CHƯƠNG 11

     hứ Hai, sau khi tan học, Vee thả tôi ở thư viện. Tôi nán lại bên ngoài một lát để gọi điện báo cáo cho mẹ tôi như thường lệ. Vẫn như mọi lần, bà bảo tôi rằng công việc làm bà bận bù đầu, và tôi bảo bà rằng việc học của tôi cũng thế.
Khi đã vào bên trong, tôi đi thang máy lên phòng máy tính trên tầng ba, kiểm tra e-mail, vào Facebook, và xem lướt qua trang blog của Perez Hilton. Chỉ để hành hạ bản thân, tôi lại tìm kiếm Bàn Tay Đen lần nữa. Vẫn là những đường dẫn giống hệt lần trước. Chẳng phải tôi cũng không mong chờ tìm được cái gì mới sao? Cuối cùng, không còn trì hoãn được nữa, tôi đành mở sách Hóa và chăm chú học bài.
Lúc tôi ngừng tay để đi tìm một cái máy bán hàng tự động thì đã khá muộn. Bên ngoài những ô cửa sổ phía tây của thư viện, mặt trời đã lặn sâu xuống đường chân trời, bóng tối đang ập tới. Tôi đi vòng qua thang máy để sử dụng cầu thang bộ, vì cảm thấy cần phải tập thể dục một chút. Tôi đã ngồi quá lâu, chân tôi đang bắt đầu tê mỏi.
Ở tiền sảnh, tôi nhét vài đô-la vào máy bán hàng tự động và mang những cái bánh quy xoắn và một lon nước nam việt quất trở lên tầng ba. Khi tôi quay lại phòng máy tính, Vee đang ngồi ở bàn tôi, đôi giày cao gót màu vàng bóng loáng của nó gác trên ghế tôi. Vẻ mặt nó là một sự kết hợp giữa tự mãn và khó chịu. Nó giơ lên một cái phong bì màu đen, kẹp giữa hai ngón tay.
“Cái này là dành cho cậu,” nó nói, ném cái phong bì lên bàn. “Và đây nữa.” Nó giơ một túi bánh lên, miệng túi được buộc xoắn lại. “Chắc là cậu đói rồi.”
Tôi nhòm vào trong túi. “Bánh nướng!”
Vee nhe răng cười. “Cô bán bánh nói với mình rằng chúng là thực phẩm hữu cơ đấy. Không biết làm thế nào mà họ làm được những cái bánh hữu cơ, và cũng không biết tại sao chúng lại đắt hơn những cái bánh thông thường, nhưng cậu cứ ăn đi đã.”
“Cậu đúng là vị anh hùng của mình.”
“Cậu định ở đây bao lâu nữa?”
“Cùng lắm là nửa tiếng.”
Nó đặt chìa khóa của chiếc Neon cạnh ba lô của tôi. “Rixon và mình sẽ đi ăn, vì vậy tối nay cậu phải về một mình rồi. Mình đỗ chiếc Neon ở ga-ra dưới tầng hầm. Dãy B. Bình xăng của mình chỉ còn một phần tư thôi, vì thế đừng dùng hoang quá.”
Tôi cầm lấy chìa khóa, cố gắng lờ đi cảm giác nhoi nhói khó chịu trong tim mà tôi lập tức nhận ra là sự ghen tị. Tôi ghen tị với mối tình mới của Vee và Rixon. Ghen tị với những kế hoạch ăn tối của nó. Ghen tị vì giờ đây nó gần gũi với Patch hơn tôi, bởi vì dù Vee chưa bao giờ nhắc đến, nhưng tôi dám chắc nó vẫn gặp Patch khi nó đi cùng Rixon. Theo những gì tôi biết, ba người họ xem phim cùng nhau vào buổi tối. Ba người họ, nằm ườn trên sofa nhà Rixon, trong khi tôi ngồi trong căn nhà trại một mình. Tôi tha thiết muốn hỏi Vee về Patch, nhưng vấn đề là, tôi không thể. Tôi đã chia tay anh. Đã phóng lao thì phải theo lao.
Tuy nhiên, chỉ một câu hỏi nhỏ thì có hại gì chứ?
“Vee này?”
Nó quay lại từ ngưỡng cửa. “Ơi?”
Tôi mở miệng, và đó là lúc tôi nhớ ra lòng kiêu hãnh của mình. Vee là bạn thân nhất của tôi, nhưng nó cũng là đứa không biết giữ mồm giữ miệng. Nếu tôi hỏi về Patch, có nguy cơ anh sẽ được nghe kể lại về điều đó. Anh sẽ biết tôi đang khổ sở thế nào sau khi chia tay anh.
Tôi mỉm cười. “Cảm ơn vì những cái bánh nướng.”
“Mình sẵn lòng làm bất cứ điều gì cho cậu, cưng ạ.”
Sau khi Vee rời đi, tôi lột lớp giấy lót của một cái bánh và ăn một mình trong tiếng kêu vo vo của máy móc ở phòng máy tính.
