---~~~mucluc~~~---

PHẦN 2
CHƯƠNG 13
Ngày 6 tháng 9,10:26 tối
Phía Nam dãy Ural

     onk vẫn thức canh.
Quần áo đã khô ráo, người cũng đã ấm lên nhờ lò sưởi, Monk đảo quanh căn phòng, ông di chuyển thật khẽ, thận trọng từng bước một. Chân ông mang giày, dây chưa buộc lại. Ông bắt lũ trẻ phải mặc quần áo và đi giày trước khi cuộn tròn vào chăn. Nếu phải đi đột xuất, ông không muốn chúng dò dẫm tìm quần áo.
Konstantin và Kiska rúc vào nhau, mỗi đứa co ro dưới một lớp chăn ấm. Lúc ngủ trông chúng nhỏ bé hơn, đặc biệt là Konstantin. Những quan sát sắc bén và giọng nói kiểu người lớn khiến cậu bé già dặn. Nhưng khi nhìn vào cơ thể thư giãn của cậu, Monk nhận ra cậu bé chưa vượt quá độ tuổi mười hai.
Monk bước qua lũ trẻ thật êm. Lúc này ông đã biết chỗ nào trên sàn nhà kêu to nhất mà tránh xa. Pyotr cuộn tròn trong vòng tay của bà mẹ tinh tinh. Marta ngồi trên sàn, đầu chạm xuống ngực, nhịp thở sâu hòa vào giấc ngủ. Trước đó Pyotr đã rất hoảng sợ trước hình ảnh người chị gái sinh đôi. Monk tin vào bản năng của cậu bé, nhưng không thể giúp được gì lúc này. Mất cả tiếng đồng hồ để Pyotr dịu lại, vì chuyến đi vất vả đã vắt kiệt sức lực cậu. Cuối cùng không chịu nổi mệt nhọc, cậu bé rơi vào giấc ngủ sâu trong sự bảo bọc của Marta.
Dù Monk đã chuyển động rất khẽ, Marta vẫn ngẩng đầu khi ông đi ngang. Đôi mắt ấm áp lờ mờ nhìn ông, một lúc sau mi mắt khép lại, gục xuống.
Chăm sóc cho cậu bé nhé, Marta.
Ít nhất cũng có ai đó yêu quý lũ trẻ.
Monk quay trở lại chỗ ngồi của ông cạnh cửa ra vào. Ông đã chặn một chiếc bàn ngay ngưỡng cửa và đặt ghế phía trước. Ngồi thụp xuống cùng một tiếng thở dài, ông lắng nghe những âm thanh rộn rã của đầm lầy: tiếng nước chảy róc rách, tiếng ếch kêu ồm ộp, tiếng dế rì rầm, đôi khi xen lẫn cả tiếng rúc nhẹ của một con cú săn đêm. Trước đó, một cái bóng lớn di chuyển qua ngôi nhà khiến ông giật mình, hé nhìn qua cánh cửa chớp thì hóa ra là một con lợn lòi lấm bùn đang đào bới xung quanh.
Monk cứ để mặc tên lính gác có nanh ấy đi lang thang. Nhưng rốt cuộc nó cũng bỏ đi mất.
Những giai điệu đầm lầy ru ông giấc ngủ. Ông gà gật, cằm chạm cả vào ngực. Vừa chợp mắt được vài phút.
- Ông lại trễ rồi, Monk! Đi tiếp đi!
Đầu ông bật ngửa ra sau, đập vào cạnh bàn. Một cơn đau âm ỉ - không phải do cú va chạm vừa rồi mà từ sâu trong óc. Ông bỗng cảm nhận điều gì... dường như là đang thưởng thức vị quế, cay cay ấm nóng, cùng với một nụ hôn lướt qua trên môi. Hương thơm ngào ngạt kích thích ông.
Rồi mau chóng bay đi.
Chỉ là một giấc mơ...
Nhưng Monk biết rõ. Ông ngồi thẳng lại cho cơn đau buốt tan biến. Chạm vào vết thương sau tai.
Tôi là ai?
Konstantin đã kể về chiếc tàu thủy bị đắm, tấm lưới đầy ắp và cuộc giải cứu ông trên biển. Phải chăng ông đã làm việc trên tàu? Ông là một hành khách? Không có câu trả lời nào trong đầu, chỉ có bóng tối.
Monk nhìn quanh căn phòng, nhận ra một cặp mắt đang chăm chú dõi theo ông. Pyotr không nhúc nhích. Cậu bé chỉ hướng về ông. Cú đập đầu vào cạnh bàn chắc đã làm Pyotr thức dậy.
Cũng có thể là lý do khác.
Monk bắt gặp ánh nhìn của cậu bé. Một nỗi buồn sâu thẳm, vượt quá sức chịu đựng của một đứa trẻ. Monk cảm thấy rùng mình trong thoáng chốc. Không phải là nỗi buồn hay sự sợ hãi. Tuyệt vọng đang len lỏi trên gương mặt nhỏ bé, một nỗi tuyệt vọng chưa bao giờ tồn tại trong ánh mắt trẻ con. Cậu bé run rẩylàm Marta cựa quậy.
Marta kêu khẽ rồi ngoái nhìn Monk.
Ông đứng dậy bước đến bên cạnh. Gương mặt cậu bé tỏa sáng trong ánh lửa. Thật rạng rỡ. Monk sờ lên trán Pyotr.
Nóng. Có triệu chứng sốt.
Tất cả những gì ông có bây giờ lại là một đứa trẻ bị ốm.
Chẳng thể có một giây phút ngơi nghỉ cho ông sao?
Một tiếng kêu hoang dã đáp lại câu hỏi của Monk. Rất gần. Ban đầu là tiếng gầm gừ khàn đặc, sau chuyển thành tiếng gào đến chói tai. Khiến Monk liên tưởng đến âm thanh ai đó đang giật mạnh sợi dây trên chiếc cưa xích.
Tiếng kêu c&ogravht:10px;'>
Kowalski thở dài không mấy ấn tượng với căn phòng. "Đúng là thất vọng."
"Anh nói gì cơ?" Elizabeth tỏ vẻ trách móc. "Đây là khám phá khảo cổ và nhân chủng học của cả đời người đấy."
Anh chàng nhún vai. "Ừ, thế nhưng mà? Vàng bạc châu báu đâu hết cả rồi?"
Gray không muốn thừa nhận, nhưng ông đồng ý với ý kiến của Kowalski. Ông rảo bước. Ánh đèn loang loáng đảo một vòng quanh căn phòng, vẫn thiếu thứ gì đó, không phải vàng bạc hay đá quý.
Rosauro thoáng nhận ra. "Chuyện gì vậy ?"
"Một thứ bị mất," ông khẽ đáp.
"Gì cơ?"
Không gian hạn hẹp khiến mọi người nghe rõ cuộc đối thoại. Tất cả đều hướng nhìn ông.
Gray đảo thêm một vòng ánh sáng. "Trên đồng xu... chữ E nổi nằm ở đâu? Ký tự epsilon của Hy Lạp."
"Đúng đấy," Elizabeth khẳng định thêm.
Gray quẹt nước mưa dính trên mặt.
"Mọi thứ trên đồng xu đều đã tìm thấy - mặt tiền, bánh xechakra - vậy thì chữ cái Hy Lạp nằm đâu?"
"Nó là chi tiết nhỏ," Masterson xen vào. "Hẳn là không liên quan."
