Hồi thứ chín
Tướng Tây Sơn Võ Văn Nhậm đem quân lấn ngoài bờ cõi
Quan bình chương Trần Công Xán vâng mệnh bàn việc biên cương

Lại nói, khi ở Cao Bằng bắt đầu nhóm lên việc binh đao, Lưu Tiệp, Nguyễn Hàn đều có sai trạm đưa thư về kinh cáo biến. Tiệp bảo Hàn là phản nghịch, Hàn bảo Tiệp là phản nghịch, và cả hai đều nói "hiện đã điều quân vây đánh, chỉ khoảng mươi ngày sẽ bắt được kẻ có tội".
Quan Bình chương là Phan Lê Phiên thấy thư ấy, rất kinh hãi mà rằng:
- Hai người đều là bậc thanh cao trong hàng triều sĩ, ra ngoài gánh việc phiên trấn, đáng lẽ phải vì việc công mà quên việc riêng. Sao họ không chịu nén lòng theo nhau, lại đi cầm đầu cho cuộc quấy rối? Đồng loại làm hại nhau, đó cũng là một biến cố lớn! Đáng ghê! Đáng sợ!
Vừa lúc ấy, các viên trấn thủ ở bốn lộ Lạng, Thái, Tuyên, Hưng cũng đều lần lượt gửi thư hoả tốc về cáo biến.
Vua Lê bèn bàn với Bằng công Nguyễn Hữu Chỉnh. Chỉnh thưa:
Các trấn đem quân đánh nhau, cũng là thói thường của bọn tù trưởng ở ngoài bờ cõi, chỉ cần hạ một bức thư, báo cho họ biết đường hoạ phúc, chắc họ sẽ nghe theo; dẹp yên việc ấy, không có gì khó. Riêng việc biến cố ở Cao Bằng thì lại do các viên quan trấn gây ra, bọn tù trưởng trên ấy đều không đáng trách. Cái tội tự tiện đánh nhau, giết nhau, triều đình sẽ phải có phân xử, vậy xin giao xuống cho các quan họp bàn.
Quan đồng bình chương Trương Đăng Quỹ và quan tham tri Nguyễn Diệu đều xin gấp rút chọn hai viên đốc trấn, đốc đồng khác có tài cán lên coi thay việc trấn và luôn thể hạ chiếu chỉ triệu bọn Tiệp, Hàn về triều, may ra mới dẹp được cuộc rối loạn.
Phan Lê Phiên nói:
- Phải đấy! Rễ chùm, mấu cứng, phải dùng đồ sắc! Viên quan cử lên coi trấn ấy, không thể dễ dàng muốn sai ai cũng được.
Quan đồng bình chương Trần Công Xán nói tiếp:
- Việc loạn ở Cao Bằng hồi xưa, viên đại thần đã qua đời là Nghĩa thành vương (tức Nguyễn Đình Bá) vâng mệnh lên vỗ về, ở luôn trên trấn ấy bảy năm, nhân dân các bản đều mến phục. Sau ông mất tại đó, dân địa phương vì thương tiếc mà nghỉ mấy phiên chợ liền, lại dựng đền mà thờ. Quan xu mật hiện nay là Nguyễn Đình Tố (người ở Khoái Châu, Hưng Yên (Hải Hưng)), chính là con của Nghĩa thành vương. Ông ta là người rộng rãi có độ lượng, tài xử sự cũng nhanh, vậy xin gấp rút sai đi ngay.
Vua Lê bèn dùng Nguyễn Đình Tố làm đốc trấn Cao Bằng, lại sai Nguyễn Huy Túc làm phó đốc trấn. Rồi hạ lệnh giục hai người lên đường đi nhậm chức. Tố nói:
- Cha thần sinh ở Cao Bằng, mất ở Cao Bằng, thần cũng sinh ở Cao Bằng, nay lại lên đó, việc sau này có thể biết rồi. Vậy xin cho phép mười ngày để thần xếp đặt việc nhà.
Khi hai người lên đến giáp giới tỉnh Lạng Sơn thì nghe tin Hàn đã bị hại, Tố giật mình nói:
- Thương thay! Chết cũng bởi số, nhưng cũng lỗi tại ta đi chậm quá.
Rồi Tố lập tức giục trạm đi dấn lên. Khi trạm đầu báo tin quan đốc trấn mới là Nguyễn Đình Tố đến, thì tù trưởng các nơi đều vui mừng chờ đón. Lúc Tố đến Cao Bằng thì Lưu Tiệp còn đang đóng cửa thành, đánh nhau với dư đảng của Hàn. Tố vâng lệnh tuyên bố uy đức của nhà vua, bảo hai bên phải giải tán quân lính, rồi thong dong xếp đặt mọi việc, trong cõi lại yên ổn như thường.
Một hôm, vừa gặp lúc đến yết kiến đền thờ Nghĩa thành vương, Tố bảo Nguyễn Huy Túc:
- Tôi nay có lẽ sắp đi với tiền nhân, trách nhiệm ở bờ cõi rất nặng, rồi đây sẽ có những việc khó khăn, lớn lao. Trấn này thông với đất Trung Quốc, trước đây tôi đã đi sứ, cũng hơi thuộc đường lối, chỉ giận rằng không ở đây nữa. Ông còn ở đây, hãy nên cố gắng mà đương lấy mọi việc.
Tố lại ngoảnh sang các phiên trưởng mà dặn rằng:
- Sau khi tôi đi rồi, các ông chỉ nên nghe lệnh quan phó đốc trấn, chớ như vừa rồi, gây ra nhiều việc, thì thế nào cũng có vạ lớn.
Mọi người đều lấy làm lạ mà hỏi, thì Tố nói:
- Điều đó rất khó nói.
Chiều hôm ấy, Tố về doanh rồi chết.
Huy Túc một mặt lo liệu việc ma chay, một mặt viết thư báo tin cho triều đình, rồi vâng chỉ của vua lĩnh chức đốc trấn Cao Bằng.
Lại nói vua Tây Sơn từ lúc rút quân về Nam, đến Nghệ An ở lại mười ngày, giao cho phó tướng Nguyễn Duệ giữ đất này, cùng đô đốc là Chiêu Viễn đóng quân ở doanh Hà Trung (thuộc Hà Tĩnh).
Sau đó, vua Tây Sơn lại đổi Chiêu Viễn vào đóng ở châu Bố Chánh, Nguyễn Duệ coi doanh Kỳ Hoa, tả quân Võ Văn Nhậm đóng một đạo binh quan trọng ở Động Hải (Bố Chánh thuộc Quảng Bình. Kỳ Hoa thuộc Hà Tĩnh. Động Hải tức Đồng Hới Quảng Bình (Bình Trị Thiên)) để làm thanh viện và nương tựa lẫn nhau.
Lúc Nguyễn Hữu Chỉnh theo kịp, thượng công (tức Nguyễn Huệ) ngỏ lời yên uỷ dỗ dành, và bảo ở lại Nghệ An làm việc với Duệ. Bề ngoài tuy thượng công hứa hẹn với Chỉnh bằng những lời ngon ngọt, nhưng lại dặn riêng Duệ rằng:
- Chỉnh vốn người Bắc, trốn về với ta. Xem bộ hắn ta là kẻ phản phúc gian dối, không thể tin cậy. Vả chăng người Bắc oán hắn rất sâu. Ta định bỏ hắn, để cho hắn chết. Không ngờ hắn lại trốn chết cố theo. Nghệ An là quê hương của hắn. Nay để nhà ngươi ở lại đây, ngươi nên xem xét kỹ lòng người xứ này, xem theo ai chống ai và tình hình động tĩnh của hắn ra sao. Chiêu Viễn ở gần đấy, gọi một tiếng là đến. Tả quân cũng không xa đây lắm, có việc nên chăng, ngươi phải viết thư báo tin cho mau, và cùng bàn định với ông ta. Sống ở nước ngoài đất khách, ngươi phải để ý đề phòng cẩn thận, chớ có dễ dàng tin theo Chỉnh mà mắc mưu của hắn. Ngươi phải cẩn thận lắm mới được!
Sau khi thượng công về Nam, Chỉnh liền được chiếu chỉ nhà vua vời đưa quân ra Bắc. Lúc đi, Chỉnh để đồ đảng của mình là Nguyễn Duật ở lại làm việc với Duệ. Ngày chia tay lên đường, Chỉnh hai ba lần dặn dò và mong mỏi Duệ đối xử tử tế với mình; Duệ cũng tiễn đưa Chỉnh rất ân cần, tử tế.
Sau khi Chỉnh nắm được chính quyền, thường thường gửi thư qua lại với Duệ và biếu tặng rất hậu. Rồi Chỉnh lại ngầm sai người gọi Duật về kinh thành, để hỏi tình hình Tây Sơn và dò ý tứ của Duệ. Khi đã biết vua Tây Sơn và thượng công gây ra việc binh đao, anh em đánh lẫn nhau, tiếp đó lại được thư của Duệ hẹn cùng chung sức đánh vào phương Nam, thì Chỉnh rất mừng, cho là có thể mưu đồ lấy lại Nghệ An. Chỉnh bèn thu xếp mười lạng vàng và mười tấm đoạn, sai Duật đem vào biếu Duệ, nhân tiện lấy việc lợi hại hoạ phúc mà doạ hắn ta, lại dỗ dành hắn ta giữ lấy Nghệ An, ngăn chặn Chiêu Viễn, đắp lại luỹ cũ Hoành Sơn, và vạch sông Gianh làm nơi biên giới như việc cũ trước đây (chỉ vào cuộc chiến tranh Trịnh-Nguyễn (1627-1672), sau lấy sông Gianh làm giới hạn để phân chia Đàng trong (Nam) và Đàng ngoài (Bắc)).
Lúc đó, người do thám của Võ Văn Nhậm ở Nghệ An biết rõ việc ấy, vội vàng về báo với Nhậm. Nhậm lập tức đưa binh phù triệu Duệ về. Duệ chống lại và nói:
- Tướng ở ngoài, mệnh lệnh của vua cũng có khi không cần phải theo. Lúc thượng công về, giao cho tôi đóng giữ đất này, nay tôi không dám tự tiện rời khỏi trấn này.
Nhậm được thư ấy, liền nói:
- Quả nhiên Duệ làm phản rồi!