Tôi làm bài tập thêm nửa tiếng nữa, ăn thêm hai cái bánh nướng, trước khi tôi liếc thấy cái phong bì màu đen. Tôi đã quên khuấy rằng Vee đã đặt nó trên bàn.
Tôi mở phong bì, lôi ra tấm thiệp màu đen với một hình trái tim nhỏ rập nổi ở giữa. Trên đó có hai chữ xin lỗi. Tấm thiệp được xức một thứ nước hoa vừa ngọt vừa đắng. Tôi đưa tấm thiệp lên mũi và hít thật mạnh, cố gắng nhớ lại xem mình đã từng ngửi thấy thứ mùi kỳ lạ khiến đầu óc choáng váng này ở đâu chưa. Mùi quả bị cháy và gia vị hóa học xộc thẳng vào họng tôi. Tôi mở tấm thiệp.
Tối qua anh thật ngốc nghếch. Tha thứ cho anh nhé?
Đột nhiên tôi gạt tấm thiệp ra xa. Patch.Tôi không biết lời xin lỗi này của anh có ý nghĩa gì, nhưng tôi không thích sự bối rối nó gây ra trong tôi. Phải, anh là một kẻ ngớ ngẩn. Và anh nghĩ một tấm thiếp mua ở ngoài hàng có thể phủ nhận điều đó sao? Nếu vậy, anh đang đánh giá quá thấp những tổn thương mà anh đã gây ra cho tôi rồi đấy. Anh đã hôn Marcie. Hôn nó! Không những thế, anh còn chui vào giấc mơ của tôi. Tôi không biết anh làm thế nào, nhưng khi thức dậy vào buổi sáng, tôi biết anh đã ở đó. Đó không chỉ là một nỗi lo lắng nho nhỏ. Nếu anh có thể xâm phạm những giấc mơ riêng tư của tôi, anh còn có thể làm những gì nữa?
“Mười phút nữa là đóng cửa,” một thủ thư thì thầm ở ngưỡng cửa.
Tôi đặt lệnh in bài tiểu luận dài ba đoạn về axít amin, rồi cất sách vào ba lô. Tôi cầm tấm thiếp của Patch lên, do dự một lúc, rồi xé nó thành nhiều mảnh và quẳng vào thùng rác. Nếu anh muốn xin lỗi tôi, anh phải trực tiếp làm điều đó. Không phải qua Vee, và không phải trong những giấc mơ của tôi.
Đi được nửa chừng trên lối đi dẫn đến máy in, tôi đưa tay ra bám vào cái bàn gần nhất. Phần bên phải cơ thể tôi nặng hơn phần bên trái, và tôi chao đảo. Tôi bước thêm một bước, và chân phải tôi khuỵu xuống, như thể nó được làm bằng giấy. Tôi thụp xuống, bám cả hai tay vào bàn, nhét đầu vào giữa hai khuỷu tay để máu lưu thông lên não trở lại. Một cảm giác râm ran, uể oải cuồn cuộn lan trong các tĩnh mạch của tôi.
Tôi loạng choạng đứng dậy, nhưng các bức tường có gì đó không ổn. Chúng dài và hẹp một cách bất thường, như thể tôi đang nhìn chúng qua một cái gương ở ngôi nhà vui nhộn. Tôi chớp chớp mắt vài lần, cố tập trung ánh nhìn vào một tiêu điểm.
Xương tôi như chứa đầy sắt, không chịu cử động, và mí mắt tôi díp lại dưới ánh đèn huỳnh quang lóa mắt. Tôi hoảng hốt ra lệnh cho chúng mở ra, nhưng cơ thể tôi không chịu tuân theo. Tôi cảm thấy những ngón tay ấm áp bám quanh tâm trí tôi, đe dọa lôi kéo nó vào giấc ngủ.
Mùi nước hoa, tôi mơ hồ nghĩ. Trong tấm thiệp của Patch.
Lúc này tôi đang bò. Những hình chữ nhật kỳ lạ chập chờn xung quanh, xoay tròn trước mắt tôi. Cửa. Những cánh cửa để ngỏ sắp thành hàng trên tường. Nhưng tôi càng bò nhanh về phía chúng bao nhiêu, chúng càng nhảy lùi lại nhanh chóng bấy nhiêu. Xa xa, tôi nghe tiếng tích tắc mơ hồ. Tôi di chuyển về phía ngược lại với nơi phát ra âm thanh ấy, vì lúc này tôi vẫn còn đủ minh mẫn để biết rằng đồng hồ nằm ở cuối phòng, đối diện với cửa.
Lát sau, tôi nhận ra chân tay tôi không còn cử động nữa, cảm giác bò chỉ còn là một ảo ảnh trong đầu tôi. Má tôi áp lên tấm thảm công nghiệp xù xì. Tôi cố gắng đứng dậy một lần nữa, rồi nhắm mắt, toàn bộ ánh sáng biến mất.