"Không nhỏ đâu," Elizabeth cãi lý. "Có người từng gặp nhiều trở ngại vì mô phỏng công trình đền thờ ở Delphi. Mặt tiền có trụ là một kiểu kiến trúc giá trị của người Delphi, ngôi đền hình tròn lại là một bản sao khá giống với thánh đường thờ phụng nữ thần Athena ở Delphi. Còn nơi này. Kết cấu bên ngoài lẫn bên trong chính là kiểu đền thờ dành cho Nhà Tiên tri. Chữ E là một trong những biểu tượng trang trí nổi bật nhất."
Gray nhớ buổi thảo luận với Painter có nhắc đến ý nghĩa ký tự E của người Delphi, biểu trưng cho sự sùng bái đấng tiên tri, một mật mã lưu truyền trong lịch sử hội họa và kiến trúc.
Luca tiến về phía trước. "Có khi tôi cũng biết ký tự này."
Gray quay sang tộc trưởng người Gypsy.
"Tôi từng kể cho anh nghe về những đứa trẻ bị đánh cắp. Người của tôi đến khu vực thảm sát và họ nói rằng có một nhà thờ bằng đá ở đó. Cửa bị phá sập, nhưng giữa những mảnh ván họ tìm thấy một chữ E bằng đồng. Không ai biết nó có ý nghĩa gì. Những người duy nhất biết được đã bị chôn vùi dưới nấm mô tập thể. Bí mật cũng chết theo đó. Có thể chữ E này cũng tương tự chăng?"
Dấu hiệu của những chovihanis, Gray nghĩ thầm. Những thầy bói người Gypsy. Một giáo phái tiên tri khác.
"Như nhau cả thôi mà," Masterson vẫn cố chấp, xem chừng đã mệt mỏi. "Không có chữ E ở đây thì chuyện gì sẽ xảy ra sao?"
"Chắc là chẳng có gì," Gray đáp, trong lòng chưa mấy thuyết phục, ông quay sang Abe. "Lần đầu anh dẫn giáo sư Polk tới đây là khi nào?"
Abe nhún vai. "Lần đầu cách đây một năm. Ông ấy tìm kiếm xung quanh, ghi chép rồi bỏ đi."
Mắt Elizabeth lộ rõ đau buồn, "ông ấy chẳng bao giờ kể cho tôi nghe về phát hiện này."
"Bởi vì ông ấy tôn trọng những bí mật của chúng tôi," Abe khẳng khái, "ông ấy là người tốt."
Gray thoáng thấy nỗi chua xót trên gương mặt Masterson. Vị giáo sư ban đầu không khỏi kinh ngạc vì phát hiện mới, nhưng sau đó ông nhận ra chẳng có lý do nào khiến ông phải đào sâu khám phá, mối bận tâm trở nên nhạt dần. Phải chăng giáo sư Polk cũng có cảm nhận tương tự? Các phát hiện khảo cổ luôn có ý nghĩa, nhưng một khi không thể kết nối chúng với nghiên cứu của riêng mình vì tôn trọng bí mật của những tiện dân, ông đã quyết định im lặng.
Nếu quả thật như vậy, tại sao ông lại khẩn trương đến đây trước khi biến mất? Chắc ông đã phát hiện ra vài mối liên hệ có dính dáng đến phạm vi nghiên cứu.
Gray hỏi Abe, "Có việc gì cần thiết khiến giáo sư Polk phải đột ngột tới đây không? Chuyện gì bất thường xảy ra ngày hôm đó?"
Abe lắc đầu. "Ông đến thăm ngôi làng. Như những lần trước đây. Chúng tôi bàn về cuộc tuyển cử sắp đến, một achuta sẽ giữ vị trí tộc trưởng. Tôi tìm thấy một đồng xu mới và cho ông xem,nhưng ông yêu cầu được xem đồng xu có hình ảnh đền thờ một lần nữa.
Ông không bận tâm quan sát nó, thậm chí còn quay nó trên bàn trong lúc nói chuyện. Sau đó, đột nhiên ông mở to mắt, và đứng bật dậy. Ông muốn ngay lập tức đến đây, nhưng tôi có nghĩa vụ với các cuộc bầu cử. Tôi bảo ông ta đợi cho đến khi tôi trở lại... "
  Giọng anh nghẹn ngào, Elizabeth nói thay anh. "Cha tôi đã không đủ kiên nhẫn..."”
Masterson gật đầu. "Ngày đó tôi cũng nhận được cuộc gọi khẩn cấp của ông màu trên bức tường nhạt nhòa khói.
Ông lao thẳng qua đó, duỗi dài hai cánh tay về phía trước.
Ông xác định mục tiêu hoàn toàn chắc chắn cho đến giây phút bộ móng vuốt sắc nhọn xé toạc một mảng quần. Mảnh vải vương lại phía sau nhưng cả cơ thể ông đã thoát ra kịp. Vai ông va trúng một bên khung cửa, cánh tay tê cứng, cả thân hình theo đà lộn nhào qua ô cửa. Cú đáp khá nhọc nhằn một phần vì gió thốc mạnh vào người. Con dao rơi khỏi tầm tay, bay vào đám cỏ dại cao ngất.
Sau lưng ông, Zakhar đâm sầm vào tường, con hổ mất cảnh giác trước cái lỗ bé xíu Monk vừa lọt qua. Cả ngôi nhà rung chuyển vì chấn động; lửa ngùn ngụt bốc cao. Tiếng rú điên tiết vì đau đớn khiến Monk phải ngoảnh lại.
Loạng choạng vấp ngã, ông định thần đứng dậy rồi dồn hết sức chạy về phía đầm nước. Cú vấp ngã đưa đẩy số phận cuộc đời ông.
2:20 chiều, giờ EST
Thủ đô Washington, D.c.
"Tình trạng của cô bé là một ca viêm màng não," Tiến sĩ Yuri Raev thừa nhận.
Painter ngồi đối diện nhà khoa học người Nga. Cạnh Tiến sĩ Raev là John Mapplethorpe, người mà Painter đã nhận ra qua tập hồ sơ do Sean McKnight cất công chuẩn bị - và một vị khách bất ngờ, Tiến sĩ Trent McBride, đồng nghiệp được xem là mất tích của Archibald Polk.
Có vẻ như người ta đã tìm thấy ông.
Painter có cả ngàn câu hỏi muốn dành cho vị khách ấy, nhưng cuộc gặp gỡ này, tại nhà hàng Capital Grille trên đại lộ Pennsylvania, chỉ thắt chặt đàm phán liên quan đến mạng lưới tình báo. Giới hạn và phạm vi bàn luận đã đóng khung. Không có bất kì thảo luận nào dính dáng đến giáo sư Polk, ít nhất là trong lúc này. Vấn đề đối thoại duy nhất là tình hình sức khỏe của đứa trẻ.
Lý do chính để Painter đưa các chuyên gia của ông có mặt tại bàn tròn. Phía ông ngồi còn có Lisa và Malcolm, cả hai đều có đầy đủ kiến thức và kinh nghiệm y khoa để đánh giá căn cứ khoa học của những thông tin được trao đổi.
Phía đối diện, vị khách người Nga tỏ ra không thoải mái. Ông ta không phải là một con quái vật như Painter hình dung khi ngồi vào bàn đàm phán. Trông ông giống như một cụ già tốt bụng khoác bộ com lê sẫm màu nhăn nhúm, nhưng trong mắt ông vẫn hiện rõ một âm sắc u ám. Painter cũng nhận ra nỗi niềm khắc khoải khi ông nhắc đến đứa trẻ. Những nếp nhăn liên tục co giãn lúc ông nhìn vào tập hồ sơ y khoa Lisa đặt trên bàn. Painter ngờ rằng lý do duy nhất khiến ông hợp tác là vì lo lắng thật sự đối với sự sống còn của đứa trẻ.
