Tập 1
CHƯƠNG 2
SƯ PHỤ TÔI LÀ THẦY TƯỚNG SỐ TIẾNG TĂM LẪY LỪNG THỜI DÂN QUỐC

    
hi thể tiên đồng trôi ngược dòng
Tôi tên là Lưu Thiên Lượng. Mẹ nói tôi sinh ra vào lúc trời sắp sáng, do đó cha tôi đã đặt tên cho tôi là Thiên Lượng. Khi mới gia nhập Đường khẩu, mọi người đều gọi tôi là Lượng ngốc, sau này Tổ Gia nói: “Gia nhập Đường khẩu, là huynh đệ một nhà, từ nay về sau không được gọi là Lượng ngốc nữa.” Nhị Bá đầu hỏi: “Vậy gọi là gì?” Tổ Gia nhìn tôi một lượt rồi mỉm cười nói: “Đầu to như vậy, hãy gọi là Đại Đầu đi.” Từ đó về sau, mọi người đều gọi tôi với cái tên Đại Đầu. Nhị Bá đầu thường nói tôi rằng: “Đầu rất to, nhưng bên trong toàn bã đậu.” Có lúc Tổ Gia hỏi tôi: “Đại đầu, có hối hận khi đi theo ta không?” Kỳ thực, nhiều năm trở lại đây, tôi luôn suy nghĩ về vấn đề này, hối hận hay không hối hận? Rõ ràng Tổ Gia biết tôi không phải là người thích hợp làm A Bảo, nhưng ông vẫn cho tôi gia nhập Đường khẩu… Tôi vốn là một tên hầu bàn trong quán trà, nếu không phải Tổ Gia thường xuyên đến uống trà ở quán, tôi cũng sẽ không quen biết ông. Chỗ ngồi của Tổ Gia đều do tôi đặc biệt giữ trước. Trước khi ông đến, tôi đều lau bàn ghế sạch bóng. Ông làm rơi quạt, tôi liền nhặt lên giúp. Ông làm rơi tiền, tôi đều nhặt lấy rồi đuổi theo trả lại. Dần dần, Tổ Gia không còn xem tôi là người ngoài, mỗi lần đến uống trà, đều cao giọng gọi: “Lượng ngốc, cho lão gia ấm trà Long Tỉnh!”
Tôi vui vẻ đáp lời: “Có ngay đây!”
Con người tôi có phần đẫy đà, dáng vẻ ngây ngây ngô ngô nên người trong quán trà đều gọi tôi là Lượng ngốc. Thực ra, ngốc hay không, trong lòng tôi là người rõ nhất, chúng ta đều là dân đen bách tính, rơi vào thời loạn thế binh đao, ngốc nghếch một chút cũng chẳng thiệt thòi gì.
Một lần Tổ Gia đến uống trà, hỏi tôi: “Lượng ngốc, gia đình ngươi có mấy người?”
Tôi đáp: “Thưa Tổ Gia, nhà chỉ có một mẹ già, năm ngoái mắc bệnh đã qua đời. Một em gái đã lấy chồng phương xa. Trong nhà chỉ còn mỗi mình con.”
Tổ Gia lại hỏi: “Vậy làm việc ở đây, một năm ngươi được bao nhiêu?”
Tôi cười nói: “Thưa ông, con chẳng có bản lĩnh gì, chỉ biết chạy đi chạy lại. Nhờ ơn của ông chủ quán trà, cho chúng con có miếng cơm ăn là tốt lắm rồi, đâu dám đòi thêm tiền chứ.”
Tổ Gia trầm ngâm một lát rồi bảo: “Sau khi đóng cửa hiệu, ngươi đến nơi này tìm ta, lão gia ta có điều muốn nói với ngươi.” Sau đó đưa cho tôi một mảnh giấy nhỏ có viết địa chỉ. Tôi may mắn học được ít chữ, không đến nỗi là kẻ mù chữ.
Sau khi quán trà đóng cửa, tôi cầm mảnh giấy, theo địa chỉ ghi trên đó, tìm đến chỗ của Tổ Gia. Trên đường đi, tôi hồi hộp đến nỗi tim đập thình thịch. Tôi không hiểu vị lão gia này tìm mình có việc gì, nhưng trực giác bảo với tôi rằng, chắc chắn không phải là việc xấu.
Đi qua mấy chỗ ngoặt, cuối cùng cũng đến được nơi ở của Tổ Gia, đó là một trang viên rất lớn. Cổng chính quay về hướng Nam, bước qua cổng thì gặp một cây táo to, giữa hành lang có một cái ang nước lớn, hai phía đông tây mỗi phía có một gian nhà kề, đi tiếp vào trong là sảnh chính. Đây chính là Đường khẩu, ở giữa có treo một bức Bát mặc tiên nhân đồ phỏng theo trường phái thời Tống, hai bên là hai câu đối, vế trước là: Nhân giả nhân tâm nhân nghĩa sự; vế sau là: Bảo hòa bảo thiện bảo thái bình.13 Sau này tôi mới được biết, câu đối này do Tổ Gia đích thân viết.
Khi tôi đến, Tổ Gia đang bàn việc với một nhóm chừng sáu bảy người. Tôi vừa đến, cũng đúng lúc cuộc họp kết thúc. Một vị quản gia dẫn tôi đến, Tổ Gia phẩy tay một cái, mọi người đều đi ra ngoài hết.
Tổ Gia dẫn tôi vào thư phòng, nói: “Lượng ngốc, ngồi đi, Tổ Gia ta có điều muốn nói với ngươi.” Ông lại dặn người dưới dâng trà lên.
Tôi chỉ là một chân chạy bàn, bình thường đều quen thói người khác ngồi, tôi đứng. Người khác uống trà, tôi nhìn. Tổ Gia bảo tôi ngồi khiến tôi lúng túng không biết đặt mông vào đâu.
Tổ Gia thấy tôi mặt mày căng thẳng thì cười nói: “Đừng nhút nhát thế! Ngồi xuống, ngồi xuống đi!”
Tôi dè dặt ngồi xuống. Một lát sau, một lão gia nhân khoảng 50 tuổi bê lên một bình trà, rót đầy hai chén, rồi đưa một chén lên nói: “Mời lão gia dùng trà”. Sau đó đưa cho tôi một chén, tôi vội vàng đứng dậy, lúng túng đón lấy chén trà. Tổ Gia lại mỉm cười: “Ngồi xuống, ngồi xuống! Hôm nay ngươi là khách của ta.”
Tôi cảm thấy các thớ thịt trên mặt mình căng ra, ngượng nghịu cười nói: “Tạ ơn lão gia, tạ ơn lão gia.” Bởi trà vẫn nóng nên khi nhấp một ngụm tôi suýt bỏng miệng, khiến Tổ Gia và lão gia nhân bật cười ha hả.
Tổ Gia nói với lão gia nhân: “Lui xuống đi.” Lão gia nhân nhìn tôi một cái rồi đi ra.
Trong phòng chỉ còn lại tôi và Tổ Gia. Tôi lúng túng xoay xoay chén trà trong lòng bàn tay, không biết phải nói gì.
Tổ Gia nhấp một ngụm trà, thủng thẳng hỏi: “Lượng ngốc, ngươi tính cả đời này làm tên hầu bàn sao?”
Tôi trả lời: “Lão gia, con chẳng có chút bản lĩnh gì, chỉ có thể làm chân chạy bàn. Kiếm được miếng ăn là quá tốt rồi.”
Tổ Gia nói: “Ngươi luôn miệng gọi ta là lão gia... lão gia. Bản thân ngươi đã bao giờ nghĩ đến một ngày nào đó, mình sẽ làm lão gia không?”
Câu nói này khiến tôi suýt đánh rơi chén trà xuống đất, vội vàng nói: “Lão gia, ông nói gì vậy? Con đời này chỉ là kẻ đi hầu hạ những người như ông. Phận con hèn, nào có phúc phận làm ông nọ bà kia.”
Tổ Gia sa sầm mặt nói: “Ngươi đúng là kẻ không có khí phách.”
Tôi ngẩn người. Đây đâu phải là việc có khí phách hay không. Ai chẳng muốn làm ông chủ để người khác hầu hạ, nhưng vấn đề ở chỗ phải có bản lĩnh. Tôi cúi đầu im lặng.
Tổ Gia thở dài một tiếng, nói: “Lượng ngốc, ngươi biết không, ta trước đây còn không bằng nhà ngươi nữa kia.”
“Ồ?” Tôi ngẩng đầu lên, không hiểu ý của ông là gì.
Tổ Gia nói: “Ngươi đi theo ta.”
Tổ Gia quay người đi, tôi lập tức theo sau, ra khỏi chính đường, sau đó sang gian nhà phía tây. Vừa vào đến cửa, tôi giật mình sợ hãi. Trong phòng đều là bài vị của người đã khuất. Tôi nhìn thật kỹ, có Tiên khảo từ phụ đại nhân, Tiên tỉ từ mẫu đại nhân, còn có huynh trưởng, tiểu muội, tiểu đệ... Tôi mơ mơ hồ hồ, ngây người ra nhìn Tổ Gia.
Tổ Gia thắp một nén nhang, cắm vào bát hương, rồi chậm rãi kể chuyện xa xưa.
Tổ tiên của Tổ Gia từng là thành viên của Thiên Địa hội, cuối thời nhà Thanh có tham gia quân Thái Bình14, đến đời cha của ông, cuộc sống vẫn rất khá giả. Sau Cách mạng Tân Hợi (năm 1911), cha ông giữ chức vụ quan trọng trong Chính phủ Quốc Dân, sau đó còn tham gia “Phong trào bảo vệ Hiến pháp”15. Do ủng hộ bảo vệ Hiến pháp bằng bạo lực do Tôn Trung Sơn khởi xướng và dẫn dắt, ông bị Quốc dân Đảng thủ tiêu nhằm nhổ cỏ nhổ tận gốc. Vào một đêm, có mấy tên đao phủ xông vào nhà Tổ Gia, giết chết cả nhà từ bé đến lớn, không trừ một ai.
Ông bà nội Tổ Gia bị chúng đâm chết không kịp kêu một tiếng, mẹ và anh trai ông liều mạng chống lại mấy tên sát thủ. Bà bị đâm mấy nhát vào bụng, xổ cả ruột gan ra ngoài, bò trên mặt đất, gắng chút hơi tàn ôm chặt chân một tên sát thủ, hét to với Tổ Gia: “Mau đưa em trai và em gái chạy đi!” Tổ Gia hoảng sợ đưa hai em chạy liền một mạch mười mấy dặm trong đêm mới dám dừng lại. Sau đó, ba anh em ôm chặt lấy nhau mà khóc.
Năm đó, Tổ Gia 15 tuổi, em trai 10 tuổi, em gái 8 tuổi còn anh trai bị giết chết 18 tuổi. Từ đó, ba anh em may mắn thoát khỏi tai họa, lưu lạc đầu đường xó chợ, ăn xin sống qua ngày.
Một hôm, đang ăn xin trên phố thì phía trước có mấy người đi đến. Trong đó, một người đeo kính đen cho ba anh em mấy chiếc bánh nướng rồi nói: “Bé con, ta có chút việc vặt, các ngươi làm giúp ta, làm xong ta cho các ngươi tiền.”
Tổ Gia nhìn bọn họ, rồi quay sang nhìn hai đứa em đang đói lả, rồi hỏi: “Việc gì?”
Người đó nói: “Rửa bát, lau bàn ghế, không có gì nặng nhọc cả.”
Tổ Gia nghĩ ngợi một lát, nói: “Được. Ở đâu vậy?”
Người đó trả lời: “Gần đây thôi, đi theo chúng ta.”
Kể đến đây, mắt Tổ Gia ngân ngấn đỏ, thở dài rồi nói: “Nếu… ta có thể quay lại thời điểm bấy giờ, ta thà để em trai và em gái chết đói, chứ không đưa chúng đi đến nơi đó.”
Mấy kẻ đó hết rẽ trái rồi lại rẽ phải, dẫn ba anh em Tổ Gia đến một căn nhà cũ nát không có người ở. Vừa bước qua cửa, ba anh em Tổ Gia bị đám người đó dùng khăn tay bịt vào mũi, sau đó thì không biết gì nữa.
Hóa ra, đây là mấy tên A Bảo ở vùng này. Bọn chúng vì muốn dàn cục, mà không từ cả việc gây nên vụ án mạng mất hết nhân tính. Năm đó, nơi này bị hạn hán, hoa màu đều sắp chết héo cả. Bọn A Bảo tung tin đồn nhảm, rằng đây là ác quả mà người nơi này phải gánh chịu do không làm việc thiện. Gần đây xuất hiện “Tiên đồng báo mộng”, khi ngủ mọi người phải thật chú ý. Hơn nữa Nhị vị tiên đồng hòa hợp sẽ chọn ngày lành tháng tốt hiển hiện nhục thân trên sông, tức ở giữa sông sẽ xuất hiện “Thi thể trôi ngược dòng”, để báo hiệu cho thế nhân biết.
Bọn A Bảo sau khi tung tin đồn này ra, liền bắt đầu tỏa đi khắp nơi tìm kiếm người thế mạng. Bọn chúng không dám đụng vào những đứa trẻ con ở vùng này. Đúng lúc chúng gặp ba đứa nhóc ăn mày, những đứa trẻ lang thang này có chết cũng chẳng ai tìm kiếm. Thế là chúng dùng mê hồn tán đánh thuốc mê ba anh em Tổ Gia. Vì em trai và em gái của Tổ Gia tuổi xấp xỉ nhau, vóc người cũng không chênh lệch là mấy nên chúng nhẫn tâm xuống tay giết chết chúng. Sau đó chúng cho hai thi thể mặc y phục xanh đỏ, đóng giả làm “Nhị vị Tiên đồng hòa hợp”, rồi buộc lên lưng thi thể một mảng bè trúc, thả xuống nước, bên dưới mảng bè có một sợi dây dài, kéo thẳng lên tận phía thượng nguồn. Trưa hôm sau, hai tên A Bảo ở trên thượng nguồn chầm chậm kéo sợi dây, những tên A Bảo khác đứng bên bờ sông phối hợp, thu hút rất nhiều người vây đến xem.
Do đây là một con sông lớn, khoảng cách lại khá xa nên không ai có thể nhìn rõ được mánh khóe này. Hai thi thể đồng nam đồng nữ bị kéo trôi ngược về phía thượng nguồn, bọn A Bảo trên bờ hô to: “Thi thể trôi ngược dòng! Thi thể trôi ngược dòng!” Khi thấy người kéo đến bên bờ sông đủ đông rồi, bọn A Bảo liền cho người bơi ra, kín đáo cắt sợi dây, đem hai thi thể lên bờ.
Bọn A Bảo nói, hai thi thể Tiên đồng này chính là hóa thân của “Nhị tiên hòa hợp”, đã nhiều lần báo mộng cho mọi người. Giờ đây là các ngài hiện thân thuyết pháp, mọi người nhất định phải làm thật nhiều việc thiện.
Lúc này, người dân nơi đây tuyệt đối tin vào lời của bọn A Bảo. Bọn chúng đem hai thi thể đi hỏa thiêu, lấy tro cốt trộn với bùn, nặn thành hai pho tượng, cung tiến vào một ngôi miếu. Từ đó người dân địa phương ào ào tới thắp hương, dâng tiền, đặt lễ bái vọng, bọn A Bảo nơi đây nhờ đó cũng đã kiếm được một khoản lớn.
Do Tổ Gia vóc dáng đã lớn, không có tác dụng cho việc dàn cục nên sau khi bị đánh thuốc mê, bọn chúng dùng dây thừng trói chặt lại. Chúng cho rằng Tổ Gia đã bị trói thít chặt chết nên ném cậu ra phía sau núi cho sói ăn thịt. May mắn thay, đêm hôm đó, một trận mưa lớn đổ xuống, sói không ra khỏi hang nên Tổ Gia thoát chết một cách kỳ diệu.
Sau khi tỉnh lại, không tìm thấy em trai và em gái đâu. Bản thân cậu cũng không biết mình đang ở nơi nào. Cậu điên cuồng gào thét gọi hai em mình trong đêm mưa.
Gọi đến khản cả giọng, lạc cả tiếng, nhưng đều bị tiếng mưa ào ào, tiếng sấm ầm ầm át đi tất cả. Đứng dưới cơn mưa, Tổ Gia khóc một cách tuyệt vọng.
Sau khi trời sáng, Tổ Gia tìm đường quay về thành. Sợ gặp phải mấy người bọn chúng lần nữa, cậu liền ăn trộm mấy bộ quần áo của một gia đình bên ngoài thành, cải trang thành một đứa trẻ con nhà tử tế. Vừa vào trong thành, Tổ Gia nghe người dân bàn tán về sự việc “Thi thể Tiên đồng trôi ngược dòng”, một dự cảm bất an chạy dọc toàn thân. Cậu theo đoàn người chạy ra bờ sông, lúc này mấy tên A Bảo đã vớt thi thể từ dưới sông lên. Thoạt nhìn, cậu đã nhận ra đó là hai em của mình. Lòng như bị ngàn mũi dao đâm, đau đớn suýt nữa thì ngất đi.