Tôi tỉnh dậy trong bóng tối.
Không khí lạnh nhân tạo râm ran trên da tôi, tiếng máy chạy êm ru. Tôi chống tay xuống đất, nhưng khi tôi cố gắng nâng mình dậy, mắt tôi hoa lên. Tôi nuốt khan và lật mình lại.
Đó là lúc tôi nhớ rằng tôi vẫn đang ở trong thư viện. Ít nhất thì tôi chắc chắn rằng tôi đã ở đó. Tôi nhớ là mình chưa hề rời đi. Nhưng tôi đang làm gì trên sàn? Tôi cố gắng nhớ xem vì sao tôi lại nằm ở đây.
Tấm thiệp của Patch. Tôi đã hít mùi hương vừa thơm vừa khen khét ấy. Ngay sau đó, tôi ngã sụp xuống sàn.
Phải chăng tôi đã bị đánh thuốc mê?
Patch đã đánh thuốc mê tôi?
Tôi nằm đó, tim đập thình thịch, chớp mắt liên tục. Tôi cố gắng đứng dậy lần nữa, nhưng có cảm giác như ai đó đã chặn chiếc giày ống thép vào giữa ngực tôi. Tôi lại nhấc mình lên, lần này quyết tâm hơn, và ngồi dậy được. Tôi bám vào một cái bàn, gắng gỏi đứng lên. Đầu óc tôi choáng váng, nhưng mắt tôi đã xác định được tấm biển đề lối ra màu xanh đang nhòa nhạt phía trên cửa phòng máy tính. Tôi lảo đảo đi về phía đó.
Tôi xoay nắm đấm cửa. Cánh cửa mở ra một chút, rồi khựng lại. Tôi định kéo mạnh hơn thì một thứ gì đó ở phía bên kia lớp kính lắp trên cửa chính đập vào mắt tôi. Tôi cau mày. Thật kỳ cục.Ai đó đã buộc một đầu dây vào tay nắm cửa phía ngoài, còn đầu dây bên kia buộc vào tay nắm cửa của căn phòng kế bên.
Tôi đập tay vào lớp kính cửa. “Có ai không?” Tôi run rẩy hét lên. “Có ai nghe thấy tôi không?”
Tôi thử mở cánh cửa lần nữa, kéo mạnh hết sức, nhưng chẳng ăn thua gì, vì cơ bắp tôi có vẻ đã tan ra như bơ nóng chảy ngay lúc tôi vận sức dùng nó. Cái dây được chăng quá căng giữa hai tay nắm cửa, tôi chỉ có thể mở cho cánh cửa hé ra khoảng hơn chục phân. Không đủ để len qua.
“Có ai ở đó không?” Tôi hét lên qua khe cửa mở. “Tôi bị kẹt trên tầng ba!”
Chỉ có sự im lặng đáp lại tôi.
Mắt tôi lúc này đã hoàn toàn thích nghi với bóng tối, và tôi tìm cái đồng hồ trên tường. Mười một giờ? Có thật không? Tôi đã ngủ hơn hai tiếng ư?
Tôi lôi điện thoại ra, nhưng nó không có tín hiệu. Tôi cố đăng nhập vào Internet nhưng liên tục nhận được thông báo rằng không có kết nối mạng nào.
Tôi hoảng hốt nhìn quanh phòng máy tính, quét mắt qua tất cả các đồ vật, tìm một thứ mà tôi có thể sử dụng để thoát ra ngoài. Máy vi tính, ghế quay, tủ đựng tài liệu... không có cái nào lọt vào mắt tôi. Tôi quỳ xuống bên cạnh lỗ thông trên sàn và hét lớn: “Có ai nghe thấy không? Tôi bị kẹt trong phòng máy tính trên tầng ba!” Tôi chờ đợi, cầu mong sẽ nghe thấy một tiếng trả lời. Hy vọng duy nhất của tôi là vẫn còn một người thủ thư ở đây, hoàn tất nốt công việc cuối cùng trước khi về nhà. Nhưng lúc này chỉ còn một tiếng nữa là đến nửa đêm, và tôi biết khả năng đó sẽ không xảy ra.
Bên ngoài, phía cuối hành lang, có tiếng thang máy lách cách đi từ tầng trệt lên. Tôi quay ngoắt về phía tiếng động.
Có lần, hồi tôi mới lên bốn hoặc năm tuổi, bố tôi đã dẫn tôi ra công viên để dạy tôi đi xe đạp mà không cần lắp bánh phụ. Đến cuối buổi chiều, tôi đã có thể tự mình đi được một vòng khoảng một phần tư dặm. Bố tôi ôm tôi thật chặt và bảo tôi đã đến lúc về nhà để biểu diễn cho mẹ tôi xem. Tôi đòi đi thêm hai vòng nữa, và chúng tôi thỏa thuận là tôi chỉ được đi một vòng nữa thôi. Sau khi đạp xe được nửa vòng, tôi bị mất thăng bằng và ngã uỵch xuống. Khi đang dựng xe lên, tôi thấy cách chỗ tôi không xa lắm có một con chó to màu nâu. Nó đang nhìn tôi chằm chằm. Lúc đó, khi chúng tôi đang đứng nhìn nhau, tôi nghe một giọng nói thì thầm, Đừng cử động. Tôi hít vào một hơi mà không thở ra, cho dù chân tôi muốn chạy nhanh hết mức có thể đến chốn an toàn bên bố tôi.
