa từ xa vọng tới. Một đội kỵ quân Bắc Phủ binh đang phóng về phía bọn họ.
Hai người vội rời khỏi nơi ẩn nấp.

***

Yến Phi đã hiểu rõ.
Trước khi trời sáng vài canh giờ, chàng đứng trên mái một nhà dân ở bờ nam sông Tần Hoài, nhìn sang cảnh sắc ban đêm bờ đối diện. Phía trái là Tần Hoài lâu và Hoài Nguyệt lâu đối diện với nhau qua một con sông. Tiếp đó là Chu Tước kiều nối liền hai bờ.
Lúc này, Kiến Khang vẫn trong trạng thái giới nghiêm. Trong thành đèn lửa tối thui, chỉ có tiếng bước chân của từng đội vệ binh tuần tra, cảm giác vô cùng khẩn trương.
Tuy nói An Ngọc Tình là nữ nhân không câu nệ tục lễ giang hồ, nhưng lúc nàng đang ngủ mà đến đánh thức nàng thì cũng không hay lắm. Vì thế chàng chỉ còn cách ở đây đợi đến lúc trời sáng.
Chàng đã nghĩ thông tại sao Ma môn lại phái cao thủ chặn đánh chàng trước khi chàng phó ước với Tôn Ân.
Trận này, Ma môn không được như tính toán chỉ vì đã đánh giá quá thấp chàng. Nhưng cũng không nên trách chúng vì dù chúng liên thủ quyết chiến với những cao thủ kinh nghiệm phong phú, mưu kế sâu xa, nhưng tính không ra được trên thế gian lại có công pháp đáng sợ hoàn toàn vượt khỏi võ học thông thường của thế gian là “Tiên Môn kiếm quyết”.
Tôn Ân từng hai lần giao thủ với chàng, cũng không cách gì giết chết chàng. Người của Ma môn chính là sợ lịch sử lặp lại nên mới giúp Tôn Ân một tay. Theo tính toán của chúng thì dù Yến Phi ba đầu sáu tay nhưng dưới sự vây công liên thủ của ba đại cao thủ hàng đầu của Ma môn, chàng có thể giữ mạng đột vây đã là vô cùng khó khăn rồi, nhưng kiểu gì cũng thụ thương thế nhất định. Vậy thì khi chàng giao thủ với Tôn Ân tất không cách gì sống sót được.
Kết quả đương nhiên nằm ngoài ý liệu của Ma môn. Yến Phi đúng là đã thụ thương, nhưng ba đại cao thủ Ma môn lại đều nuốt hận ở hoang trấn, tổn thất thảm trọng.
Thương thế mà ba đại cao thủ Ma môn gây ra cho Yến Phi chỉ là tạm thời. Trước khi tới Động Đình Tây Sơn, chàng đã phục nguyên rồi, có thể toàn lực ứng phó Tôn Ân. Cũng vì thế mà không bị thất bại, lần thứ ba vượt qua Tôn Ân toàn lực thi triển "Hoàng Thiên đại pháp" mà vẫn có thành quả huy hoàng an toàn rút lui.
Nhưng thương thế mà Tôn Ân gây ra rõ ràng khác với thương thế do ba đại cao thủ Ma môn gây ra cho chàng. Nếu đem so sánh thì ba đại cao thủ Ma môn chỉ có thể gây thương thế ngoài da, nhưng thương thế do Tôn Ân gây ra lại thâm nhập lục phủ ngũ tạng. Đó đương nhiên chỉ để so sánh, nhưng nếu nói cho hết thì cuộc chiến với Tôn Ân làm chàng tổn hại tới căn nguyên, tuyệt không dễ dàng khỏi được.
Trên đường trở lại Kiến Khang, chàng toàn lực trị liệu thương thế, nhưng đến lúc này vẫn chưa thấy khởi sắc chút nào. Một ngày thương thế chưa lành thì chàng không cách gì thi triển “Tiên Môn kiếm quyết”. Nếu không, sẽ giống như tự sát không sai.
Làm chàng kinh sợ nhất là chàng mất đi cảm ứng về linh giác. Như lúc này, chàng thân ở Kiến Khang nhưng không cách nào cảm ứng được An Ngọc Tình trong Quy Thiện tự. Nói cách khác, trước khi thương thế thuyên giảm, chàng không thể liên hệ thông tin với Thiên Thiên. Đây là việc chàng lo lắng nhất.
Chàng có cảm giác như đã bị phế hết võ công. Nếu như ba đại cao thủ Ma môn từ địa phủ sống lại, vây công thì chàng tất “chết” không sai.
Suy nghĩ này làm chàng không thể không thừa nhận sự uy hiếp của Ma môn đối với chàng. Chỉ có Lý Thục Trang biết chàng phải đi phó hội sinh tử với Tôn Ân, chỉ trong một đêm đã có thể an bài ba đại cao thủ Ma môn đến tập kích chàng trên đường đi là đủ biết Ma môn ở Kiến Khang có đồng đảng rất nhiều mới có thể trong thời gian ngắn như vậy mà điều động được nhân thủ.
Lý Thục Trang đương nhiên hiểu được nếu chàng có thể giữ mạng không chết tất sẽ toàn lực trở về Biên Hoang tập, mà Kiến Khang là nơi chàng phải đi qua. Quy Thiện tự cũng là nơi chàng tất sẽ đến.
Ma môn còn thủ đoạn nào đối phó với chàng nữa?
Mình có nên tiên phát chế nhân, đến Hoài Nguyệt lâu cảnh cáo Lý Thục Trang không? Giả sử Lý Thục Trang là cao thủ đã nhìn trộm bên cạnh khi chàng và bọn Vệ Nga quyết chiến. Lại giả thiết thị không nhìn ra được ta đã thụ nội thương nghiêm trọng thì thị có biết khó mà lùi, hoặc không dám khinh cử vọng động không?
Suy nghĩ này làm chàng cảm thấy kích thích, là cảm giác hiểm trung cầu thắng, càng làm đối phương đoán không ra chàng đã thụ thương.
Chỗ làm Yến Phi do dự nhất là chàng không hiểu rõ chỗ ở của Lý Thục Trang. Đến như việc bây giờ thị có ở Hoài Nguyệt lâu hay không chàng cũng không rõ.
Nghĩ tới đây, trong lòng Yến Phi phát sinh cảnh giác, đưa mắt nhìn qua liền thấy một đạo nhân ảnh từ trên bình đài sát cạnh sông của Hoài Nguyệt lâu nhoáng lên, chạy về phía Đại Giang.
Yến Phi giữ tâm tĩnh lặng, triển khai thân pháp vọt đi.