Dịch giả: LÂM HOÀNG MẠNH - NGUYỄN HỌC
PHẦN KẾT
TỪ MỘT CON NGƯỜI ĐẾN MỘT HUYỀN THOẠI

     hững lời bình luận đổ dồn về từ khắp nơi trên thế giới khi nghe tin Hồ Chí Minh qua đời. Các bài viết ca ngợi Hồ Chí Minh từ các thành phố lớn và thủ đô các nước trên thế giới tới tấp gửi đến và Hà Nội nhận được hơn 22.000 điện tín từ 121 quốc gia chia buồn với nhân dân Việt Nam khi biết nhà lãnh đạo của họ qua đời. Một vài nước xã hội chủ nghĩa tổ chức tang lễ và có thể thấy trước được lời lẽ các bài điếu văn của họ là thiện chí. Một tuyên bố chính thức từ Moscow ca ngợi ông Hồ là “người con vĩ đại của nhân dân Việt Nam anh hùng, lãnh tụ kiệt xuất của phong trào giải phóng dân tộc và quốc tế cộng sản, người bạn lớn của Liên Xô”. Các nước Thế giới thứ ba ca ngợi ông là người bảo vệ cho các dân tộc bị áp bức. Một bài báo ở Ấn Độ miêu tả ông là tinh hoa của “dân tộc, hiện thân cho khát vọng cháy bỏng vì tự do, cho tinh thần kiên cường và sự nghiệp đấu tranh của họ”. Những người khác nhắc đến đức tính giản dị và đạo đức cao cả của ông. Một bài xã luận trên báo Uruguay nói “ông có một tấm lòng bao la như vũ trụ và tình yêu thương vô bờ bến đối với nhi đồng. Ông là biểu tượng của đức tính giản dị trong mọi mặt”.[1]
Phản ứng từ các thành phố phương Tây im ắng hơn. Nhà Trắng tránh không bình luận, các quan chức chính quyền Nixon cũng như vậy. Tuy nhiên, phương tiện truyền thông của phương tây cũng sôi nổi đưa tin về cái chết của ông. Các tờ báo ủng hộ sự nghiệp chống chiến tranh có khuynh hướng mô tả ông như một đối thủ đáng được kính trọng và là người bênh vực các dân tộc yếu hèn bị áp bức. Ngay cả những người kịch liệt phản đối chế độ Hà Nội cũng kính trọng ông vì những cống hiến toàn bộ đời mình trước hết cho độc lập, thống nhất đất nước và sự ủng hộ, bênh vực các dân tộc bị bóc lột trên thế giới.
Một vấn đề chủ chốt nhiều nhà bình luận suy nghĩ, việc ông qua đời có ảnh hưởng thế nào tới diễn biến của cuộc chiến tranh ở Đông Dương. Được biết đến như một người cộng sản kỳ cựu và một nhà cách mạng tận tuỵ, nhiều người xem Hồ Chí Minh như một người thực tiễn, nắm vững diễn biến phức tạp của tình hình chính trị thế giới và biến động theo thời thế. Ngay cả Lyndon Johnson, có lẽ là đối thủ đáng gờm nhất của ông trong những năm 1960, đôi khi cũng nhận xét, nếu ông ta có thể ngồi với “ông Hồ”, hai nhân vật chính trị kỳ cựu bằng cách này hay cách khác có thể sẽ đi đến một thoả hiệp nào đó.
Với những người kế nhiệm, không ai được thế giới kính trọng như ông Hồ. Rất ít cộng sự của ông Hồ nổi tiếng ở thế giới bên ngoài. Trừ ông Hồ, không có quan chức cao cấp nào của Đảng từng sống hoặc đi khắp nước Pháp, huống hồ đi các nước phương Tây khác. Trong số những người từng ra nước ngoài, hầu hết họ được đào tạo tại Trung Quốc hoặc Liên Xô, thế giới quan của họ hạn chế bởi giáo lý cứng nhắc của chủ nghĩa Marx - Lenin. Bí thư thứ nhất Lê Duẩn, người đã nhanh chóng thiết lập uy tín, người kế nhiệm chức của ông Hồ ở Hà Nội, hầu như không được phương Tây biết đến. Ngay cả ở Moscow và Bắc Kinh, ông Duẩn cũng không được biết đến nhiều.