Tai con chó vểnh lên và nó bắt đầu chạy xổ về phía tôi. Tôi run rẩy sợ hãi nhưng vẫn đứng yên. Con chó càng đến gần, tôi càng muốn chạy, nhưng tôi biết nếu tôi cử động, bản năng săn đuổi của con chó sẽ bị kích thích. Mới chạy được nửa chừng về phía tôi, con chó đã mất hứng thú với thân hình im như tượng của tôi và chuyển hướng. Tôi đã hỏi bố tôi liệu ông có nghe thấy giọng nói bảo tôi đứng yên không, và ông nói đó là bản năng của tôi. Nếu tôi lắng nghe nó, hầu như tôi sẽ luôn có cách giải quyết đúng đắn.
Bây giờ bản năng của tôi đang lên tiếng. Ra ngoài.
Tôi tóm lấy cái màn hình máy tính ở bàn gần nhất và ném nó vào cửa sổ. Kính cửa vỡ tan, tạo ra một lỗ hổng lớn ở giữa. Tôi chộp lấy thanh đột lỗ trên bàn để văn phòng phẩm ngay cạnh cửa và đập những mảnh kính còn lại. Rồi tôi lôi một cái ghế tới chỗ đó, trèo lên, đặt chân lên khung cửa sổ và nhảy ra ngoài hành lang.
Thang máy rít lên và di chuyển lên cao hơn, đi qua tầng hai.
Tôi chạy hết tốc lực trên hành lang. Cánh tay tôi vung mạnh hơn vì tôi biết tôi phải đến được cầu thang bộ ngay kế bên thang máy trước khi thang máy lên cao hơn và người đang ở bên trong đó thấy tôi. Tôi mở cửa cầu thang bộ, tốn mất vài phút quý giá vì phải đóng nó lại sao cho nó không gây ra một tiếng động nào. Phía bên kia cửa, thang máy dừng lại. Cửa thang máy lạch cạch mở và một người bước ra. Tôi bám vào tay vịn cầu thang để di chuyển nhanh hơn, bước rón rén trên các bậc thang. Tôi đi được nửa chừng xuống tầng thứ hai thì cửa cầu thang bộ bật mở. Tôi dừng bước, không muốn đánh động người đang ở trên kia.
Nora?
Tay tôi trượt khỏi thanh vịn. Đó là giọng của bố tôi. 
Nora? Con có ở đó không?
Tôi nuốt khan, muốn đáp lại ông. Rồi tôi nhớ lại ngôi nhà hoang lần trước.
Đừng trốn nữa. Hãy tin bố. Để bố giúp con. Hãy bước ra đây để bố có thể thấy con.
Giọng ông nghe xa lạ và khắt khe. Lúc ở căn nhà hoang, khi lần đầu ông nói với tôi, giọng ông nhẹ nhàng và dịu dàng. Giọng nói đó bảo với tôi rằng chúng tôi không chỉ có một mình và tôi cần rời đi ngay. Khi ông cất tiếng lần nữa, giọng ông đã khác. Nghe mạnh mẽ và dối trá. Phải chăng bố tôi đã cố liên lạc với tôi? Phải chăng ông đã bị đuổi đi, và giọng nói xa lạ sau đó là giọng của một người khác đóng giả ông? Tôi chợt nghĩ ra rằng có thể ai đó đã mạo nhận là bố tôi để dụ tôi lại gần.
Tiếng bước chân nặng nề chạy xuống cầu thang lôi tôi ra khỏi những suy đoán. Hắn đang đuổi theo tôi.
Tôi chạy xuống cầu thang, không còn bận tâm đến chuyện giữ im lặng nữa. Nhanh lên! Tôi thầm hét lên với chính mình. Chạy nhanh lên!
Hắn đang xuống tới tầng trệt, gần như chỉ còn cách tôi một tầng thang nữa. Khi tôi đặt chân xuống tầng trệt, tôi xô qua cửa cầu thang, băng qua tiền sảnh, lao qua cửa chính vào màn đêm.
Không khí ấm áp và tĩnh lặng. Tôi đang chạy về phía những bậc thềm xi măng dẫn xuống đường thì bỗng đổi ý. Tôi trèo qua thanh lan can phía bên trái cửa, nhảy xuống khoảnh sân nhỏ trồng cỏ bên dưới. Phía trên tôi, cửa thư viện mở ra. Tôi áp lưng vào bức tường xi măng, chân tôi giẫm lên và làm khuấy động đám rác rưởi và những búi cỏ lăn.