Tổ Gia hận không thể chạy đến cắn chết mấy tên A Bảo đó, cậu muốn nhào ra ôm lấy thi thể hai em mà khóc, nhưng đã kịp kiềm chế lại. Tim cậu tuy vỡ nát, nhưng ý thức vẫn còn tỉnh táo. Phải báo thù, nhưng trước tiên cần nhẫn nhịn, nếu không sẽ chỉ có con đường chết. Đây là việc mà người bình thường khó có thể làm được nhưng khi đó Tổ Gia mới 15 tuổi đã làm được điều này. Vì vậy nên sau này, ông được mọi người gọi là Tổ Gia.
Nhìn thi thể hai em bị thiêu cháy, ngửi thấy mùi thịt cháy của hai em, cậu nghiến răng căm hận đến mức cắn nát cả môi. Đứng lặng nhìn tất cả sự việc đang diễn ra, mắt hằn lên những tia máu hận thù.
Đột nhiên, một tên A Bảo nhìn thấy Tổ Gia, bèn đảo mắt ra hiệu cho mấy tên khác. Hai tên đó liền đi về phía cậu. Thoạt nhìn liền biết sự việc không ổn, Tổ Gia quay đầu chạy thục mạng. Hai tên A Bảo đuổi sát theo sau, nhưng thoắt một cái đã không thấy đâu nữa. Cậu đã nhanh chân chui vào một cái ngách để trốn.
Sau khi mặt trời lặn, Tổ Gia quay trở lại bờ sông. Lúc này, đám đông đã giải tán hết. Cậu khóc rống lên đầy bi ai. Trong vòng không đầy một tháng, nhà tan cửa nát, người thân phải chịu cảnh chết thảm là điều mà đến trong mơ ông cũng không thể nghĩ rằng bất hạnh lại liên tiếp nhau rơi xuống đầu mình như vậy. Lần đầu tiên trong đời, Tổ Gia nghĩ đến tự sát. Chết là hết, mọi đau khổ sẽ tiêu tan. Nhưng nghĩ đến tiếng hét của mẹ khi bị phanh thây, ánh mắt bơ vơ thất thần của em trai, em gái, cậu luôn tự nhắc nhở bản thân: “Không được chết! Chết rồi là chấm hết. Ta phải báo thù. Phải báo thù!”
Một thời gian sau, Tổ Gia vừa lén lút ăn xin, vừa tìm kiếm tung tích của mấy tên A Bảo đó, cậu vẫn cải trang thành một đứa trẻ con nhà tử tế, lặng lẽ đi theo sau những lão bà, hệt như một đứa cháu ngoan đưa bà đi dâng hương trong ngôi miếu đó vậy. Nhìn tượng đất được nặn từ tro cốt của hai em mình trên hương án, Tổ Gia nén đau khổ, vừa thắp hương, vừa thầm nói trong lòng: “Hai em hãy yên tâm, anh nhất định sẽ báo thù.”
Tổ Gia biết rằng, người canh miếu này thông đồng với bọn A Bảo, nên không dám lưu lại lâu. Thắp hương xong, liền chạy về luôn. Trước tiên, Tổ Gia phải tìm được mấy tên A Bảo đó, sau đó tìm cách xử bọn chúng. Cậu theo dõi bên ngoài ngôi miếu mấy ngày liền, nhưng không hề tìm thấy chút manh mối nào. Bỗng nhiên, cậu nhớ đến ngôi nhà nát đó, nơi mình và hai người em bị đánh thuốc mê. Vốn là người có trí nhớ rất tốt nên Tổ Gia vẫn nhớ rõ đường đi đến đó. Cậu liền lên kế hoạch quay lại, không biết chừng lại có thể tìm ra được chút manh mối nào đó. Sau khi ăn xong, đến nửa đêm, cậu lần mò tìm đường quay lại.
Đó là một ngôi nhà kiểu tứ hợp viện16 cũ ở ngoại ô, tường có nhiều chỗ bị sụt lún xuống. Tổ Gia bò bên ngoài tường nghe ngóng, không hề có động tĩnh gì cả. Cậu giả vài tiếng chó sủa, vẫn không thấy động tĩnh, liền vượt tường vào trong.
Bên trong là một màn tối đen đặc quánh. Tổ Gia lần mò một hồi và phát hiện ngoại trừ một vài thứ đồ dùng đã cũ nát, còn lại chẳng có gì cả. Cậu định đêm nay ngủ lại đây, trời sáng sẽ ra ngoài nấp trong đống cỏ khô cách không xa ngôi nhà. Đột nhiên có tiếng bước chân vội vã vọng lại, Tổ Gia giật mình, tim đập thình thịch. Bước chân ngày một tiến gần hơn, cậu vội vàng chạy ra ngoài, nhưng lại vấp phải vật gì đó, toàn thân lảo đảo suýt ngã.
Nhờ có ánh trăng, Tổ Gia nhận ra đó là một que cời lò dài, được làm bằng thép, to khoảng bằng ngón tay, dùng để khơi thông đáy bếp lò. Một đầu được gắn cán cầm bằng gỗ, đầu còn lại được mài nhọn. Tổ Gia liền nhặt lấy, rồi vượt tường nhảy ra ngoài. Lúc này, cửa chính bị mấy người bật mở tung, Tổ Gia nấp sau tường nhìn vào, chỉ thấy có mấy người khiêng hai chiếc hòm đi vào, trong hòm dường như có tiếng người kêu khẽ.
Mấy người đó khiêng hai chiếc hòm vào trong phòng. Một người trong đó lấy đá ra đánh lửa, thắp đèn. Ánh đèn lờ mờ rồi dần chiếu sáng cả căn phòng, Tổ Gia nhìn thấy rõ mặt của những người này. Trong đó, có hai tên A Bảo đã lừa ba anh em Tổ Gia đến ngôi nhà này hôm đó. Lúc này, tên thủ lĩnh nói với hai tên A Bảo kia: “Đêm nay hai ngươi canh giữ ở đây, chớ có rượu chè. Hãy cẩn thận! Nếu để chạy mất hai người trong hòm, Tứ gia ta sẽ lấy mạng các ngươi.”
Hai tên A Bảo vội vàng nói: “Nhị ca yên tâm. Nhị ca yên tâm.” Sau đó, tên thủ lĩnh dẫn những tên A Bảo khác nghênh ngang bỏ đi. Hai tên ở lại liền lấy ra một bình rượu to, ngồi bệt xuống đất, đồng thời móc từ trong áo ra một bọc thịt, vừa ăn vừa nói chuyện.
Mắt Tổ Gia dán chặt vào hai tên A Bảo đó, trong lòng chợt nghĩ: “Ta nhất định sẽ giết chết chúng.”
Nhưng trong lòng Tổ Gia biết rất rõ, lúc này, nếu xông bừa ra, chắc chắn sẽ không thể đánh lại được hai tên to con này, nên cần phải đợi cơ hội, đợi đến khi chúng uống kha khá, say ngất nga ngất ngư, khi đó mới động thủ.
Tổ Gia ngồi bất động dán mắt vào chúng chừng hơn một canh giờ. Cậu thấy rượu cũng sắp cạn, lưỡi chúng cũng líu hết cả lại thì mới cầm thanh cời lò lên, chầm chậm từ ngoài trèo vào rồi nhẹ nhàng đi về hướng căn phòng. Khi đến giữa sân, một tên đột nhiên đứng dậy khiến Tổ Gia hoảng sợ, vội vàng chạy nấp sau gốc cây thạch lựu. Tên A Bảo đó lắc la lắc lư cũng đi về hướng đó, miệng lẩm bẩm: “Xả một bãi… tiểu một bãi nào…”
Tên đó đến bên cây thạch lựu, vạch quần, ưỡn bụng, vừa tiểu vừa hát: “Cô nhi quả phụ lên gò đất, mưa phùn rả rích a…”
Tổ Gia nấp sau gốc gây, bị nước tiểu xuyên qua lá cây bắn đầy vào mặt. Tổ Gia vốn định đợi hắn ta đi tiểu xong quay lưng đi, sẽ ra tay từ sau lưng. Nhưng tên này đi tiểu quá lâu, nước tiểu bắn đầy mặt Tổ Gia khiến ông điên tiết, không nhẫn nhịn được nữa, cầm thanh cời lò, đâm thẳng vào bụng dưới của hắn. Tổ Gia dùng hết sức bình sinh, đâm đúng vào bàng quang, vòi phun nước của hắn lập tức tịt ngóm. Bụng dưới của hắn thủng một lỗ, nước tiểu và máu đều phun ra cả từ cái lỗ ấy.
Tên tiểu tử đó kêu một tiếng “A” thảm thiết, hai tay ôm phần bụng dưới, nằm lăn lộn dưới đất. Tổ Gia liền đứng phắt dậy, đâm tiếp thanh cời lò xuyên qua yết hầu của hắn, máu phun ra. Tên tiểu tử đó muốn kêu, cũng không thể kêu được thành tiếng, một lát sau nằm im bất động.
Tên A Bảo kia nghe thấy có tiếng động bên ngoài, vội vàng từ trong phòng cất giọng nhừa nhựa hỏi vọng ra: “Chuyện gì… chuyện gì vậy? Mẹ kiếp nhà ngươi chớ… chớ có dọa ta nhé!”
Tổ Gia nhanh như cắt xông vào, tung một gối khiến đối phương ngã bổ chửng. Còn chưa kịp phản ứng xem chuyện gì xảy ra, hắn đã bị thanh cời lò đâm thẳng vào yết hầu. Cú đâm này còn mạnh hơn lần trước, thanh cời lò đâm thẳng từ trước xuyên ra sau cổ. Tên tiểu tử đó giãy giãy mấy cái, rồi cũng nằm bất động.
XẢ THÂN CỨU KẺ THÙ
Tổ Gia bước lại gần chiếc hòm được đóng bằng gỗ dày, cậu dùng thanh cời lò đâm vào mép gỗ trên nắp, nạy thật mạnh mở tung được chiếc hòm. Bên trong có hai người bị trói chặt. Những kẻ bắt cóc có kỹ thuật trói rất đặc biệt. Hai tay, hai chân bị trói lại với nhau, một sợi dây thừng ở giữa trói tay chân chụm lại. Như vậy cả thân người bị trói cuộn tròn giống như con tôm vậy, nằm trong hòm không thể cựa quậy gì được.
Tổ Gia móc nắm giẻ trong miệng hai người này ra. Sau một hồi ho sặc sụa, họ mới cất được lời cảm ơn rối rít: “Cám ơn cậu em đã cứu mạng!” Nhờ có ánh đèn, Tổ Gia nhìn thấy rõ hai người này. Đó là một người khoảng 50 tuổi, dưới cằm có một chòm râu dê. Còn người kia khoảng 60, 70 tuổi, trên mặt đầy những nếp nhăn, nhưng tuyệt nhiên không có sợi râu nào.
Tổ Gia liền cởi trói giúp họ, nhưng nút thắt rất chặt, dù dùng răng cắn cũng không sao mở được. Cuối cùng người lớn tuổi hơn nói: “Cậu em, cậu hãy mở chao đèn ra, sau đó dùng đèn đốt dây trói.”
Tổ Gia vỗ tay lên trán một cái rồi nói: “Đúng rồi! Sao mình lại không nghĩ ra nhỉ?” Nói xong vội vàng lấy chiếc đèn xuống, cùng với sự phối hợp của hai người đó, dây trói nhanh chóng bị đốt cháy đứt rời ra. Bỗng một cảm giác rùng mình chạy dọc sống lưng Tổ Gia. Giọng của ông già này tại sao không giống với người bình thường chút nào? Hơn nữa nó lại mang âm điệu vô cùng kỳ quái như vậy?
Lúc này người khoảng 50 tuổi nói: “Cậu em, xin hỏi cậu là người ở đâu đến vậy? Tại sao lại đến đây cứu chúng ta?”
Câu hỏi của ông ta khiến Tổ Gia ngây người, cậu nghĩ: mình vốn đi tìm manh mối kẻ thù, không ngờ lại cứu được hai người này, biết nói thế nào đây? Hay là nói thật với họ? Không được! Chưa biết chừng chúng cùng một bọn, không khéo lại chuốc thêm phiền phức!
Những biến cố đã tác động rất lớn đến Tổ Gia khiến cậu không còn tin tưởng vào bất kỳ ai nữa. Tổ Gia cười nói: “Tôi… thực chất là một kẻ phiêu bạt giang hồ, năm ngoái vì chuyện nộp địa tô mà gia đình tôi có xung đột với bọn địa bảo17. Trong lúc tức giận, tôi đã đánh lại hai tên địa bảo tâm địa xấu xa, từ đó phải rời bỏ quê quán, lang thang phiêu bạt chân trời góc biển. Đúng lúc ngang qua đây, tôi nhìn thấy mấy người khiêng chiếc hòm đi vào ngôi nhà này. Ngờ có chuyện chẳng lành, tôi liền bám theo. Quả nhiên, tôi thấy trong hòm có tiếng người kêu khẽ, lại nghe được cuộc trò chuyện của hai kẻ bắt cóc xấu xa. Con người tôi thích can thiệp vào những chuyện bất bình, huống hồ Cứu một mạng người còn hơn xây bảy tòa tháp. Vì không nhẫn nhịn được nên tôi đành mạo hiểm xông vào cứu các ông. Kỳ thực cũng chẳng có gì to tát cả, giữa đường gặp chuyện bất bình rút dao tương trợ, anh hùng hảo hán trên giang hồ đều làm như vậy cả.”
Hai người đó sau khi nghe xong, đưa mắt nhìn nhau, một lúc lâu mới nói: “Cậu em, cậu còn trẻ mà đã có lòng dũng cảm và có tâm trượng nghĩa như vậy. Thật bội phục!”
Người khoảng 50 tuổi chắp tay lại nói: “Ta là Chu Chấn Long.” Sau đó chỉ vào người kia nói: “Vị này là sư phụ của ta, Trương Đan Thành. Xin hỏi cậu em quý tính đại danh là gì?”
Tổ Gia chắp tay lại đáp lễ: “Không dám. Tôi họ Vương, tên Nhất Hành, lấy ý là chuyên tâm tu hành.”
Trương Đan Thành gật gù: “Chà. Tên rất hay, tên rất hay.”
Lại một lần nữa Tổ Gia dựng tóc gáy, nổi da gà. Giọng nói của lão già này quả thật vô cùng đặc biệt, âm điệu the thé, giống như dê kêu, khiến cho người nghe toàn thân toát mồ hôi lạnh.
Thực chất, Tổ Gia đang nói dối. Từ sau khi cha đắc tội với bọn quân phiệt mà gặp họa diệt môn, cậu cũng không dám để lộ tên thật của mình. Vừa rồi là nghĩ bừa ra một cái tên, ý nghĩa cũng chỉ có Tổ Gia mới hiểu: Nhất Hành, tức một người cô độc lẻ loi đi trên đường đời.
Chu Chấn Long nói: “Nơi này không thể ở lại lâu, chúng ta đi tìm chỗ khác nói chuyện.”
Tổ Gia vốn không muốn đi theo bọn họ, nhưng lại nghĩ hai người này chắc chắn có khúc mắc gì đó với mấy tên khốn kiếp kia, có hai khả năng, hoặc họ là kẻ thù, hoặc là đồng bọn. Tóm lại là có quan hệ với nhau. Tại sao không nhân cơ hội này thăm dò một chút? Hôm đó, ở trên phố, tổng cộng là có ba tên giăng bẫy lừa anh em Tổ Gia, hiện nay hai tên đã chết, còn một tên đeo kính vẫn chưa thấy đâu cả.
Dưới ánh trăng vằng vặc, ba người liền nhanh chóng rời khỏi căn nhà đó. Đi qua một con sông nhỏ, xuyên qua mấy ngõ hẻm, đến trước một ngôi nhà, Chu Chấn Long lấy ra một chùm chìa khóa mở cửa, lúc này trời đã tờ mờ sáng. Sau khi ba người vào nhà, Chu Chấn Long không vồn vã mời mọi người ngồi, mà đi đến bên chiếc giường đất, lật chiếu lên, để lộ ra bên dưới là một tấm gỗ, rồi lật tiếp tấm gỗ lên. Đó là một cái hầm, có thang để đi xuống. Chu Chấn Long nói với Trương Đan Thành: “Sư phụ! Chúng ta xuống hầm đi.”
Trương Đan Thành gật đầu, Chu Chấn Long đỡ ông ta đi xuống. Sau đó quay lạ nói với Tổ Gia: “Vương lão đệ! Mời!”
Tổ Gia sửng sốt nhìn căn hầm lớn bên dưới chiếc giường đất, ngây người đắn đo một lúc rồi cúi người đi xuống. Chu Chấn Long là người xuống cuối cùng. Ông ta với tay kéo tấm gỗ lại vị trí cũ che cửa hầm lại.
Sau khi Chu Chấn Long thắp đèn dầu lên, Tổ Gia mới nhìn rõ cảnh vật xung quanh. Căn hầm được thiết kế có bốn trụ đỡ, ở giữa có đặt một bàn trà nhỏ, bên phải có một cái lỗ đen chạy sâu vào trong, không biết là thông đến nơi nào.
Sau khi ba người ngồi xuống, Trương Đan Thành bắt đầu mở lời vẫn bằng cái giọng âm u đó: “Ơn cứu mạng của cậu Vương đây, lão không biết phải đền đáp thế nào. Đại Bá đầu à, lát nữa ngươi lấy một chút vàng bạc. Mong cậu Vương vui vẻ nhận cho.”
Chu Chấn Long nói: “Vâng!”