"Tình trạng suy kiệt gây ra bởi thiết bị gia cố," Yuri tiếp tục giải trình. "Chúng tôi hoàn toàn không hiểu tại sao. Những vi điện cực trong thiết bị gồm những ống nano làm bằng hợp chất cacbon - bạch kim. Chúng tôi tin là đối tượng càng phát huy khả năng của mình, chúng càng hư hỏng nhanh hơn. Sasha đã vẽ tranh khi rơi vào tay các ông đúng không?"
Painter nhớ lại tất cả những bức phác họa diễn ra trong trạng thái căng thẳng: ngôi nhà lánh nạn, đền Taj Mahal, chân dung của Monk. ông chậm rãi gật đầu. "Chính xác là chuyện gì xảy ra lúc cô bé vẽ?"
Một bàn tay Mapplethorpe giơ lên. Giọng ông ta khá mượt mà, đủ để bôi trơn hết mọi sự thật, "ông biết điều đó vượt ngoài phạm vi thảo luận ở đâv. Ông đang mạo hiểm đấy, Giám đốc Crowe."
Painter cảm thấy thú vị vì Yuri vẫn trả lời mặc cho phản đối của Mapplethorpe. "Cô bé là một nhà bác học phi thường," ông phớt lờ mọi ánh nhìn. "Tài năng thiên bẩm của cô bé pha trộn rất sắc bén giữa yếu tố không gian và năng khiếu hội họa, khi được gia cố, những khả năng này vượt qua cả…"
"Đủ rồi," Mapplethorpe hét lớn. "Hoặc là chúng ta kết thúc vấn đề và rời khỏi bàn. Các ông có thể gửi xác con bé cho chúng tôi sau khi nó chết."
Mặt Yuri tối sầm, ông bắt đầu im lặng.
Lisa động viên ông quay trở lại chủ đề. "Tại sao việc thể hiện khả năng lại khiến Sasha suy kiệt nhanh chóng đến vậy?"
Yuri nói rất khẽ, vẻ mặt ẩn chứa tội lỗi. "Khi được kích thích, mặt phân cách giữa các tế bào hữu cơ và phần tử ngoại lai bắt đầu rò rỉ."
Malcolm nhúc nhích, "ông có ý gì khi nói là rò rỉ?"
"Các nhà nghiên cứu của chúng tôi tin rằng những phần tử nano tách khỏi đoạn cuối của các vi điện cực và phá hỏng dịch tủy trong não."
Đến lượt Lisa cũng không khỏi tò mò. "Không còn nghi ngờ gì nữa, mọi nuôi cấy của chúng tôi đều vô hiệu. Viêm màng não ở đây không phải do vi khuấn hay vi rút, bị nhiễm bởi những phần tử lạ."
Yuri gật đầu xác nhận.
"Để cứu cô bé, ta phải điều trị phần lây nhiễm ấy đúng không?" Cô tiếp tục.
"Phải. Chúng tôi mất nhiều năm để phát minh ra một chế độ dược phẩm phòng ngừa, về cơ bản, chúng tôi dùng phiên bản sửa đổi của biệt dược trong trị liệu ung thư bàng quang. Bạch kim ở trạng thái Cis. Bạch kim đơn nguyên đóng vai trò như một chất gắn kết những phần tử nano, giúp chúng cân bằng. Việc kết hợp chính xác cùng với liều lượng thuốc cần thiết để tạo thuận lợi cho điều trị sẽ cần đến quá trình kiểm tra tổng quát và xét nghiệm máu ngay lập tức"
Painter để ý thấy khóe môi McBride cứng lại. Có vẻ như bất mãn với những gì Tiến sĩ Raev phát biểu. Nhưng nếu nhà khoa học Nga này nói đúng sự thật, ông ta rất quan trọng đối với tính mạng của đứa trẻ.
Dưới gầm bàn, tay Lisa khẽ đặt lên đầu gối Painter. Tấm khăn trải bàn bằng sa tanh giúp giấu che hành động ấy. Họ đang ngồi trong gian phòng Kết Cấu ở khoảng giữa của một nhà hàng nướng, nổi tiếng bởi con số khổng lồ ấn tượng dành cho đồ sứ và vải lanh cao cấp. Họ có hẳn một sảnh ăn tối riêng. Phần còn lại của nhà hàng đặc biệt trống trải. Nhất định là do Mapplethorpe sắp đặt để đảm bảo độ kín đáo.
Ngón tay Lisa siết chặt đầu gối ông, dấu hiệu cho thấy bà tin tưởng lời của Tiến sĩ Raev. Painter cũng đọc được khoảng cách giữa Raev và hai người đàn ông kia. Có thể nào tận dụng điều đó đề phát huy lợi thế của ông?
McBride lên tiếng, "Chúng tôi có dược phẩm của Tiến sĩ Raev. Nếu các ông đưa đứa bé đến bệnh viện, chúng tôi có thể chữa trị ngay lập tức. Có thể là...”
Painter lắc đầu.
Nỗ lực hay đấy anh bạn.
Lisa đỡ lời giúp ông. "Cô bé quá yếu không thể di chuyển. Chúng tôi lại vừa mới kiểm soát quá trình D.I.C. Bất kỳ căngthẳng nào phát sinh thêm cũng có thể làm mất ổn định khả năng phục hồi."
"Vậy tôi cần đến chỗ cô bé," Yuri đề nghị.
Painter biết rằng họ đang đi đến mấu chốt gai góc của đàm phán. Đứa trẻ là một đề tài khoa học lẫn chính trị nóng bỏng, ông đã để Kat và Sean chăm sóc cho cô bé. Sean với vai trò giám đốc DARPA đang dùng ảnh hưởng của mình để chi phối sau hậu trường. Chiếc bàn tròn đàm phán này chỉ là chóp mũi của núi băng tên chính trị.
Painter không còn cách nào khác là đưa Yuri đến giúp cô bé, vi phạm nội quy an toàn của Sigma - nhưng chẳng may, Mapplethorp cũng biết điều này. Căn cứ vào những phản ứng diễn ra kèm theo mối bất đồng giữa họ, phải khẳng định rằng Mapplethorpe sẽ chẳng bao giờ để Yuri ra đi một mình.
"Tôi sẽ cho phép một người đi cùng Tiến sĩ Raev," Painter tiếp lời.
Mapplethorpe hiểu sai mục đích giới hạn của ông. "Chúng tôi biết sở chỉ huy của Sigma ở đâu, nếu như đó là điều ông sợ lộ. Dưới tòa nhà Smithsonian."
Chẳng cần phải giật mình nhưng ruột gan Painter vẫn siết lại. Mapplethorpe đã nhúng tay đảo lộn toàn bộ mạng lưới tình báo Washington. Sean từng cảnh báo rằng hắn không mất nhiều thời gian để xác định được ai là người liên quan và họ lập căn cứ ở đâu. Vậy mà bằng tất cả quyền lực chính trị của mình, Mapplethorpe cũng không tài nào đặt chân vào bên trong trụ sở của Sigma. Chắc chắn người đàn ông này đang ngấm ngầm nỗ lực phá hủy bức tường ấy. Mục tiêu của Sean là giữ vững thành trì, thật kiên cố.
Nét mặt Painter vẫn bình thản. "Cứ như vậy thì tốt hơn, tôi chỉ cho phép một người theo Tiến sĩ Raev." Ông nhìn vào khoảng không chờ đợi phản ứng đáp trả.
McBride giơ tay xung phong. "Tôi sẽ đi. Tôi có thể hữu ích cho Yuri."
Tiến sĩ Raev khẽ đảo mắt, tỏ ý không hài lòng.
Mapplethorpe nhìn xoáy vào Painter rồi chậm rãi gật đầu. "Nhưng chúng tôi muốn có nhượng bộ cho sự hợp tác của chúng tôi."