Lúc nghe thấy tiếng giày từ từ bước xuống những bậc thềm xi măng, tôi chạy dọc theo khối nhà. Thư viện không có bãi đỗ xe riêng; nó dùng chung ga-ra với trụ sở tòa án. Tôi chạy xuống bãi đỗ xe, luồn qua thanh chắn ở lối ra vào, và đi tìm chiếc Neon. Vee nói nó đã đỗ xe ở đâu nhỉ?
Dãy B...
Tôi chạy qua dãy đầu tiên và thấy đuôi chiếc Neon thò ra. Tôi tra chìa khóa vào ổ, chui vào sau tay lái và nổ máy. Tôi vừa lái chiếc Neon về phía lối ra thì một chiếc SUV sẫm màu đột nhiên xuất hiện. Kẻ lái xe nhấn ga, lao thẳng về phía tôi.
Tôi vào số hai và nhấn ga, vọt lên phía trước chiếc SUV vài giây trước khi nó kịp chắn lối ra và nhốt tôi bên trong ga-ra.
Tâm trí tôi kiệt quệ đến nỗi không thể nghĩ cho thông suốt là tôi sẽ đi đâu. Tôi băng qua hai dãy nhà nữa, phóng vèo qua một biển cấm, rồi rẽ vào phố Walnut. Chiếc SUV lao vào phố Walnut sau tôi, bám đuôi tôi. Giới hạn tốc độ ở đây là bốn mươi lăm dặm một giờ, và con đường tăng lên thành hai làn xe. Tôi tăng tốc chiếc Neon lên năm mươi dặm một giờ, vừa nhìn đường vừa liếc vào kính chiếu hậu.
Tôi đột ngột bẻ lái, rẽ vào một con đường nhánh. Chiếc SUV cua sát sạt vào lề đường, bám đuổi tôi. Tôi rẽ phải thêm hai lần nữa, đi vòng quanh khối nhà, và trở lại phố Walnut. Tôi lách lên trên một chiếc xe hơi hai cửa màu trắng, để nó chặn giữa tôi và chiếc SUV. Đèn giao thông trước mặt chuyển sang màu vàng, và tôi lao vọt qua giao lộ khi đèn đỏ sáng lên. Mắt vẫn dán vào gương chiếu hậu, tôi thấy cái xe màu trắng dừng lại. Đằng sau nó, chiếc SUV phanh kin kít trên mặt đường.
Tôi thở hồng hộc. Tim đập thình thịch, và tay tôi bám chặt vô lăng.
Tôi theo đường Walnut lên đồi, nhưng ngay khi xuống đồi, tôi băng qua đám xe cộ đang lao tới và rẽ trái. Xe tôi xóc nảy khi băng qua đường ray xe lửa, rồi len lỏi qua một khu vực tối tăm, đổ nát gồm toàn những căn nhà một tầng xây bằng gạch. Tôi biết mình đang ở đâu: Slaughterville. Nơi này có biệt danh đó từ hơn một thập kỷ trước, khi ba thanh thiếu niên bắn gục nhau tại một sân chơi.
Tôi giảm tốc độ khi nhìn thấy một ngôi nhà nằm cách đường cái khá xa. Không có ánh đèn. Một cái ga-ra riêng biệt trống không để ngỏ nằm ở phía cuối khuôn viên ấy. Tôi cho chiếc Neon chạy lùi vào lối xe chạy và vào trong ga-ra. Sau khi kiểm tra kỹ lưỡng rằng cửa xe đã khóa chặt, tôi tắt đèn pha. Tôi chờ đợi, sợ rằng bất cứ lúc nào đèn pha của chiếc SUV cũng sẽ quét qua quét lại trên đường phố.
Tôi lục xắc, lôi điện thoại ra.
“Ơi,” Vee trả lời.
“Có ai khác chạm vào tấm thiệp của Patch không?” Tôi hỏi rất nhanh.
“Hả?”
“Patch có trực tiếp đưa tấm thiệp cho cậu không? Hay là Rixon? Còn có ai chạm vào nó nữa không?”
“Cậu hỏi làm gì?”
“Mình nghĩ mình đã bị đánh thuốc mê.”
Im lặng.
“Cậu nghĩ tấm thiệp đã được tẩm thuốc mê?” Cuối cùng Vee nghi ngờ hỏi lại.
“Tấm thiệp được xức nước hoa,” tôi kiên nhẫn giải thích. “Nói mình nghe ai đã đưa nó cho cậu. Hay chính xác thì cậu có được nó bằng cách nào.”
“Trên đường mình đến thư viện để đưa bánh nướng cho cậu, Rixon đã gọi điện hỏi xem mình ở đâu,” nó ề à kể. “Bọn mình đã gặp nhau ở thư viện, lúc ấy Patch đang ngồi cạnh Rixon trong xe. Patch đưa tấm thiệp cho mình và nhờ mình đưa nó cho cậu. Mình mang tấm thiệp, bánh nướng và chìa khóa chiếc Neon vào cho cậu, rồi quay trở ra gặp Rixon.”