Đây là lần đầu tiên Tổ Gia nghe thấy hai từ “Bá đầu”. Trong lòng Tổ Gia lúc này chỉ quan tâm đến việc tìm manh mối và báo thù. Bản thân cậu vốn nghĩ rằng có thể moi được chút tin tức từ hai người này nên không quá để tâm đến vàng bạc, liền nói: “Đại trượng phu sống trong thiên hạ, luôn đối đãi chân thành với nhau. Trương tiên sinh làm như vậy, tức là xem thường tôi rồi.”
Trương Đan Thành và Chu Chấn Long lại quay ra nhìn nhau, bọn họ bị cậu bé trước mặt làm cho choáng váng. “Vậy… cậu… bọn ta phải báo đáp người anh em thế nào đây?”
Tổ Gia mỉm cười nói: “Tôi có thể gặp được hai vị tiên sinh đây, cũng coi như có duyên phận. Nói cách khác, số mạng của hai vị chưa đến hồi tuyệt, người tốt tất sẽ được trời giúp để tai qua nạn khỏi. Tôi chỉ là kẻ đóng vai người cứu mạng, hai vị tiên sinh muốn cảm tạ, hãy cảm tạ ông trời đi.”
Hai người ngây ra, rồi bật cười ha hả, cười đến nỗi chảy cả nước mắt, họ cảm thấy tên tiểu tử đang ngồi trước mặt thật đáng yêu.
Tiếng cười the thé, mảnh như sợi tơ đó lại khiến Tổ Gia nổi hết cả da gà.
Ông không đợi được nữa, nói: “Hai vị tiên sinh nguyên cớ làm sao lại bị bọn trộm cướp đó bắt trói vậy? Lẽ nào đã đắc tội gì với bọn chúng?”
Hai thầy trò Chu Chấn Long cười như đưa đám, Chu Chấn Long nói: “Hưởng hương rồi!”
Tổ Gia không hiểu: “Cái gì hương cơ?”
Chu Chấn Long nhìn Trương Đan Thành, ý muốn hỏi có nên nói tiếp hay không. Trương Đan Thành gật gật đầu rồi nói: “Cậu Vương là ân nhân cứu mạng, hai mạng của chúng ta nhờ cậu ta mà giữ lại được. Nói-đi-đừng-ngại!”
Âm thanh bốn chữ cuối Trương Đan Thành kéo dài ra. Tổ Gia nhíu mày. Cái giọng nói như từ chốn âm linh vọng lại này quả thật chói tai khiến cậu chỉ muốn bịt tai lại.
Trương Đan Thành phát hiện ra sự khó chịu của Tổ Gia, mỉm cười nói: “Cậu em, phải chăng cậu ghét giọng ta nói khó nghe? Người không ra người, quỷ không ra quỷ?”
Tổ Gia chợt thấy mình phản ứng quá lộ liễu, cười xòa nói: “Không phải, không phải. Chỉ là tiểu nhân nghe không quen.”
Trương Đan Thành nói: “Cậu là ân nhân cứu mạng của ta, nếu đổi là người khác, ta đã cho một vả vào miệng rồi! Hừ.” Trầm ngâm một lát, rồi ông ta hỏi: “Cậu em, cậu biết vì sao giọng nói của ta u ám, nam không ra nam, nữ không ra nữ không?”
Tổ Gia trả lời: “Không biết.”
Trương Đan Thành nói: “Vì ta là quả trứng thối.”
Tổ Gia nghe mà thấy như sấm nổ bên tai, “quả trứng thối” là lời nói dùng để mắng chửi của người nơi này. Vị lão tiên sinh này tại sao lại nói bản thân mình như vậy?
Theo lời kể của Trương Đan Thành, Tổ Gia mới dần hiểu được ngọn ngành. Hóa ra họ là một phường lừa đảo, được gọi là phái Giang Tướng. Trương Đan Thành là ông trùm ở vùng này, cũng chính là Đại Sư bá. Trước đây vì một cuộc dàn cục lớn để lừa một vị Bối lặc trong cung, Trương Đan Thành đã phải mất ba năm liền để bố trí. Vị Bối lặc đó luôn coi ông ta là bằng hữu nên không hề đề phòng. Đến khi thu lưới, có kẻ tham lam, tạo phản, kết quả bị lộ cục. Sau khi vị Bối lặc kia bắt được, Trương Đan Thành tưởng rằng đã cầm chắc cái chết. Không ngờ vị Bối lặc đó niệm tình cũ, nói: “Tội chết có thể miễn, nhưng tội sống thì không thể tha. Cái gan của ngươi to như vậy, Bối lặc ta sẽ dập tắt cái nhuệ khí đó của ngươi.”
Kết quả Trương Đan Thành bị mấy tên lính đè nghiến xuống. Một tên tiểu thái giám dùng một con dao sắc cắt phăng một quả ngọc hành18 của ông ta, khi đó máu chảy lênh láng, đau đớn vô cùng. Từ đó Trương Đan Thành biến thành kẻ “một quả trứng” theo đúng nghĩa của nó. Giọng nói cũng dần trở nên kỳ quái dị hợm. Khi đó thiên hạ vẫn là của nhà Đại Thanh, ông chẳng có cách nào khác, đành phải về quê sống mai danh ẩn tích. Sau Cách mạng Tân Hợi, triều đình Mãn Thanh bị lật đổ, Trương Đan Thành lại có cơ hội nhảy ra. Ông đốt pháo ăn mừng ba ngày liền, sau đó tập hợp lại anh em thân tín, tiếp tục hành nghề lừa đảo.
Đội ngũ của Trương Đan Thành không lớn, trong tay có 4 Bá đầu, Chu Chấn Long là Đại Bá đầu, luôn sát cánh hành động cùng Trương Đan Thành, còn lại ba tên Bá đầu kia sau này dần được phát hiện và bồi dưỡng. Lần này ba tên Bá đầu đó liên thủ với nhau trèo lên hưởng hương. Trương Đan Thành không phải không đánh hơi thấy được nguy hiểm, mà chỉ do trở tay không kịp.
Theo miêu tả của Trương Đan Thành và Chu Chấn Long, trong ba tên Bá đầu đó. Tên cầm đầu chủ ý tạo phản là Tứ Bá đầu, tên tiểu tử này từ lâu đã không phục ông ta, luôn bất mãn vì Trương Đan Thành ra tay thiếu quyết đoán, đồng thời hậm hực vì ngân lượng kiếm được của Đường khẩu ngày càng ít đi, năm ngoái hắn ta bắt đầu đề xuất Trương Đan Thành sát phú.
Sát phú là đại kỵ trong giới A Bảo, phạm vào quy tắc hành nghề này tất sẽ bị toàn giới A Bảo truy sát. Cái gọi là sát phú chính là khi dàn cục, tự ý xuống tay “cắt cổ” con gà béo, rồi cướp trắng toàn bộ số tiền.
Hành nghề A Bảo không giống như kẻ cướp giật, trộm cắp. Họ luôn coi trọng sự kiên trì nhẫn nại, nếu không Đường khẩu sẽ đứt đoạn mạch tài lộc, tức dù là kẻ thù không đội trời chung, nếu không thỉnh thị trước mà tự ý “cắt cổ”, cũng sẽ phải chịu hình phạt vô cùng nghiêm khắc. Do đó, nếu không đến hồi vạn bất đắc dĩ, tuyệt đối không thể sát phú.
Trương Đan Thành hiểu, lý do “vì nghĩ đến lợi ích Đường khẩu” của Tứ Bá đầu đưa ra để sát phú chỉ là kiếm cớ ngụy biện. Nói cho cùng vẫn là sắc nhục làm tâm khiếu mê muội. Hắn ta là kẻ tâm địa gian xảo, Trương Đan Thành từ lâu đã biết rõ. Năm ngoái khi đến điều hòa phong thủy cho một nhà giàu lắm tiền nhiều của, hắn sinh lòng thèm khát người vợ xinh đẹp của gia chủ. Dù nghĩ tới nghĩ lui, tìm đủ mọi cách mà vẫn không giành được người đẹp, hắn lấy cớ tiền bạc của Đường khẩu hạn hẹp, nhiều lần đưa ra yêu cầu sát phú. Giết được ông chủ kia, hắn ta sẽ có cơ hội chạm tay đến người đẹp.
Thời gian gần đây, Trương Đan Thành cảm thấy Tứ Bá đầu ngày càng có vấn đề. Trong lúc ông cùng với Chu Chấn Long tìm đối sách, không ngờ hắn ta liên thủ với hai tên Bá đầu kia, ra tay trước. Hắn nói: “Ta bắt trói ông lại, trước tiên chưa cần giết vội, để ông chống mắt lên xem ta chiếm hữu mỹ nhân, ngồi vào chính vị, để ông chết trong sự nhục nhã, ta mới cảm thấy vui sướng.”
Nói tới đây, Trương Đan Thành tức giận đến nỗi nghiến răng ken két rồi luôn mồm chửi thề.
Lúc này Tổ Gia mới hiểu ngọn ngành, hóa ra là đấu đá nội bộ. Ông bèn hỏi: “Vậy mấy hôm trước việc Tiên đồng báo mộng, thi thể trôi ngược dòng…”
Chu Chấn Long cười lớn: “Cái gì mà Tiên đồng báo mộng chứ? Đó đều là giả, là trận cục do chúng ta dàn ra và Tứ Bá đầu là người thực hiện. Đây cũng là kế che mắt của hắn ta. Trước khi tạo phản, hắn ta thể hiện rất tốt khiến ta và sư phụ đều mất cảnh giác.”
Toàn thân Tổ Gia chấn động bàng hoàng, nỗi đau đớn trong lòng lại buốt nhói, nhưng ngay lập tức cậu lấy lại bình tĩnh. Manh mối đã xuất hiện, Trương Đan Thành chính là kẻ chủ mưu, trong mấy tên Bá đầu tạo phản, chắc chắn có hung thủ sát hại hai em của cậu. Trương Đan Thành và Chu Chấn Long tuy không đích thân ra tay, nhưng cũng có phần trong đó. Hàng loạt ý nghĩ xuất hiện trong đầu Tổ Gia. Lẽ nào lại giết hai kẻ mà mình vừa mới cứu? Hơn nữa hiện nay trong tay không một tấc sắt, e rằng đánh không lại bọn chúng… Không được manh động! Mà nếu có giết được chúng sẽ không thể tìm được tên Bá đầu hại chết hai em mình. Trước tiên phải mượn tay bọn chúng, giết tên Bá đầu đó, sau đó giải quyết chúng cũng không muộn.
Một loạt tính toán giống như sao băng lướt trong đầu Tổ Gia, cậu trầm ngâm suy nghĩ một hồi.
Trương Đan Thành nhìn thấy Tổ Gia ngẩn người ra như vậy liền hỏi: “Cậu em làm sao vậy?”
Tổ Gia vội vàng đáp lời: “Cái tên… cái tên Tứ Bá đầu đúng thật không ra gì! Tôi căm phẫn thay cho hai vị.”
Trương Đan Thành và Chu Chấn Long quay sang nhìn nhau. Trương Đan Thành nói: “Cậu em à! Cứu người thì cứu cho trót, đưa Phật thì đưa đến tận Tây Trúc. Hiện nay hai người chúng tôi không thể lộ diện, phần lớn anh em Đường khẩu đều bị xúi giục tạo phản. Chỉ dựa vào bản thân chúng tôi chẳng khác nào tự đi tìm chỗ chết. Ta sẽ viết ngay một bức thư, nhờ cậu xuống phà đi Thượng Hải một chuyến, giao bức thư này cho một người tên là Cửu gia. Địa chỉ cụ thể ta sẽ nói cho cậu biết, Cửu gia sẽ giúp đỡ ta. Cảm phiền cậu!”
Khi đó Tổ Gia vẫn chưa biết Cửu gia là ai. Mãi sau này lịch sử mới trả lời cho ông. Cửu gia chính là đại hiệp Giang Hoài uy danh thiên hạ Vương Á Tiều. Ba ngày sau, lần đầu tiên Tổ Gia gặp mặt Vương Á Tiều. Năm đó Tổ Gia mới 15 tuổi, Vương Á Tiều 31 tuổi. Vương Á Tiều xoa xoa đầu Tổ Gia, nói: “Cậu bé, tuổi trẻ gan dạ sáng suốt, có khí phách.”
Vương Á Tiều là bạn thâm giao của Trương Đan Thành, là người trọng nghĩa khí giang hồ, ngay lập tức ông ta cử mười mấy thuộc hạ mang súng theo Tổ Gia trở về. Sau khi những sát thủ này bàn bạc kế hoạch bí mật với Trương Đan Thành và Chu Chấn Long, họ quyết định tối hôm Tứ Bá đầu “đăng cơ” sẽ tổng tấn công Đường khẩu.
Suy cho cùng bọn A Bảo đó không thể sánh được với những sát thủ chuyên nghiệp. Đường khẩu lại chỉ có vài khẩu súng được chính phủ nhà Thanh chế tạo mô phỏng theo loại súng trường Mauser 198919 của Đức. Báng súng cái hỏng cái còn, hơn nữa luôn bị kẹt đạn. Mười mấy tên sát thủ tay lăm lăm súng lục, vượt tường xông vào. Chưa đầy nửa tiếng sau khi nổ súng, bọn A Bảo kẻ bị chết, kẻ bị thương. Tất cả những tên còn lại đều ôm đầu ngồi xổm úp mặt vào chân tường.
Trước khi xuất phát, Trương Đan Thành có dặn mấy tên sát thủ: “Nhất định phải bắt sống mấy tên Bá đầu đó.” Ông ta muốn tự tay cắt cổ mấy tên tạp chủng này.
Kết quả ngoại trừ Nhị Bá đầu thoạt nhìn thấy sự việc không hay đã cắt cổ tự tử, còn Tam Bá đầu và Tứ Bá đầu đều bị bắt sống, trói nghiến vào cột nhà.
Tổ Gia nấp sau đám sát thủ, ngầm quan sát, chợt nhận ra ngay tên Tứ Bá đầu chính là kẻ lừa ba anh em mình trên phố hôm đó. Tuy tối hôm nay hắn ta không đeo kính, nhưng dáng người, cái cằm, đặc biệt nốt ruồi đen nơi khóe miệng, dù có hóa thành tro Tổ Gia cũng vẫn nhận ra.
Tổ Gia nghiến răng ken két, nhưng không dám manh động, cậu sợ tên Tứ Bá đầu này nhận ra mình. Tuy chúng đang đấu đá lẫn nhau, nhưng suy cho cùng vẫn là đồng đảng, bản thân Tổ Gia chỉ là người ngoài, ngộ nhỡ hắn ta hô to: “Đây chính là tên tiểu tạp chủng đã chạy thoát!” thì chẳng ai có thể biết trước sự việc sẽ như thế nào.
Trương Đan Thành ngồi giữa sân Đường khẩu, hỏi Tứ Bá đầu: “Ngươi đã biết tội chưa?”
Tứ Bá đầu ngửa mặt lên trời cười lớn nói: “Tên hoạn nhà ngươi, muốn giết thì giết đi.”
Trương Đan Thành nghe xong vô cùng tức giận bởi ông ta vẫn còn một quả ngọc hành, suy cho cùng vẫn không thể gọi là thái giám. Ông ta kỵ nhất nghe hai từ “tên hoạn” này. Kỳ thực Tứ Bá đầu tạo phản thành công cũng là do hắn luôn ngầm kích động: “Bản thân lão ta là ‘tên hoạn’, nên mới ngăn cản anh em trong Đường khẩu đi tìm gái.” Bọn A Bảo phần đông là những kẻ hám lợi, phóng túng, dâm dục, nghe Tứ Bá đầu xúi bẩy như vậy thì nhất tề nghe theo.
Trương Đan Thành vẫy tay một cái nói: “Đại Bá đầu! Cắt cái lưỡi chó của hắn cho ta!”
Chu Chấn Long dạ lên một tiếng rồi cầm dao tiến lên. Kỳ thực, cắt lưỡi một người là việc vô cùng khó. Nó không giống như việc cắt lưỡi lợn bởi lưỡi lợn vừa to vừa dài. Trước khi bị đồ tể giết, lợn đều kêu eng éc. Sau khi bị chọc tiết xong, mõm lợn vẫn hơi há ra, tay đồ tể chỉ việc cậy hàm ra, một tay cầm lưỡi lợn, tay kia cầm dao cắt một nhát là được. Còn đối với con người, đâu thể há mồm ra cho người ta cắt lưỡi của mình được. Dù hai tên tay chân làm đủ mọi cách nhưng vẫn không thể cạy mồm Tứ Bá đầu được. Cuối cùng Chu Chấn Long giật lấy một cây côn sắt, đánh thẳng vào miệng Tứ Bá đầu, khiến cho toàn bộ răng cửa của hắn gãy hết. Sau đó, một tên A Bảo cạy hàm trên, một tên khác cạy hàm dưới, lúc này Chu Chấn Long mới dễ dàng cắt phăng được lưỡi của Tứ Bá đầu. Mồm miệng đầy máu me, nhưng Tứ Bá đầu vẫn gân cổ mắng chửi dù những âm thanh đã không còn nghe được rõ tiếng nữa.
Trương Đan Thành cười nhạt rồi nói: “Ngươi có phục hay không?”
Tứ Bá đầu ngoẹo đầu, máu chảy không ngừng, nhưng vẫn ương ngạnh không phục.