"Gì vậy?"
"Các ông có thể giữ đứa trẻ - nhưng từ giờ trở đi, các ôngphải trao quyền tiếp cận đứa trẻ một khi nó đã bình phục. Đó là nguồn tài nguyên chúng tôi sẽ không bỏ lỡ. An ninh quốc gia đang bị đe dọa."
"Đừng phất cờ về phía tôi," Painter trả lời. "Những gì các ông hợp tác để tạo ra đứa trẻ này đã vượt xa khỏi những quy ước đạo đức con người."
"Chúng tôi chỉ tài trợ và đưa ra tư vấn khoa học vào phút cuối. Dự án được thiết lập ổn định từ trước đó. Nếu chúng tôi không hợp tác, như ông vừa nói, đất nước này sẽ đối diện với mối nguy trầm trọng."
"Thật lố bịch! Lúc các ông bước qua giới hạn, các ông làm hỏng tất cả thì có. Ta đang cố gắng bảo vệ cho đất nước nào, đất nước đã ủng hộ hành động tội ác sản sinh ra đứa trẻ này sao?"
"Quả thật ông ngây ng&oceight:10px;'>
Ông ngã mình xuống giường, cô quấn lấy ông một cách lo lắng và giận dữ. Một tay cô trượt dưới áo choàng và khẽ đặt trên đùi ông. Làn da của cô nóng, sốt. Ông đã khiến cô chờ đợi quá lâu.
Sau đó, những móng tay dài đột nhiên siết chặt, ấn sâu lên đùi ông.
Ánh mắt Elena đăm đăm cuồng dại. Lửa thiêu đốt trong đôi mắt cô, chờ chực được giải phóng. Một giọt máu chảy xuống đùi của Nicolas, hấp dẫn như một cái lưỡi đói khát lướt qua.
 Giọng nói của Elena trở nên đang thép, không nao núng, đòi hỏi, ra lệnh.
“Không được phép có chuyện gì xảy ra với bé Shara”.
Những ngón tay cô siết chặt một lần nữa, làm háng ông đau điếng.
Ông hứa hẹn trong hơi thở gấp. "Các biện pháp sẽ được tiến hành. Điều chúng ta cần.."
  Vệt móng tay kéo dài, khiến ông phải nhấc chân lên.
  "…là một cái gì đó để trao đổi."
11:45
Punjab, Ấn Độ
 Sấm sét như bùng nổ và chớp rực sáng lên ngôi điện thờ, Elizabeth theo Gray đến gần các bánh xe chakra khổng lồ trên tường. Ông áp bàn tay của mình lên đó. Kể từ khi nhìn đồng xu quay tít, ông đã nhận ra một cái gì đó.
Là cái gì?
Gray vừa nói vừa nhìn lên. "Từ nghiên cứu của tôi về triết học Ấn Độ, ở trung tâm của một bánh xe chakra thường có một chữ Phạn, tượng trưng cho một trung tâm năng lượng nào đó. Muladhara, bánh xe chakra nguyên thủy nằm ở đáy cột sống. Manipura, trong vùng của dạ dày. Anahata, nằm ở tim. "
Ông nhìn lên. "Ở đây không có một chữ nào. Trống rỗng. "
"Giống như trên các đồng xu," Elizabeth ngập ngừng, chưa hiểu vấn đề sẽ đi đến đâu.
"Chính xác." Gray đã nhặt lại đồng xu và đưa nó cho cô. "Nhưng lật đồng xu lên. Nếu cô có thể nhìn xuyên qua vị trí trung tâm của bánh xe chakra đến phía bên kia của đồng xu, cô nhìn thấy gì? "
Elizabeth lật qua lật lại đồng xu. Kí tự epsilon được khắc ở trung tâm của ngôi đền, ngay trục của bánh xe chakra ở phía bên kia. "Đó là chữ E," cô lẩm bẩm.
"Nó nằm ngay mặt sau của bánh xe." Gray quay sang Masterson. "Tôi có thể mượn gậy của ông?"
Giáo sư đưa nó cho ông một cách miễn cưỡng.
Gray bước lùi lại, đưa gậy lên, thọc vào chấm tròn làm bằng đá cẩm thạch đen ở giữa. Cơ bắp của ông căng lên, các vòng tròn nhỏ dịch chuyển ra khỏi vị trí, xoay vòng quanh một trục thẳng đứng, như một cái van bịt lấy ống dẫn.
"Một cánh cửa bí mật," Masterson kêu lên.
Gray vẫy Kowalski. "Hãy giúp tôi leo lên."
Kowalski bước qua, quì một đầu gối, và đan những ngón tay của mình vào nhau thành một cái thang. Gray đặt một chânlên, nhấc mình rồi đẩy mạnh các phiến đá cẩm thạch để nó mở rộng hơn. Khoảng cách từ sàn nhà tới cạnh dưới của cánh cửa bí mật cao phải đến 3m. Với sự trợ giúp của Kowalski, Gray trèoqua lỗ trống.
"Có cầu thang!"  Ông thông báo khi chân vừa biến mất qua cánh cửa. "Dẫn xuống, khoét sâu vào đá sa thạch! "
  Elizabeth hầu như không thể chờ đợi. Cô băng tới bênKowalski. "Hãy giúp tôi."
Cô bước lên đầu gối của anh, nhưng anh nắm lấy eo và nhấc bổng cô lên khỏi mặt đất. Cô hơi ngọ nguậy vì ngạc nhiên.Anh chàng thật khỏe. Cô bám  lấy miệng lỗ để giữ thăng bằng vàquờ quạng dùng chân lấy đà để trèo qua ô cửa.
  "Ôi, cái mũi của tôi," Kowalski ôm lấy mũi.
  "Xin lỗi."
Anh nắm lấy mắt cá chân của cô và đặt nó vào vai anh. Côthấy mình bị đẩy mạnh và lọt qua bên kia. Cô nhìn thấy Grayđang nhảy xuống vài bậc, chiếu ánh sáng trên các bức tường.Khắp bề mặt bức tường được trang trí bằng một tập hợp của các hình dạng và ký tự.
"Hãy nhìn đây," Gray nói. Ông giơ đèn pin và chiếu vào mặt sau của cánh cửa đá cẩm thạch màu đen. Một epsilon lớn đã được khắc sâu vào trong đá.
Ông đã đúng.
Elizabeth lấy máy ảnh của mình và chụp một số hình ảnh trong khi Rosauro và Luca cũng vừa nhập bọn, đứng đầy trêncầu thang.
  Gary nghiêng người. "Giáo sư Masterson đâu? "
 Elizabeth thấy vị giáo sư lấp ló sau ô cửa.
"Leo trèo như vậy chỉ dành cho người trẻ," ông nói, rõ rànglà kiệt sức, khập khiễng quay lui với cây gậy của mình. "Chỉ cần cho tôi biết những gì anh tìm thấy."
"Tôi cũng sẽ ở lại đây", Abe nói thêm, nhưng giọng anh có vẻ sợ hãi nhiều hơn là mệt mỏi. Elizabeth để ý thấy anh ta lo lắnghơn từ khi họ đến đây.
Gary gọi xuống. "Kowalski, ở lại đấy. Trong trường hợp chúng tôi gặp rắc rối. "
"Tốt thôi," anh trả lời. "Tôi cũng không biết mình qua đó bằng cách nào."
Mắt Kowalski liếc qua Elizabeth, gật đầu, âm thầm nhắc cô phải cẩn thận.
Sấm sét vẫn ầm ầm, cảm thấy như dội từ trong đá.
"Đi thôi," Gray dẫn đường.