“Không còn ai khác chạm vào tấm thiệp chứ?”
“Không ai cả.”
“Chưa đầy nửa tiếng sau khi ngửi tấm thiệp, mình đã bị ngã quỵ xuống sàn. Hai tiếng sau mình mới tỉnh lại được.”
Vee không đáp lời ngay, và tôi gần như có thể nghe thấy nó đang suy nghĩ, cố gắng “tiêu hóa” chuyện này. Cuối cùng nó nói, “Cậu có chắc không phải là do kiệt sức không? Cậu đã ở trong thư viện rất lâu mà. Mình không thể làm bài tập lâu như thế mà không chợp mắt một lúc.”
“Khi mình tỉnh dậy,” tôi tiếp tục, “còn có người khác ở trong thư viện với mình. Mình nghĩ đó chính là người đã đánh thuốc mê mình. Hắn đuổi theo mình qua thư viện. Mình đã ra ngoài, nhưng hắn đuổi theo mình đến tận Walnut.”
Lại một quãng ngừng bối rối. “Dù mình không thích Patch, nhưng mình phải nói với cậu thế này, mình không thể tưởng tượng được là cậu ta sẽ đánh thuốc mê cậu. Cậu ta là một kẻ lập dị, điên khùng, nhưng cậu ta cũng có giới hạn.”
“Vậy thì là ai?” Giọng tôi khẽ gắt lên.
“Mình không biết. Cậu đang ở đâu thế?”
“Slaughterville.”
“ Gì cơ? Ra khỏi đó ngay trước khi cậu bị bóp cổ! Đến nhà mình đi. Tối nay hãy ngủ ở đây. Bọn mình sẽ trao đổi về chuyện này. Chúng ta sẽ tìm hiểu chuyện gì đã xảy ra.” Nhưng những lời nói đó chỉ như một sự an ủi vô nghĩa. Vee cũng bối rối như tôi vậy.
Tôi náu mình trong cái ga-ra đó khoảng hai phút nữa rồi mới lấy được can đảm quay trở ra đường. Thần kinh tôi căng thẳng, tâm trí tôi quay cuồng. Tôi không chọn đường Walnut, vì nghĩ rằng lúc này chiếc SUV có thể đang lượn vòng vòng quanh đó, đợi để đuổi theo tôi. Tôi cứ bám theo những con đường nhánh, lờ đi giới hạn tốc độ và vội vàng phóng đến nhà Vee.
Gần đến nhà nó thì tôi nhận thấy có ánh đèn xanh đỏ nhấp nháy trong gương chiếu hậu.
Tôi đỗ chiếc Neon bên đường, gục đầu vào vô lăng. Tôi biết tôi đang phóng quá nhanh, và tôi thấy thất vọng với mình khi làm thế, nhưng tại sao tôi lại đụng độ với cảnh sát vào đêm nay chứ.
Một lát sau, có tiếng gõ cửa sổ xe. Tôi nhấn nút hạ kính cửa xuống.
“Chà, chà,” thám tử Basso nói. “Lâu rồi không gặp.”
Sao không phải một cảnh sát khác, tôi nghĩ. Bất cứ người nào.
Ông ta chìa tập giấy phạt ra. “Bằng lái và giấy đăng ký xe, cháu biết thủ tục rồi đấy.”
Vì biết chẳng thể năn nỉ ỉ ôi để khỏi bị phạt, nhất là với thám tử Basso, tôi thấy giả vờ ăn năn cũng chẳng ích gì. “Cháu không biết nghề thám tử lại bao gồm cả việc viết giấy phạt vi phạm giới hạn tốc độ.”
Ông ta nở nụ cười mỏng như lưỡi dao. “Sao phải chạy xe như ma đuổi thế?”
“Cháu nhận giấy phạt và về nhà được không ạ?”
“Trong xe có rượu không?”
“Chú xem đi,” tôi nói, chìa tay ra vẻ “cứ tự nhiên”.
Ông ta mở cửa xe cho tôi. “Ra ngoài.”
“Tại sao ạ?”
“Ra ngoài,” ông ta chỉ vào vạch phân cách chia đôi con đường, “và bước trên vạch phân cách kia.”
“Chú nghĩ cháu bị say à?”
“Tôi nghĩ là cháu bị điên, nhưng tôi đang kiểm tra sự tỉnh táo của cháu.”
Tôi nhảy ra và đóng sầm cửa lại. “Đi bao xa ạ?”
“Cho đến khi tôi bảo cháu dừng lại.”