Trong bản di chúc cuối cùng của mình và trong suốt đời mình, Hồ Chí Minh tìm cách cân bằng sự cam kết giành độc lập cho dân tộc Việt Nam với sự cam kết cống hiến cho phong trào thế giới. Trong bản di chúc khởi thảo lần đầu tiên năm 1965 và sau đó tự tay sửa đổi vào năm 1968 và 1969, mặc dù nhấn mạnh phải đặt ưu tiên hàng đầu cho hàn gắn vết thương chiến tranh và cải thiện mức sống của người dân Việt Nam, ông Hồ vẫn khẳng định tầm quan trọng của cả chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Ông đặc biệt chú trọng thực hiện bình đẳng giữa nam và nữ. Ông ca ngợi Đảng đóng vai trò hàng đầu trong cuộc cách mạng Việt Nam nhưng cũng kêu gọi phát động chiến dịch phê và tự phê bình, chỉnh đốn Đảng nhằm dân chủ hoá tổ chức, nâng cao đạo đức cho số cán bộ Đảng sau khi chiến tranh kết thúc. Cuối cùng, ông nhiệt thành kêu gọi thôi thúc tình đoàn kết của phong trào cộng sản theo nguyên tắc chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Đám tang Hồ Chí Minh được tổ chức tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội ngày 8-9-1969 với hơn 100.000 người tham dự gồm cả đại diện từ các nước xã hộ chủ nghĩa. Trong bài phát biểu trước Quốc hội, Lê Duẩn hứa, các nhà lãnh đạo Đảng sẽ tìm cách thực hiện khát khao cháy bỏng của Hồ Chí Minh đánh bại quân xâm lược Mỹ, giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước. Sau đó ông hứa Đảng sẽ đem hết nỗ lực xây dựng một xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và khôi phục tinh thần đoàn kết trong phe xã hội chủ nghĩa.[2]
Về khía cạnh nào đó, Lê Duẩn cũng đã thực hiện lời hứa của mình. Dưới sự lãnh đạo cương quyết của ông, thời gian sau khi Hồ Chí Minh qua đời, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tiếp tục theo đuổi chiến thắng cuối cùng ở miền Nam. Mục tiêu trước mắt của Hà Nội, củng cố lực lượng ở miền Nam chuẩn bị phát động một cuộc tấn công quân sự mới trong thời gian diễn ra chiến dịch bầu cử tổng thống Mỹ năm 1972. Các đại diện Bắc Việt tiến hành đàm phán với Mỹ ở Paris, nhưng hầu hết không đạt được kết quả gì vì cả hai phía đều tìm cách tạo ra một bước ngoặt quân sự ở Nam Việt làm phương tiện giành lợi thế trên bàn hội nghị. Mặc dù số thương vong của Hà Nội vẫn ở mức cao, các nhà lãnh đạo Đảng vẫn lạc quan vì tình cảm chống chiến tranh ở Mỹ đang dâng cao buộc tổng thống Nixon phải tuyên bố chương trình kêu gọi rút quân Mỹ về nước vào cuối nhiệm kỳ đầu.