Trương Đan Thành đùng đùng nổi giận, đứng bật dậy, chộp lấy một khẩu súng, nhằm thẳng vào đầu hắn ta. Tổ Gia chăm chú theo dõi tất cả từ đầu chí cuối, trong lòng thầm nghĩ thời khắc báo thù cuối cùng đã đến. Cậu nói với Trương Đan Thành: “Một phát súng thì thật quá dễ dàng cho hắn! Bây giờ hắn ta đang muốn chết, nên chỉ mong sao ông sớm nổ súng!”
Trương Đan Thành ngây người: “Cậu em, nói vậy là có ý gì?”
Lúc này trong đầu Tổ Gia tràn ngập hình ảnh hai em của mình. Câu im lặng một lát, sau đó bật ra ba chữ đầy căm hận: “Đốt… đèn… trời!”
Ba tiếng này vừa thốt ra, khiến cho Trương Đan Thành giật mình. Tên tiểu tử này sao lại độc ác như vậy? Nhưng ông ta đâu biết ngọn lửa hận thù đang bừng bừng trong lòng Tổ Gia.
Lúc này, Tứ Bá đầu đã nhận ra Tổ Gia, hắn muốn nói gì đó, nhưng lưỡi đã bị cắt, mồm miệng lại đầy máu, không nói được tiếng nào rõ ràng. Cuối cùng, hắn lắc lắc đầu, cười lên một tiếng rồi gục xuống.
Thắp đèn trời và lăng trì là hai hình phạt thảm khốc nhất thời cổ đại. Lăng trì là cắt từng miếng thịt trên cơ thể. Thắp đèn trời là đem thả người vào trong vại dầu, sau đó vớt lên, trói vào một cây cột, đầu hướng xuống đất, chân chổng lên trời, rồi đốt cháy từ chân. Người bị hình phạt này có thể nhìn thấy ngọn lửa cháy từ gót chân mình, ngửi thấy mùi khét lẹt của da thịt, cảm nhận được những giọt mỡ của chính mình rỏ xuống mặt, cuối cùng chết trong sự đau đớn và kinh hoàng.
Tổ Gia muốn thắp đèn trời bởi hắn ta chính là kẻ đích thân hại chết em trai và em gái của mình, lại còn hỏa thiêu, đem tro cốt nhào với đất, nặn thành tượng. Đây chính là thời khắc báo ứng của hắn, hắn ta phải trả giá không kém một ly nào.
Tứ Bá đầu lập tức bị lột trần, toàn thân được tưới đẫm dầu, trói lộn ngược vào một cây cột. Do bị mất máu quá nhiều nên ý thức của hắn đã trở lên mơ hồ. Tổ Gia lấy một ngọn đuốc, châm lửa vào chân Tứ Bá đầu. Ngọn lửa phút chốc bùng lên, kèm theo đó là tiếng lửa cháy lách tách và da thịt bắt đầu sùi lên những bong bóng mỡ. Tứ Bá đầu cất tiếng cười ha hả, sau đó phát ra âm thanh “khùng khục”, dáng vẻ rất sảng khoái, cứ như thể kẻ bị thiêu không phải là hắn ta vậy.
Tất cả mọi người đều ghê sợ đến độ ngây người ra, Tổ Gia nhìn chằm chằm vào ngọn lửa. Đột nhiên, ông cầm một khẩu súng, đoàng một tiếng, bắn chết Tứ Bá đầu. Quả thực, ông không thể nhìn tiếp cảnh tượng đó được nữa.
Hạ súng xuống, Tổ Gia ngửa mặt lên trời, thở dài một tiếng, thầm nói: “Hai em hãy yên lòng nhắm mắt. Anh không thể giết được tất cả bọn chúng.”
Đột nhiên, Trương Đan Thành chỉ vào Tổ Gia hét lên: “Bắt tên tiểu tử này lại cho ta!”
PHÂN CHI THIÊN ĐỊA HỘI - PHÁI GIANG TƯỚNG
Tổ Gia thất kinh.
Chu Chấn Long cũng ngơ ngác không hiểu: “Sư phụ! Tại sao vậy? Cậu ta là ân nhân cứu mạng của chúng ta mà.”
Trương Đan Thành vẫn hét lớn: “Trói nó lại!”
Chu Chấn Long không dám trái lệnh, cùng với hai tên tay chân nữa nhất tề xông lên, trói nghiến Tổ Gia lại.
Trương Đan Thành cười nhạt, nói với Tổ Gia: “Chúng ta không thân không thích, ngươi lại liều mạng ứng cứu. Ngươi và Tứ Bá đầu không thù không oán nhưng ngươi lại muốn dùng hình phạt thắp đèn trời. Ngươi không thấy rất kỳ lạ sao?”
Trống ngực Tổ Gia đập thình thịch, nhưng vẫn không hé răng nói lời nào.
Trương Đan Thành đi một vòng quanh Tổ Gia lúc này đã bị trói quặt tay ra sau lưng, bỗng nhiên chỉ tay vào đầu Tổ Gia nói: “Ngươi chính là tên tiểu tử chạy thoát đó!”
Chu Chấn Long giật mình lùi lại hai bước, ngạc nhiên nói: “Là… là tên tiểu tử lọt lưới mà Tứ Bá đầu nói đến sao?”
Tổ Gia nhắm hai mắt lại, trong đầu nghĩ: xong rồi, xong rồi. Nhưng cậu vẫn ung dung nói: “Đã bị các ngươi nhận ra rồi. Hãy ra tay nhanh đi! Ta cũng đã có thể đoàn tụ với gia đình được rồi.”
Trương Đan Thành thở dài một tiếng nói: “Có ân không báo, không đáng mặt quân tử, tất sẽ để lại tiếng xấu thiên cổ. Trương Đan Thành ta hành tẩu giang hồ mấy chục năm, thành danh đều nhờ vào chữ nghĩa, ngươi đã cứu mạng ta, ta giết ngươi hóa chẳng phải kẻ bất nhân bất nghĩa sao, ta không giết ngươi, nhưng… cũng không thể thả ngươi ra được.”
Trương Đan Thành biết rằng đứa trẻ đứng trước mặt mình đây có lòng hận thù quá nặng, lại vô cùng tàn độc. Thả nó ra chẳng khác nào thả hổ về rừng nên hắn ta quyết định bắt giam lại.
Hậu viện của Đường khẩu có một nhà lao bí mật, chuyên dùng để giam cầm A Bảo phạm lỗi. Tuần thứ hai sau khi bị bắt giam, Trương Đan Thành cử một ông già què khoảng 50 tuổi tới canh giữ Tổ Gia. Tổ Gia thật không thể hiểu nổi, Đường khẩu nhiều A Bảo chân tay lành lặn như vậy, mà tại sao Trương Đan Thành lại cử một ông già què đến canh giữ.
Sau này, Tổ Gia mới biết, ông già què này không phải là một người tầm thường, ông ta đã đi theo Trương Đan Thành mấy chục năm. Khi Tứ Bá đầu tạo phản, ông ta không có ở bên cạnh Trương Đan Thành. Sau khi được mấy tên tay chân chạy đến báo tin, liền lập tức quay về Đường khẩu, nhưng đã quá muộn, thân cô thế cô, không thể địch lại được số đông. Sau khi hạ gục mấy tên A Bảo, nhân tình thế hỗn loạn, phóng qua tường trốn đi. Sau này, khi Trương Đan Thành lấy lại Đường khẩu, ông ta lại quay về.
Chân què, nhưng kỹ thuật của ông ta không què quặt chút nào. Ông ta cũng có thể coi là một sát thủ đệ nhất của Đường khẩu. Sở dĩ ông ta bị què là vì bảo vệ Trương Đan Thành trong cuộc xung đột với Hắc bang năm xưa, tuyệt kỹ lợi hại nhất của ông ta chính là phi đinh. Vận toàn lực vào tay, ông ta có thể phi đinh sắt cắm sâu vào cây gỗ đến mấy tấc ở khoảng cách ngoài mười mấy mét. Nghe nói, môn kỹ thuật này bắt nguồn từ “Yến Tử môn” ở Trung Nguyên. Sau này, có nhiều tin đồn cho rằng kỹ thuật phi đinh được phát triển thành phi dao vô cùng ngoạn mục và lợi hại. Thực ra, thời đó chỉ là phi rìu chứ chưa biết đến phi dao, mặt khác không phải cứ muốn là có thể phi dao được. Trước cuộc Cách mạng công nghiệp, chưa hề có kỹ thuật cắt và cán mỏng lưỡi dao, do đó lưỡi dao đều được mài theo cách thủ công. Muốn làm ra được lưỡi dao mỏng như cánh chuồn, phải tốn rất nhiều thời gian và công sức, cho dù có chế được đúng theo ý mình thì khi lâm trận cũng không thực sự đắc dụng. Vì dao một khi đã phóng ra là khó có thể thu về được, nhiều nhất cũng chỉ giết được một vài người, sau đó chỉ còn cách chịu trận đợi kẻ khác đến giết. Hơn nữa, phi dao phần nhiều là lén lút, phi xong liền bỏ chạy, trúng đích thì không nói làm gì, không trúng kể như mất toi vài chiếc mà phải tốn thời gian mười mấy ngày mới chế được một chiếc. Chỉ một trận là chẳng còn lưỡi dao nào, lần hành động sau lại phải mài lưỡi mới.
Ngược lại, đinh lại chế tạo rất dễ dàng, nhưng đinh khi đó cũng không giống như đinh tây bây giờ, đều là sản phẩm của nước ngoài, giống như diêm và dầu hỏa. Đinh thời xưa khá to, do thợ rèn tự chế, đường kính gấp ba đến bốn lần đinh bây giờ. Lượng cung ứng đinh cũng rất lớn, mỗi lần có thể mang theo mấy chục chiếc. Với một cao thủ công lực thâm hậu, bách phát bách trúng, một trận quyết chiến, chí ít có thể giết được mấy chục người. Lần sau hành động, cũng không phải lo lắng về vấn đề thiếu đinh.
Tổ Gia nói với tôi: “Nếu không tận mắt nhìn thấy, sẽ không tin trên thế gian này có một cao nhân như vậy. Ông già què đó vung tay một cái, đinh sắt bay ‘vút’ ra, ‘phập’ một tiếng, cắm ngay vào cây gỗ trên cánh cửa nhà lao.” Tổ Gia bị một phen kinh sợ, đồng thời cũng đã hiểu vì sao Trương Đan Thành cử một người như vậy đến canh giữ mình.
“Sư phụ nói, ngươi là ân nhân cứu mạng của ông ấy, cũng là kẻ thù không đội trời chung, dặn ta tuyệt đối không được khinh thường, càng không được tin ngươi.” Ngày đầu tiên gặp mặt, ông già què đó đã nói với Tổ Gia như vậy.
Ban đầu hai người luôn đề phòng lẫn nhau, một trong nhà lao, một ngoài cửa nhà lao, không hề nói với nhau câu nào, sau này quen rồi, dần bắt đầu trò chuyện.
Ông già què này tên gọi là Đồ Nhất Minh, là hàng đệ tử đầu tiên sau khi Trương Đan Thành xuất đạo. Sau khi bị gãy chân, về cơ bản Trương Đan Thành không sắp xếp cho ông ta làm việc bên ngoài. Chân ông ta gãy là vì Trương Đan Thành, trước mặt anh em Đường khẩu Trương Đan Thành thề rằng sẽ chăm sóc ông ta cả đời. Kỳ thực Đồ Nhất Minh làm việc nhiều năm ở Đường khẩu, tiền bạc cũng tích lũy được một món kha khá, như vậy, ông ta không thiếu tiền, không cần phải nhờ người khác nuôi.
Tổ Gia hỏi ông ta vì sao không nhân cơ hội rời khỏi Đường khẩu, tìm một nơi mà mai danh ẩn tích. Đồ Nhất Minh cười lớn nói: “Ngươi không hiểu rồi. Một người đã lăn lộn ở Đường khẩu mấy chục năm trời thì Đường khẩu chính là nhà, dù có mang tiền ra đuổi cũng không đi. Sống là người của Đường khẩu, chết làm ma của Đường khẩu. Từ lâu, ta đã quen với ngày tháng sống cùng anh em huynh đệ. Sau khi ta bị tàn phế, tuy không phải ra ngoài dàn cục, nhưng vẫn là người không thể thiếu trong việc bàn tính kế sách. Ta là người không chịu được sự nhàn rỗi, càng không muốn ăn không ngồi rồi, đúng lúc ngươi xuất hiện, sư phụ muốn ta đến canh giữ ngươi và nói rằng tên tiểu tử nhà ngươi là kẻ vô cùng nguy hiểm.”
Tổ Gia cười gượng trong lòng. Một thời gian sau, cuộc sống giam hãm của Tổ Gia cũng thoải mái hơn ít nhiều. Mỗi ngày ba bữa đều có thịt, gặp hôm mùng một, ngày rằm còn được uống vài ba ngụm rượu. Chiêu này của Trương Đan Thành quả thật cao tay. Thời gian có thể mài mòn đi tất cả, cũng vì thế lửa hận thù và sự ức chế trong lòng Tổ Gia bắt đầu dần nguội đi. Đêm đến, cậu thường độc thoại, nhắc nhở bản thân phải khắc sâu mối thù hận: em trai, em gái tuy không phải do Trương Đan Thành tự tay giết chết, nhưng ông ta là kẻ cầm đầu Đường khẩu… ban đầu nếu như ta không cứu bọn chúng… nhưng giờ đây ông ta cũng không giết mình… Hàng đêm, khi nút thắt trong tư tưởng này vẫn còn chưa cởi ra được, Tổ Gia đã chìm sâu vào giấc ngủ. Trong giấc mơ, cậu thường thấy những ngày tháng trước đây, được trở về bên cạnh cha mẹ, cả nhà lại rộn rã tiếng cười. Khi tỉnh dậy trong căn phòng giam lạnh lẽo, trở lại với hiện thực, cậu đờ đẫn ngồi ngây ra một hồi lâu.
Tổ Gia cũng từng nghĩ đến việc đâm đầu vào góc tường tự sát, nhưng lại không thể hiểu nổi vì sao mình muốn chết? Gia bại nhân vong20, bản thân không muốn kế tục hương hỏa sao? Cậu cũng từng nghĩ đến việc tuyệt thực, nhưng cơm của kẻ thù không thể ăn được sao? Ăn no rồi mới có thể tiếp tục sống, sống mới có cơ hội ra ngoài, ra được ngoài rồi thì mới có thể trả thù, không những phải ăn, mà còn phải ăn thật ngon lành.
Cứ cách dăm bữa nửa tháng, Tổ Gia được ra ngoài hóng gió với một cái xích to dưới chân. Đồ Nhất Minh ngồi trong sân theo dõi cậu, trong tay áo luôn giấu sẵn đinh sắt. Có lúc Tổ Gia nói với ông ta: “Ông không cần phải căng thẳng như vậy, tôi không chạy được đâu mà lo.”
Những lúc như vậy, Đồ Nhất Minh mỉm cười nói: “Người khác thì không thể, nhưng ngươi thì có thể, 15 tuổi dám giết hai mạng người, thắp đèn trời một người. Nếu không cẩn thận, chính ta đây cũng không biết mình sẽ chết như thế nào.”
Thực ra, Đồ Nhất Minh đã sớm có cảm tình với Tổ Gia. Ông ta thường nói với cậu rằng: “Nhóc con, nếu ngươi không phải là kẻ thù của chúng ta, chắc chắn chúng ta sẽ trở thành anh em tốt. Ngươi cũng chớ nên cả ngày nghĩ đến việc trả thù. Nói một câu công bằng, khi đó sư phụ ta dàn cục không hề biết đó là em trai và em gái của ngươi, khi Tứ Bá đầu la cà trên phố, đúng lúc gặp được các ngươi…”
“Ông chớ có nhắc lại chuyện này nữa!” Tổ Gia ngắt lời ông ta.
“Không cho ta cũng cứ nhắc đấy. Ta nói cho ngươi biết, sư phụ ta đã cử người đến ngôi miếu đó đem tượng đất tro cốt của hai em ngươi về, mua hai chiếc quan tài, rồi cho chôn cất cẩn thận, hơn nữa còn lập bia, hàng tháng đều cử người đến thắp hương, đốt tiền vàng. Hiện nay anh em trong Đường khẩu đều muốn giết ngươi, nhưng sư phụ ta không đồng ý…”
“Đừng nói nữa! Đồ què cụt!” Tổ Gia ngắt lời.
Đồ Nhất Minh cười ha hả nói: “Tên tiểu tử này, nếu ngoài phố có kẻ nào mắng ta như vậy, lão gia đây sẽ cho một phi tiêu vào họng.”
Tổ Gia không đôi co lại nữa liền nói: “Trương Đan Thành định giam ta bao lâu?”
Đồ Nhất Minh lắc đầu: “Việc này không biết chắc được, có lẽ là mấy năm, cũng có thể là mười mấy năm, biết đâu lại đến mấy chục năm. Chỉ cần sư phụ ta còn sống thì ngươi còn bị giam ở đây, trừ phi ông ấy chết, mà có chết ông ấy cũng chưa chắc sẽ thả ngươi đâu. Ngươi là kẻ địch của cả Đường khẩu, thả ngươi ra, nghĩa là chúng ta chẳng muốn sống nữa. Vì thế, ta đồ rằng ngươi sẽ chết già ở trong này, mà điều này chẳng phải rất tốt sao? Được ăn được uống, đợi ngươi lớn lên chút nữa, không biết chừng sư phụ ta còn tìm cho ngươi một cô vợ cũng nên… ha ha…”
Tổ Gia bỗng trở lên hoang mang, lẽ nào cả đời này phải như vậy sao?