Ông dẫn đường với đèn pin của mình. Elizabeth theo sau,tiếp theo là Rosauro và Luca. Những ngón tay cô lần theo bức tường. Những dòng chữ Harappan như chảy tràn xuống cầu thang. Các ngôn ngữ cổ đại chưa bao giờ được giải mã, chủ yếu là do hiếm có bản thảo nào tồn tại. Các nhà khảo cổ vẫn đangnghiên cứu hòn đá Rosseta (Vào mùa hè năm 1799 giữa các cuộc giao tranh, một người lính Pháp đóng tại thị trấn Rosetta, Ai Cập đã tìm thấy một tấm bia màu đen, có kích thước 118 cm chiều cao, 77 cm chiều rộng và dày 33 cm có khắc các văn bản cổ bằng ba thứ tiếng: Hy Lạp, chữ tượng hình và tiếng Ai Cập cổ. Các học giả đã đặt tên cho tấm bia này là Đá Rosetta để ghi nhớ nơi đã tìm ra nó (ND). để dịch thứ ngôn ngữ này, chắc chắn phải có một số quy luật cho phép họ giải mã thứ mật mã cổ xưa này.
Cô nhìn xung quanh, đây có thể là những tìm kiếm đó.
Hồi hộp xen lẫn kinh ngạc, trái tim cô đập trong lồng ngực.Lạ là không ai nghe thấy nó.
  Đồng thời, cô hình dung bước chân người cha quá cố đã từng bước qua đây. Cô tưởng tượng trái tim ông cũng đang đập rộn lên giống như cô vậy. Trong khoảnh khắc, cô cảm thấy một sự gần gũi kì lạ, một mối dây liên lạc mà họ chưa bao giờ chia sẻ trong đời. Và cũng sẽ không bao giờ. Cổ họng của cô nghẹn lại vì những cảm xúc chồng chất trong cô.
Cầu thang không kéo dài và kết thúc trong một phòng nhỏ bao quanh bởi sa thạch. Tiếng nước kêu róc rách dội lại ở phía xa. Một dòng nước ngầm tuôn ra từ một cái lỗ khoét trong tườngcao đến đầu gối và chảy qua một vết nứt trên sàn nhà, rồi biến mất sau bức tường đối diện.
  "Một cái giếng của người Harappan," Elizabeth nói, nhận ranó. “nền văn minh phát triển hoàn chỉnh hệ thống tưới tiêu dọc bờ sông Ấn"..
Gray rọi đèn pin quanh phòng. Không gian hình tròn khá sơ sài. Trên sàn đá hiện lên một bánh xe chakra khác. Nhưng trung tâm của vòng tròn ấy không trống rỗng. Một hòn đá hình quả trứng lớn đang nằm ở đó.
"Đó là một bản sao của hòn đá Omphalos," Elizabeth giải thích.
Cô và những người khác lấy nó ra. Nó cao ngang bụng của cô và lớn gấp hai lần hòn đá ở bảo tàng Delphi. Bề mặt chỏm đầu của hòn đá được chạm khắc với cây, hoa lá.
Elizabeth nuốt nước bọt và nhìn xung quanh cô. "Ai đó đã tái tạo lại chính điện gốc, điện thờ phía trong của Nhà Tiên tri, nơi bà phán truyền những lời linh thiêng”.
Elizabeth bước qua một chiếc ghế bằng đồng bị lật đổ. Nó có ba chân. "Đây là một cái ghế ba chân. Ghế truyền thống củanhà tiên tri. " 
"Những nhà tiên tri chứ nhỉ." Gray lang thang cách đó vài bước, ông chiếu đèn vào mấy chiếc ghế đổ. Tất cả có 5 cái.
Elizabeth chụp một số hình ảnh. Nơi này là gì? Và nó được dùng để  làm gì?
Rosauro khoác ba lô, gọi vọng lại từ một vách tường cao "cô có thể muốn nhìn thấy thứ này," bà nói.
Luca đứng phía dưới, từ khoảng cách xa hơn. Tay ông vươn cao nhưng chưa chạm tới. Ngay cả trong bóng tối, Elizabeth cũngnhận thấy tay ông đang run.
Elizabeth lại gần Rosauro. Một bức tranh khảm phủ kíntường, gần như đã thành đen đúa vì thời gian. Một số mảnh ốprải rác trên sàn. Ai đó đã gỡ bỏ dăm ba mảng tranh, loại trừ nấm mốc và bụi bẩn của hàng thế kỷ. Ai đó dường như rất vội vàng. Elizabeth tưởng tượng cha cô đã dùng một miếng vải để chùi lên bức vẽ, mong tìm kiếm những gì ẩn giấu bên dưới.
Cô nhìn chằm chằm vào những gì vừa hiện ra.
Từ sàn đến trần nhà là một bức tranh mô tả một ngôi đền bịbao vây giữa những ngọn núi. " Núi Parnassus," Elizabeth lẩm bẩm. "Dưới sự tấn công của người La Mã. Nó cho thấy sự sụp đổ của những ngôi đền Delphi. "
Mảng tranh tiếp theo thể hiện một căn phòng khác hơi giống căn phòng họ đang đứng, dù vẫn với một Omphalos ở trung tâm- nhưng đá được đặt nằm nghiêng. Ẩn bên dưới mái vòm của đálà một cô gái nhỏ, thu mình nằm gọn trong vòng tay của một người phụ nữ trẻ, cuộn tròn chặt chẽ với nhau trong khi binh lính La Mã đang tìm kiếm họ.
Elizabeth liếc vào hòn đ&aoacute;, phủ mờ lớp lông vằn vện.
Máu.
Sâu bên dưới quai hàm, phần cán dao thò ra.
Con dao găm ông lấy từ trong nhà.
Monk đánh mất nó lúc ngã xuống đất.
Marta đã lấy được và dùng nó để cứu ông.
Monk vẫn nhớ - không biết làm cách nào mà ông lại nhớ được - rằng tinh là loài có bản năng cầm nắm. Chỉ bằng cành con, chúng có thể moi lũ mối ra khỏi tổ. Bằng những nhánh vót nhọn, chúng còn lôi được cả những con vượn mắt to châu Phi ra khỏi hốc trên thân cây.
Marta lại không phải là một con tinh tinh bình thường.
Toàn thân Arkady quằn quại, nó rên rỉ trong vũng máu.
Đáp lại sự vật vã của nó là tiếng con Zakhar đang gào lên hung tợn khiến quai hàm của Monk nhức nhối.
Monk bỏ chạy về hướng đàm nước. Chạm đến bãi lầy, ông sải người bò trên vũng nông, ông quẫy đạp, cố gắng lao ra chỗ sâu hơn.
Tiếng gào của Zakhar mỗi lúc một điên cuồng vì giận dữ.
Monk vẫn đẩy người đi tới, khỏa tay bơi một quãng đủ xa để thân hình ông ngập hẳn trong nước. Cái lạnh đã nhấn chìm nỗi sợ hãi, nhưng trong làn nước, ông vẫn nghe thấy âm thanh hung tợn của con hổ. Nín thở, Monk sải chân bơi vào giữa lòng sâu.
Đến lúc phổi đã cạn kiệt khí, ông lặng lẽ nổi lên.
Vừa đứng nước ông vừa quay về phía ngôi nhà. Lửa bốc cao ngập ngụa trong màn đêm. Trên nền sáng, Zakhar đi vòng quanh đồng loại của nó. Con hổ còn lại không nhúc nhích.
Monk nghe tiếng Marta lướt qua những tầng cây. Ông ngửa cổ nhìn thấy con tinh tinh đang đu người tự do rồi khá nặng nề đáp xuống mảng bè. Cách đó khoảng mười mét.