Tháng 4-1972, khi quân Mỹ ở miền Nam Việt Nam còn chưa tới 50.000 quân, Hà Nội phát động một chiến dịch tấn công Nam Việt Nam. Giống như cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân năm 1968, cuộc tấn công trong ngày lễ Phục Sinh lần này không đem lại chiến thắng hoàn toàn nhưng nó khiến cho cả hai phía đẩy nhanh tiến trình hoà bình. Tháng 1-1973, Hà Nội và Washington cuối cùng đi đến một hiệp định thoả hiệp. Hiệp định hoà bình Paris kêu gọi ngừng bắn và rút toàn bộ đơn vị lính chiến đấu của Mỹ về nước. Các cuộc đàm phán giữa hai bên sẽ quyết định phân chia lãnh thổ dưới quyền kiểm soát của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam và chính quyền Sài Gòn thông qua việc thành lập một cơ cấu hành chính bên cạnh chính phủ (Hội đồng Quốc gia hoà giải và hoà hợp dân tộc) gồm đại diện của cả hai phía cũng như những phần tử trung lập. Hội đồng này sau đó sẽ bàn vấn đề tổ chức tổng tuyển cử.
Giống như Hiệp định Genève cách đây hai thập niên, Hiệp định Paris không chấm dứt chiến tranh Việt Nam. Hiệp định này chỉ đơn thuần giải quyết vấn đề quân Mỹ rút khỏi Việt Nam và khôi phục nguyên trạng tình hình đầu những năm 1960 ở miền Nam Việt Nam. Khi chẳng bên nào tỏ thái độ mong muốn tôn trọng các điều khoản của Hiệp định Paris, xung đột ở các nông thôn lại nổ ra. Đầu năm 1975, Hà Nội mở một cuộc tấn công mới với mục tiêu hoàn thành việc chiếm lại miền Nam một năm sau đó. Nước Mỹ suy yếu vì mùa hè trước Nixon buộc phải từ chức và người kế nhiệm của ông, tổng thống Gerald Ford, không dám đưa quân Mỹ trở lại miền Nam Việt Nam. Trên đà thắng lợi, tháng 3-1975 quân đội Bắc Việt hành quân ra khỏi Tây Nguyên, tiến thẳng tới Sài Gòn trong khi các lực lượng khác đã chiếm được Đà Nẵng và toàn bộ phía Bắc trung bộ. Vào tuần cuối cùng của tháng Tư, lực lượng cộng sản gần như giành được chiến thắng khi các lực lượng kháng cự Sài Gòn suy sụp và những người Mỹ còn lại được trực thăng đưa đi từ nóc toà nhà đại sứ quán Mỹ tới hàng không mẫu hạm đậu ngoài khơi. Sau cuộc đấu tranh ác liệt kéo dài 15 năm khiến hơn một triệu người Việt Nam thiệt mạng, Tổng thống Gerald Ford tuyên bố “cuộc chiến đã chấm dứt”. Đồng thời trước đó hai tuần, lực lượng Khmer Đỏ đã nắm được chính quyền ở Phnom Penh và một chính phủ cách mạng lên nắm chính quyền ở Lào vào cuối năm.
Đầu tháng 7-1976, hai miền Việt Nam được thống nhất thành nước Cộng Hoà Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Lê Duẩn đã thực hiện lời hứa của mình hoàn thành một trong những ước nguyện của Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, khi thực hiện các điểm khác trong di chúc của Hồ Chí Minh, Lê Duẩn không tạo ấn tượng như vậy. Năm 1968, một chuyên gia của Liên Xô bí mật tới Hà Nội dạy Việt Nam kỹ thuật ướp xác. Tháng 3-1968, một đội chuyên gia Việt Nam sang Moscow tham khảo thêm ý kiến và báo cáo những tiến triển trong việc áp dụng kỹ thuật đó. Tuy nhiên, theo một nguồn tin, đây vẫn là một vẫn đề nhạy cảm trong giới lãnh đạo Đảng vì bản thân Hồ Chí Minh chắc sẽ phản đối rất mạnh bất cứ kế hoạch nào đi ngược lại ý nguyện được hỏa táng của ông. Vào thời điểm Hồ Chí Minh qua đời, Bộ Chính trị chưa có quyết định cuối cùng về cách thức giải quyết vẫn đề này. Sau khi tham khảo ý kiến khẩn cấp với Moscow, một chuyên gia khác của Liên Xô đến Hà Nội giữa tháng 9-1969 giúp chuyên gia y tế của Việt Nam giữ gìn thi hài của ông Hồ.[3]