Mỗi ngày trôi qua, Tổ Gia đã dần củng cố quyết tâm phải tiếp tục sống, hàng ngày ăn xong duỗi tay duỗi chân trong phòng giam, có lúc còn trồng cây chuối, rèn luyện thể lực và sức chịu đựng. Mỗi khi buồn chán, Đồ Nhất Minh lại đứng lên đi lại, ra sân ngồi, chơi trò phóng phi tiêu vào thân cây, sau đó đi cà nhắc đến nhổ ra, rồi lại cà nhắc quay lại, rồi phóng tiếp, cứ như thế, phóng rồi nhổ, nhổ rồi phóng.
Có một lần, Tổ Gia nói với Đồ Nhất Minh: “Ê, hay là ông dạy tôi phi đinh sắt đi?”
Đồ Nhất Minh hấp háy đôi mắt, cười nói: “Ngươi nghĩ ta già nên lú lẫn rồi sao? Ta dạy ngươi rồi, không biết chừng một ngày nào đó ngươi chẳng phóng một đinh vào đầu ta à? Chẳng phải như thế là ta đang tự tìm cái chết sao?”
Tổ Gia cũng cười nói: “Lấy dạ tiểu nhân đo lòng quân tử.”
Con người là loài động vật cảm tính, gần nhau, tiếp xúc một thời gian dài sẽ sinh tình cảm, cảm giác đề phòng lẫn nhau cũng sẽ giảm bớt đi. Một lần sau khi Đồ Nhất Minh đến, ngồi trầm ngâm thở dài, Tổ Gia thấy vậy liền hỏi: “Ông làm sao vậy?”
Đồ Nhất Minh nói: “Sư phụ lại cáu giận rồi! Suýt chút nữa là lộ cục! Một lũ tạp chủng, quá tham lam!”
Tổ Gia mỉm cười: “Ông kể đi.”
Đồ Nhất Minh liếc nhìn Tổ Gia một cái. Tổ Gia lại cười: “Tôi cũng có thể được coi là người của Đường khẩu, hơn nữa lại không chạy đi đâu được, có nghe biết được chuyện gì chăng nữa cũng chỉ để trong bụng. Ông đâu cần phải căng thẳng như vậy chứ?”
Đồ Nhất Minh thở dài thườn thượt nói: “Cũng được. A Bảo bây giờ không giống như trước đây nữa rồi…”
Tổ Gia hỏi lại: “Thế nào là không giống, chẳng phải vẫn đều là phường lừa đảo sao?”
Đồ Nhất Minh lắc đầu: “Mất đạo rồi, mất đạo rồi.”
Tổ Gia hỏi vặn lại: “Phường lừa đảo thì có đạo gì chứ?”
Đồ Nhất Minh sầm mặt lại: “Nhà ngươi thì hiểu gì chứ? Phái Giang Tướng chúng ta, một bái trời làm cha, hai bái đất làm mẹ, có tình có nghĩa. Vô tình vô nghĩa tất sẽ chết dưới muôn đao. Lấy việc cướp của người giàu chia cho người nghèo làm tôn chỉ hành động, tham tài tham sắc tất sẽ bị trời báo ứng. Ngươi hỏi phường lừa đảo thì có đạo gì ư? Sư phụ biết rõ ngươi muốn giết ông, nhưng ông lại không giết ngươi, ngược lại vẫn nuôi ngươi. Đó chính là đạo.”
Tổ Gia ngẩn người ra một lát rồi lập tức nói: “Giết người cũng là đạo sao?”
Đồ Nhất Minh trả lời: “Giết kẻ xấu là đạo, giết người tốt là thất đạo.”
Tổ Gia trầm tư một lúc: “Vậy còn giết những đứa trẻ bất hạnh thì sao?”
Đồ Nhất Minh biết Tổ Gia lại nhớ đến hai em của mình, cúi gằm mặt trong chốc lát rồi nói: “Đó là thất đạo. Con người nhiều lúc rất khó để khống chế được bản thân, vì lợi ích của Đường khẩu, nhiều khi không thể quản được nhiều như vậy…”
Tổ Gia nghe vậy tức giận nói: “Không quản được sao? Không quản được thì lạm sát người vô tội ư? Đó chỉ là những đứa trẻ con chưa hiểu biết sự đời, không thù không oán với các ngươi đó.”
Đồ Nhất Minh cũng tức giận đáp lại: “Ai biết được đó là hai em của ngươi? Ngươi thử nhìn xem trên đường đầy rẫy kẻ ăn mày, không chết vì đói cũng chết vì rét, sớm muộn gì cũng phải chết. Giờ đây, ngay chính đêm nay, có biết bao nhiêu kẻ ăn mày phải chết vì đói rét, ngươi có biết không, ngươi có quản hết được không? Đây là thế giới ăn thịt người. Bọn chúng không bị A Bảo ăn thịt, cũng sẽ bị cái thế giới này nuốt chửng.”
Tổ Gia nói một cách lạnh lùng: “Đó chính là đạo của các ngươi sao?”
Đồ Nhất Minh thở dài nói: “Ngươi cho rằng sư phụ ta không hối hận sao? Ngươi có biết mỗi năm Đường khẩu bỏ ra bao nhiêu tiền cứu tế người nghèo không? Ngươi có biết sư phụ ta hàng năm làm phúc bao nhiêu bát thuốc không? Ngươi có biết người dân ở các thôn trong vòng mười dặm quanh đây đều coi sư phụ ta là Bồ Tát sống không? Đem mạng của mấy tên ăn mày để đổi lấy sự no ấm của hàng trăm hàng nghìn người, không đáng sao?”
Tổ Gia nói: “Nếu người bị chết là con cái của ngươi thì sao?”
Đồ Nhất Minh ngỡ ngàng im lặng không nói.
Tổ Gia nói tiếp: “Đều là cha sinh mẹ dưỡng, là núm ruột của cha mẹ.”
Đồ Nhất Minh nói: “Ngươi không biết đó thôi, sư phụ là người tốt, ngươi thử nhìn xem mấy Đường khẩu quanh đây, đều trở thành những kẻ như thế nào rồi? Lừa tiền lừa sắc, giết người cướp của, hãm hiếp phụ nữ, không điều ác nào không dám làm, đúng là một lũ súc sinh.”
Tổ Gia đế theo: “Các ngươi cũng chẳng khác gì một lũ súc sinh.”
Đồ Nhất Minh giơ tay phải lên cao, tức giận nói: “Ngươi…”
Tổ Gia nói: “Muốn giết ta sao? Súc sinh! Các ngươi là lũ súc sinh. Súc sinh!”
Đồ Nhất Minh nhìn thẳng vào Tổ Gia, thu đinh sắt lại vào trong ống tay áo: “Ta với ngươi có cách nghĩ hoàn toàn khác nhau.”
Hai người im lặng không nói, một lúc lâu sau, Đồ Nhất Minh mới mở miệng trước: “Ngươi muốn hận cứ hận, nhưng ta nói cho ngươi biết, A Bảo chân chính không phải kẻ súc sinh. Năm đó khi Tổ sư gia Phương Chiếu Dư, một trong Ngũ tổ Hồng Môn sáng lập phái Giang Tướng, hô hào anh hùng hảo hán trong thiên hạ, hành hiệp trượng nghĩa, cướp của người giàu chia cho người nghèo, “Phản Thanh phục Minh”, lê dân bách tính vô cùng cảm kích. Sau khi Tổ sư gia quy tiên, đệ tử của bốn nhánh Càn, Khôn, Khảm, Ly vẫn luôn tuân theo lời dạy của ngài, tâm hoài thiện niệm, không tham tài, không tham sắc, thưởng thiện phạt ác, cướp của người giàu chia cho người nghèo.”
Tổ Gia trầm ngâm, những lời ông ta nói đều là sự thật, vì tổ tiên của Tổ Gia cũng là người của Thiên Địa hội. Thiên Địa hội chính là Hồng Môn. Hồi nhỏ Tổ Gia thường được nghe ông nội kể những câu chuyện về “Phản Thanh phục Minh” của Thiên Địa hội. Chỉ có điều nhánh phái Giang Tướng này ngày càng xa rời Thiên Địa hội nên ông nội ông rất ít đề cập đến.
Đồ Nhất Minh thấy Tổ Gia im lặng, không hiểu cậu đang nghĩ gì liền hỏi: “Sao ngươi lại không nói gì vậy?”
Tổ Gia trầm tư một lúc lâu, tâm trạng nặng trĩu nói: “Thực ra… tổ tiên của ta cũng thuộc Thiên Địa hội…”
Câu nói đó chẳng khác nào sấm nổ giữa trời quang, khiến cho toàn thân Đồ Nhất Minh chấn động. Trong mắt ông ta, Tổ Gia chỉ là một tên ăn mày không rõ lai lịch. Trước đó, Trương Đan Thành cũng từng sai ông hỏi tên họ thật và thân thế của Tổ Gia, nhưng Tổ Gia không nói. Họ cũng chẳng có cách nào, sau đó không hỏi đến nữa. Không ngờ lại là người một nhà.
Xã hội phong kiến rất coi trọng nhận tổ quy tông. Đồ Nhất Minh vội vàng hỏi tường tận. Tổ Gia kể một cách mạch lạc cho ông ta nghe, kể đến năm đó tổ tiên mình “Phản Thanh phục Minh” ra sao, sau này lại gia nhập quân Thái Bình21 như thế nào… duy có chuyện cha mình bị hại là không nói.
Bấy nhiêu thôi đã đủ khiến cho Đồ Nhất Minh tròn mắt ngạc nhiên, ông ta run run hỏi: “Nhóc con, ngươi có biết đến đời ngươi là thuộc hàng chữ gì không? Hoặc ngươi có biết cha ngươi đứng hàng chữ gì không?”
Đó là một chữ cố định nằm trong tên gọi của mỗi người trong gia phả dòng tộc thời phong kiến. Thông thường chỉ chữ ở giữa, phản ánh trực tiếp vai vế của một người. Những chữ này là do lão tổ tông đặt cho, mục đích để thiết lập nên vai vế, đời này truyền sang đời khác. Ví dụ một người họ Trương, đến đời của anh ta thuộc hàng chữ “Vân”, vậy anh ta và anh em của mình đều được đặt tên là Trương Vân, như Trương Vân Sơn, Trương Vân Đằng, Trương Vân Liệt… Đời sau nếu là chữ “Khánh”, vậy trong tên của con cháu đều mang chữ “Khánh”, ví dụ Trương Khánh Văn, Trương Khánh Tài… Người cùng họ thoạt nhìn tên là biết ngay thân phận ai lớn, ai nhỏ.
Vai vế là nền tảng của luân lý cương thường. Tam cương, ngũ thường22 chính là nền tảng tư duy của xã hội phong kiến, do đó vai vế hỗn loạn là đại nghịch bất đạo. Mắng chửi, giết hại, thông gian hãm hại trưởng bối đều là trọng tội không thể dung thứ.
Tổ Gia nhớ rất rõ cậu đứng hàng chữ “Quán”, cha đứng hàng chữ “Lâm”, Tổ Gia trả lời một cách thật thà, lời vừa thốt ra, hai chân Đồ Nhất Minh như muốn quỵ xuống, liền vội vàng bò lên trên đi báo tin cho Trương Đan Thành.
TỔ GIA NHẬP ĐẠO
Sau khi nghe tin, Trương Đan Thành vô cùng hoảng hốt, vội vàng lấy gia phả của Thiên Địa hội ra, tra ngược đến giữa năm Ung Chính23. Quả nhiên đúng như lời Tổ Gia nói, cả tên gọi cũng đều khớp, Trương Đan Thành ngẩn người, như vậy suy ra, hàng chữ “Đan” của ông ta vừa vặn đứng sau chữ “Quán”, thấp hơn một bậc so với Tổ Gia. Theo thứ bậc Tổ Gia phải là Sư bá của ông ta mới đúng.
Trong một gia đình bình thường, vai vế cũng rất được coi trọng. Ở Đường khẩu, nó lại càng coi trọng hơn. Trương Đan Thành đang lâm vào nghịch cảnh bắt giam trưởng bối, hơn nữa còn giết hại hai người thuộc hàng thúc phụ của mình. Việc này mà đồn ra ngoài, ông ta đâu còn mặt mũi nào đứng trên giang hồ nữa. Nghĩ đến đó, toàn thân Trương Đan Thành toát mồ hôi lạnh.
“Làm thế nào bây giờ, sư phụ?” Đồ Nhất Minh hỏi.
Trương Đan Thành suy nghĩ hồi lâu, rồi thở dài một tiếng: “Nghiệp chướng. Đúng là nghiệp chướng!”
Ngược lại Tổ Gia lại không mấy để ý đến việc này, chỉ thấy Đồ Nhất Minh nhắc đến Thiên Địa hội, nên trong lòng bất giác dâng lên cảm giác thân thuộc, do đó, ông mới mang chuyện của cha mình ra nói. Sau khi Đồ Nhất Minh bỏ đi, Tổ Gia cứ ngẩn người ra, không hiểu chuyện gì sẽ xảy đến với mình tiếp sau đó.
Bỗng nhiên cửa nhà lao bật mở, tiếng bước chân vội vã vọng lại, Trương Đan Thành dẫn theo Chu Chấn Long, Đồ Nhất Minh và mấy tên A Bảo hấp tấp chạy vào. Tổ Gia vừa nhìn thấy đã giật mình hoảng sợ. Tất cả bọn họ đều ở trần, sau lưng là một thanh đao sáng loáng, không đợi Tổ Gia lên tiếng, nhất loạt quỳ xuống.
“Trương Đan Thành trưởng môn nhân thứ 13, Đường khẩu Mộc Tử Liên, phái Giang Tướng bái kiến Sư bá. Vãn bối có mắt không tròng, phạm vào tội đại nghịch bất đạo, hôm nay dẫn theo chúng đệ tử đến xin chịu tội. Xin Sư bá thi hành gia pháp, Trương Đan Thành nguyện xin được tạ tội.” Trương Đan Thành cúi đầu, hai tay cung kính nâng thanh đại đao lên trước mặt Tổ Gia.
Tổ Gia ngẩn người, không thốt lên được lời nào, hàng loạt suy nghĩ chạy vòng quanh trong đầu, đột nhiên hiểu ra: đều là con cháu của Thiên Địa hội, vai vế của mình nhất định cao hơn bọn họ.
Lúc này, Tổ Gia không biết phải nói câu gì, cũng không biết bản thân mình nên làm thế nào, một không gian im lặng bao trùm cả đại lao.
Một lúc lâu sau, Tổ Gia vội vàng bước lên đỡ Trương Đan Thành đứng dậy. Dù sao ông ta cũng là ông lão tuổi gần thất thập, Tổ Gia không nhẫn tâm nhìn ông ta ở trần quỳ mãi như vậy.
Trương Đan Thành nhất quyết không đứng dậy, nói: “Đây là tội đại nghịch, trời không dung, nguyện chặt cái đầu của vãn bối xuống để tế vong linh hai vị trưởng bối trên trời!”
Cảm xúc của Tổ Gia hỗn loạn. Nhớ đến hai em bất giác hai hàng lệ rưng rưng. Gặp phải nghịch cảnh này, làm sao ông có thể xuống tay được: “Lão tiên sinh, xin hãy đứng dậy! Oan oan tương báo khi nào mới dứt đây.”
Trương Đan Thành ngẩng đầu nhìn Tổ Gia rồi nói: “Sư bá tấm lòng nhân hậu, tính cả lần này là đã hai lần có ơn cứu mạng lão hủ, tội chết có thể miễn, tội sống khó có thể tha.” Nói xong, Trương Đan Thành tay trái đặt lên chiếc ghế gỗ, tay phải giơ đao lên, phập một tiếng, tự chặt đứt ngón tay út của mình, một dòng máu đỏ thẫm phun ra.
“Sư phụ!” Chu Chấn Long, Đồ Nhất Minh và những người đang quỳ đồng thanh kêu lên rồi lao đến vây quanh Trương Đan Thành.
Trương Đan Thành nhặt đoạn ngón tay của mình giơ lên nói với mọi người: “Các ngươi hãy tự chặt ngón tay đi.” Chu Chấn Long và Đồ Nhất Minh nhất loạt nhìn nhau, rồi đặt ngón tay út lên ghế, ánh đao sáng loáng lóe lên, hai ngón tay rớt xuống lăn trên mặt đất. Mấy tên A Bảo còn lại, đưa mắt nhìn nhau, cuối cùng đồng loạt đưa tay lên miệng cắn mạnh một nhát đứt phăng ngón tay út.
Quân quân thần thần, phụ phụ tử tử, Tổ Gia bị luân lý cương thường này làm cho chấn động. Ông không kìm được nước mắt, đỡ Trương Đan Thành dậy rồi nói: “Mọi người đứng cả lên đi. Oan oan tương báo khi nào mới dứt, chúng ta hãy quên hết mọi việc không vui trước kia đi.”
Chu Chấn Long vừa khóc vừa nói: “Đúng! Dù gì đều là người một nhà.”
Trương Đan Thành nói: “Nhanh truyền lệnh mở tiệc, ta và Sư bá phải uống một trận cho thật đã.”
Giờ đã là giờ Tý nửa đêm, tên quản gia hò hét dựng nhà bếp dậy, nhóm lò, thịt gà làm ngỗng, loáng một cái mâm cỗ thịnh soạn được đưa lên.
Trương Đan Thành để Tổ Gia ngồi lên ghế thượng tọa, bản thân đứng bên phải, Chu Chấn Long đứng bên trái, Đồ Nhất Minh đứng phía dưới.
