Thượng - Tân - Thị

     à một tay Nho học thuộc phái Bảo hoàng, nhà thơ Thượng tân Thị chính tên là Phan quốc Quang, người phủ Thừa thiên (Huế) sinh vào khoảng năm 1880.
Cụ vào Nam từ khi ông Thành Thái Tây du. Sau khi bao phen đông bôn tây tẩu, cụ đã trở nên người chán đời, với cái vẻ thu lời nghe tiếng nói vào cho mình và tự mình trả lại với đời rất ít. Cụ là một ông đồ dạy chữ nho ở một xóm hẻo lánh thuộc xã Tam Bình, quận Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long và đã từng làm thơ đăng trên nhiều tờ báo ở Sàigòn trước đây như : Đuốc nhà Nam, Đại Việt tạp chí, và Nam kỳ tuần báo, v…v…và là bạn thanh khí của các ông Trần Chánh Chiêu, Đặng Thúc Liêng, Hồ biểu Chánh, Diệp văn Kỳ trước đây.
Chính cụ là tác giả bài thơ thập thủ liên hoàn « Khuê phụ thân » trước đây, một bài thơ thay lời bà Thành Thái gởi cho chồng, dưới ký tên Nguyễn thi Phi, tức là một bà Phi nhà Nguyễn, mà dư luận đương thời cho là một áng thơ kiệt tác, nhưng lại lầm tưởng tác giả là bà Nguyễn hoàng Phi, một bà phi của vợ vua Thành Thái.
THI TUYỂN
KHUÊ PHỤ THÂN
Chồng hỡi chồng ! Con hỡi con !
Cùng nhau chia cách mấy thu tròn.
Ven trời góc bể buồn chim cá,
Dạn gió dày sương tủi nước non.
Mộng điệp khéo vì ai lẽo đẽo.
Hồn quyên luống để thiếp thon von.
Ngày qua tháng lại trông đăm đắm,
Muôn dặm xa xôi mắt đã mòn.
Đã mòn con mắt ở Phi Châu,
Có thấy chồng con đâu ở đâu.
Dẫu đặng non xin cùng bể tốt,
Khó ngăn gió thảm với mưa sầu.
Trách ai dắt nẻo khôn lừa dọc,
Khiến thiếp ra thân chịu dãi dầu.
Bớ bớ xanh kia sao chẳng đoái,
Xui lòng oằn oạisuốt canh thâu.
Canh thâu chưa nghi hãy con ngồi,
Gan ruột như dầu sục sục sôi.
Nghĩa gá ấp yêu đành lỡ dở.
Công cho bú mớm chắc thôi rồi!
Quyết gìn giữ dạ tròn sau trước,
Biết cậy nhờ ai tỏ khúc nhôi ?
Dâu bể xanh xanh trời một gốc,
Hỡi chồng ôi ! với hỡi con ôi !
Con ôi ruột mẹ ngấu như tương,
Bảy nổi ba chìm xiết thảm thương !
Khô héo lá gan cây đảnh Ngự,
Đầy vơi giọt lệ nước sông Hương.
Quê người đành gởi thân trăm tuổi,
Đất tổ mong vì nợ bốn phương.
Mẹ cũng trông mau rồi một kiếp,
Để cho vẹn vẽ mối cang thường.
Cang thường gánh nặng cả hai vai,
Biết tỏ cùng ai, ai hỡi ai !
Để bụng chỉn e tằm đứt ruột,
Hở môi thì sợ vách nghiêng tai.
Trăng khuya nương bóng chinh chinh một,
Kiến bể soi hình tẻ tẻ hai.
Nhắm thử từ đây qua đến đó,
Đường đi non nước độ bao dai ?
Bao dai non nướcchẳng hay cùng,
Xin gởi hồn ta đến ở chung.
Hôm sớm cho tròn luôn một tiết ;
Trước sau khỏi thẹn với ba tùng.
Quê nhà đã có người săn sóc,
Đất khách nương nhau khỏi lạ lùng.
Mảng tính chưa xong vừa chợp mắt,
Trống lầu đâu đã đổ lung tung.
Đã đổ lung tung tiếng trống thành,
Giựt mình tỉnh dậy mới tàn canh.
Sương sa lác đác dằn tàu lá,
Gió thổi lai rai lạc bức mành.
Cảnh ấy tình này thôi hết muốn,
Trời kia đất nọ nỡ bao đành.
Thương nhau chẳng đặng cùng nhau trọn.
Xin hẹn chung cùng kiếp tái xanh.
Kiếp tái sanh may có gặp không ?
Kiếp này đành thẹn với non sông.
Chiêm bao lẩn thẩn theo chân bướm,
Tin tức bơ vơ lạc cánh hồng.
Tính tới tính lui thân cá chậu ;
Lo quanh lo quẩn phận chim lồng.
Đã không chung hưởng thôi thời chớ,
Sao nỡ xa nhau chồng hỡi chồng ?
Hỡi chồng có thấu nỗi này chăng ?
Sóng gió khi không dậy đất bằng.
Non nước chia hai trời lộng lộng ;
Cha con riêng một biển giăng giăng.
Mối sầu kia gỡ khoanh chưa hết ;
Giọt thảm này tuôn bửng khó ngăn.
Ngán bấy cuộc đời khôn gượng gạo,
Canh chầy còn ở dưới cung trăng.
Ở dưới cung trăng luống nỉ non,
Đắng cay như ngặm trái bồ hòn.
Khói mây giọng quốc nghe hơi mỏn,
Sương tuyết mình ve nhắm đã mòn.
Lằn mõ làng xa canh cốc cốc,
Tiếng chuông chùa cũ dộng bon bon.
Nỗi riêng ai biết ta thương nhớ,
Chồng hỡi chồng ! Con hỡi con !
Ba kè tháng 3 năm 1919
TRUY NIỆM NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU
Thiên hạ xôn xao cuộc đảo thuyền,
Đau lòng ngồi viết « Lục Văn Tiên ».
Hiếu trung khuyên hãy cho bền chặt;
Tiết hạnh trau sao được vẹn tuyền.
Soi xét trên không vừng bạch nhựt,
Nhớ thương sau có bọn thanh niên.
Ngàn năm bồi đắp cang thường đặng,
Một áng văn chương miệng để truyền.
NGỘ CỐ TRI
(Tặng Thường Tiêu Lê Quan Nhơn)
Chứng với trên đầu thẳm thẳn xanh.
Vì đâu nên nỗi ngọn xa ngành?
Minh tân từ thuở chia vì bạn,
Cảm cựu bây giờ nhắc lại anh.
Giấc mộng Trần quân mơ lạnh ngắt,
Câu thơ Bùi lão đọc buồn tanh.
Bốn mươi năm lẻ dài đăng đẳng,
Gặp gỡ nhau đây họa phước dành.
Gặp gỡ nhau đây họa phước dành,
Chuyện xưa nhắc lại nghĩ buồn tanh.
Khôn đem chí khí so hồng hộc ;
Chỉ mượn thi hồn tỏ yến anh.
Nước tổ bao giờ mây sạch ngút ;
Quê cha có thuở ngọn thêm ngành.
Dặn lòng tiết vững như tòng bá.
Chứng với trên đầu thẳm thẳm xanh
19- 7- 1950

Xem Tiếp: ----