Ngày 29 tháng 11 năm 1969, Bộ Chính trị chính thức thông qua kế hoạch khởi công xây dựng lăng để lưu giữ thi hài ông Hồ nhằm giáo dục thế hệ trẻ tương lai. Một uỷ ban gồm đại diện Bộ Xây dựng và Bộ Quốc phòng được chỉ định giám sát công trình với sự giúp đỡ của các cố vấn Liên Xô. Trong báo cáo cuối cùng gửi các nhà lãnh đạo Đảng, Uỷ ban này kết luận, lăng cần được thiết kế hiện đại nhưng phải thấm nhuần bản sắc dân tộc. Phù hợp với tính cách của Hồ Chí Minh, vẻ bề ngoài của lăng phải đơn giản, đặt ở địa điểm thuận tiện và dễ đi lại. Để đưa ra được khuyến nghị về thiết kế công trình, Uỷ ban đã nghiêm cứu một số cấu trúc lăng khác bao gồm cả Kim Tự Tháp Ai Cập, tượng đài kỷ niệm Victor Emmanuel ở Rome, đài kỷ niệm Lincoln ở Washington D.C. và lăng Lenin ở Moscow. Sau khi Bộ Chính trị đưa ra gợi ý bổ xung, mô hình cấu trúc lăng được trưng bày ở khắp cả nước để trưng cầu ý kiến của công chúng. Cuối cùng có hơn 30.000 gợi ý khác nhau được trình lên Uỷ ban.
Tháng 12-1971, Bộ Chính trị thông qua đề xuất cuối cùng và công việc xây dựng bắt đầu ngay sau khi Hiệp định Paris được ký kết. Địa điểm được chọn xây lăng là một trong những thánh địa của cách mạng Việt Nam - Quảng trường Ba Đình, gần Phủ Chủ tịch và nhà sàn Hồ Chí Minh. Vào ngày 29-8-1975, khi chính thức được mở công khai cho dân chúng, lăng Hồ Chí Minh gợi nhớ đến lăng Lenin ở Quảng Trường Đỏ. Các mặt của lăng được ốp đá cẩm thạch xám, hầu hết được khai thác ở núi đá cẩm thạch, một mỏ đá lộ thiên ở phía nam Đà Nẵng - nơi quân Việt cộng sống tại một hang đá trong núi có thể xem lính Mỹ bơi tại bãi biển nổi tiếng gọi là “bãi biển Trung Hoa”, đây cũng là một trong những khu nghỉ mát nổi tiếng nhất trong vùng. Lăng được thiết kế mô tả hình tượng bông sen vươn lên từ bùn đen với vẻ hiện đại, do đó tạo ra sự tương phản với một ngôi chùa Phật thế kỷ XI ở một khuôn viên gần đó. Tuy nhiên, nhiều quan sát viên cho rằng kiến trúc của lăng nặng nề chán ngắt hoàn toàn trái với tính cách hài hước và khiêm tốn của Hồ Chí Minh - người đang nằm trong lăng, hai tay bắt chéo và mặc bộ đại cán giản dị kiểu Tôn Trung Sơn. Như nhà sử học Huế, Tâm Hồ Tài, nhận xét, điều đó có tác dụng mô tả Hồ Chí Minh như một nhà lãnh đạo Cộng sản quốc tế chứ không tạo ra hình ảnh gần gũi hơn về Bác Hồ được các đồng bào của ông yêu mến - hơn 15.000 lượt người đến thăm lăng mỗi tuần.[4]