Tiếp đó, Nhậm lập tức gửi thư cáo biến với thượng công; trong thư có đoạn viết: "Ngày trước dùng Chỉnh tức là nhốt hổ gầm giường; ngày nay để Duệ, ấy là nuôi ong tay áo. Xin kíp phát quân ra Bắc, trước hết giết Duệ ở Nghệ An, rồi sau bắt Chỉnh ở Thăng Long. Dẹp loạn và bình định đất nước ở một chuyến này, cơ hội không nên bỏ lỡ..."
Trong lúc ấy, thượng công và vua Tây Sơn đang có việc xích mích, cuộc binh đao giữa hai anh em chưa dàn xếp xong, việc nội chiến ở miền Nam so với mối lo ở miền Bắc còn cần kíp hơn nhiều. Bởi vậy thượng công không quả quyết thi hành, bèn sai người báo cho Nhậm biết, và giục Nhậm tiến quân ra Nghệ An bắt Duệ; rồi sau đó sẽ kiểm điểm quân lính, thu góp lương thực, chia đi đóng đồn ở các nơi hiểm yếu và viết thư hỏi Chỉnh về tội thông mưu với Duệ, xem Chỉnh trả lời ra sao. Nếu Chỉnh còn biết sợ hãi, cố tình chối cãi, thì nên để đó sau này sẽ liệu, chưa nên đánh vội. Bằng Chỉnh ra mặt chống lại, thì như thế là đã có cớ, lúc ấy cứ việc tiến quân ra đánh cũng không muộn gì.
Nhậm vâng lệnh, tự mình đem đại quân đi gấp. Chỉ trong một ngày một đêm. Nhậm đã đến doanh Kỳ-hoa nhưng Duệ không còn ở đó nữa.
Số là mùa đông năm trước, thượng công nghe tin Chỉnh đem quân ra bảo vệ vua Lê, sợ có biến cố gì khác xảy ra, liền sai Nguyễn Văn Đức đem quân giữ phủ Diễn Châu cùng làm chức trấn thủ với Duệ, để nương tựa lẫn nhau. Kịp đến khi nghe miền Nam đánh nhau, Duệ và Đức đều gửi thư cho Chỉnh, mưu đồ hợp lực kéo quân về Nam, để thừa cơ làm loạn. Hai người hẹn rằng, sau khi đắc thắng, sẽ trả các đất từ Hoành Sơn ra Bắc, nhưng Chỉnh còn chần chừ chưa quyết định. Đến khi bị Nhậm phát giác, hai người bèn bỏ xứ Nghệ đem quân theo mạn ngược trở về Nam. Duệ về với vua Tây Sơn. Còn Đức vốn là một đại thần của chúa Nguyễn, bị quân Tây Sơn bắt, phải miễn cưỡng theo, chứ thực ra cũng không thích làm việc cho họ. Lúc đó, Đức bèn theo đường núi tây nam, trốn thẳng sang nước Tiêm La. Đức đi đã lâu, thượng công mới nhận được thư hoả tốc của Nhậm, vội sai quân đón bắt, nhưng cũng không kịp.
Nhậm đến Nghệ An, kiểm điểm binh lính, trưng thu lương thực, sửa soạn khí giới, rồi đưa thư ra Thăng Long, trách móc Chỉnh gay gắt.
Chỉnh được thư, giấu giếm không cho vua Lê biết, đoạn viết thư tạ tội, đại ý nói:
"Trước kia tôi bỏ nước cũ về với chúa công, nhờ ơn cho vào nơi mạc phủ, hầu hạ túi cung roi ngựa đến bốn năm năm. Mùa thu năm ngoái, đại quân về Nam không cho tôi biết, tôi cũng hiểu là thượng công muốn dùng cách đó thử tôi, để xem tôi lui tới ra sao. Lúc bấy giờ người Bắc cố lưu lại, nhưng tôi quả quyết bỏ họ mà đi. Nghĩ rằng lòng này không có đổi thay như thế, bậc cao minh hẳn đã soi xét đến. Lúc vào yết kiến thượng công ở Vĩnh Dinh, tôi xin đi theo quân đội về Nam, ngài bảo tôi rằng: "Quận Thạc, quận Nhưỡng còn làm ngang trở không thể không trừ khử, nhà ngươi hãy ở lại đây, lo liệu một phen". Tôi dám đâu không theo mệnh lệnh? Tôi đã đem thân mình mà ruổi rong theo chúa (chỉ vua Tây Sơn) thì còn dám tiếc gì? Vì thế, tôi tự mình xông pha tên đạn, quyết chiến với bọn Thạc, Nhưỡng. Chỉ mong trừ được hai tên ngang ngược ấy, thì sẽ lập tức quay ngựa về Nam. Nhưng, tháng trước đây đánh ở Sơn Tây, mới bắt được có quận Thạc. Riêng Nhưỡng thì vẫn đang vùng vẫy ở miền Hải Dương, còn cần phải đánh dẹp vất vả. Bởi vậy cho nên tôi chưa về triều được. Những kẻ ghét tôi, thấy tôi ở lại đất Bắc, liền đặt lời gièm pha. Sao họ không xét rằng, sau khi thượng công về Nam, tôi chỉ ở lại Nghệ An hơn mười ngày, rồi lại ra Bắc ngay, thì còn thời giờ đâu mà mưu toan với Duệ? Từ đó kẻ Nam người Bắc, ai làm việc nấy, tôi có hề đi lại gì với Duệ đâu? Nếu xét rõ tình cảnh ấy, hẳn không cần phải chờ tôi biện bạch gì thêm. Vả chăng, cái ngày mà tôi làm việc chung với tướng quân, không phải không lâu. Nếu quả là tôi có lòng gì khác, hồ dễ đã giấu được cho khỏi lộ? Tướng quân nên chuyển đạt lời tôi đến trước chúa công, thì tôi đội ơn nhiều lắm!".
Nhận được thư ấy, biết Chỉnh còn có ý sợ, Nhậm bèn viết bức thư khác, dùng lời nói khéo, vỗ về khuyên giải làm cho Chỉnh yên lòng, để mình còn có thì giờ sắp đặt công việc ở trấn Nghệ An. Tiện thể Nhậm cũng không quên buộc Chỉnh phải mau chóng dẹp yên quận Nhưỡng, rồi rút quân về Nam, để khỏi trái với ý định.
Chỉnh tiếp thư, không hiểu rõ ý
Nhưỡng coi bản nháp của tờ nghị sự, thấy lời văn chứa đựng những ý từ khôn khéo, tiếng rằng theo vua mà kỳ thực là xem trọng ở chúa, bèn đổi ra giọng vui mừng mà rằng:
- Người ta khen ông là tay lão luyện về nghề từ hàn, quả thật là không sai! Vừa nãy tôi nói lỡ lời, xin ông đừng giận.
Rồi Nhưỡng bảo Tốn chép thành bản tâu để dâng lên nhà vua. Lúc bản tâu đã chép xong, Nhưỡng tự thấy rằng việc làm ấy và lời hứa của mình với nhà vua trước đây là trái ngược nhau, nên không dám giáp mặt vua, bèn cáo từ các quan mà về dinh. Các viên quan võ cùng đều theo Nhưỡng ra về hết. Chỉ còn lại quận Thạc và mấy viên quan văn vào điện để xin mệnh của nhà vua.
Hoàng thượng lúc đầu tưởng quận Thạc hẳn phải thuận theo ý mình, nên rất mừng, cho người dẫn ông ta vào ra mắt. Đến khi coi hết tờ tâu, hoàng thượng nổi giận mà rằng:
- Tham tụng, bồi tụng cứ việc tham tụng, bồi tụng, hà tất phải đèo thêm bình chương, tham tri? Chưởng thự cứ việc chưởng thự, can gì phải đèo thêm ngũ quân đô đốc? Bọn các ngươi lấy hư văn mà đánh lừa ta; bịp bợm, xảo trá như vậy, há phải là lễ thờ vua?
Quận Thạc nghĩ xưa nay mình với nhà vua vốn có ân tình sâu xa, bỗng dưng vô cớ thay đổi thì thật là xấu hổ, vì vậy, không dám hé răng, chỉ cúi rập đầu tạ tội mà thôi.
Ninh Tốn quỳ tâu:
- Nay ở ngoài thành đều là bãi chiến trường, thiên hạ đang loạn lớn, mà chính sự trong triều đình thì vẫn còn rối bời. Lũ thần trót phạm oai trời, thật là sợ hãi khôn xiết. Dám xin hoàng thượng soi xét.
Hoàng thượng nói:
- Ngoài thành đều là bãi chiến trường, vạ ấy hỏi tại nhà ai gây ra? Đâu phải là lỗi ở trẫm? Thôi đừng nói lắm, lũ ngươi tưởng rằng bè đảng đông, có thể ăn hiếp được trẫm, thì cứ việc làm đi! Cần gì mà phải xin mãi?
Bọn quận Thạc đều sợ hãi, bồ hôi toát ra khắp lưng, không dám nài xin gì nữa; bèn cùng nhau phủ phục ở sân rồng, mãi đến đầu canh một chưa dậy.
Hoàng thượng thấy họ cứ nằm lỳ ở sân, nghĩ rằng người ta đã có bụng khác với mình, không thể trông cậy được nữa, dầu có cố giữ ý mình cũng là vô ích, bèn ưng cho lời tâu của họ.
Bọn quận Thạc xin được mệnh lệnh rồi, liền lạy tạ mà ra.
Hôm sau, họ cùng vào phủ để lựa chọn các quan. Mọi người bàn bạc cho rằng, chúa mới được lên ngôi, những người mà hoàng thượng tin dùng như loại Tứ xuyên hầu, chưa nên gạt bỏ vội. Rồi họ bèn lấy Tứ xuyên hầu (tức Phan Lê Phiên) làm chức bình chương kiêm tham tụng; Kế liệt hầu (tức Bùi Huy Bích) và Khuê phong hầu (tức Phan Cận) cùng làm chức đồng bình chương sự kiêm hành tham tụng; quận Thạc làm trung quân đô đốc phủ, tả đô đốc chưởng phủ sự, tước Thạc vũ công; Nhưỡng làm đông quân đô đốc phủ, hữu đô đốc thự phủ sự, tước Liễn quận công; Ngô Trọng Khuê, Ninh Tốn đều làm tham tri chính sự kiêm bồi tụng; Nguyễn Huy Chiểu, Phan Huy ích, cả bọn gồm sáu người đều làm chức đô cấp sự trung, kiêm thiêm sai tri phiên trong sáu khoa.