Tôi tập trung vào việc đặt chân lên vạch phân cách, nhưng mỗi khi tôi nhìn xuống, hình ảnh trước mắt tôi lại chao đảo. Tôi có thể cảm thấy tác động của thuốc mê vẫn còn ảnh hưởng tới khả năng phối hợp của tôi, và càng tập trung đi đúng vạch bao nhiêu, tôi càng cảm thấy mình đang bước chệch ra ngoài. “Chú không thể chỉ đưa cháu giấy phạt, cảnh cáo cháu và để cháu về nhà ạ?” Giọng tôi tỏ vẻ ương ngạnh, nhưng trong lòng run rẩy. Nếu tôi không thể đi thẳng, thám tử Basso có thể tống tôi vào tù. Tôi đã quá hoang mang rồi, và tôi không nghĩ tôi có thể chịu được một đêm ngồi sau song sắt. Chẳng may cái gã trong thư viện lại bám theo tôi một lần nữa thì sao?
“Nhiều cảnh sát ở những thị trấn nhỏ sẽ để cháu thoát tội dễ dàng. Vài người thậm chí còn nhận hối lộ. Nhưng tôi không phải một người trong số họ.”
“Nếu cháu bị đánh thuốc mê thì sao?”
Ông ta cười chế nhạo. “Đánh thuốc mê.”
“Lúc nãy bạn trai cũ của cháu đã đưa cháu một tấm thiệp xức nước hoa. Cháu đã mở tấm thiệp ra, và điều tiếp theo mà cháu biết là cháu bị bất tỉnh.”
Khi thám tử Basso không ngắt lời tôi, tôi tiếp tục. “Cháu đã ngủ hơn hai tiếng. Khi cháu tỉnh dậy, thư viện đã đóng cửa. Cháu bị nhốt trong phòng máy tính. Ai đó đã buộc nắm đấm cửa...” Tôi ngừng bặt, lấy tay che miệng.
Ông ta ra hiệu cho tôi tiếp tục. “Tiếp đi. Đừng bỏ dở nửa chừng như vậy.”
Tôi nhận ra khi đã quá muộn rằng tôi vừa tự buộc tội chính mình. Tôi đã ở thư viện, tối nay, trong phòng máy tính. Sáng sớm mai, khi thư viện mở cửa, người ta sẽ báo cảnh sát về cánh cửa sổ bị vỡ. Và tôi biết thám tử Basso sẽ đến tìm ai trước tiên.
“Cháu đã ở trong phòng máy tính,” ông ta giục. “Rồi sao nữa?”
Đã quá muộn để lùi lại. Tôi phải hoàn thành nốt câu chuyện và hy vọng vào điều tốt đẹp nhất. Có lẽ câu chuyện tôi kể sẽ thuyết phục thám tử Basso rằng đó không phải lỗi của tôi – mọi việc tôi làm đều có lý do chính đáng. “Ai đó đã buộc nắm đấm cửa trong phòng máy tính lại. Cháu đã phải ném một cái máy vi tính qua cửa sổ để thoát ra ngoài.”
Ông ta ngả đầu ra sau và cười. “Có một cái tên được dành cho những cô gái như cháu, Nora Grey ạ. Những kẻ khiến cho người khác phải phát điên lên. Cháu giống như một con ruồi mà không ai có thể xua đi.” Ông ta bước trở lại chiếc xe tuần tra của mình và lôi chiếc radio ra ngoài qua cửa sổ mở bên ghế lái. Tín hiệu radio truyền đi, ông ta nói, “Tôi cần ai đó tạt qua thư viện và kiểm tra phòng máy tính. Hãy cho tôi biết các anh thấy những gì.”
Ông ta dựa lưng vào xe, nhìn đồng hồ. “Cháu nghĩ là bao lâu nữa họ sẽ gọi lại cho tôi? Tôi đã có lời khai của cháu, Nora. Tôi có thể bắt cháu vì tội xâm phạm và phá hoại của công.”
“Sao có thể gọi là xâm phạm khi cháu bị người khác nhốt trong đó.” Giọng tôi căng thẳng.
“Nếu có người đánh thuốc mê cháu và nhốt cháu trong thư viện, vậy thì cháu đang làm gì ở đây, lao ầm ầm trên phố Hickory với tốc độ năm mươi lăm dặm một giờ?”
“Cháu đã trốn được khỏi phòng khi hắn đi thang máy lên để bắt cháu.”
“Hắn? Cháu đã thấy hắn à? Hãy mô tả chi tiết xem nào.”
“Cháu không nhìn thấy hắn, nhưng hắn là đàn ông. Bước chân của hắn rất nặng nề khi hắn đuổi theo cháu trên cầu thang bộ. Không thể là con gái được.”
“Cháu đang lắp bắp. Thường thì điều đó có nghĩa là cháu đang nói dối.”
“Cháu không nói dối. Cháu bị nhốt trong phòng máy tính, và có người đang đi thang máy lên để đến bắt cháu.”
“Phải.”
“Còn ai khác có thể ở trong thư viện muộn đến thế?” Tôi gắt gỏng.
“Một viên bảo vệ?” Ông ta dễ dàng đáp.