Khi thực hiện kế hoạch giữ gìn thi hài Hồ Chí Minh trong lăng, các nhà lãnh đạo Đảng rõ ràng đã không tổ chức lễ tang và lễ hoả táng đơn giản theo như yêu cầu của ông Hồ. Ông coi thường và luôn luôn tránh mọi cạm bẫy vật chất xa hoa dành cho lãnh tụ cao cấp. Năm 1959 thậm chí ông còn phản đối đề nghị xây một bảo tàng nhỏ tại làng Kim Liên khi mọi người biết ông là nhà cách mạnh nổi tiếng Nguyễn Ái Quốc, với lập luận, sử dụng số tiền hiếm hoi đó để xây trường học thì tốt hơn. Để tránh bị công chúng chỉ trích vì quyết định làm trái với di nguyện của ông Hồ, các nhà lãnh đạo Đảng đã lược bỏ một vài phần trong di chúc nói về việc thiêu xác. Bản di chúc công bố năm 1969 cũng không nói tới yêu cầu của ông Hồ miễn một năm thuế nông nghiệp cho nông dân và lời cảnh báo của ông đối với đồng bào rằng chiến tranh ở miền Nam còn có thể kéo dài một vài năm nữa. Đảng cũng tuyên bố, ông Hồ mất ngày 3 tháng 9, một ngày sau khi ông Hồ thực sự qua đời để khỏi ảnh hưởng đến không khí kỷ niệm ngày quốc khánh 2 tháng 9 năm 1945 khi Hồ Chí Minh đọc Tuyên Ngôn Độc Lập tại Quảng trường Ba Đình.[5]
Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV tháng 12-1976, các nhà lãnh đạo Đảng tuyên bố sẽ xây dựng “về cơ bản” chủ nghĩa xã hội trên toàn quốc vào thập niên này. Để biểu trưng cho giai đoạn mới của cuộc cách mạng, Đảng Lao động Việt Nam đổi tên thành Đảng cộng sản Việt Nam. Những người kế vị Hồ Chí Minh cố dùng hình ảnh của ông để giành sự ủng hộ của dân chúng cho chương trình đầy tham vọng của bản thân họ. Chân dung vị cố chủ tịch xuất hiện trên tem, tiền và tường của các toà nhà trên khắp cả nước trong khi sách giáo khoa, các cuốn sách nhỏ viết về cuộc đời, tư tưởng, đạo đức cách mạng của ông được in rất nhiều. Các nhà lãnh đạo Đảng như Trường Chinh, Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp kể lại chi tiết những kỷ niệm về ông Hồ và nhấn mạnh tư tưởng Hồ Chí Minh như một công cụ cốt yếu giúp xây dựng Việt Nam trong tương lai. Người ta khuyến khích thanh niên Việt Nam đi theo con đường Hồ Chí Minh, lấy đó làm định hướng cho hành động hằng ngày của mình và tên của ông được đặt cho các tổ chức thanh niên được thành lập trên khắp cả nước. Một số nước xã hội chủ nghĩa khác cũng sử dụng danh tiếng của ông phục vụ mục đích riêng của mình, lấy tên đặt cho trường học, nhà máy, đường phố, quảng trường, tổ chức các cuộc hội thảo học tập di chúc và những thành công trong sự nghiệp của ông.[6]
Giá trị thực sự của tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện trong bảo tàng Hồ Chí Minh. Bảo tàng này được hoàn thành vào mùa Thu năm 1990 nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông. Được xây ngay sau lăng gần Quảng Trường Ba Đình, kích thước của Bảo tàng gây ấn tượng mạnh nhưng không nặng nề như những công trình cạnh đó. Với các mặt được ốp đá cẩm thạch trắng, bảo tàng cũng được thiết kế giống hình bông sen, mặc dù đối với một số quan sát viên, cấu trúc bốn mặt với đường vào ở một góc gợi nhớ đến mũi của một con tàu.[7]