Mệnh đó được ban xuống. Tứ xuyên hầu từ chối không nhận. Kế liệt hầu thì tự thẹn mình không làm được công trạng gì, nói:
- Ta làm tể tướng không được tốt lành (trỏ việc Bùi Huy Bích trước kia làm tham tụng (tướng quốc) nhưng bất lực, để Tây Sơn lấy được Bắc Hà). Việc trước hãy còn tấm gương sờ sờ ra đấy. Một đời lại định mấy lần làm hại nước người ta nữa? (người ta đây chỉ vào nhà vua; quan niệm phong kiến cho nước là của vua).
Rồi Kế liệt hầu cũng không chịu nhận chức. Chỉ có Khuê phong hầu một mình gánh vác công việc. Nhưng bấy giờ quyền bính trong nước đều ở tay Nhưỡng. Còn quận Thạc thì già nua dốt nát, chẳng biết gì đến chính sự, chỉ giữ một chức quan cho đủ số mà thôi:
Quan liêu trong chính phủ đã đầy đủ, họ bèn ngày ngày bàn mưu tìm kế để đè nén nhà vua, muốn cho tất cả quyền hành về việc binh, việc dân đều thuộc về phủ chúa. Riêng có bổng lộc của nhà vua, thì họ bàn nhau đãi hậu hơn các triều trước một chút. Nhưng hoàng thượng cũng không chịu lép vế, cứ mỗi việc mỗi giằng giữ co kéo, thành ra các việc binh, dân, chính đều rối tung chẳng đâu vào đâu. Rồi đó hoàng thượng lại ra sức mộ thêm binh mã để tự vệ, và ngấm ngầm lập mưu chế ngự nhà chúa.
Lệ cũ, nội điện nhà vua có một viên quan phụ tá. án đô vương bèn sai một hoàng thân tin cẩn của mình đến sung vào chức đó. Hoàng thượng bảo với vị hoàng thân ấy rằng:
- Ta vừa cho lên làm chúa, sập ngồi còn rung rinh, thế mà đã vội sai người đến dòm dỏ, làm như nền nếp lúc thái bình ấy. Ông về bảo chúa án đô rằng, chúa đã sai ông đến làm phụ tá cho trẫm, thì trẫm cũng khiến ông trở lại làm phụ tá cho chúa.
Vị hoàng thân ấy lui ra, hoàng thượng bèn dặn mấy người tả hữu:
- Các ngươi hãy nhớ lấy, hễ mà người này còn lại đây nữa, thì cứ chặt chân hắn đi cho ta!
Thế là từ đó, vua chúa đâm ra thù nhau.
Hồi án đô vương mới vào kinh thành, Trọng Tế trốn về huyện Gia Lâm. Vương vốn mến tư cách của Trọng Tế, lúc này bèn cho sứ giả đi mời. Khi Tế đến nơi, vương nói:
Trong lúc giặc mọi vào cướp kinh kỳ, các quan văn võ hoặc chạy trốn hoặc đầu hàng, riêng ngươi là nho thần lại dám lập đồn bên cạnh kinh thành để chống nhau với giặc; cái tiếng nghĩa khí của ngươi đã làm rung động cả nước, bọn giặc càn rỡ sở dĩ phải trốn đi, cũng chính là sợ về oai phong của ngươi. Điều đó, quận Thạc quận Liễn không thể sánh kịp. Vả lại, ngươi mới thoạt vào thành đã lấy ngay việc lập chúa làm điều trước nhất. Tuy việc quận Thuỵ không thành, nhưng thanh thế nhà chúa lại nhen nhúm lên được cũng là từ đấy. Nay ta mới được lên ngôi, nhà vua với ta lại chưa hoà thuận, mà thiên hạ thì đang còn rối ren, vậy ngươi hãy cố ở lại giúp ta.
Sau đó án đô vương bèn cho Tế trông nom về việc tài phú. Nguyễn Mậu Nễ, học trò của Tế, cũng được cất nhắc lên làm chức tiến triều.
Lúc bấy giờ, trong ngoài đều đồn đại rằng tướng của Tây Sơn là tả quân Nhậm, kéo quân ra Nghệ An, kén chọn lính tráng, định kỳ xuất phát, chẳng bao lâu quân Tây Sơn lại tới, Thăng Long sẽ thành nơi chiến trường. Vì thế, trong kinh nhốn nháo, người chuyển vận đồ đạc, người bồng bế con cái, tranh nhau đi lánh nạn, lính Kim Ngô (tên một đội lính bảo vệ trật tự ở kinh đô) ngăn cấm không nổi. Nhiều viên đình thần đem việc đó tâu với vua Lê. Vua Lê liền triệu Chỉnh vào hỏi. Chỉnh tâu:
Người ta đồn nhảm, không cần phải tin. Thần đã cho người đi xem xét biết hết sự thật rồi. Vua Tây Sơn từ khi ở đất Bắc về Nam, liền vào thẳng chỗ quốc thành (tức Qui Nhơn). Còn thượng công thì đóng ở Phú Xuân, nghỉ quân để vui chơi, ban bố hiệu lệnh, sửa sang thành luỹ. Bao nhiêu vật liệu, khí giới và các báu vật lấy được ở Bắc về, thượng công đều thu chứa lấy. Vua Tây Sơn sai sứ thần tuyên triệu, thượng công không chịu về triều. Mọi việc phong quan, ban tước và xử trí này khác, thượng công đều tự tiện quyết định. Vua Tây Sơn sai người đưa ấn phong thượng công làm Bắc bình vương và hỏi những thứ của báu lấy được ở phủ chúa Trịnh. Thượng công cũng chống lại không chịu dâng lên. Vua Tây Sơn giận lắm. Vì thế, anh em mới gây ra cuộc binh đao, ở trong một nhà mà đối với nhau còn dữ dội hơn là đối với nước thù địch. Ngay trong bọn họ với nhau cũng không đủ thì giờ để cứu vãn được tình thế cấp bách, đâu còn dám ra khỏi Hoành Sơn một bước để tranh quyền với ta? Ta cần làm sao cho việc nội trị có quy mô yên ổn, thế là sẽ được thái bình. Đến như trấn Nghệ An, thì chỉ cần sai một sứ giả đem bức quốc thư sang, bàn bạc với họ, một lời nói là xong. Ta cùng họ đã thành thông gia, ta cũng không cần lo xa làm gì.
Quan ngự sử là Nguyễn Đình Giản nói:
- Xưa nay tình hoà hảo thông gia, nói chung đều không thể tin cậy. Chỉ có bằng vào chước tự cường của mình, làm sao cho bờ cõi được vững chắc, ngăn chặn sự dòm dỏ của kẻ địch, thì như vậy mới có thể tin cậy được. Bắc bình vương cũng là một bậc anh hùng, xem thường ông ta không được đâu!
Chỉnh nói:
- Tôi đã từng cộng sự với ông ta, há lại không biết? Ông ta quả thật là bậc anh hùng, nhưng nhân tài xứ Bắc ta đây cũng không thua lắm. Vạn nhất xảy ra việc binh đao, tôi xin chọi với ông ta, còn như bọn Võ Văn Nhậm đã chiếm giữ đất Nghệ An, nhưng cứ mặc y. Quân nước ngoài ở trọ, chẳng qua cũng như bọn Chiêu võ, Thuận nghĩa hồi xưa chiếm đóng bảy huyện phía nam Nghệ An, không bao lâu rồi cũng lại về ta (chỉ việc các tướng của họ Nguyễn là Thuận nghĩa hầu, Nguyễn Hữu Tiến và Chiêu võ hầu Nguyễn Hữu Dật, đánh chiếm được bảy huyện ở nam sông Lam hồi xưa (1655-1660), trong cuộc chiến tranh Trịnh-Nguyễn. Về sau, các miền ấy, lại bị họ Trịnh giành lại).
Vua Lê nói:
- Nhân tình lo sợ, nghi ngờ, họ đang coi việc động tĩnh ở phương Nam để định sự thể khinh trọng của nước nhà. Ngươi nên tính kỹ liệu trước cho lòng trẫm được thư thái.
Chỉnh tâu:
- Đó là việc trong chức phận của thần, dám đâu không hết lòng hết sức?
Ngoài mặt, Chỉnh tuy nói năng khuếch khoác để trấn áp mọi người, nhưng kỳ thực, từ khi được thư của Nhậm, trong lòng Chỉnh rất đỗi lo sợ.
Một hôm vào chầu, Chỉnh đuổi người chung quanh ra mà nói kín với nhà vua rằng:
- Võ Văn Nhậm tuy là tả tướng trong soái phủ của Bắc bình vương, nhưng vốn là rể vua Tây Sơn. Lâu nay chỉ huy việc quân, y vẫn đóng vai con rể của nước. Nay thấy anh em Tây Sơn xích mích nhau, Nhậm là kẻ đứng giữa, cố nhiên là phải tuân theo tướng lệnh, nhưng trong lòng lẽ nào lại hoàn toàn không nghĩ gì đến bố vợ? Vừa rồi có tên do thám nói rằng: "Nhậm ở Động Hải nghe việc biến cố ấy, bèn xin về hầu. Nhưng Bắc bình vương không cho mà bảo ra thẳng Nghệ An. Nay Nhậm đang ở vào địa vị nguy ngập và bị ngờ vực, nên không thể không có ý trông về bên trong. Thần xin nhân cơ hội này để thương lượng về việc bờ cõi Nghệ An. Hết sức nhắm nhe vào ân tình của họ, lại lễ nhiều, lời ngọt, ngoài có Văn Nhậm tâng bốc, trong có công chúa đỡ lời; Bắc bình vương dù có lòng nào chăng nữa cũng không thể không gượng theo mình.
Vua Lê khen phải.
Sáng hôm sau, nhân buổi chầu sớm, vua nói với các quan rằng:
- Nghệ An liền kề với Thanh Hoa, là một quận phụ vào đất "thang mộc". Con em đất ấy vẫn được lựa chọn vào quân túc vệ, làm nanh vuốt cho nước nhà. Đất ấy không thể để cho người khác chiếm giữ mãi. Trẫm sắp sai người đi Phú Xuân để bàn với Bắc bình vương một phen. Vậy các ngươi hãy chọn xem người nào có thể sung vào sứ bộ?
Trương Đăng Quỹ thưa:
- Nguyễn Đình Giản và Phạm Đình Dư là người ngay thẳng có thể làm được việc ấy.