Lúc này, Tổ Gia mới nói ra toàn bộ thân thế của mình, kể đến sự việc toàn gia chết thảm dưới tay bọn quân phiệt. Trương Đan Thành mắt bừng bừng lửa giận: “Quân khốn khiếp! Lũ quân phiệt này đều cùng một giuộc với bọn Mãn Thanh.”
Qua ba tuần rượu24, Trương Đan Thành than thở, hỏi Tổ Gia: “Sau đây, Sư bá có dự định gì không?” Câu hỏi này khiến cho Tổ Gia trầm tư bồi hồi. Trước đây, trong đầu luôn nghĩ đến việc báo thù cho đệ muội, nhưng nay mối thù này đã được hóa giải, tiếp theo chính là mối huyết hải thâm thù của cha mẹ. Bây giờ đi giết lũ quân phiệt là điều không thể nên ông không biết phải trả lời thế nào.
Trương Đan Thành thấy Tổ Gia im lặng không nói, liền hỏi: “Sao Sư bá không ở lại Đường khẩu?”
Tổ Gia ngây người: “Ở lại Đường khẩu? Làm A Bảo? Đi lừa đảo sao?”
Trương Đan Thành nói: “Không giấu gì Sư bá, lần đầu tiên gặp mặt, ta đã nhận thấy người là một anh hùng trí dũng có thừa, gan dạ mưu lược. Ta đã già rồi, chỉ vài năm nữa là bước sang tuổi bảy mươi ba. Bảy ba, tám tư, dù Diêm vương không gọi tự mình cũng sẽ đi. Ta quản Đường khẩu này cũng đã mấy chục năm, hơn nữa làm cũng không thực sự tốt, như vậy còn mặt mũi nào đi gặp Tổ sư gia đây. Than ôi!… Nhớ năm đó, Trương Đan Thành ta uy phong biết bao, khi đó Đông có Trương Đan Thành, Tây có Đoàn Kim Sơn, Nam có Kiều Ngũ Muội, Bắc có Khang Thiếu Hoa, Tứ đại Đường khẩu nhất hô bách ứng, quyền quý Đại Thanh cúi đầu nghe theo, giang hồ hảo hán tranh nhau đi theo. Ai có ngờ rằng có một ngày ta bị lộ cục? Kết quả không chỉ làm cho bản thân mình trở thành kẻ nam không ra nam, nữ không ra nữ, mà còn liên lụy đến anh em ở Đường khẩu khác. Tất cả phải bỏ chạy tháo cục, than ôi!…”
Chu Chấn Long và Đồ Nhất Minh nghe đến đây đồng thanh thốt lên một tiếng đầy bi thương: “Sư phụ!”
Trương Đan Thành nói: “Chấn Long, Nhất Minh, các ngươi đi theo ta đã lâu như vậy, nhất mực trung thành. Ta chẳng còn sống được mấy năm nữa, Đường khẩu phải có người đứng ra đảm trách, cơ nghiệp của tổ tông không thể đứt đoạn bởi tay ta. Từ sau khi Tứ Bá đầu tạo phản, trong lòng ta càng thấy buồn bã, chưa tìm được người kế tục… Chấn Long thật thà trung thực, được mọi người tín nhiệm, nhưng lại quá nhân từ, lòng dạ mềm yếu, chung quy không thể thống lĩnh được đại cục, không cẩn thận còn tự rước họa vào thân. Nhất Minh võ nghệ siêu quần, nhưng thiếu mưu lược, hành sự lại quá manh động, cũng khó có thể ngồi chấn giữ được Đường khẩu. Ngày ngày đều phải lo nghĩ đến việc sau này của Đường khẩu, thật khó cho người làm sư phụ ta đây.”
Chu Chấn Long và Đồ Nhất Minh mặt không giấu nổi vẻ hổ thẹn: “Sư phụ!”
Trương Đan Thành tiếp tục nói: “Sư bá, hôm nay trước mặt hai đồ đệ của mình, vãn bối thỉnh cầu người hãy ở lại. Dù gì đi chăng nữa, chúng ta cũng là người một nhà. Sau khi vãn bối chết, xin người đứng ra chủ trì Đường khẩu, có Chấn Long và Nhất Minh phò trợ, không biết ý của Sư bá thế nào?”
Không đợi Tổ Gia mở miệng, Chu Chấn Long và Đồ Nhất Minh đồng thanh nói: “Xin tuân theo lời Sư bá dạy bảo. Chúng con sẽ dốc hết sức khuyển mã!”
Một cảm giác mênh mang dấy lên trong lòng Tổ Gia. Tâm tư ông hỗn loạn, không nói nên lời, Trương Đan Thành cứ mở miệng ra một câu Sư bá, hai câu Sư bá, nhiều đến mức Tổ Gia rùng mình từng hồi như gió buốt quất vào người. Trong xã hội phong kiến, cháu cung kính trước thúc thúc có rất nhiều, nhưng ở vào tình cảnh tuổi còn nhỏ, vai vế lại cao, bản thân Tổ Gia có chút gì đó lạ lẫm: “Để ta suy nghĩ đã. Ngoài ra… lão tiên sinh tuổi tác lớn hơn ta rất nhiều, cứ gọi ta bằng tên là được, nếu không…”
“Sao có thể thế được, trước đây không biết không nói, xưng hô thế nào cũng được, nhưng nay vai vế đã rõ ràng, xưng hô lung tung, há chẳng phải là đại nghịch bất đạo ư?”
Tổ Gia không biết nói gì hơn.
Tổ Gia mất đến ba ngày suy nghĩ mông lung, ông nhớ đến cha mẹ, nhớ đến hai em mình đã chết chính tại Đường khẩu này. Bây giờ bản thân lại gia nhập Đường khẩu thì vong linh của họ ở trên trời nhìn mình thế nào đây?
Nếu không gia nhập Đường khẩu, vậy sẽ đi về đâu? Nhà đã không còn, nếu nhận tổ quy tông, nơi đây sẽ chính là nhà, Trương Đan Thành một lòng chân thành, từ chối thế nào đây?
Nhưng chung quy đây không phải là chính đạo, là phường lừa đảo, bản thân từ nhỏ đã đọc Tứ thư, Ngũ kinh, hiểu thế nào là lễ nghĩa liêm sỉ, Phái Giang Tướng tuy xuất thân từ Thiên Địa hội, nhưng nay đã thất đạo rồi…
Khi Tổ Gia còn đang suy nghĩ thì Đồ Nhất Minh tìm đến. Ông ta là người lỗ mãng, nhưng lời nói luôn đặt đúng chỗ. Mấy câu nói của ông ta đã khiến Tổ Gia đưa ra quyết định cuối cùng: “Sư bá chẳng phải đã từng hỏi thế nào là đạo sao? Người kế thừa vị trí của sư phụ, đó chính là đạo. Hiện nay giới A Bảo đều thất đạo cả rồi, nên cần một người dẫn dắt về chính đạo. Anh em của Sư bá đã chết, không biết người đã nghĩ đến điều này chưa? Nếu Đường khẩu do kẻ không có lương tâm nắm giữ, vậy thì sẽ còn biết bao người vô tội bị giết? Bao người vô tội bị lừa? Những loại A Bảo này còn gây ra bao nghiệp chướng nữa? Đại đạo có được chấn hưng hay không, đều trông chờ cả vào Sư bá.”
Câu nói này đã đánh đúng tâm lý của Tổ Gia, chấn hưng đại đạo, diệt trừ cái ác, biểu dương cái thiện, vực lại tôn chỉ đạo nghĩa lấy của người giàu chia cho người nghèo của Ngũ Tổ Hồng Môn, khiến lũ A Bảo súc sinh ấy quay lại chính đạo làm người. Đây có lẽ chính là đạo lý mà bản thân Tổ Gia theo đuổi.
Tổ Gia cuối cùng cũng gia nhập đội ngũ A Bảo. Xuyên qua một rừng đao, uống rượu tiết gà, một bái trời làm cha, hai bái đất làm mẹ. Tổ Gia đã chính thức nhập đạo.
Trong Phật kệ nói: “Vi nhân mạc tác khuy tâm sự, cử đầu tam xích hữu thần minh; thiện tác đáo đầu chung hữu báo, chỉ tranh lai tảo dữ lai trì.”25 Năm năm sau, Trương Đan Thành qua đời. Trước khi ra đi, trong lòng ông ôm một mối thống khổ dằn vặt, nhưng luôn có Tổ Gia kề cận ở bên những giây phút cuối đời. Ông ta ra đi vào ngày mùng 7 tháng Chạp. Bệnh tật giày vò đến nỗi chẳng còn ra hình người nữa, người khô đét như que củi, ngực bụng hõm xuống, hai bên xương sườn nhô lên, không cất nổi đầu lên nữa, chỉ có thể nhờ Tổ Gia bón nước bằng một chiếc thìa nhỏ.
Giờ Hợi hôm đó, Trương Đan Thành bắt đầu rơi vào trạng thái hôn mê, hơi thở đứt quãng, có lúc bỗng nhiên nhấc được hai cánh tay lên, vừa như muốn đẩy cái gì đó, lại như muốn thoát khỏi cái gì đó, khi đi vào cõi hư vô, một dòng nước mắt chảy ra từ khóe mắt. Tổ Gia biết ông ta không có con cái, người chết mà không có con cái đưa tiễn là một cái chết thê lương nhất. Hơn bao giờ hết ông ta mong mỏi có một đứa con. Khi tuổi trẻ hào hoa phong nhã, chỉ nghĩ đến việc đi lừa đảo. Sau này khi muốn có con cái, ông lại bị người ta cắt phăng mất tinh hoàn, đến ngay cả lòng tự tôn của nam nhân cũng bị tước đoạt mất. Trước lúc hấp hối, ông ta có lần hồi dương, nắm chặt tay của Tổ Gia, gắng gượng nói ra được hai từ, tuy giọng rất nhỏ, nhưng Tổ Gia nghe rất rõ ràng, đó là hai từ “báo ứng”.
Trương Đan Thành đi rồi, Tổ Gia chính thức đăng cơ. Trong năm năm, Tổ Gia học được tất cả các kỹ năng cần có của một A Bảo. Ngoài ra, ông còn có tố chất mà một A Bảo bình thường không có được. Đó là trí tuệ hơn người, đảm lược phi phàm, nhất là ý niệm hành thiện thâm căn cố đế, khiến ông từ trong ra ngoài đều trở thành Đại Sư bá không kẻ nào sánh được.
Sau khi Trương Đan Thành đi rồi, Chu Chấn Long cũng cảm thấy chán ghét hồng trần, ông ta theo Trương Đan Thành đã hơn 30 năm, trải qua biết bao sóng gió. Lúc này, ông ta cảm thấy đã đến lúc cần phải ra đi. Chu Chấn Long thỉnh cầu Tổ Gia cho phép rời khỏi Đường khẩu. Tổ Gia hỏi ông ta dự định đi đâu, đây không phải có ý ngăn cản, mà lo ông ta đã già cả, không người chăm lo. Ông ta nói đã sắp xếp đâu vào đó cả rồi, sau này sẽ cho Tổ Gia biết. Tổ Gia không hỏi thêm câu nào nữa. Trước khi đi, Tổ Gia chuẩn bị cho ông ta một khoản ngân lượng lớn, nhưng ông ta không cần, ông ta muốn Tổ Gia đem tất cả những thứ ông ta có phân chia hết cho người nghèo, một mình ra đi không chút vướng bận.
Đồ Nhất Minh thì ngược lại, ông ta một mực coi Đường khẩu là nhà, đem toàn bộ công phu phi đinh của mình truyền lại cho Tổ Gia. Giờ không có việc gì thì đến hầu trà Tổ Gia, có lúc lại cùng nhau đàm luận, rèn luyện phi đinh. Tổ Gia luôn nhường nhịn, khiến ông ta rất vui.
Sau khi Tổ Gia lên quản lý Đường khẩu, ông tiến hành hàng loạt cuộc chỉnh đốn nhân sự, loại bỏ chế độ đẳng cấp của Đường khẩu đã tồn tại hàng trăm năm nay, lập nên chế độ thưởng phạt mới. Từ đó, Tổ Gia đã thổi một luồng gió mới vào Phái Giang Tướng, tác phong, hành xử đều giống với Ngũ tổ Hồng Môn năm xưa. Có tên tay chân đề nghị tân trưởng môn nhân đổi sang gọi là Tổ Gia, như vậy vừa biểu thị sự tôn kính, vừa thân thiết. Vậy là cái tên Tổ Gia được ra đời từ đó. Đúng lúc này, Vương Á Tiều báo tin rằng tên quân phiệt hạ lệnh giết cả nhà Tổ Gia đã bị chết trong một cuộc đấu đá nội bộ, nghe nói hắn ta bị trúng bảy phát đạn, một phát vào đầu, sáu phát vào ngực.
Cuối năm đó, Tổ Gia mang theo mấy tên tay chân trở về quê. Sau khi hỏi thăm mới biết, khi những tên sát thủ bỏ đi, chính hương thân hàng xóm giúp đỡ chôn cất người thân của ông. Những người hàng xóm dẫn Tổ Gia đến khu mộ chôn cất cả nhà của ông, nơi đây nhiều năm không có người coi sóc, cỏ mọc quá đầu người. Tổ Gia quỳ phục xuống, ngẩng mặt lên trời, hai hàng lệ chứa chan.
Sau khi tế lễ xong, chúng hương thân mời Tổ Gia về nhà họ ăn bữa cơm tất niên, nhưng ông từ chối. Ông cho họ một ít tiền, rồi quay về nhà mình, ban ngày ông đã cho người quét dọn sạch sẽ, phòng ốc đã được sắp xếp gọn gàng hơn rất nhiều.
Ngồi trong căn phòng trống rỗng, bao nhiêu kỷ niệm ngày xưa ùa về trong tâm tư ông như nước thủy triều dâng. Tiếng nói, tiếng cười, những gương mặt thân thương tràn ngập trong tâm trí ông. Đêm khuya cô tịch, trời đất bước vào thời khắc giao thừa, xa xa vọng lại từng tràng tiếng pháo đì đùng, nhà nhà hân hoan chào đón năm mới, Tổ Gia bước ra sân nhìn lên trời, phía đường chân trời là những vệt sáng của pháo hoa lóe lên điểm xuyết trong thế giới cô độc của ông, một nỗi thương cảm vô hạn bao trùm lên tâm trí.
BỊ SỈ NHỤC TẠI LẦU TRÀ
Tổ Gia dành cả một đêm để kể cho tôi về những chuyện đã qua. Câu chuyện vừa kết thúc cũng là lúc hừng đông đang lấp ló phía chân trời.
Từ bé đến lớn, tôi chưa từng nghe câu chuyện nào ly kỳ mà rung động lòng người như vậy. Tôi không biết phải nói gì cho phải, cũng không biết vì sao ông lại kể cho tôi nhiều chuyện đến thế. Tôi ngây người ngồi bất động, chén trà đã nguội tự bao giờ.
“Lượng ngốc!” Tổ Gia nói. “Giờ đây ngươi đã hiểu vì sao vừa rồi ta lại nói trước đây ta còn không được bằng ngươi như bây giờ chưa? Ta chỉ là một đứa trẻ ăn mày, giờ đây đã trở thành ông chủ. Còn ngươi dù sao cũng là một tiểu nhị, ngươi nói xem ngươi có thể là lão gia hay không?”
Tôi không biết phải trả lời ra sao, trong lòng nghĩ: ai có thể bì được với ông, tôi đây đến cắt tiết gà mà hai tay còn run nữa là. Ông giết hai người không chớp mắt, tôi chẳng thể có được cái gan và khí phách đó.
Tổ Gia thấy tôi không nói gì liền hỏi tiếp: “Lượng ngốc, có muốn đi theo lão gia ta không?”
Tôi chấn động trong lòng, lẽ nào hôm nay Tổ Gia gọi tôi đến là muốn tôi đi theo ông gia nhập Đường khẩu? Làm kẻ lừa đảo sao? Tôi lạnh toát sống lưng. Bản thân tôi tuy nghèo thật, nhưng từ nhỏ không biết, mà có biết cũng không dám làm những việc Thương thiên hại lý, tôi sợ hãi nói: “Lão gia, tiểu nhân không có được bản lĩnh đó và cũng không có gan làm. Tiểu nhân chỉ cần có miếng cơm bỏ vào miệng là được rồi. Hơn nữa cũng không thể so được với ngài…”
“Ha ha ha.” Tôi chưa nói hết câu, Tổ Gia đã cười lớn, cười đến nỗi khiến tôi rùng mình nổi hết cả gai ốc.
Tổ Gia nói: “Ngươi muốn cả đời như thế này sao? Cả đời làm tên tiểu nhị ư? Không muốn kiếm tiền lấy vợ sao? Không con nối dõi là tội bất hiếu lớn nhất đó ngươi biết không?”
Câu nói này của Tổ Gia đã hạ gục tôi hoàn toàn. Nam nhi đến tuổi trưởng thành, ai không nghĩ đến chuyện thành gia lập thất? Ở quán trà, hàng ngày kẻ ra người vào tấp nập, nam nữ có cặp có đôi, tôi một mình lủi thủi nấp sau cánh cửa lén nhìn họ. Có lúc một cô nương xinh đẹp đến quán, khi pha trà cho người ta, tôi không thể không liếc nhìn cúc áo ngực phập phồng của cô ta, sau đó giả như không có việc gì rồi lập tức quay về quầy. Buổi tối, tôi cũng thường bó gối ngồi nghĩ, nghĩ đến ngày mình động phòng hoa chúc, sinh con đẻ cái. Nhưng lại nghĩ đến thân phận mình chỉ là tên nghèo kiết xác, bất giác tôi thở vắn than dài, phủi đít đứng dậy, đưa tay ngoáy mũi, sau đó vùi đầu mà đi ngủ.