“Hắn không ăn mặc giống bảo vệ. Khi cháu nhìn lên cầu thang, cháu thấy hắn mặc quần sẫm màu và đi giày tennis cũng sẫm màu.”
“Vậy khi tôi dẫn cháu ra tòa, cháu sẽ bảo với quan tòa rằng cháu là chuyên gia về trang phục của nhân viên bảo vệ hả?”
“Gã đó theo cháu ra ngoài thư viện, vào xe và đuổi theo cháu. Nhân viên bảo vệ sẽ không làm thế.”
Radio có tín hiệu, và thám tử Basso ngó vào trong xe để nghe.
“Đã kiểm tra thư viện xong,” một giọng nam cất lên qua radio. “Không có gì cả.”
Thám tử Basso nhìn tôi với ánh mắt nghi ngờ, lạnh lẽo. “Không có gì? Anh chắc chứ?”
“Tôi nhắc lại: không có gì.”
Không có gì? Thay vì nhẹ nhõm, tôi lại thấy hoảng hốt. Tôi đã đập vỡ cửa sổ phòng máy tính. Tôi đã làm thế. Đó là sự thật. Đó không phải sự tưởng tượng của tôi. Đó – không – phải.
Bình tĩnh lại! Tôi ra lệnh cho mình. Chuyện này đã từng xảy ra. Nó không phải điều gì mới mẻ. Trước đây, đó luôn là một trò thao túng trí óc. Có ai đó đứng đằng sau cố gắng điều khiển tâm trí tôi. Phải chăng chuyện đó đang lặp lại? Nhưng... tại sao? Tôi cần suy nghĩ chuyện này thật kỹ. Tôi lắc lắc đầu, hy vọng điệu bộ đó sẽ giúp tôi có được câu trả lời.
Thám tử Basso xé tờ giấy phạt trên cùng và nhét vào tay tôi.
Mắt tôi quét qua số tiền ghi ở phía dưới. “Hai trăm hai mươi chín đô-la?!”
“Cháu chạy quá tốc độ tới ba mươi dặm và lái một cái xe không phải của cháu. Trả tiền phạt, hoặc tôi sẽ gặp cháu tại tòa.”
“Cháu... Cháu không có từng này tiền.”
“Kiếm việc làm đi. Có lẽ điều đó sẽ giúp cháu thoát khỏi rắc rối.”
“Xin chú đừng làm vậy,” tôi nài nỉ.
Thám tử Basso nhìn tôi chăm chú. “Hai tháng trước, một đứa trẻ không có giấy tờ tùy thân, không có gia đình và không lần được chút manh mối nào về quá khứ đã bị chết ở phòng tập thể dục của trường trung học.”
“Cái chết của Jules đã được kết luận là một vụ tự tử mà,” tôi máy móc nói, nhưng gáy lấm tấm mồ hôi. Chuyện đó thì có liên quan gì đến tấm giấy phạt của tôi?
“Vào đêm cậu ta biến mất, bác sĩ tâm lý ở trường cháu đã đốt nhà cháu, rồi cô ta cũng mất hút. Có một mắt xích giữa hai vụ việc kỳ lạ này.” Đôi mắt nâu sẫm của ông ta khiến tôi đứng im. “Chính là cháu.”
“Chú đang nói gì vậy?”
“Hãy nói cho tôi biết chuyện gì đã thực sự xảy ra đêm đó, và tôi có thể bỏ qua chuyện tấm giấy phạt này.”
“Cháu không biết,” tôi nói dối, bởi vì tôi không có sự lựa chọn. Nói ra sự thật sẽ còn tệ hơn là trả tiền phạt. Tôi không thể kể cho thám tử Basso về các thiên thần sa ngã và Nephilim. Ông ta sẽ không bao giờ tin câu chuyện của tôi nếu tôi khai rằng Dabria là thiên thần dẫn đường cho người chết. Hay Jules là hậu duệ của một thiên thần sa ngã.
“Tùy cháu quyết định,” thám tử Basso nói, giơ tấm danh thiếp ra cho tôi trước khi chui vào trong xe. “Nếu cháu đổi ý, cháu biết phải liên lạc với tôi thế nào rồi đấy.”
Tôi nhìn vào tấm danh thiếp khi ông ta rời đi. THÁM TỬ ESCANUS BASSO. 207-555-3333.
Tấm giấy phạt nặng trình trịch trong tay tôi. Nặng nề và bỏng giãy. Tôi kiếm đâu ra hai trăm đô-la bây giờ? Tôi không thể vay tiền mẹ tôi – bà còn không đủ tiền mua thức ăn. Patch có tiền, nhưng tôi đã lỡ bảo anh rằng tôi có thể tự lo cho mình. Tôi đã đuổi anh ra khỏi cuộc đời tôi. Tôi là loại người gì nếu tôi chạy trở lại với anh lúc tôi gặp khó khăn? Điều đó chỉ chứng tỏ rằng ngay từ đầu anh đã đúng.
Điều đó chỉ chứng tỏ rằng tôi cần anh.