Phan Lê Phiên nói:
- Giản cương trực có thừa mà mềm mỏng ôn hoà thì không đủ. Dư tuy nghị luận vững vàng, nhưng xét việc hơi chậm. Bắc bình vương là người rất quỷ quyệt, hay dùng mưu khôn lung lạc người ta. Trong lúc bàn bạc, khi nén xuống, khi nâng lên, không biết đường nào mà dò. Thần sợ rằng hai người ấy tranh biện với ông ta, thế nào rồi cũng làm hỏng việc nước.
Đình thần bàn mãi việc cử người, luôn mấy ngày vẫn chưa ngã ngũ. Chỉnh bèn tâu để Trần Công Xán đi.
Vua Lê nói:
- Được đấy!
Nhà vua bèn đòi Công Xán vào triều mà bảo rằng:
- Người là người trung trinh vì nước, lòng trẫm đã biết. Ngày xưa Phú Bật sang sứ Khiết Đan, làm cho nước địch phải kính trọng, công việc xong xuôi (Khiết Đan là một nước ở phía đông bắc Trung Quốc, thường hay xâm phạm bờ cõi. Đời vua Tống Nhân tông, quân Khiết Đan đến đóng sát biên giới và bắt nhà Tống phải cắt đất. Phú Bật được đi sứ, đã hết sức biện bạch, kết quả làm cho quân Khiết Đan phải lui và từ đó hai nước hoà bình được đến vài chục năm). Chuyến đi này, cũng giống như thế. Ngươi cố vì trẫm vâng mệnh ra đi, cũng là Phú Bật của nước Nam đó. Một vị hoàng thân cùng đi, trẫm đã sai Duy án (Cương mục chép là Duy Hiên), còn một viên phó sứ nữa thì tuỳ ngươi chọn lấy.
Xán hăng hái xin đi, và nói:
- Vua phải lo thì bề tôi mang nhục; thần đâu dám sợ khó khăn? Trong những người từng làm việc chung với thần mà thần đã biết, thì có Ngô Nho là có thể dùng được.
Vua ưng lời, rồi ban mệnh lệnh xuống. Cả triều đình đều khen là chọn được người xứng đáng.
Duy án là con thứ sáu của vua ý tông, và là ông chú họ nhà vua. án tính người cẩn thận, nho nhã và trung thực. Công chúa Ngọc Hân khi chưa lấy chồng, vẫn thường tôn kính án, mọi việc nên chăng đều hỏi ý kiến của án. Kịp đến khi công chúa về với Bắc bình vương, án thường nhân có việc tới gặp, Bắc bình vương cũng khen án nói năng lui tới có lễ độ. Lúc đó vì muốn luôn tiện hỏi thăm công chúa, cần chọn người hoàng thân xứng đáng, nên mới sai án đi.
Trần Công Xán, người làng Yên Vỹ, huyện Đông An, đỗ tiến sĩ khoa Nhâm thìn (1772) đời Cảnh Hưng. Hồi Đoan nam vương còn coi giữ việc nước, Xán đang ở chức tả thị lang bộ công, được sung chức hành tham tụng. Trong cuộc biến loạn năm Bính ngọ (1786), quân Tây Sơn tiến sát kinh kỳ, quân quận Thạc tan vỡ, các quan văn vỡ đang đêm đua nhau bỏ trốn, riêng có mình Xán xin với chúa quyết liều một trận sống chết. Xán bận quần áo trận, tay cầm gươm, hộ vệ chúa Trịnh ở lầu Ngũ Long.
Lúc Bắc bình vương vào kinh đô, vua Lê trước sai các quan lần lượt tới yết kiến. Thấy thần sắc của Bắc bình vương rực rỡ, nghiêm nghị, ai cũng run sợ, hãi hùng, riêng có Xán là tiến thoái như thường, không mất phong thể của bậc đại thần. Bắc bình vương lấy làm lạ, đã mấy lần mời Xán đến, hỏi việc Bắc Hà. Hỏi đâu Xán đáp luôn đấy, nói như suối chảy, không có chỗ nào ngập ngừng, ấp úng.
Có lúc Bắc bình vương cố ý hỏi vặn, nhưng Xán vẫn lật qua lật lại, tranh cãi nhiều lần, không mảy may chịu khuất phục.
Bắc bình vương bảo với tả hữu rằng:
"Ta nghe Bắc Hà rất nhiều nhân tài, nay đến tận nơi thì chỉ thấy Trần Công Xán là có khí sắc con người mà thôi!".
Công Xán vốn được Bắc bình vương kính trọng là như vậy.
Xán đã từng làm thượng thư bộ Hình, được vào chầu ở toà Kinh-diên, rồi lĩnh chức đồng bình chương quân quốc trọng sự. Trong triều đình, Xán là người cương trực, gặp việc có tài ứng biến, lại thêm có học thuật, vì vậy ai cũng tôn trọng. Xán lại là thầy học của Chỉnh. Mỗi khi Chỉnh có tâm sự gì, không thể nói với người ngoài thì không khi nào không hỏi Xán để quyết định. Vì thế, chuyến này Chỉnh mới xin vua để sai Xán đi.
Ngô Nho người làng Tri Chỉ, huyện Phú Xuyên. Trước kia Xán làm đài quan (tức là chức ngự sử) coi việc chấm thi, đã lấy Nho đậu tiến sĩ khoa ất-tỵ (1785), nên Nho vẫn theo lễ thầy học mà đối đãi với Xán, thường tới nhà Xán luôn. Nho thấy Xán là người khảng khái, có khí tiết lớn lao, không thèm xu phụ quyền thế, nên hai bên thanh khí hợp nhau. Xán cũng yêu và trọng Nho, vì thế bảo Nho đi với mình.
Khi Nho mới nghe lệnh ấy, liền vào gặp Xán. Xán bảo Nho rằng:
- Nước địch đè lấn, tin báo ngoài bờ cõi đang gấp. Nay chỉ biết ra đi chưa biết ngày về. Tôi là đại thần của nước nhà, nghĩa phải ra đi, sống thác không cần tính đến. Ông mới làm quan, ngôi thứ còn thấp, ở nhà lại có mẹ già. Trung hiếu không thể vẹn cả đôi đường, hãy thử nghĩ cho kỹ, tôi không dám ép ông đâu.
Nho trả lời:
- Tướng công chịu ơn dày của nước, tôi thì chịu ơn trí ngộ cao cả của tướng công. Đại thần gánh việc cho nước nhà, kẻ sĩ chết vì người tri kỷ, đều là nghĩa phải như thế, ngoài ra không biết đến việc gì khác.
Xán mừng mà rằng:
- Mạnh mẽ thay! Kẻ sĩ như thế đáng gọi là "đạt" vậy.
Rồi đem Nho vào yết kiến vua. Vua cho Nho lạy ở nội điện và hỏi:
- Nhà ngươi đã ôm ấp kinh luân, từng trải việc đời thử liệu xem chuyến đi này ra sao?
Nho tâu:
- Ngửa trông phúc lớn của nhà nước và mưu sâu của miếu đường, công việc xong xuôi tưởng cũng không khó. Vả lại lúc ấy đã có vị lương thần chuyên việc ứng đối, chắc sẽ không để nhục đến mệnh vua. Thần làm người giúp việc chỉ biết làm hết chức phận mà thôi.
Nhà vua gật đầu, rồi sai quan bình chương Phan Lê Phiên cùng với Bằng công Nguyễn Hữu Chỉnh họp nhau bàn việc thảo quốc thư. Trong thư đại lược nói rằng:
" Nghệ An là đất nền móng trong cuộc trung hưng của bản triều, cùng với Thanh Hoa, đều là quận chân tay của nhà nước, quan văn tướng võ phần nhiều ở đó mà ra. Quân lính túc vệ cũng đều kén chọn đinh tráng ở xứ ấy sung vào. Nếu như dùng người mà bỏ đất, để họ cách trở quê hương, xa lìa thân thích, xét về nhân tình, rất là trái ngược. Đức vua quý quốc trọng điều tín nghĩa, hoà với láng giềng, "suy bụng ta ra bụng người", chắc rằng không việc nhỏ mọn nào mà không soi thấu, huống chi là việc rõ ràng như thế. Nghĩ lại đức vua quý quốc lúc mới ra Bắc, vốn lấy việc tôn phò làm nghĩa thứ nhất. Tiên đế lúc sinh thời, từng mời ngồi trên giường, cầm tay cùng trò chuyện. Tiếng ngọc còn văng vẳng bên tai, vội quên sao được? Kịp đến khi tiên đế tựa ghế trối trăng mọi việc, ân cần lo cho kẻ tiểu tử này tuổi còn trẻ nhỏ, muốn nhờ vào phúc ấm của quý quốc, để làm nơi nương tựa. Gần đây nghe tin quý quốc sai tướng ra đóng ở Nghệ An, lòng người ngờ vực, có kẻ cho rằng đó là do bọn bề tôi ở biên giới gây việc, không phải bản ý của quý quốc vương. Đến lúc tiếp được bức thư tư ra, mới biết thật là vâng mệnh lệnh của quý quốc vương. Trong thư vin vào cớ mùa thu năm ngoái bản quốc đã hứa cắt đất khao quân. Kẻ tiểu tử này mới lên ngôi, chưa được rõ nguyên nhân việc trước, đã sai đình thần tra cứu lại cái ước cắt đất, thì là hai châu Bố Chánh, Minh Linh (Bố Chánh nay gồm các huyện Bố Trạch, Quảng Trạch, Tuyên Hoá thuộc Quảng Bình. Minh Linh nay là Vĩnh Linh, Do Linh thuộc Qsai bọn thủ hạ sang cướp phá làng đó, đâm chết hai tên lính già, chém lấy đầu, rồi truyền hai cái đầu ấy đi khắp các thôn ấp, rao cho nhân dân biết.
Thế là cả huyện Chân Phúc, không ai dám trái mệnh của Chỉnh. Chỉ trong mười ngày, Chỉnh đã mộ được hơn một ngàn quân.
Các hào mục ở huyện bên cạnh, thấy Chỉnh dấy binh vội vàng tính việc đánh Chỉnh. Họ tôn viên trấn thủ cũ là Đương trung hầu (Bùi Thế Toại) lên làm thủ lĩnh, rồi ai nấy đều kéo quân đi theo.
Chỉnh lúc đó bị vây hãm tứ phía, tình thế hết sức nguy ngập.