Cho dù Đảng rất cố gắng nêu bật tư tưởng Hồ Chí Minh như hiện thân của một nước Việt Nam mới, nhiều quan sát viên vẫn nhận ra những khác biệt lớn giữa phong cách của Lê Duẩn và phong cách của người tiền nhiệm nổi tiếng của ông. Trong khi ông Hồ kiên trì khuyến khích cần phải từng bước tiến hành cách mạng Việt Nam nhằm phát huy tối đa sự ủng hộ của quần chúng từ mọi thành phần xã hội, Lê Duẩn lại thường áp dụng sách lược tham vọng hơn, gây chia rẽ trong ban lãnh đạo Đảng và cô lập bộ phận dân chúng. Và trong khi ông Hồ luôn chú trọng thích đáng tới thực tế tình hình thế giới khi tìm cách thực hiện chiến lược của mình thì những người kế nhiệm của ông lại theo đuổi chính sách đối ngoại hung hăng, không chỉ gây thù địch với các nước láng giềng của Hà Nội ở Đông Nam Á mà còn khiến Trung Quốc - từng là đồng minh thân cận nhất và là nước ủng hộ mạnh mẽ nhất của Hà Nội - khó chịu. Những người phản đối chính sách của Lê Duẩn bị đưa ra khỏi ban lãnh đạo Đảng (một thí dụ nổi bật là Võ Nguyên Giáp) hoặc chọn giải pháp sống lưu vong ở nước ngoài (trường hợp Hoàng Văn Hoan).[8]
Kết quả đó là tấn thảm kịch đối với một đất nước vừa mới thoát khỏi chiến tranh. Khi chế độ này đột nhiên tuyên bố quốc hữu hoá ngành công nghiệp và thương mại tháng 3-1978, hàng ngàn người bỏ nước ra đi tìm nơi tỵ nạn ở nước ngoài. Chương trình tập thể hoá nông nghiệp khiến hầu hết nông dân miền Nam phản kháng. Những năm cuối cùng của thập niên 1970, nền kinh tế của Việt Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng đáng xấu hổ, bởi nỗ lực kém cỏi và thiếu khôn ngoan của những nhà hoạch định kế hoạch của Đảng định hoàn thành xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa trước khi thập niên kết thúc.
Khủng hoảng bên ngoài đã làm tình hình trong nước trầm trọng hơn. Khi lên nắm quyền, chế độ diệt chủng và cuồng tín Pol Pot ở Campuchia phản đối gợi ý của Việt Nam thành lập liên minh quân sự giữa ba nước Đông Dương. Tháng 12 năm 1978, Hà Nội xâm lược Campuchia và dựng lên một chế độ bù nhìn ở Phnom - Penh. Để trả đũa, các lực lượng Trung Quốc mở chiến dịch tràn qua biên giới Việt Nam. Mặc dù không kéo dài, chiến dịch đã buộc Cộng Hoà Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam tập trung những nguồn nhân tài vật lực quý báu cho sự nghiệp bảo vệ đất nước. Giữa thập niên 1980, thái độ bất bình của dân chúng đối với ban lãnh đạo Đảng đã lên tới mức báo động - vì ban lãnh đạo chỉ còn là một nhóm người không làm theo lời khuyên của Hồ Chí Minh là phải mang lại hạnh phúc cho nhân dân sau khi giành chiến thắng.
Mùa hè năm 1986, sau khi Lê Duẩn qua đời, các nhà lãnh đạo Đảng tuy muộn màng nhưng đã nhận ra sai lầm của mình (như một ai đó mô tả “say sưa chiến thắng”) và bước vào một con đường mới. Dưới sự lãnh đạo của vị Tổng Bí thư mới, một nhân vật hiếu chiến người miền Nam, ông Nguyễn Văn Linh, Bộ Chính trị thông qua kế hoạch khôi phục nền kinh tế trì trệ bằng việc áp dụng thị trường xã hội chủ nghĩa đồng thời mở cửa cho nước ngoài đầu tư, khuyến khích tự do tư tưởng của dân chúng. Được gọi là “đổi mới” chương trình mới này làm người ta nhớ lại chính sách cải tổ của Gorbachev ở Liên Xô, mặc dù những nguồn tin ở Hà Nội quả quyết, chiến lược này là của Việt Nam tìm ra.