Monk bơi lại gần, nhấc người trèo lên chiếc bè. Ông nằm sóng soài, thở hổn hển như sắp đứt hơi.
Ở bên trái, Marta thu mình lại thật chặt, khẽ đung đưa. Một tiếng rên ngắn ngủi phát ra. Pyotr ngồi phía trên ôm lấy Marta, xoa dịu nó.
Monk chống khuỷu tay nhìn lên ngôi nhà rồi hướng sang Marta.
Trong lúc con hổ Zakhar vẫn gầm lên tuyệt vọng, Monk vòng tay qua vai con tinh tinh. Thân hình Marta run rẩy, rúc vào với dáng vẻ đau buồn.
Cần phải kết thúc, ông truyền ý nghĩ ấy lên Marta.
Con hổ Arkady đã phải chịu đau đớn, bị hành hạ gần như phát điên. Nó còn hơn cả một con quái thú do Chúa tạo ra.
Cái chết là một phước lành cho nó. Dẫu vậy, Marta vẫn rên rỉ.
Giết chóc không bao giờ là dễ dàng.
Phía đuôi bè, Konstantin ráng sức đẩy con sào dài, đưa họ bồng bềnh trôi giữa đầm lầy.
Monk ngồi dậy. Có gì đó khiến ông phải chú ý. Lúc sẩm tối, ông đã gói ghém hết đồ đạc của mọi người lên bè. Ông nhìn chằm chằm vào chiếc phù hiệu đeo trên khóa kéo. Máy đo phóng xạ.
Dưới ánh lửa phản chiếu, mọi thứ khá rõ ràng.
Màu hồng đã đậm nét hơn.
Nguồn hy vọng của họ theo đó cũng trở nên mờ mịt.
4:31 chiều, giờ EST
Thủ đô Washington, D.c.
Yuri điều chỉnh tốc độ chảy trên dây truyền dịch từ túi I.V.Lúc làm việc, ngón tay ông run run. Ông quá ý thức việc Sasha đang nằm trên giường bệnh, lọt thỏm giữa đống chăn và ga. Cô bé còn tệ hơn những gì ông lo ngại.
Ông rủa thầm vì đã đánh mất khoảng thời gian ông phải chờ đợi McBride và Mapplethorpe. Đó là lúc ông có thể bắt đầu việc điều trị cho Sasha. Thay vào đấy, ông lại bị nhốt ở tòa nhà F.B.I. trong khi hai tên người Mỹ đi công chuyện riêng. Cuối cùng McBride cũng quay trở lại với đống thuốc lấy từ căn phòng khách sạn của Yuri.
Cả hai đi bộ ngang qua công viên National Mall, đến trước cổng tòa nhà Smithsonian và được hộ tống xuống một thang máy nội bộ dẫn trụ sở bảo mật bên dưới. Họ bị khám xét, rà soát bằng máy quét, sau đó là bịt mắt. Đi theo chỉ dẫn, Yuri nhanh chóng mất phương hướng giữa một mê cung ngầm trong căn cứ. Họ vào một căn phòng, cửa đóng lại phía sau, tiếng khóa chốt vang lên.
Đến lúc đó tấm bịt mắt mới được tháo ra.
Yuri nhận ra mình đang ở trong một phòng bệnh nhỏ. Một bức tường có gắn kính, chắc chắn là kính hai chiều. Hai người đang đứng cạnh đứa trẻ: một phụ nữ dong dỏng cao với mái tóc nâu vàng, tự giới thiệu là Kat Bryant, còn người kia là Tiến sĩ Lisa Cummings ông đã gặp ở nhà hàng. Lisa đưa ông một tập hồ sơ bệnh án.
“Cần thực hiện những gì?"
Yuri bắt tay ngay vào công việc, ông đọc hết báo cáo, xem lại những xét nghiệm máu gần nhất. Mất thêm mười phút để tính toán liều lượng thuốc. McBride quan sát từ đằng sau tỏ ý muốn giúp đỡ.
Yuri cằn nhằn, "Tránh xa khỏi đây."
Người Mỹ không biết đến thuật giả kim để duy trì mạng sống những đứa trẻ. Yuri có ý định giữ bí mật này, cũng bởi phương pháp quá phức tạp, ông không muốn nó bị biến dạng bên ngoài. Nhưng ông không thể đứng nhìn Sasha chết, buộc lòng phải để McBride theo dõi. Nhưng một khi Sasha đã an toàn...
Kat đứng ngay sau lưng, bất chợt làm gián đoạn những suy nghĩ mông lung của ông. "Cô bé sẽ ổn chứ?"
Yuri cho ống truyền nhỏ giọt. Đã hài lòng với lưu lượng chảy, ông quay sang bắt gặp ánh nhìn của Kat. Tóc bà tết lại phía sau, gương mặt tỏ rõ lo âu, mắt và khóe miệng trũng sâu.
Ông thở dài cho bà biết sự thật. "Tôi đã làm tất cả những gì có thể. Ta cần xét nghiệm thận mỗi giờ cũng như tỷ lệ nước tiểu. Việc này cho ta biết kết quả có tiến triển hay không, nhưng sẽ mất năm đến sáu giờ trước khi biết được liệu cô bé có thể sống sót."
Giọng ông nghẹn lại ở những từ cuối. Ông quay đi, lúng túng vì biểu hiện yếu đuối trước người lạ. Ông nhìn thấy ánh mắt chai sạn của McBride đang dán lấy ông. Hắn đã ngồi xuống chiếc ghế gần cửa ra vào. Điệu bộ bắt chéo hai chân đầy tự mãn.
"Mọi thứ cần làm là chờ đợi," Yuri lẩm nhẩm, đặt mình ngồi xuống bên giường nơi có quyển sách dành cho trẻ em mở sẵn.
Kat cúi người nhặt lên. "Tôi đang đọc truyện cho cô bé nghe."
Yuri gật đầu. Trên chuyến bay đi tới đây, Sasha cũng đã dựa đầu vào cánh tay Yuri khi ông đọc những mẩu truyện ngụ ngôn của Nga. Ông khẽ mỉm cười nhớ lại. Lũ trẻ được huấn luyện không cho cảm xúc liên hệ phát triển, nhưng cô bé này khá đặc biệt.
Bàn tay ông lướt trên máy đo huyết áp kẹp giữa ngón tay duy nhất ló ra khỏi chăn của cô bé. Ông vuốt nhẹ cái ngón mảnh khảnh ấy, hệt như một phần tạo hình của búp bê bằng sứ.
Rồi ông ngả người trên ghế. Thời gian đợi chờ còn dài. McBride gõ nhịp chân trên sàn. Tiếng máy móc lúc êm dịu, lúc tít lên rộn rã. Sau vài phút, Tiến sĩ Cummings lại ra khỏi phòng để thảo luận tình hình với nhà nghiên cứu bệnh học làm việc trong nhóm. Kat ngồi trên chiếc ghế phía đối diện giường bệnh.
Giờ đồng hồ đầu tiên trôi qua chậm chạp, Yuri nhìn thấy tập giấy đặt ở chiếc bàn cạnh giường. Một góc của mảnh giấy trong số đó khiến ông chú ý. Bức vẽ nguệch ngoạc bằng bút dạ đen. Chỉ thoáng qua, Yuri cũng đủ biết đó là tác phẩm của Sasha. Ông lướt qua vài tờ, không hiểu được nội dung. Nhưng đến bức vẽ cuối cùng, Yuri nhận ra một gương mặt quen thuộc. Ông như hóa đá tại chỗ vì ngạc nhiên.
Đó là người tù họ giam giữ ở Chelyabinsk 88.
Bức hình thẳng thớm ngay trước Yuri. McBride không biết gì về chân dung người lính Mỹ này. Chưa có ai kể về nó cho ông ta. Yuri ngắm nghía rất lâu.