Bấy giờ, ở kinh đô có Khuê phong hầu là người Nghệ An, thường được người làng cho biết Chỉnh hiện đang ở vào tình thế rất dễ bắt. Khuê phong hầu liền đem việc đó tâu trình với án đô vương; rồi xin cho Đương trung hầu ra làm trấn thủ như cũ, lại xin cử con là Phan Huy ích làm chức đốc thị, và viên trấn thủ Thanh Hoa là Mãn trung hầu (tức Lê Trung Nghĩa, người xã An Hoạch, huyện Đông Sơn, Thanh Hoá) sung chức tham lĩnh, thu nhặt các tàn binh ở Thanh Hoa đem vào Nghệ An, rồi lại triệu tập binh xứ Nghệ và các hào mục, thổ dân sở tại để đánh Chỉnh. án đô vương bằng lòng.
Lúc lĩnh mệnh lên đường, ích hung hăn nói với mọi người rằng:
- Các ông hãy chờ đó, để tôi vào xứ Nghệ lấy đầu Hữu Chỉnh về cướp ấn quận công cho mà coi!
ích lại còn sai bọn thủ hạ làm chiếc trống trận và dặn:
- Phải làm cho rõ lớn, có thể chứa được người vào trong, để khi ta thúc đội tiền quân xông vào bắt được Chỉnh rồi, thì sẽ chọc thủng mặt trống, nhét hắn vào đó mà khiêng về dưới cửa khuyết.
Ngày ích xuất quân, ai cũng cho rằng sự thành công có thể đứng mà chờ đợi.
Hồi Chỉnh ở Nghệ An, lúc nghe tin án đô vương mới lên ngôi, bèn đặt câu nói lái mà đùa rằng: "yến đô là đố yên" (âm Hán đọc án đô hay yến đô đều được). ý Chỉnh muốn bảo: nhà chúa có muốn yên cũng không thể yên được.
Kịp đến lúc nghe tin ở kinh thành các tàn quân đã họp thành cơ ngũ như cũ, lại nghe tin án đô vương đã sai người vào đánh mình; Chỉnh bèn viết thư báo gấp vào Phú Xuân, nói là Thạc, Nhưỡng lại lập họ Trịnh, định chiếm cứ đất nước để báo thù xưa, xin cho quân cứu viện ra để chống nhau với chúng.
Bình được thư ấy, tức thì sai viên tả quân đem binh ra ngay.
Cùng lúc ấy, Chỉnh lại viết thư cho Đinh Tích Nhưỡng. Trước hết Chỉnh nhắc lại tình xưa nghĩa cũ; rồi nói rằng mình hiện đã đoạn tuyệt với Tây Sơn, xứ Nghệ An tiếp giáp xứ Thuận Hoá, chưa biết quân Nam sẽ ra đánh lúc nào. Tiếp theo, Chỉnh xin hãy cho ở đó để đương lấy một mặt: sau khi bình yên rồi, nếu Nhưỡng có thể bảo toàn cho Chỉnh, thì chẳng bao lâu, Chỉnh cũng sẽ về triều.
Nhưỡng coi thư xong, liền gọi con rể của Chỉnh là Siêu Vũ vào dinh mà bảo rằng:
- Ông anh với chú trước đây cùng ở trong cửa cụ Huy, cụ lớn đều coi như con đẻ. Chẳng may cụ lớn bị nạn, ông anh đã trả thù được cho ngài; riêng chú chẳng có công trạng gì, chú thẹn với ông anh nhiều lắm. Song ông anh ta, nói về nghĩa thời đã đủ rồi, mà nói về trung thời hãy còn chưa trọn. Nay chú phò nhà chúa, dựng lại cơ đồ; ông anh đã ngỏ ý muốn đóng giữ trấn Nghệ An lẽ đâu chú dám chẳng chiều ý? Nhưng ông anh chớ có lừa ta, rồi mà bất thình lình nổi dậy kéo quân về... Tuy nhiên, chú cũng nói thế thôi, chứ chú còn ở đây, thì dù ông anh có muốn về chú cũng chẳng nghe đâu. Anh về phải thưa lại ý chú như thế nhé!
Từ đó, Nhưỡng không để ý gì đến việc Chỉnh nữa.
Bấy giờ án đô vương đang ngày ngày mưu sự chuyên quyền, không nghĩ gì đến các việc khác.
Có người thấy vậy, nói với Nhưỡng rằng:
- Hiện nay giặc dữ mới đi, bờ cõi còn chưa yên ổn, mà giặc Chỉnh ở Nghệ An thế lực càng ngày càng lớn mạnh. Nhân trong lúc này lòng người đang phấn chấn, hãy xin chúa ngự giá thân chinh để diệt hữu quân, đuổi Chiêu Viễn, lấy lại bờ cõi cũ của đất Nghệ An; thì như vậy cũng chẳng kém gì cái công dựng nghiệp trung hưng của các bậc tiên vương. Khi đã lập công mà về, quyền lớn tự nhiên sẽ vào tay. Cần gì chúa cứ phải quẩn quanh tranh giành những chuyện cũ rích, mà bỏ quân giặc không lo nghĩ đến? Vạn nhất Chỉnh lại đem binh ra, thì lúc ấy lấy gì mà chống chọi?
Nhưng Nhưỡng chỉ làm thinh.
Giữa khi ấy Chỉnh lại sai anh ruột là giám sinh Nguyễn Ban lẻn ra kinh đô yết kiến hoàng thượng, để xin mệnh làm trấn thủ Nghệ An. Hoàng thượng liền hỏi kín Ban về tình hình quân lính của Chỉnh. Ban được thể, nói thêm lên để phô trương thanh thế cho Chỉnh. Hoàng thượng mừng lắm, bèn nói rằng:
Việc ấy, trước mặt trẫm hữu quân đã từng tâu xin, mà trẫm cũng đã hứa cho rồi. Nay lại xin nữa thì sẽ làm cho tờ sắc ban xuống. Vậy ngươi hãy ở đó mà đợi mệnh!
Các quan tả hữu thấy thế, khuyên nhà vua rằng:
- Hữu quân ở xa mà chúa thì gần. Chưa biết sau này hai bên thua được ra sao? Nếu như mệnh này ban ra, mà việc của hữu quân không thành, thì chúa sẽ có cớ mà nói.
Hoàng thượng nghe theo, bèn thôi không dám hạ mệnh cho Chỉnh.
Ban lật đật ra về, nói dối là đã có sắc của vua cho Chỉnh làm trấn thủ Nghệ An, được mở dinh quân Trung-hùng, thăng tước Bằng lĩnh hầu, đồng thời khiến Chỉnh phải đem quân về bảo vệ kinh sư.
Chỉnh cũng vờ làm lễ bái mệnh, rồi truyền hịch đi kêu gọi các hào mục và thu thập các quân lính tản mát trong vùng.
Do đó, các tay hào mục đều bảo nhau:
- Hắn dẫu đáng ghét thật, nhưng nay đã chịu mệnh vua, nếu chống lại hắn tức là chống mệnh triều đình, hắn sẽ vin vào cớ đó mà nói, thì mình khó tránh khỏi tội.
Rồi họ bỏ Đương trung hầu mà theo Chỉnh chỉ trong khoảng mươi ngày, Chỉnh đã thu nhặt được hàng vạn quân. Chỉnh bèn cho người bà con là Nguyễn Kim Khuê làm chức thị sư, đặt ra những hiệu quân Tứ đột, Tứ thành, lấy danh nghĩa là vâng sắc tôn phò nhà vua mà hẹn ngày xuất quân. Quân của Chỉnh tuy mới mộ, song đội ngũ chỉnh tề, hiệu lệnh nghiêm túc.
Bấy giờ ở kinh sư hoàng thượng đang tức vì bị bọn Nhưỡng ăn hiếp, nên ngày đêm chỉ mong Chỉnh kéo quân ra. Hoàng thượng bèn ngầm ban xuống một tờ chiếu giục Chỉnh tức khắc lên đường.
Chỉnh nhận được mệnh, vội hội họp đông đủ quân sĩ, rồi tuyên cáo với mọi người rằng:
- Bọn Đinh Tích Nhưỡng và Dương Trọng Tế cầm quân ở kinh sư, ngầm mưu làm việc phản nghịch. Ta nay vâng mật chỉ đem quân về triều, để quét cho sạch lũ giặc bên cạnh nhà vua. Vậy các ngươi phải nên chung lòng gắng sức để cùng giúp nhà vua trong lúc khó khăn.
Khi quân Chỉnh qua bến Hoàng Mai ở huyện Quỳnh Lưu, thì gặp tham lĩnh Mãn trung hầu và đốc thị Phan Huy ích, hai người vâng mệnh chúa án đô vào mộ lính Thanh Hoa đánh Chỉnh. Chỉnh lập tức sai đội thiết kỵ bất thình lình đón đánh. Hai bên giao chiến ở địa phận Ngọc Sơn (một huyện giáp liền với Quỳnh Lưu. Nay là huyện Tĩnh Gia, Thanh Hoá). Kết quả, Mãn trung hầu bị thua, chết tại trận, còn Phan Huy ích thì bị bắt sống.
Chỉnh mắng ích về những tội vào bè với Nhưỡng làm phản nhà vua, rồi hỏi:
- Nghe nói nhà ngươi làm cái trống lớn lắm, chọc thủng mặt trống có thể chứa được người phải không?
ích run sợ mà xin lỗi.
Nguyễn Kim Khuê vì chỗ quen biết nên hết sức cứu gỡ cho ích. Chỉnh cười khẩy mà rằng:
- Hừ! Cái bộ thầy đồ nói khoác, giết cũng vô ích.
Đoạn Chỉnh tha cho ích và bắt phải đi theo mình.
Sau khi Chỉnh thắng được trận ấy, thanh thế càng lừng lẫy. Tin báo đến tai án đô vương, vương liền cho đòi Nhưỡng vào phủ để bàn cách chống cự.
Lúc này, hoàng thượng đã hạ mật chỉ sai các hào kiệt vùng Hải Dương đánh phá đất Hàm Giang để diệt trừ họ Đinh. Nhưỡng bất đắc dĩ phải cố xin được lĩnh chức trấn thủ hai trấn Hải Dương và Yên Quảng. Rồi Nhưỡng tự đem bộ hạ kéo về miền đông.
Dân chúng các hạt Thượng Hồng, Hạ Hồng, Kinh Môn, Nam Sách vốn ghét Nhưỡng là kẻ tàn bạo, nên khi được mật chỉ của nhà vua, họ rất mừng. Lập tức họ họp nhau thành từng đoàn, đưa hịch kể tội ác của Nhưỡng, rồi bốn mặt ào ào kéo đến, vây kín thành trấn.