Tuy nhiên, trước khi đến cuối thập niên, các lực lượng bảo thủ trong Đảng đã suy nghĩ lại. Mặc dù chương trình giúp kích thích tăng trưởng kinh tế Việt Nam, việc áp dụng ý tưởng của nước ngoài ngày càng dẫn đến (ít nhất theo những người có quan điểm bảo thủ) những tệ nạn như ma tuý, gái điếm, bệnh AIDS và chủ nghĩa hưởng lạc trong thanh niên Việt Nam cũng như làm tăng thái độ chỉ trích sự thống trị của Đảng trên tất cả các mặt trong vấn đề nội bộ. Được báo động bởi sự sụp đổ của hệ thống cộng sản ở Đông Âu và nỗi lo lắng ngày càng tăng trước tác động của văn hoá phương Tây làm suy yếu dần những thể chế xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Đảng bắt đầu thẳng tay đàn áp những nhân vật bất đồng chính kiến và những người mà các nhân vật bảo thủ coi là “cỏ độc của chủ nghĩa tư bản”. Dưới sự lãnh đạo của ông Đỗ Mười - người kế nhiệm Nguyễn Văn Linh, một đảng viên lão thành - Hà Nội cũng áp dụng chính sách hậu Thiên An Môn của Trung Quốc thẳng tay đàn áp những nhà hoạt động bất đồng chính kiến dưới khẩu hiệu “cải cách kinh tế, ổn định chính trị”. Trong khi tự do hoá kinh tế tiến triển với một nhịp độ khiêm tốn, Đảng khẳng định lại vai trò truyền thống của mình là một lực lượng chính trị duy nhất trên toàn quốc.[9]
Những người Việt Nam chủ trương cải cách nhanh chóng dùng di sản của Hồ Chí Minh để thúc đẩy sự nghiệp của chính họ. Khi nhắc đến ông Hồ như một người thực tiễn, họ cho ông có thể đã hiểu cần phải nâng cao mức sống cho nhân dân trước khi tiến lên con đường xây dựng xã hội chủ nghĩa. Khi nhắc tới hình ảnh ông như một người theo chủ nghĩa nhân văn với tinh thần vị tha cao cả trước những ý kiến đối lập, họ quả quyết ông có thể đã ngăn cản sự chia rẽ trong ban lãnh đạo Đảng và tiến hành mọi biện pháp nhằm giành được sự ủng hộ của nhân dân. Vào cuối những năm 1980, phe cải cách thắng thế khi người thư ký riêng cuối cùng của Hồ Chí Minh tiết lộ, Lê Duẩn và một số cộng sự đã chữa lại bản di chúc của ông Hồ bằng cách không thực hiện lời kêu gọi miễn thuế nông nghiệp và tổ chức một lễ tang đơn giản. Bộ Chính trị buộc phải thừa nhận lỗi lầm này, nhưng bào chữa cho hành động của mình rằng Bộ Chính Trị làm như vậy vì lợi ích cao cả của nhân dân Việt Nam và phù hợp với mục tiêu suốt đời của Hồ Chí Minh.[10]
Không chỉ người Việt Nam mà người nước ngoài cũng không biết nên hiểu thế nào về nhân cách đích thực và di sản mà Hồ Chí Minh để lại. Nhiều người xem ông là một vị thánh suốt đời cống hiến cho sự nghiệp giải phóng người dân bị áp bức khỏi ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc phương Tây, người làm cho chuyên chính cộng sản phát triển khắp thế giới (có lẽ đây là quan điểm tệ hại nhất) hoặc là nhân vật cơ hội chủ nghĩa vô nguyên tắc, người đã sử dụng danh tiếng đứng đắn và giản dị của mình để ca tụng bản thân. Khi UNESCO tài trợ cho một hội nghị tại Hà Nội năm 1990 kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông, những lời ca ngợi Hồ Chí Minh tại hội nghị bị bác lại bằng rất nhiều quan điểm chỉ trích của những người đến từ khắp nơi trên thế giới, những người phản đối sự sùng bái một con người mà họ cảm thấy phải chịu trách nhiệm đối với cái chết của quá nhiều đồng bào mình.