"Chồng tôi," Kat lên tiếng ở phía cuối giường. "Sasha đã vẽ đấy. Tôi nghĩ là cô bé đã thấy tấm hình ông ấy ở trong ví của tôi."
Ông chầm chậm gật đầu và che kín bức vẽ.
Chồng bà ấy sao...?
"Sao cô bé lại làm thế?" Kat tỏ vẻ thắc mắc. Bà nhìn ông với ánh mắt tập trung hơn hẳn. "Vẽ nên một bức tranh như vậy."
Yuri quay sang đứa trẻ. Tim ông đập mạnh hơn, mắt ông như mờ đi. Chính những bức vẽ của Sasha đã cứu mạng người đàn ông này. Bây giờ vợ ông ta lại đang hiện hữu ở đây. Quả thật không phải là sự trùng hợp nội nhiên mà vượt ngoài tưởng tượng.
Chuyện gì đang xảy ra?
"Tiến sĩ Raev?" Kat có ý nhắc nhở ông.
Câu trả lời bỗng nhiên được thoái thác nhờ đôi lông mi nhỏ bé đang nhấp nháy. Mắt Sasha hé mở, một màu xanh thăm thẳm trong vắt hiện ra. Yuri vội vã đến gần. Kat cũng hồi hộp đứng lên.
Sasha vẫn còn chuếnh choáng trong ánh nhìn vô định. Gương mặt trái xoan của cô bé hướng về Yuri. "Unchi Pepe...?"
Là cái tên đó.
Máu như đổ dồn lên tai rồi đóng băng trong người Yuri. Ký ức ùa về giữa lối đi tối tăm trong nhà thờ lạnh giá, nơi có một đứa trẻ ôm chặt lấy con búp bê sờn rách trước bệ thờ, nhìn ông bằng đôi mắt xanh y hệt 
Cũng những từ ngữ ấy. Cũng lời buộc tội ấy.
Unchi Pepe...
Tên của Josep Mengele, tên Đồ Tể của trại tập trung Auschwitz.
Ông nắm lấy tay Sasha, nới lỏng máy đo huyết áp.
Không, ông thầm hứa với cô bé. Sẽ không lặp lại nữa.
Nước mắt ông nhạt nhòa.
Những ngón tay nhỏ bé siết nhẹ lấy ông. Mí mắt cô bé run run. "Bác... bác Yuri...?"
"Phải rồi," ông khẽ th&ig; tiếng Phạn, tiếng Hy Lạp ở dòng cuối. Dưới cùng còn có một bánh xe chakra.
"Tôi không đọc được chữ tượng hình Harappan. Không ai đọc được. Tôi chỉ thấy được vài ký tự đầu tiếng Phạn và tiếng Hy Lạp. Phần cuối đã bị mờ. Dịch ra là thế giới sẽ thiêu đốt^Cô nhanh tay chụp lấy vài tấm ảnh, chủ yếu là nhân vật dưới ánh lửa. "Phần còn lại bị mất."
Gray cúi xuống, chạm vào bánh xe chakra được khắc dưới cùng. "Cái này hẳn là quan trọng. Xuất hiện khắp nơi."
Ông quay sang bánh xe chakra lớn hơn nằm trên sàn nhà. Cái rốn vũ trụ dựng ngay giữa trục. Elizabeth đọc được ý nghĩ của Gray. Nếu bánh xe là phần quan trọng, thứ nằm ở trung tâm hẳn quan trọng gấp đôi. Mắt ông khép hờ lúc quan sát tảng đá. Họ mới chỉ lướt qua nó.
"Cha cô đã giấu chiếc hộp sọ bên trong tảng đá ở bảo tàng. Chắc là có lý do.M
"Cẩn thận," Elizabeth hét lên, lo sợ ông sẽ làm tổn hại đến một phần lịch sử cổ đại. Cô đi vòng quanh tảng đá, phát hiện mép dưới cũng được khắc bởi ba thứ ngôn ngữ: Harappan, tiếng Phạn và tiếng Hy Lạp.
Thêm vài bức ảnh được chụp lại.
Lấy thăng bằng trên đỉnh, Gray chiếu đèn xuống cái lỗ xuyên thẳng vào trung tâm.
"Ông thấy gì vậy?" Cô tò mò.
"Vàng... trong hình thù hai con chim đại bàng."
Hơi thở của Elizabeth trở nên đứt quãng. "Chúng xoay lưng lại với nhau phải không?"
Gray liếc nhìn cô. "Phải."
"Đó cũng là tạo tác bị đánh cắp từ Delphi, tượng trưng cho những con đại bàng của thần Zeus. Theo thần thoại, cặp đôi này được phóng thích từ hai hướng khác nhau trên vai Zeus để xác định trung tâm thế giới. Chúng đậu lại ở Delphi, đánh dấu cái rốn của thế giới."
"Chắc chắn cha cô đã tìm ra chúng." Gray thò tay vào bên trong. "Có thể chúng bị giấu ở đây vì một vài lý do, khớp với lý do cha cô giấu chiếc hộp sọ trong cái rốn ở bảo tàng."
Elizabeth vẫn nép mình bên tảng đá, cố dịch cho xong ba dòng ký tự trong lúc Gray căng tay chạm vào hai con đại bàng.
"Tôi nghĩ là lấy được..."
Elizabeth vừa đưa ngón tay lần theo từng ký tự vừa lẩm nhẩm đọc. "Tham lam và báng bổ mang tất cả đế diệt vong..”
Elizabeth dừng lại.
Ồ, không!
"Đã lấy được nó," Gray nói khi ông chạm vào thần tượng bằng vàng.
Elizabeth chộp lấy ông. "Đừng!"
Giật mình, Gray trượt chân tuột xuống.
Một cú đập mạnh trong lòng đá, tiếng rạn nứt như sấm rền phát ra từ bên dưới. Phía sau căn phòng, một thứ âm thanh ầm ầm dội lại, lớn dần, tựa như đoàn tàu chở hàng đang lao về phía họ.
Mọi người nín thở cho đến khi Gray vung tay về phía cầu thang và hét lên. "Ra khỏi đây!"...
Đã quá muộn.
Một luồng nước ồ ạt tràn qua khe suối với sức mạnh của một cột cứu hỏa đường kính hơn nửa mét. Những vết nứt bắt đầu lan ra từ lỗ hổng, bò khắp tường.
Một cơn lũ quét nhân tạo.
Dòng nước đổ ập về phía trước, tràn qua căn phòng, đốn ngã tất cả bằng sức mạnh phi thường.
Elizabeth bị vướng lại giữa căn phòng ngập nước lạnh buốt. Gray tóm lấy khuỷu tay, lôi cô về phía cầu thang.
"Một cái bẫy..." cô ho sù sụ, bàng hoàng. "Chuyển đổi áp suất! Cha tôi... đã cố cảnh báo cho chúng ta..."
Gray hét lên. "Ra! Ra mau!"
Cô nhấc mình trèo lên vài bậc đầu tiên. Phía sau, Gray lặn tìm Luca và kéo ông đến cầu thang. Nước đã lên ngang hông, cứ mỗi hơi thở lại càng dâng cao hơn. Gray vẫn vật lộn với dòng nước bên dưới cầu thang, lần tìm cái hốc nhỏ.
Elizabeth biết lý do tại sao.
Rosauro đã biến mất.
Gray đã mất dấu Rosauro.
Bà ở cạnh dòng suối lúc nó vỡ òa. Dòng lũ ồ ạt cuộn thành một vòng xoáy hung tợn, phản chiếu ánh đèn pin loang loáng. Ông không thể nhìn thấy gì bên dưới mặt nước. Nước đã ngập đến thắt lưng. Rosauro chắc chắn vẫn có thể đứng được, nếu bị xô ngã thì cơ thể bà phải nổi lên.