Nhưỡng liệu sức mình không ngăn nổi, bèn lừa lúc ban đêm, phá vỡ vòng vây, chạy về giữ Hàm Giang.
Khi ấy, ở kinh kỳ người ta đồn rằng Nhưỡng đã bị dân xứ đông giết chết, chỉ trong sớm tối hữu quân Nguyễn Hữu Chỉnh sẽ đến nơi, kinh sư ắt thành bãi chiến trường. Trong một ngày, người ta nhốn nháo bỏ chạy đến ba bốn lần. Lòng người nơm nớp lo sợ. Dân chúng trong thành khuân chuyển đồ đạc, dắt già bế trẻ, tranh nhau chạy trốn về các vùng thôn quê; quan quân ngăn cấm cũng không được.
Quận Thạc biết sự thế không thể làm gì được nữa, liền bàn riêng với bộ hạ rằng:
- Vua chúa thù ghét nhau, việc nước không có chủ. Quận Liễn đã đi mất rồi mà giặc Chỉnh lại sắp đến, ta đóng mãi ở đây, thật là thất sách. Chi bằng rút về Sơn Tây, chiếm cứ miền thượng du, giữ vững thế căn bản, bảo tồn lấy lực lượng, ung dung xem việc thiên hạ, chờ cơ hội mà nổi dậy, sau này ắt phải ký công. Các ngươi đều ở dưới cờ của ta, roi cung giong ruổi, phải nên gắng sức. Trong lúc trẩy quân, cần phải đánh dẹp trộm cướp, làm cho dân chúng ăn ở yên ổn, chứ đừng có bắt chước quận Liễn, đi đâu làm việc tàn bạo ở đó, khiến cho dân chúng xứ đông đều phản lại mình.
Bọn thủ hạ đều nói:
Chúng tôi đâu dám chẳng nghe theo tướng lệnh?
Quận Thạc liền thu quân trở về xứ Đoài (tức Sơn Tây).
Thế là quận Liễn đi, quận Thạc lại đi nốt, kinh sư khi ấy thành ra một nơi trống rỗng. Hoàng thượng truyền cho các hoàng thân đốc thúc những lính đã mộ được đêm ngày tuần phòng, canh giữ cung điện. Còn ở bên phủ chúa thì chỉ có viên quyền phủ sự Bùi Nhuận, viên hành tham tụng Mai Thế Uông và viên bồi tụng Dương Trọng Tế, hàng ngày ngồi trong phủ đường thảo giấy bắt lính, thu lương. Nhưng các phủ huyện không một ai chịu làm theo. Người của phủ chúa sai đi, qua các thôn ấp đều bị dân quê đánh đập, lột quần áo, chỉ còn cái mình trần chạy về.
Chúa án đô thấy vậy rất lo, nói với Trọng Tế:
- Việc lớn hỏng mất rồi! Nếu không phải người có tài như Thiếu Khang, Thần My (Thiếu Khang là chắt vua Hạ Vũ; Thần My là bề tôi của Thiếu Khang. Lúc nhà Hạ bị bọn Hậu Nghệ, Hàn Sác cướp mất nước, Thiếu Khang và Thần My đã khôi phục được) thì không thể cứu vãn được tình thế. Ta không tự lượng sức mình, trót đã làm chúa. Nhà ngươi quá đỗi trung thành, trót đã giúp ta. Nay giặc Chỉnh sắp kéo ra, thế lực cực kỳ mạnh mẽ.
Tục ngữ có nói: "ở vào thế cưỡi hổ không thể xuống được". Muốn cho xong việc này, phi nhà ngươi không còn ai.
Rồi chúa bèn sai Tế làm chức trấn thủ Thanh Hoa, đem quân chống nhau với Chỉnh. Tế bất đắc dĩ phải xin vâng mệnh. Nhưng khi nghe người ta nói đến tên Chỉnh thì Tế đã mất cả hồn vía. Kéo quân ra đến ô Cầu Dền, Tế còn trùng trình đóng ở đó hai ngày, chưa chịu lên đường. Sau chúa phải cho người đến giục, Tế mới chịu đi. Quân Tế vừa mới đến làng Bình Vọng (tức làng Bằng, Thường Tín, Hà Đông (Hà Sơn Bình)), thì có tin báo Chỉnh đã vượt sông Thanh Quyết, Tế giật mình mà rằng:
Trừ phi có Phù Đổng thiên vương sống lại, còn ai có thể địch nổi với hắn? Quận Liễn, quận Thạc thật là biết thời cơ. Tiếc thay ta là kẻ đọc sách biết chữ mà lại không bằng mưu trí của bọn võ biền! Bây giờ nghĩ lại thì đã muộn mất rồi!
Liền đó, Tế thu quân qua bến Thanh Trì, không kịp vào gặp án đô vương nữa. Chạy một mạch thẳng sang vùng Kinh Bắc, rồi Tế mới sai người về dâng tờ khải, xin án đô vương cho lĩnh chức trấn thủ Kinh Bắc, để chiêu mộ hào mục ở đó mà mưu đồ cuộc nổi dậy khác.
Chúa án đô thấy tờ khải của Tế, sợ hãi luống cuống như mất cả hai cánh tay, lập tức cho gọi Bùi Nhuận. Nhưng Bư, mạo lời chúa, chẳng những bị tội với nước mình, mà nếu bên địch khám phá ra chỗ lừa dối đó, họ cũng không dong mình; tai vạ càng lớn, tiếng cười không biết bao giờ mới hết. Chi bằng cứ minh bạch mà làm, việc thành hay bại là tại ông trời, ta có lo gì.
Từ đó Nho không dám nói nữa.
Khi đến Phú Xuân, các sứ thần bày lễ vật vào yết kiến Bắc bình vương. Xán trình quốc thư lên. Bắc bình vương xem qua một lượt, rồi vứt xuống đất mà nói to:
- Thư này ai làm? Nói ra toàn điều vô nghĩa lý. Người Bắc quen dùng lời lẽ để dử người. Ta không phải trẻ con mà lừa dối được đâu!
Xán vẫn không đổi nét mặt, ung dung trả lời:
- Xin đại vương hãy bớt giận, để tôi nói rõ. Nếu muốn giết tôi, tôi cũng xin nói một lời rồi chết.
Bắc bình vương vốn trọng Xán, liền đổi nét mặt mà rằng:
- Ngày xưa ta vượt biển ra Bắc, phá Thăng Long, diệt họ Trịnh, cả nước khiếp sợ, trong triều ngoài nội đều chịu bó tay, không ai dám làm gì. Lúc bấy giờ nếu ta chiếm giữ đất nước, xưng đế, xưng vương, gì mà chả được? Nhưng vì ta xa mến đức của tiên đến, nên đem cả cõi đất nguyên vẹn trả lại ngài. Cơ đồ thống nhất đều do tay ta gây dựng lại. Bắc triều lại dùng chế sách "thượng công" để đền đáp ta. Chẳng biết "thượng công"? là danh hiệu gì? Đối với ta có thêm được cái gì không? Kịp đến khi tiên đế chầu trời, lễ cả sơn lăng, ta giúp đỡ cho: tự vương nối ngôi, lễ lớn sách lập, ta chủ trương cho. Nay không cảm ơn những việc của ta làm, lại chứa chấp kẻ phản ta, chống cự với ta, mưu đồ dành lại đất Nghệ An. Xử sự như thế, nhân tình có ai nín nhịn được không? Ta đã phái ra hai vạn binh mã, sai tả quân Võ Văn Nhậm thống lĩnh, thẳng tới Thăng Long, chặt đầu cha con giặc Chỉnh về dâng. Chắc rằng khi Chỉnh nghe tin quân ta kéo ra, thế nào cũng kèm tự tôn bỏ chạy. Bấy giờ ở dưới gươm đao, ngọc đá lẫn lộn, không biết tự tôn có giữ được yên lành hay không? Nếu có làm sao, người trong nước lại qui oán về ta thì thật phiền.
Xán thưa:
- Xưa đức Lê Thái tổ dẹp yên quân Ngô, mở mang nước nhà, công đức như trời. Vua Thánh tông tự mình làm nên thái bình, rạng danh đời trước, mở rộng về sau. Từ núi Thạch Bi ra bắc, từ dẫy Đại Lĩnh (Thạch Bi ở Quảng Nam (Quảng Nam-Đà Nẵng) Đại Lĩnh ở Khánh Hoà (Phú Khánh)) vào nam, đều làm tôi làm dân, ai ai cũng phải tôn kính, trải qua hàng trăm năm. Họ Mạc tiếm ngôi, cả nước đều giận. Đấng tiên vương hội họp những người đồng chí, dựng lại họ Lê. Họ Trịnh nối theo cũng vì có công phò Lê, cho nên mới sai bảo được bốn phương, và được mọi người hưởng ứng. Từ mấy đời nay, chúa Trịnh tuy là hiếp chế vua Lê, nhưng chính sóc không đổi thay, chuông khánh vẫn ở đấy (Chính sóc là ngày mùng 1 tháng giêng; xưa các vua sáng nghiệp khi lên ngôi thường đổi chính sóc, đây mượn ý đó để nói đến quyền vua. Chuông khánh (nguyên văn là chuông và giá khánh) là những đồ thờ của nhà vua; đây ý nói miếu đường của nhà vua vẫn tồn tại), thiên hạ vẫn là thiên hạ của nhà Lê. Đại vương ruổi xe một mạch, thẳng đến kinh thành, tuy rằng oai danh đã vang dậy khắp nơi, nhưng cũng do lấy nghĩa cả tôn phò, khiến người ta tin phục, mới được như vậy. Nếu không, việc vào nước người ta, đâu có dễ dàng như thế. Tiên đế thoạt thấy đại vương, tiếp đãi rất là long trọng. Trước ban sách mệnh làm tước công, rồi sau sẽ phong vương, đó là điển cũ của bản triều, không phải trả ơn không hậu, chớ nên thấy như thế mà cho là bạc. Một nước đã trải hơn ba trăm năm, trời cao chứng giám, lòng người tôn sùng. Đại vương đem cả cõi đất trả lại nguyên vẹn, là thể thuận ý trời, chiều lòng dân, chưa có thể lấy đấy làm ơn. Tiên đế mất đi, hoàng thượng nối ngôi, mọi việc đều bẩm trước với đại vương. Đại vương không làm chủ thì ai làm chủ nữa. Lý đã đến thế, đừng cũng chẳng được. Tôi không dám khen ngợi để dâng lời ton hót. Đại quân về Nam, Nguyễn Hữu Chỉnh đuổi theo, đại vương để hắn ở lại Nghệ An, sao lại bảo hắn làm phản? Nghệ An vốn là đất cũ của bản triều, bản triều phải giữ lấy bờ cõi, sao lại nói là tranh giành? Đại vương phái binh mã ra, nếu là để thăm hỏi, bản triều đã có lễ nghênh tiếp. Bằng không, thì như người xưa đã nói: "Nước lớn có quân đánh dẹp, nước nhỏ có cách chống giữ". Tôi nay đã ra khỏi cõi, việc ấy không còn dám biết đến. Tự hoàng của nước tôi, trời đã sai làm vua, đế vương có chân mệnh, gươm đao cũng phải lựa chọn, đại vương chớ có lo. Nếu như đại vương cứ thuận lẽ trời mà làm, gây lại nước đã suy, nối lại họ đã dứt, để cho nước của nhà họ Lê được yên ổn, thì những người làm tôi làm dân trong cả nước ai chẳng cảm đội công đức, còn có oán gì? Nhược bằng làm trái lại, thì sự thế thay đổi khác thường, tôi đây ngu dại, không thể nào mà thấy trước được.