Tổ Gia bỗng nhiên lại hỏi: “Lượng ngốc, mẹ ngươi qua đời như thế nào?”
Tôi trả lời: “Lao phổi ạ!”
Tổ Gia nói: “Đã tìm thầy lang khám cho bà cụ chưa?”
Nhắc đến việc này, tim tôi buốt nhói, tôi trả lời: “Ban đầu cũng có tìm thầy lang bắt mạch kê đơn mấy ngày, sau đó tiền hết, lại không có chỗ chạy vạy vay mượn, mấy thang thuốc chả mấy mà đã uống hết, tiếp sau đó bệnh phát nặng hơn, rồi thổ huyết, cuối cùng là…”
Tổ Gia nói: “Sau khi cụ chết thì an táng thế nào?”
Dường như Tổ Gia đang khoét sâu vào nỗi đau của tôi, đây là việc cay đắng chua xót nhất trong đời tôi. Mẹ già sau khi qua đời, không mua nổi quan tài, phải dùng chiếu bó lại, đặt nằm trong chiếc tủ đựng quần áo, rồi người trong thôn đến khiêng giúp đi, chôn cất một cách sơ sài như vậy. Mẹ già một đời đau khổ, cuối cùng đến manh áo liệm và cỗ quan tài cũng không có. Mỗi lần nghĩ đến việc này, tôi đều không cầm nổi hai hàng nước mắt.
Tổ Gia thấy tôi khóc, đưa cho tôi một chiếc khăn tay và nói: “Nếu ngươi vẫn muốn sống những ngày như vậy thì hãy trở về quán trà, còn nếu muốn đi theo ta, hãy quay lại đây.”
Ra khỏi phủ đệ của Tổ Gia, tôi chạy thẳng một mạch về quán trà. Lời nói của Tổ Gia cứ văng vẳng bên tai, tôi không biết mình phải lựa chọn như thế nào. Không hiểu vì sao Tổ Gia lại chọn tôi, tôi không phải là một người thông minh, bộ dạng trông rất ngốc nghếch, hơn nữa cái gan chỉ bằng con chuột nhắt. Chỉ riêng những điều này thôi đã là không hợp với nghề A Bảo rồi.
Sáng hôm sau, tôi vẫn đến quán trà. Cả đêm không ngủ, hai mắt đờ đẫn thất thần. Cộng thêm những chuyện của Tổ Gia đã nói cứ lảng vảng trong đầu, tôi không tập trung làm việc gì được. Buổi trưa, như thường lệ Tổ Gia đến uống trà, tôi không dám nhìn thẳng vào ông. Vẫn giọng nói quen thuộc, ông gọi: “Lượng ngốc, cho lão gia ấm trà Long Tỉnh!”
“Đến ngay đây!” Tôi cao giọng đáp lại, pha cho ông một ấm trà Long Tỉnh thượng hạng.
Ông vẫn cầm chiếc quạt trắng, vẫn uống trà, vẫn thong thả phe phẩy quạt.
Tôi nhìn vào mắt ông, ông không có phản ứng gì, tôi vội vàng đi tiếp đón những người khách khác.
Một lát sau, có hai người trẻ tuổi với thái độ ngông nghênh bước vào, tôi vội vàng chạy đến: “Hai vị, xin mời vào trong.”
“Mang cho chúng ta một ấm trà thượng hạng!”
“Đến ngay.” Tôi vội vàng đi pha trà cho họ, sau khi pha xong, tôi cẩn thận bê lên và kính cẩn: “Mời hai vị dùng trà.” Vừa quay lưng đi, tôi nghe thấy một tiếng “choang”, tách trà đã rơi xuống nền nhà tự lúc nào. Tôi cũng không biết tại sao lại rơi. Khả năng vừa rồi khi tôi quay người đi, tay áo đã vướng phải tách trà.
Ông chủ đã dặn dò, gặp phải trường hợp này, phải nhanh chóng xin lỗi, đồng thời xem nước trà nóng có bắn vào chân khách hay không. Nếu nước và lá trà dính vào chân khách, phải lập tức dùng ống tay áo của mình lau sạch.
Tôi cúi người xin lỗi liên tục: “Xin lỗi hai vị, xin lỗi hai vị.” Thấy trên chân một người khách bị nước trà bắn vào, tôi vội vàng ngồi thụp xuống, định bụng dùng ống tay áo lau sạch.
Vừa mới đụng vào chân, không ngờ hắn ta liền co chân, đạp mạnh tôi một cái vào ngực. Tôi cảm thấy mắt hoa lên, khí huyết đảo lộn, đau đến nỗi không thở ra được.
“Khốn kiếp! Ngươi có biết đôi giày của ta đáng giá bao nhiêu tiền không? Cái bàn tay bẩn thỉu của ngươi, cũng đòi lau sao?” Tên tiểu tử đó cao giọng mắng nhiếc.
Tôi ôm ngực ngồi bệt xuống chân tường, biết hôm nay lại gặp phải tình huống giống như lần trước, lần đó tôi cũng bị một cái bạt tai. Lúc này tôi chỉ mong sự việc này nhanh chóng qua đi. Tôi không muốn tranh cãi, mà cũng chẳng dám tranh cãi.
Ông chủ quán thấy sự việc không hay, vội vàng chạy lại, tươi cười nói: “Hai vị, xin hãy bớt giận, tên đồ đệ này của tôi không hiểu chuyện, tay chân vụng về. Xin lỗi hai vị, xin lỗi hai vị! Tách trà hôm nay miễn phí, xem như tôi bồi thường cho hai vị.” Sau đó quay người lại phía tôi: “Còn không mau cút đi!”
Tôi đứng dậy định đi, không ngờ tên tiểu tử đó nói: “Đợi một chút!” Sau đó vẫy tay về phía tôi: “Ngươi qua đây.”
Tôi nghĩ hắn định cho tôi một cái bạt tai, tôi ôm quai hàm chầm chậm đi lại, sợ hãi nhìn hắn.
Hắn cười với tôi và nói: “Ngươi xem bộ dạng của ngươi kìa! Như thế này đi, ngươi liếm hết những cọng trà dính trên giày của ta, ta sẽ cho qua chuyện này, nếu không, lão gia ta hôm nay sẽ đập nát cả ngươi và cái quán trà này!”
Tôi biết phận mình thấp hèn, từ nhỏ đã không ít lần bị người khác ức hiếp, nhưng việc liếm giày lần này quả thực chưa từng gặp bao giờ. Xem ra bọn chúng không coi tôi là người nữa. Tôi nhìn sang ông chủ cầu cứu. Với vẻ mặt vô cùng khó xử, ông chủ quán trà miễn cưỡng gật đầu, ra hiệu cho tôi lập tức liếm giày cho hắn.
Bỗng nhiên tôi nhớ đến Tổ Gia, quay đầu nhìn về phía bàn ông đang ngồi với ánh mắt cầu cứu. Tôi nghĩ rằng Tổ Gia nhất định sẽ giúp đỡ tôi bởi ông vốn là người hiệp nghĩa mà.
Không ngờ, Tổ Gia không nhìn về phía này, ông vẫn phe phẩy chiếc quạt, thong thả uống trà, dường như mọi việc đang diễn ra không dính dáng gì đến mình.
Tôi tuyệt vọng, chầm chậm quỳ xuống, thè lưỡi ra liếm sạch lá trà dính trên giày của hắn. Tên đó thấy vậy khoái trá bật cười ha hả.
Tôi cảm thấy bản thân mình đến chút lòng tự tôn cũng không có. Sau khi liếm xong, tôi liền chạy thẳng một mạch về phía nhà sau, tìm một góc vắng vẻ, òa khóc như một đứa con nít.
Đêm đến, tôi lặng lẽ đi về hướng phủ của Tổ Gia, đi đến nửa đường, lại do dự quay về, về được một đoạn, lại quay lại, cứ như vậy quay đi rồi lại quay lại, cuối cùng cũng đến trước cửa phủ.
Tôi đứng trước cửa, không biết giờ này ông đã ngủ hay chưa, thò tay gõ cửa. Cửa liền mở ra, người quản gia vừa nhìn thấy tôi liền nói: “Mau vào đi, Tổ Gia đang đợi cậu.”
Tôi ngây người ra rồi đi theo người quản gia, Tổ Gia đang ngồi một mình uống trà, thấy tôi đến: “Nghĩ thông rồi chứ?”
Tôi cúi đầu không nói, một lát sau, buồn bã nói: “Hôm nay… ngài đều nhìn thấy hết… con còn cho rằng…”
“Ngươi cho rằng ta sẽ giúp ngươi, đúng không?” Tổ Gia ngắt lời, “Ta nói cho ngươi biết, nếu là ta, ta sẽ lập tức giết chết hai tên khốn nạn đó, nhưng đó là ta, không phải ngươi. Bản thân ngươi phải có lòng tự tôn.”
Tổ Gia gầm lên một tiếng, tôi im lặng không nói.
“Bản thân ngươi hiểu được là tốt rồi. Trên thế gian này, không phải cứ hiền lành, trung thực là có thể sống tốt. Bắt đầu từ ngày mai, ngươi đến Đường khẩu đi.” Tổ Gia nói.
Tôi ngẩng đầu lên: “Tổ Gia, con…”
Tổ Gia nói: “Ngươi yên tâm đi, việc giết người đốt nhà, chẳng đến phiên ngươi làm đâu!”
Tôi đi theo Tổ Gia như vậy đó.
NĂM THÁNG VỚI SƯ PHỤ ĐƯỜNG KHẨU
Đi theo Tổ Gia, nghĩa là không phải lo đến vấn đề cơm áo gạo tiền. Cứ cách một tháng Đường khẩu tổ chức “thực lộc” một lần, nghĩa là tổ chức liên hoan. Thông thường chỉ có cấp Bá đầu mới được tham gia, có khi được phép mang theo một vài đệ tử xuất sắc.
Mỗi lần Đường khẩu tổ chức liên hoan, Tổ Gia đều gọi tôi đến hầu bàn. Nhị Bá đầu đương nhiên rất vui mừng, vì tôi là đệ tử của ông ta. Nhưng một vài Bá đầu khác bất mãn, họ không hiểu một kẻ vừa ngốc nghếch, tướng mạo lại xấu xí, lấy tư cách gì để được ngồi cùng bàn tiệc? Tổ Gia nói: “Lượng ngốc trước đây từng là chân chạy bàn ở quán trà, pha trà rót nước đều làm rất tốt. Hãy để cậu ta tham gia!”
Kỳ thực, mỗi lần ăn cơm, đều có kẻ hầu người hạ, đúng ra không cần đến tôi pha trà rót nước. Nhưng từ khi tôi gia nhập Đường khẩu, Tổ Gia đều để tôi làm những việc này. Mỗi lần ăn cơm, tôi đều bị hành đến mức mệt bở hơi tai. Người khác vừa ăn vừa uống, còn tôi lúc rót rượu chỗ này, lúc thì châm trà chỗ kia. Vừa ngồi xuống, lại có người muốn hút thuốc, tôi liền vội vàng đi lấy lửa. Tính ra mỗi bữa ăn, bụng tôi chả có được mấy miếng cả, hơn nữa lại còn bận đến nỗi lưng đau, chân tê mỏi rã rời.
Nhưng tôi không hề để ý, chí ít, đó đều là người một nhà, không giống như ở quán trà, bị người khác sai bảo như một con chó, còn ở đây, mọi người đều là anh em. Họ là Bá đầu, là trưởng bối, nên dù mệt thật, nhưng tôi vẫn rất vui.
Tôi phát hiện Tổ Gia là người có tửu lượng rất tốt. Mỗi lần uống rượu, ông đều uống rất nhiều, mỗi khi có một Bá đầu nào đó mời rượu, ông đều uống cạn, nhưng chưa thấy ông say bao giờ. Không giống như Nhị Bá đầu, lần nào cũng như lần nào, uống say đến nỗi bò dưới gầm bàn, nôn ọe bừa bãi và cuối cùng tôi vẫn là người phải đi dọn dẹp.
Thời điểm mới về Đường khẩu, tôi cảm thấy nơi đây một nhà vui vẻ hòa thuận, cảm giác gia đình ấm cúng bị lãng quên từ lâu nay lại ùa về. Nhưng sau một vài lần cùng ăn uống với nhau, tôi phát hiện, giữa những Bá đầu, thậm chí là giữa Tổ Gia và Bá đầu, đều có mâu thuẫn nhất định. Chỉ có điều một số thứ không được bày lên bàn mà thôi, nhưng cũng có lúc không khí giữa mọi người có điều gì đó rất không ổn. Một lần, Nhị Bá đầu và Tam Bá đầu chỉ vì mấy câu nói mà suýt đánh nhau. Chuyện là Tam Bá đầu cười nhạo Nhị Bá đầu là đồ “đầu óc bã đậu”, lên mặt dạy bảo Nhị Bá đầu nên học thơ từ ca phú, nếu không sẽ chẳng bao giờ thoát khỏi cái tiếng dốt nát. Nhị Bá đầu đương nhiên không chịu nổi sự sỉ nhục như vậy, nói lại: “Mẹ kiếp nhà ngươi thì hiểu cái đít gì chứ! Ngươi có biết ông mày đây mỗi năm mang về cho Đường khẩu bao nhiêu ngân lượng không? Mẹ kiếp, còn ngươi chỉ biết ngày lừa gạt đàn bà con gái, đêm chui kỹ viện!”
Mỗi lúc như vậy, Tổ Gia đều ngồi yên lặng xem họ thể hiện. Khi thấy Tổ Gia mặt biến sắc hoặc có biểu hiện tức giận thì bọn họ không dám đấu khẩu nữa. Lúc này, như chưa từng xảy ra chuyện gì, Tổ Gia nhã nhặn nói: “Ăn đi, ăn đi, uống rượu, uống rượu nào!” Tất cả Bá đầu đều đưa mắt nhìn nhau, nghi nghi hoặc hoặc nhìn Tổ Gia. Ngược lại, ông vẫn mỉm cười nói: “Uống rượu, uống rượu nào!” Tất cả mọi người theo ông nâng ly uống cạn. Sau đó, Tổ Gia bật cười ha hả, mọi người trước ngây người ra, sau đó cũng hùa theo cười lớn, không rõ có thực sự hiểu Tổ Gia không, hay chỉ cố tỏ ra như vậy. Tóm lại, tâm tư của Tổ Gia là thứ mà tôi mãi vẫn không thể đoán biết được.
Một thời gian sau, tôi phát hiện trong Đường khẩu có mấy tầng quan hệ. Trước tiên là Tổ Gia, thủ lĩnh của Đường khẩu, có quyền uy tuyệt đối, một khi ông trừng mắt, không ai dám lên tiếng. Tiếp theo là Đại Bá đầu và Nhị Bá đầu, hai người họ đi theo Tổ Gia lâu nhất, là cận vệ của ông. Trên thực tế, quan hệ giữa họ rất tốt. Còn Tam Bá đầu và Ngũ Bá đầu đều là những kẻ đọc sách, có thể ngồi đàm đạo với nhau. Tứ Bá đầu tuy thời gian gia nhập Đường khẩu chưa được lâu như Đại Bá đầu và Nhị Bá đầu, nhưng có mối quan hệ rất tốt với Nhị Bá đầu, vì vậy đạo cụ mà ông ta làm ra đều được Nhị Bá đầu sử dụng nhiều nhất. Còn về Lục Bá đầu, hàng ngày chạy đi chạy lại bên ngoài, không rõ thân sơ với ai. Thất Bá đầu giống như con chó của Nhị Bá đầu, bộ dạng chẳng khác gì kẻ nô tài, tôi chẳng buồn để ý tới.
Ở Đường khẩu ngoài việc không cần lo cơm ăn áo mặc ra, vẫn còn một vấn đề khiến tôi lo lắng. Đó là thời điểm một tháng sau khi tôi gia nhập Đường khẩu. Một hôm, sau khi đường hội giải tán, Nhị Bá đầu nói với tôi: “Đại Đầu, Nhị gia ta hôm nay sẽ cho ngươi mở rộng tầm mắt.” Khi đó cùng đi còn có Tam Bá đầu, Ngũ Bá đầu và mấy tên tay chân nữa.
Nói thực, tôi đã 20 tuổi đầu, chưa từng chạm vào tay nữ giới, đến trước cổng một kỹ viện tôi mới vỡ lẽ. Hóa ra “mở rộng tầm mắt” mà Nhị Bá đầu nói đến chính là ý này. Trước khi vào, Nhị Bá đầu nói với tôi rằng: “Hãy nhỡ kỹ! Bây giờ ngươi là ông chủ. Tất cả các cô gái ở đây đều phải hầu hạ ngươi. Ngươi chớ nên mềm tay, da mặt phải dày vào.”
Phút chốc tim tôi đập loạn xạ, mấy tên tay chân kia, hăm hở xắn tay áo lên, bộ dạng nóng lòng muốn lao vào ngay.