Trừ khi...
Gray với tay về phía Luca. "Dao găm của anh!
Một lưỡi bạc lóe sáng, người đàn ông Gypsy đập chuôi dao vào tay Gray. Gray tung cây đèn ngược trở lại cho Luca.
"Chiếu đèn xuống nước!" Dứt lời, ông lặn ngay vào cái hố ngập nước.
Dòng xoáy cuộn lấy ông, quất ông vào thành tường. Gray không phản ứng, để mặc sức nước đưa đến phía bên kia cái hang, ông biết lúc nào sẽ tới nơi nhờ vào cảm nhận sức nước đang phun trào bên dưới, ông xoay mình, đá vào bờ tường trước mặt.
Dù có ý thức hay không cũng nhận ra được điều duy nhất đang kéo chân Rosauro ở lại.
Áp suất.
Gray lặn xuống lỗ hổng nơi dòng suối chảy ra. Trong ánh đèn pin mờ ảo, ông nhận ra một cơ thể mắc kẹt ngay đó, đang vùng vẫy. Rosauro bị hút chặt, miệng hốc nuốt chửng một cánh tay. Gray từng nghe có người chết đuối vì bị cuốn vào cống dẫn nước trong bể bơi. Sức nước ở đây còn hung bạo gấp trăm lần.
Gray tóm lấy cánh tay còn lại, kéo ông xuống gần Rosauro. ông giữ chặt hai chân bên miệng hố. Ánh sáng nhạt nhòa cũng đủ khiến ông nhận ra nỗi kinh hoàng trên gương mặt đang hướng lên nhìn ông.
Một đồng đội của ông từng chết đuối - ông không muốn mất thêm người nào khác. Lưỡi dao cắt ngang hai quai đeo trên chiếc ba lô của Rosauro. Phân nửa ba lô đã bị ngoạm chặt khiến bà mắc kẹt theo. Quai vừa đứt, Gray thả dao, túm lấy Rosauro bên hông, dồn hết sức lực trồi lên. Bà bị tuột lại vài giây trước khi chiếc ba lô cuốn sâu vào lòng ống, khiến cho áp lực giảm bớt đủ để Gray kéo bà bật ra. Ôm Rosauro trong tay, ông cuộn người để cho dòng xoáy tự đưa họ trở lại lối cầu thang.
Nước chỉ còn cách trần chưa đầy nửa mét.
Tiếng đá nứt toác, vỡ vụn. Dòng nước đột ngột xô mạnh lúc bức tường phía sau đổ sụp.
Gray sải chân ngoi lên mặt nước đã ngập gần hết lối đi.
Thở hổn hển, ông chạm phải cánh tay Luca đang vươn ra giúp Rosauro. Bà ho sặc sụa vì ngộp nước quá lâu. Nước tràn qua môi, bà hớp lấy không khí lúc ngước lên.
Câu chửi thề bằng tiếng Tây Ban Nha còn được tranh thủ tuôn ra, cộc cằn đến mức Kowalski cũng phải lùng bùng lỗ tai nếu nghe thấy.
Nước bắt đầu chạm nóc, bất chợt khuấy tung lên từ đằng sau.
"Đi thôi," Gray ra lệnh.
Ông kéo Rosauro đứng lên, ra hiệu cho Elizabeth và Luca tiến về phía trước. Đầu gối bị thương nhưng với nước bám tới gót, Rosauro sẵn sàng tháo chạy. Sức hút khiến tay trái của bà vẫn co lại trước ngực vì căng cứng.
Họ lao lên trên, chạy đua với dòng nước lũ đang dâng.
Tới nơi, Elizabeth trườn lui, lơ lửng bám vào ô cửa, rồi đáp xuống sàn.
"Đi nào!" Gray gọi vọng lên khi thấy ông do dự. Luca nghe lời anh và biến mất.
 Gray giúp Rosauro vượt qua ô cửa cẩm thạch màu đen. Bà treo mình trên cánh tay lành lặn rồi rơi xuống an toàn. Nước tràn lên bậc thang cuối cùng, ồ ạt tạt qua người Gray.
Ông buông tay đúng một giây trước lúc con nước va vào cửa khiến nó đóng sập. Hạ mình xuống đất, ông ngước nhìn lên. Cánh cửa bị cắt một góc, chỉ có thể xoay theo chiều duy nhất. Áp lực nước giờ đây khóa chặt nó lại.
Tự niêm phong.
Quay đầu, ông nghe thấy một tiếng rền vọng lại từ hẻm núi. Chớp sáng lòa. Nước tràn qua lòng chảo, cả vùng đang rơi vào tình trạng ngập lụt, một cơn lũ tự nhiên - không phải hậu quả do bàn tay táy máy của Gray.
Khối nước chảy qua hẻm núi khiến ông phải ngoái nhìn.
Thảo nào những công trình này phải xây trên vách đá.
Gray chợt nhận ra điều bất thường khác.
Luca cũng vậy, ông thì thầm, "Mọi người đâu hết cả rồi?"
Như nghe được câu hỏi ông, Masterson khập khiễng bước tới từ bậu cửa, chống tay lên gậy. Ông khuất dạng sau mái hiên bên ngoài, chắn chắn là đang quan sát dòng nước lũ cùng với hai người còn lại.
"Cảm ơn Chúa," vị giáo sư reo lên. "Mọi người ở dưới đó lâu phát khiếp. Các anh tìm thấy gì?"
Elizabeth hào hứng tiến tới. "Câu trả lời cho mọi thứ! Thật kỳ diệu."
"Đúng thế không?"
Đằng sau Masterson, những nhân vật mới xuất hiện.
Một số khác xộc vào từ hai cánh. Tất cả đều trong trang phục đen, súng ống tua tủa dựng sẵn trên vai.
Lính biệt kích Nga.
"Cô sẽ phải kể cho tôi nghe sự thật," Masterson gằn giọng. "Vì cha cô đã từ chối điều đó.”
Kowalski bị xô lại từ lối vào chính, tay đặt trên đàu, máu chảy xuống mặt, chẻ lông mày bên phải làm đôi. Bọn lính bắt anh chàng quỳ xuống.
 "Chúng giết Abe rồi," Kowalsk kêu lên. "Bắn anh ấy như một con chó.”
“Hắn cũng là tiện dân. Ở Ấn Độ, chó còn được đối xử tốt hơn."
Quân lính bao vây quanh họ.
Elizabeth sững sờ nhìn vị giáo sư, không thốt nên lời. Nhận ra sự phản bội sâu cay, cô hét lên đầy căm phẫn. "Là ông! Chính ông đã phản bội cha tôi!"
"Tôi không còn cách nào cả, Elizabeth. Ông t
  • CHƯƠNG 3
  • CHƯƠNG 4
  • CHƯƠNG 5
  • CHƯƠNG 6
  • CHƯƠNG 7
  • CHƯƠNG 8
  • CHƯƠNG 9
  • CHƯƠNG 10
  • CHƯƠNG 11
  • CHƯƠNG 12
  • CHƯƠNG 13
  • CHƯƠNG 14
  • CHƯƠNG 15
  • CHƯƠNG 16
  • CHƯƠNG 17
  • CHƯƠNG 18
  • CHƯƠNG 19
  • CHƯƠNG 20
  • CHƯƠNG 21
  • CHƯƠNG 22
  • Lời kết
  • Ghi chú dành cho độc giả
  • ---~~~mucluc~~~--- ---~~~cungtacgia~~~---

    2 Tác phẩm