Xán cứ cãi đi cãi lại mãi, không chịu khuất phục một lời nào. Đến lúc trời sắp tối, Bắc bình vương bảo:
- Hãy ra nhà trọ mà nghĩ đi nghĩ lại cho kỹ!
Xán nói:
- Nghĩ lắm luẩn quẩn lại dễ lầm lẫn, một chết là xong!
Bắc bình vương nổi giận, sai đem giam Xán vào ngục. Bọn án và Nho cũng đều bị chia ra giam ở các nơi khác.
Xán vào ngục, cười nói như thường, Bắc bình vương sai người đến dò, thấy Xán viết ở chỗ giam đôi câu đối như sau:
Đạt đức hữu tam, túng vị năng chi, nguyện học.
Tiểu tâm vô nhị, hành kỳ tố dã, hà vưu? (nghĩa là: Đạt đức có ba, dù chẳng làm nên xin học. Giữ lòng như một, noi theo chí cũ, oán gì?)
Tư mã Ngô Văn Sở xin giết chết bọn Xán. Bắc bình vương còn tiếc tài của Xán, bèn bảo trung thư Lê Văn Kỷ và viên quan bộ Lễ là Vũ Văn Trụ rằng:
- Nhân vật Bắc Hà, Xán cũng vào bậc giỏi đấy! Ta muốn thu phục hắn để dùng, nhưng mà chắc hắn không chịu. Các ngươi thử hiểu dụ hắn một phen nữa xem sao?
Hai người bèn đến chỗ giam Xán, thấy Xán mang gông nằm sấp, liền nói:
- Ông già sao lại tự mình làm khổ mình như vậy?
Xán trả lời:
- Cũng là số mệnh đấy thôi!
Kỷ nói:
- Quân tử có khi không cần theo số mệnh, chế ngự được số mệnh là cốt ở mình. Ví như đánh bạc, đồng tiền một sấp một ngửa; ta theo kẻ được mà đánh, thiên hạ sẽ khen ta là người đánh bạc giỏi.
Xán nói:
- Bởi thế cho nên đó chỉ là phường cờ bạc, chứ không phải đạo của người quân tử. Tôi nghe nói: "Kẻ làm bề tôi phải chết vì chữ trung". Đấy là lời dạy của người xưa!
Hai người biết là không thể làm lung lay được ý chí của Xán, liền đi ra và nói với nhau:
- Nhà Hán có Tô Tử Khanh (tức Tô Vũ đời Hán Võ đế. Khi đi sứ Hung Nô, Tô Vũ bị Hung Nô giữ lại, bắt nuôi dê ở Bắc Hải 19 năm ròng, mà Tô Vũ vẫn giữ khí tiết không chịu khuất phục) nhà Lê có Trần Công Xán. Đáng thương, nhưng cũng đáng ghét thay!
Vừa gặp lúc đó, vua Tây Sơn gửi thư ra kể tội lỗi của Bắc bình vương và sắp phái quân tới đánh. Tướng sĩ dưới cờ của Bắc bình vương có kẻ trốn đi, Bắc bình vương liền bảo Trần Văn Kỷ rằng:
- Nay nước ta có việc lôi thôi, lòng người còn phân vân. Việc biến trong nhà không nên để nước láng giềng nghe biết. Sứ Bắc ở đây, tai vách mạch rừng. Họ ở xa đến để dò xét ta, giữ họ ở lại thì họ biết rõ tình hình trong nước, hoặc giả nhân đó họ xúi giục, gây ra việc không hay. Thả họ về thì lại bị họ rêu rao làm lộ việc, người Bắc Hà mà biết, thì lại sinh lòng khinh rẻ ta. Bởi thế, ta định ném bọn họ xuống biển, để cho hết tiếng tăm dấu vết, vậy cứ theo chước đó mà làm.
Rồi Bắc bình vương sai đô đốc là Võ Văn Nguyệt sắp sẵn vài chiếc thuyền biển, nói phao là đưa sứ thần về Bắc.
Lúc bọn Xán vào từ giã, Bắc bình vương nói:
- Các ông hãy về trước, chờ lúc tôi ra ngoài ấy vời vào gặp mặt, sẽ có cách xử trí việc Nghệ An.
Rồi Bắc bình vương lại đem tặng họ một trăm nén bạc và bảo:
- Đây là của công chúa gửi tặng, các ông đừng chối từ.
Tiếng gọi là đưa họ về, nhưng thật ra Bắc bình vương đã ngầm bày mưu cho Nguyệt, người ngoài không ai được biết.
Tháng ba, mùa xuân năm Đinh vị (1787) thuyền từ cửa Tư Dung (thuộc Thuận Hoá, nay là cửa Tư Hiền) giương buồm ra đi, không mấy ngày đã đến cửa biển Đan Nhai thuộc thị trấn Nghệ An. Nguyệt cùng bọn sứ thần ghé thuyền vào bờ, rồi cùng lên bộ.
Lúc ấy có người học trò của Xán là giám sinh Nguyễn Hiên, người huyện Chân Lộc, nghe tin thầy học được về, vội mừng rỡ đến chào. Chợt thấy nét mặt Nguyệt có vẻ khác thường, Hiên ngầm đoán được ý của hắn, bèn nói kín với Xán hãy xin đổi đi đường bộ.
Nhưng Nguyệt nói:
- Tôi vâng mệnh đưa sứ giả đi đường biển, thuận tiện mà ổn thoả, không nên đi đường bộ, trèo non vượt suối vất vả.
Rồi đó, cả bọn lại lên thuyền ra biển.
Vừa ra đến ngoài khơi, Nguyệt liền bảo bọn lái thuyền đục thuyền cho nước vào, dìm cả bọn sứ thần xuống biển. Hiên đứng trong bờ trông ra xa gào khóc hồi lâu mà về. Hôm ấy nhằm ngày 11 tháng 4, mùa hè năm Đinh vị (1787).
Xong việc, Nguyệt lại ghé thuyền vào bờ, nói phao cho trong ngoài biết rằng, thuyền gặp sóng gió bị đắm, để tránh cái tiếng giết hại sứ giả. Lúc bấy giờ, có người làm hai câu thơ rằng:
Tên lưu vũ trụ bia ngàn thuở,
Nghĩa nặng cương thường biển vạn năm.
Từ lúc bọn Xán đi Nam, Chỉnh cho rằng việc thế nào cũng xong, nên đã nói toạc ra ở trong triều rằng:
- Tình hình Tây Sơn như ở trong tầm con mắt của ta. Họ sẽ mừng là ta đã không gây sự, để họ có thể chuyên tâm vào việc nước họ. Hiện nay cuộc nội chiến của họ đang rối ren, thì giờ đâu mà lo đến việc bên ngoài. Còn Võ Văn Nhậm thì chơ vơ ở Nghệ An ngoảnh về bên trong không có quân cứu viện, có làm được gì? Bắc bình vương thấy thư của ta đưa đến, thế nào cũng mừng mà nghe theo, xin đừng lo gì việc miền Nam!
Vì thế, những lời Xán dặn lúc ra đi, Chỉnh đều không để ý tới, chỉ tâu xin cho Nguyễn Duật làm trấn thủ Thanh Hoa mà thôi.
Lúc Duật sắp đi, Chỉnh dặn rằng:
- Chỉ nên giữ gìn bờ cõi cẩn thận, chớ có sinh sự để bên địch nghi ngờ. Đợi khi Trần bình chương trở về, sẽ dời vào làm trấn thủ Nghệ An, sửa lại luỹ cũ ở Hoành Sơn, giữ vững bờ cõi để làm chước lâu dài.
Quan bình chương Phan Lê Phiên nghe được chuyện ấy, liền đến nhà Chỉnh mà nói:
- Ông Trần đã già giặn việc đời, xét đoán công việc rất nhanh. Ngày thường ông ấy bàn bạc tính liệu như thần, đến lúc sự việc xảy ra, không việc gì là không đúng. Ông chớ nên xem thường!
Chỉnh cũng không cho là phải. Phiên ra ngoài nói với người bạn đồng liêu là Trương Đăng Quỹ rằng:
- Ông Bằng vốn có tiếng là biết việc binh, thế mà không nghe lời can, coi thường quân giặc, sợ rằng quốc đô mới qua một cuộc tàn phá, không thể chịu nổi một trận giày đạp nữa. Chúng ta gánh chức phụ bạt đã lâu, nếu "đổ mà không giữ, nguy mà không phò" thì còn dùng hạng tướng quốc như chúng ta làm gì?
Hai người than thở cùng nhau hồi lâu, rồi Phiên nói:
- Nghĩ lại công đức của tiên đế rất lớn, mà nay ngài chưa có miếu hiệu, không bàn định cho kịp lúc này, rốt cuộc điển lễ vẫn thiếu.
Hai người bèn cùng bàn với các quan, dùng sách vàng tôn xưng tiên đế làm Vĩnh hoàng đế, miếu hiệu Hiển tông. Rồi tâu với vua xin làm lễ cáo miếu. Chỉnh nói:
- Theo lễ, việc tôn xưng miếu hiệu phải chờ sau ngày đại tường, khi đã rước linh vị vào miếu rồi mới cử hành, làm gì mà gấp thế?