Bước vào lầu xanh, mụ tú bà đon đả ra đón, trông thật khách khí làm sao. Nhị Bá đầu, Tam Bá đầu, Ngũ Bá đầu đều đã quá quen với chốn này, dáng vẻ ra điều ông chủ lớn một cách rất tự nhiên, mấy tên tay chân tôi tớ như chúng tôi cun cút bám sát theo sau. Khi ngồi uống rượu, được phân thành hai bàn, ba vị Bá đầu ngồi một bàn, chúng tôi ngồi một bàn.
Sau khi mấy vị Bá đầu chọn cô nương xong thì đến lượt chúng tôi. Chúng tôi đâu có dám, tôi thậm chí còn chẳng dám ngẩng đầu lên nhìn. Cuối cùng Nhị Bá đầu nói: “Một lũ nhát gan! Để ta chọn thay.” Ông ta chọn đại mấy cô. Xong xuôi, mấy cô nương đó vui vẻ sà xuống ngồi bên cạnh chúng tôi.
Ngồi kế bên tôi là cô nương tên Bích Ngọc, dáng người không cao, nhưng yểu điệu thướt tha, da trắng như tuyết, mắt trong như nước hồ thu. Nàng ta vừa ngồi xuống, một mùi thơm nhẹ dịu tỏa ra làm đầu óc tôi ngất ngây, nhanh như chớp nàng ta nắm lấy tay tôi. Tôi hốt hoảng, không dám nhìn thẳng vào mắt nàng, mặt đỏ rần rần.
Sau đó, một tên tay chân nói với tôi: “Người anh em, cậu biết không? Cái bản mặt cậu đỏ ửng lên trông như hòn dái trâu vậy.” Tôi đáp trả: “Nhà ngươi thì được lắm đấy. Mẹ kiếp! Cái mũi của nhà ngươi cứ phập phà phập phồng, chả khác gì đít trâu vừa ỉa.”
Nhị Bá đầu thấy chúng tôi đôi co mãi không thôi, liền trừng mắt nạt nộ. Ông ta vừa trợn lên, chúng tôi đã im phăng phắc.
Khi uống rượu, các cô nương ai nấy đều gắp thức ăn bỏ vào miệng chúng tôi. Lớn bằng từng này tuổi đầu, trừ mẹ ra, đây là người phụ nữ thứ hai gắp thức ăn cho tôi. Trong lòng tôi hiểu rằng, lúc này đây tôi là ông chủ, còn thứ mà các cô nương nhìn vào chính là tiền trong túi của tôi. Các cô nương này nhất định nghĩ rằng: gắp cho ai mà chẳng là gắp, cứ coi như bón cho lợn ăn thôi.
Ngồi uống rượu được hai canh giờ, mấy vị Bá đầu liền lôi các cô nương lên lầu. Trước khi đi Nhị Bá đầu quay lại nói với chúng tôi: “Đừng có ngồi đực ra đó, chúng ta đến đây không phải để uống rượu suông.”
Rượu vào thì chuyện gì cũng có thể làm được, một khi đã uống rượu tự nhiên thấy mình can đảm hẳn. Nhìn mấy tên kia mỗi người ôm một cô lên lầu, tôi không kiềm chế được cũng theo cô nương của mình lên lầu.
Bước vào phòng nàng, lại là một mùi thơm nồng xộc lên mũi tôi. Chăn đệm, màn che đâu đâu cũng tỏa hương ngào ngạt. Tất cả đều thật thơm tho, khiến đầu óc tôi choáng váng ngất ngây.
Nàng ta nói: “Mời ông chủ rửa tay chân.” Nói rồi kéo tôi đến bên cái giá ở góc phòng, trên giá có một chiếc chậu rửa bằng đồng đã có sẵn nước sạch.
Tôi nghĩ, phải rồi, nên rửa mặt mũi một chút. Đầu óc tôi hơi chếnh choáng. Tôi cúi đầu, vốc nước lên mặt, rửa mấy cái, liền thấy tỉnh táo hơn rất nhiều. Quay lại nhìn, phát hiện ra nàng ta đang ngây người nhìn tôi. Tôi không hiểu, liền thuận miệng hỏi: “Sao vậy? Có khăn tay lau mặt không?”
Nàng ta bật cười khanh khách, khiến tôi ngượng nghịu cười theo: “Sao vậy?”
Nàng ta đưa tay che mặt cười nói: “Ông chủ à, chậu nước này không phải dùng để rửa mặt, mà để rửa phía bên dưới kìa.”
Câu nói khiến tôi choáng váng, xấu hổ đến nỗi mặt mũi đỏ rần. Rửa bên dưới ư? Nghĩa là đã có rất nhiều người dùng cái chậu này để rửa chỗ đó. Tôi lại vừa dùng nó để rửa mặt, bất giác cảm thấy buồn nôn.
Nàng ta vừa nói vừa cởi bỏ áo ngoài, để lộ vóc dáng nhỏ nhắn với chiếc yếm đào: “Ông chủ, em giúp ngài rửa nhé!” Nói rồi, liền muốn cởi y phục của tôi.
Tôi đột ngột né tránh, nàng ta thắc mắc: “Sao vậy, ông chủ?”
Tôi hỏi: “Cô bao nhiêu tuổi rồi?”
Nàng ta trả lời: “Mười sáu.”
Tôi móc trong túi một nắm tiền nhét vào tay nàng ta, sau đó nhanh chóng chạy xuống lầu, sau lưng văng vẳng tiếng gọi: “Ông chủ, xin đừng đi!”
Sau đó, khi mọi người họp lại, Nhị Bá đầu hỏi tôi chơi thế nào, tôi trả lời: “Rất tốt, rất tốt!”
Nhị Bá đầu cười nói: “Tên đầu to óc bằng hạt dưa nhà ngươi, cũng được đấy. Sau này Nhị gia ta thường xuyên cho ngươi đến đây.”
Sau khi về đến Đường khẩu, qua mấy hôm sau, có lần họp đường hội xong, Tổ Gia nói với tôi: “Đầu to, ngươi ở lại, ta có điều cần nói với ngươi.”
Sau khi những người khác đi khỏi, Tổ Gia gọi tôi vào phòng, tôi không biết ông muốn gì. Người hầu dâng trà lên, Tổ Gia nói: “Trà Long Tỉnh thượng hạng, ngươi nếm thử đi.”
Tôi không biết Tổ Gia gọi tôi ở lại có việc gì, đón lấy tách trà, tôi uống liền hai hớp.
Tổ Gia xòe quạt ra, tay phe phẩy, mỉm cười nói: “Tại sao ngươi lại không làm?”
Tôi ngẩn người ra: “Không làm cái gì cơ ạ?”
Tổ Gia hắng giọng một tiếng: “Thì cùng cô nương đó!”
Tôi hốt hoảng: “Hả? Sao người lại biết được?”
Tổ Gia bật cười ha hả.
Tôi chợt hiểu ra: Tổ Gia cử người ngầm giám sát tôi.
Tổ Gia nói: “Nói mau ta xem, tại sao? Chớ có ngại, nói thật ta xem.”
Tôi ấp a ấp úng nói: “Cô nương đó mới mười sáu tuổi, khi đó con nghĩ đến em gái mình, đều là khúc ruột của cha mẹ sinh ra, chẳng ai tự nguyện làm những công việc như vậy cả…”
Nụ cười vụt tắt, Tổ Gia nghiêm giọng nói: “Người trong thiên hạ ai mà không có con cái? Đàn ông chỉ biết đến khoái cảm khi chơi gái, nhưng lại chưa từng nghĩ, nếu con gái mình cũng đang làm nghề đó, liệu trong lòng sẽ cảm thấy thế nào? Cổ nhân có câu Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân26. Đại Đầu, Tổ Gia ta quả không nhìn lầm ngươi.”
Đây là lần đầu tiên được Tổ Gia khen ngợi. Nhưng vừa nghĩ đến ngay cả chuyện như vậy mà Tổ Gia đều rõ như lòng bàn tay thì tôi bắt đầu cảm thấy sợ ông.
Ngày tháng ở Đường khẩu trôi qua thật nhanh, chớp mắt đã mấy tháng qua đi, tên bồi bàn hôm nào nay đã dần trở thành A Bảo danh bất hư truyền. Tôi cũng dần thích ứng với cuộc sống ở Đường khẩu. Một hôm vào buổi tối Tổ Gia lại cho gọi tôi đến, lần nữa hỏi tôi có hối hận không, tôi quả thực không thể đoán biết được ông hỏi như vậy là có ý gì.
Trong lúc tôi đang chần chừ chưa trả lời, Tổ Gia cầm ấm trà lên, mỉm cười nói: “Ấm trà này nhạt rồi, con đi pha ấm mới cho ta. Từ ngày đến Đường khẩu, con vẫn chưa pha trà cho ta lần nào.”
Nghe nói, Tổ Gia rất cầu kỳ trong việc uống trà. Mỗi lần thưởng trà, chỉ cần thay đổi vị một chút là ông nhận ra ngay. Tôi làm việc ở quán trà được mấy năm, về trà đạo tuy không dám nói là đã đạt đến độ tinh thông, nhưng về trà, nước, lửa, dụng cụ uống trà, không gian thưởng trà, tôi đều có chút hiểu biết. Năm đó đi theo ông chủ học nghề ở quán trà, không ít lần bị giáo huấn, thật không ngờ chút tài nhỏ này nay vẫn còn có đất dụng võ.
Tôi tỉ mỉ cẩn trọng từng ly từng tí pha trà, rót vào tách dâng lên. Sau khi Tổ Gia ẩm trà xong liền nói: “Mấy tháng không pha trà, tay nghề có phần kém đi!”
Tôi đứng ngây người ra, không biết phải nói gì.
Tổ Gia đưa tay ra hiệu bảo tôi ngồi xuống. Sau đó, ông đột nhiên hỏi: “Đại Đầu, con thấy Tổ Gia ta là người thế nào?”
Tôi thật không ngờ Tổ Gia bỗng nhiên hỏi đến vấn đề này. Đường đường một ông chủ của Đường khẩu lại đi hỏi đệ tử rằng mình là người như thế nào. Ngoài câu trả lời tốt ra, đệ tử không còn câu trả lời khác nào nữa đây.
Tôi ấp a ấp úng trả lời: “Là người tốt, rất tốt!”
Tổ Gia cười nhạt: “Tốt sao? Giết người tốt? Hay là phóng hỏa tốt?”
Đầu tôi túa mồi hôi: “Đều tốt…” Lời này vừa thốt ra lập tức thấy rằng mình đã lỡ lời, “Tổ Gia, ý con là…” Tôi vội vàng phân bua.
Tổ Gia cười lớn. Tiếng cười của ông khiến tôi thấy lòng mình hoang mang.
Tổ Gia nhìn tôi một lát rồi nói: “Ta đã giết rất nhiều người, cũng lừa không ít người, trong đó có kẻ đáng phải chịu trừng phạt, có kẻ bất đắc dĩ phải ra tay. Nhưng nay thời cuộc biến động, phái Giang Tướng gặp thời khắc sinh tử tồn vong, vận mệnh của Tứ đại Đường khẩu chưa biết thế nào, có thể nói hiện nay đang là thời điểm khó khăn nhất.”
Nghe những lời này của Tổ Gia, lòng tôi chợt buồn tênh, cảm thấy số mệnh của mình sao lại bất hạnh đến vậy. Vừa sinh ra không bao lâu thì cha tôi qua đời. Bản thân vừa bước vào tuổi trưởng thành, đã đến lúc báo hiếu công sinh thành dưỡng dục thì mẹ cũng ra đi, vất vả lắm mới gia nhập Đường khẩu, lại còn đúng vào thời điểm khó khăn nhất. Dường như tôi đi đến đâu thì ở đó liền rơi vào suy vong.
Tổ Gia nói không sai chút nào. Mấy ngày trước ông tham gia Đại đường hội do Tứ đại Đường khẩu Đông, Tây, Nam, Bắc đồng tổ chức, chủ đề là thảo luận về vận mệnh và việc ứng phó với thời cục như thế nào của các Đường khẩu. Từ khi Tổ sư gia Phương Chiếu Dư sáng lập Tứ đại Đường khẩu đến nay, trải qua mấy trăm năm tương trợ lẫn nhau, phong ba bão táp nào cũng đều đã trải qua, mọi người phối hợp hô ứng, vượt qua biết bao khó khăn trở ngại, khiến phái Giang Tướng hương hỏa thịnh vượng kéo dài mấy trăm năm.
Sau khi Chiến tranh giải phóng27 nổ ra, Quốc dân Đảng thất bại liên tiếp, khiến những ngày tháng của Tứ đại Đường khẩu ngày càng khó khăn hơn. Đặc biệt từ năm 1948 đến nay, tình hình trong nước biến động, Quốc dân Đảng bị thua tan tác, đất sống của phái Giang Tướng ngày càng bị thu hẹp. Trong tình hình cấp bách đó, Tổ Gia phát thiệp mời đến cho các vị trưởng môn nhân của ba Đường khẩu, triệu tập Đại đường hội lần này.
Tổ Gia là trưởng môn nhân của Đường khẩu Mộc Tử Liên tức Đông phái, dẫn theo mấy Bá đầu đến tham dự. Hơn nữa ông còn mang theo lượng lớn vàng bạc, giúp những Đường khẩu khác vượt ải khó khăn. Kỳ thực, Đại đường hội mỗi năm tổ chức một lần, các Đại Sư bá của những Đường khẩu khác đều biết những truyền kỳ của Tổ Gia, nên có phần kính nể ông, do đó lần này Tổ Gia triệu tập hội nghị bất thường, mọi người đều thuận theo. Huống hồ lần này, Tổ Gia còn đem theo nhiều vàng bạc cho họ, họ càng cảm động xuýt xoa mãi không thôi.
Tứ đại Đường khẩu đều có đặc điểm riêng, mỗi vị Đại Sư bá cũng có đặc trưng riêng của mình. Đường khẩu Mộc Tử Liên Đông phái chúng tôi, quả thực giống như đóa hoa sen, có tiếng thơm Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Nhất là từ khi Tổ Gia lên nắm quyền đến nay, giữ vững đạo của A Bảo, lấy của người giàu chia cho người nghèo, tích cực hành thiện. Mà Đại Sư bá – Tổ Gia của chúng tôi rất nho nhã, làm việc gọn gàng, đối xử công bằng anh minh bất luận người mình hay người ngoài.
Đường khẩu Việt Hải Đường tức Nam phái, đều là nữ A Bảo, Kiều Ngũ muội mà Trương Đan Thành nói đến năm xưa chính là trưởng môn nhân đời thứ 13 của Việt Hải Đường. Sau này Kiều Ngũ muội chết đi, Đường khẩu được giao cho Giang Phi Yến mệnh danh là “mỹ nhân băng giá”. Giang Phi Yến 12 tuổi gia nhập Đường khẩu, thông minh lanh lợi, 31 tuổi tiếp nhận chức trưởng môn nhân, tính cách lạnh lùng như băng tuyết, dùng mỹ nhân kế hạ gục đám quan lớn và Hắc đạo của bốn tỉnh Kiềm (Quý Châu), Quế (Quảng Tây), Việt (Quảng Đông), Tương (Hồ Nam). Dường như cả bốn tỉnh phía nam đều bị Giang Phi Yến san phẳng. Quả đúng là phái nữ không kém gì phái nam! Nhưng bà đặt ra một giới luật: chị em của Đường khẩu không được phép thành thân. Trong mắt họ, nam giới chỉ là thứ đồ chơi, chứ không lấy làm chồng.
Đường khẩu Long Tu Nha Tây phái, cơ cấu A Bảo cơ bản được trẻ hóa, khả năng có liên quan đến vùng phía tây nhiều đồi núi, đến độ tuổi chân tay không còn nhanh nhẹn, không biết chừng dàn cục chưa thành, bản thân đã trượt chân ngã mà chết. Trong Đường khẩu của họ, người đến tuổi nghỉ hưu, đều lui về dưỡng lão, do đó khiến cho nhân khẩu tăng nhanh, người già không làm gì cả, chỉ ngồi hưởng lộc. Về lâu dài, phát sinh đấu đá nội bộ, có lúc trong một bữa cơm, có đến mấy cụ ra đi, vì sao vậy? Tất cả do đám trẻ đầu độc, bởi vậy Tây phái là Đường khẩu thiếu sự ổn định nhất. Trưởng môn nhân của họ tên là Tần Bách Xuyên, vóc người cao lớn, râu quai nón, da đen, có mối qua lại với quân phiệt vùng phía Tây.
Đường khẩu Tuyết Manh Thảo Bắc phái, tổng thể rời rạc, có khả năng liên quan đến Bát lộ quân28 mở chiến dịch truy quét kẻ địch. Từ khi kháng chiến đến nay, Tuyết Manh Thảo chỉ chúi đầu vào kinh doanh. Sau cuộc chiến tranh giải phóng nổ ra, nhân dân khu giải phóng đón nhận tư tưởng giải phóng, không còn mấy người tin vào quỷ thần. Do đó Đường khẩu này trên danh nghĩa còn tồn tại, thực tế đã tan rã từ lâu rồi. Đại Sư bá Tiền Lâm Diệu đem theo mấy tên A Bảo lén lút gây án, đã sớm mất căn cứ địa bàn rồi.
Trong Đại đường hội, trưởng môn nhân các đại Đường khẩu thống nhất đưa ra kết luận: không được để mất Đường khẩu, có thể khởi động xuất sát, thậm chí có thể sát phú, vượt qua giai đoạn khó khăn này rồi tính tiếp!