Phiên nói:
- Việc đời chưa biết thế nào, bây giờ chính là lúc cần phải tôn mỹ hiệu của tiên đế cho xong ngay đi!
Chỉnh nghe nói cũng im lặng.
Lại nói, lúc Nguyễn Hữu Chỉnh từ Nghệhay là bà con thân thuộc, Giản cũng đều vạch lỗi ngay trước mặt, không hề kiêng nể. Bởi vậy mọi người đều khen Giản là thẳng thắn.
Đến lúc Chỉnh vào kinh, thì Giản đang vâng mệnh đi chiêu dụ ở trấn Sơn Tây chưa về. Các quan bàn riêng với nhau: Giản chắc không về, mà có về chắc cũng không chịu khuất phục, nhất định Giản sẽ lập mưu với Hoàng Phùng Cơ để diệt Chỉnh. Nếu Giản về triều, chắc Chỉnh sẽ không dung, thế nào Chỉnh cũng ngầm kiếm cớ để giết Giản. Hai sự việc ấy không biết rồi sẽ ra sao?
Kim Khuê nghe được những lời bàn ấy, bèn hỏi Chỉnh:
- Ông cho Nguyễn Đình Giản là hạng người như thế nào?
Chỉnh đáp:
- Cuồng trực! (thẳng thắn đến mức cuồng dại)
Khuê lại hỏi:
- Có thể dùng được không?
Chỉnh trả lời:
- Chẳng những dùng được mà thôi, con người ấy còn đáng trọng nữa là khác!
Khuê lại hỏi tiếp:
- Ông không giận Giản, có phải là thật tình chăng?
Chỉnh nói:
- Ông chẳng thấy quận Hoàn là bố vợ hắn, vậy mà hắn còn ngồi tại giữa triều kể tội ông ta rằng quỳ gối theo giặc, huống chi là người khác? Nếu mình có lỗi, hắn nói đúng. Còn như mình không có lỗi mà hắn nói, thì cũng không hại gì cho mình. Con người như hắn thực không nên giận. Mà có giận cũng không làm gì hắn tốt. Chẳng qua chỉ tổ để cho người ta nhòm thấy chỗ nông sâu của mình thôi!
Khuê nhân đó bèn khuyên Chỉnh nên vời Giản về dùng, để thu phục lòng người trong nước. Chỉnh nghe theo, liền sai người đưa thư cho Giản, trong thư lời lẽ hết sức ôn tồn, mềm mỏng.
Giản trở về, vừa gặp lúc triều đình đang bàn việc sắp đặt quan chức. Phan Lê Phiên được cử làm bình chương sự; Trương Đăng Quỹ, Trần Công Xán làm đồng bình chương sự; Nguyễn Huy Trạc, Phạm Đình Dư làm tham tri chính sự; Nguyễn Đình Giản làm phó đô ngự sử.
Khi mọi việc đã tạm yên, Chỉnh liền sửa sang dinh thự ở toà Lượng phủ để ở.
Năm ngày Chỉnh mới vào chầu một lần, tan buổi chầu, lại ra ngồi ở chính sự đường để bàn bạc công việc. Còn những ngày khác, bất kỳ việc quan, việc dân, các quan đều phải tới dinh thự riêng của Chỉnh, để xin Chỉnh quyết định.
Từ đó, quyền Chỉnh thật ngang với nhà vua, thế của Chỉnh có thể lật nghiêng cả nước.
Bấy giờ, tiền tệ trong nước phần nhiều bị các nhà giàu giấu cất, nhân dân đều khốn khổ về nạn khan tiền, hàng hoá không lưu thông, vật giá cao vọt. Chỉnh bèn xin với triều đình, ra lệnh thu vét hết tượng đồng, chuông đồng ở các chùa, miếu, đem về kinh sư, mở lò đúc tiền. Rồi Chỉnh thả cho thủ hạ đi về khắp nơi, cướp bóc chuông tượng của các thôn ấp. Người nào mà dám giấu giếm, tức thì bị chúng tra khảo, trừng trị. Chỉ riêng có pho tượng thần bằng đồng đen ở quán Trấn Vũ phía bắc kinh thành, là chúng không dám lấy mà thôi.
Thấy Chỉnh làm như vậy, trăm họ ai cũng ta thán. Một đêm, có người dán ở ngoài cửa Đại Hưng hai câu đối như sau:
Thiên hạ thất tự chung, chung thất nhi đỉnh an tại?
Hoàng thượng phần vương phủ, phủ phần tức điện diệc không! (thiên hạ mất chuông chùa, chuông mất, vạc còn đâu nữa? Hoàng thượng thiêu phủ chúa, phủ thiêu, điện cũng trơ thôi! Chữ "đỉnh" (vạc) ở vế trên, là tượng trưng cho cơ nghiệp của nhà vua)
Chỉnh nghe hai câu đó, lấy làm căm ghét lắm. Vả chăng, Chỉnh cũng tự đoán biết rằng, những việc mình làm đều không được dư luận đồng tình. Bởi vậy, Chỉnh càng mượn thế ra oai, để hòng khoá miệng mọi người.
Hồi Chỉnh trốn theo quân Nam, có viên quan võ là Hoàng Đình Xước vâng chỉ đốc lính coi giữ kinh thành. Khi đó, Xước gặp người nhà Chỉnh đeo gươm chạy ở trên đường, liền bắt lại hỏi. Người ấy xin nộp thanh gươm, Xước thu lấy rồi thả cho đi. Đến khi Chỉnh tới kinh sư, Xước đang đóng quân ở trấn Kinh Bắc, liền về ra mắt Chỉnh để trả lại thanh gươm. Chỉnh lập tức sai bắt Xước bỏ ngục. Nghe nói nhà Xước có nhiều đồ quý lạ, Chỉnh bèn đòi lấy kỳ hết, rồi mới tha.
Những việc làm của Chỉnh đại loại đều như thế thực là tàn bạo và không còn kiêng sợ gì cả.
Muốn thêm oai thế, Chỉnh lại tự đặt tên quân đội của mình là đạo Vũ Thành. Trong đạo chia ra năm doanh; nội quân gồm có hai vệ gọi là Thiết kỵ, Thiết đột; mỗi vệ chia làm năm đội; khí giới, màu sắc quần áo đều trang bị theo hình thức của triều nhà Thanh, để cho phân biệt với các toán quân khác. Tại Lượng-phủ, nơi ở của Chỉnh, nhà cửa, lâu đài, kiệu xe, quần áo hết thảy đều chế theo kiểu mới, có ý muốn sánh ngang với nhà vua. Trong thì nắm giữ quân cơ, ngoài thì chiếm quyền trấn thủ các trấn, phàm những chỗ cơ mật, trọng yếu, đều do vây cánh của Chỉnh chia nhau lĩnh chức. Tất cả mọi việc, Chỉnh đều chuyên quyền, làm trước rồi sau mới tâu vua. Thậm chí có việc đã bàn định tại triều mà vua cũng không được biết.
Uy quyền của Chỉnh ngày càng to lớn như vậy, nên hình tích của hắn cũng lộ ra hết. Người ta bàn tán sôi nổi, ai cũng bảo rằng Chỉnh sẽ làm chúa, và rồi đây Chỉnh hiếp chế nhà vua sẽ còn tệ hơn chúa Trịnh ngày xưa.
Hoàng thượng thấy thế cũng hơi ngờ Chỉnh. Một hôm, hoàng thượng đuổi hết tả hữu, rồi nói kín với hai viên nội hàn là Ngô Vi Quý và Lê Xuân Hợp rằng:
- Chỉnh tuy có công bảo vệ, nhưng dần dà đã thấy hắn có vẻ muốn lấn bức. Giá có thể chặn ngay lúc đầu, khiến hắn không thể càn rỡ được nữa, thì mới đúng với thuật nuôi chim ưng (đời Tam quốc, Trần Đăng nói với Lã Bố rằng: "Tào công nói nuôi Lã Bố như nuôi chim ưng, cáo thỏ chưa hết thì không dám cho ăn no, nếu ăn no ưng sẽ bay đi mấtv.v...". ở đây dùng ý ấy). Nếu để khi thế lực của hắn đã thành, thì hắn sẽ khó trị, e cũng giống như nuôi cọp để lo về sau. Vậy các ngươi hãy nên tính hộ trẫm!
Bọn Quý, Hợp tâu:
- Như lũ thần đã xem xét, thì Chỉnh là hạng người ý nghĩ cực kỳ hiểm độc, bụng dạ quá ư tàn nhẫn, mưu mô hết sức sâu sắc, giả trá rất đỗi khôn ngoan, mà ứng biến thì mau lẹ tuyệt vời. Con người ấy thực là một kẻ gian hùng ở đời loạn, chưa chắc là một kẻ bầy tôi hiền tài ở đời trị. Cũng ví như loài chồn sói, không phải là vật có thể dạy dỗ; giống yêu ma, không phải là vật có thể kiềm chế. Chỉ còn có một cách là giết đi mà thôi. Nhưng giết hắn cũng phải có mẹo. Bệ hạ hãy nên coi hắn như người tâm phúc, đãi hắn với vẻ lễ mạo, cho hắn ra vào nơi cung cấm, không tỏ vẻ gì nghi kỵ này khác. Rồi đó, thỉnh thoảng lại mời hắn vào điện bàn việc, luôn thể đặt tiệc cho hắn uống rượu thật say. Vài lần như thế để hắn quen đi mà coi là thường, bấy giờ mới dùng thuốc độc mà giết. Như vậy, việc làm mới khỏi lộ, biến loạn cũng không thể do đâu mà xảy ra được. Theo ý ngu của lũ thần, chỉ có mẹo ấy là hay hơn cả!
Hoàng thượng nói:
- Chuyện này ra ở miệng các ngươi, vào trong tai trẫm, đừng để cho người nào biết. Kinh Dịch có câu rằng: "Làm vua không kín chuyện thời mất bề tôi, làm bề tôi không kín chuyện thời mất thân mình". Các ngươi phải lấy đó làm răn. Bao giờ gặp cơ hội có thể làm được, trẫm sẽ bảo với các ngươi.
Thực là:
Âu quen trên biển chừng không lạ
Thỏ mắc trong vòng hẳn khó ra.
Chưa biết việc này như thế nào? Hãy xem hồi sau phân giải.