Đối với nhiều quan sát viên, trọng tâm của cuộc tranh luận về Hồ Chí Minh tập trung vào vấn đề nên xác định ông là nhà cộng sản hay là người dân tộc chủ nghĩa. Rất nhiều người bạn nước ngoài của ông khăng khăng cho rằng ông Hồ là người yêu nước hơn là nhà cách mạng theo chủ nghĩa Marx. Dường như ông Hồ khẳng định quan điểm này năm 1961 khi ông công khai tuyên bố, chính lòng mong muốn cứu vớt đồng bào ngay từ đầu đã đưa ông đến với chủ nghĩa Lenin. Nếu ông cũng nói như vậy trong một số dịp khác, có lẽ không có lời giải thích nào rõ ràng hơn lời giải thích mà ông nhận xét với một điệp viên của Mỹ Charles Fenn năm 1945 rằng ông xem chủ nghĩa cộng sản là phương tiện đạt được mục tiêu dân tộc chủ nghĩa. Khi được yêu cầu giải thích, ông nói:
“Trước hết, bạn phải hiểu, giành độc lập từ một cường quốc lớn như Pháp là một nhiệm vụ nặng nề không thể đạt được nếu không có sự giúp đỡ từ bên ngoài, không nhất thiết là trang thiết bị như súng đạn mà bằng các cuộc tiếp xúc và những lời khuyên. Trên thực tế, không thể giành được độc lập bằng ném bom hay làm những việc tương tự như vậy. Đó là sai lầm mà các cuộc cách mạng trước đó thường gặp phải. Phải giành độc lập bằng tổ chức, tuyên truyền, huấn luyện và kỷ luật. Cũng cần phải có niềm tin, nguyên tắc chỉ đạo, phân tích thực tiễn, có thể bạn phải vận dụng cả kinh thánh. Chủ nghĩa Marx - Lenin đã trao cho tôi những khuôn mẫu như vậy”.
Charles Fenn hỏi ông Hồ lý do tại sao ông không chọn chế độ dân chủ hay một hệ thống chính trị khác mà lại chọn một chế độ mà rõ ràng sẽ làm tổn thương thiện chí của Mỹ, đất nước mà ông nói ông rất ngưỡng mộ? Hồ Chí Minh trả lời chỉ khi ông đến Moscow ông mới nhận được viện trợ thực tế. Liên Xô là nước cường quốc duy nhất trong số các cường quốc thể hiện “bạn lúc khó khăn mới là bạn chân thành”. Lòng trung thành của Liên Xô đã giành được lòng trung thành của Hồ Chí Minh.[11]
Điều rõ ràng đối với Hồ Chí Minh sự sống còn của đất nước là trước tiên và luôn luôn là mối quan tâm lớn nhất của ông. Quả thực, điều đó khiến các nhà lãnh đạo Đảng cao cấp ở Hà Nội, Bắc Kinh và Moscow nghi ngờ không biết ông Hồ có phải là một nhà Marxist thực thụ hay không. Tuy nhiên, điều đó rõ ràng, không cần nói đến chuyện ông có phải là một nhà Marxist chân chính hay không, ông chính là một nhà yêu nước có trái tim của nhà cách mạng tận tâm. Khuynh hướng cách mạng trong quan điểm của ông rất có thể là kết quả của những điều ông chứng kiến trong khi làm việc trên tàu thuỷ trước Thế chiến I. Ông nhận thấy nỗi đau khổ của đồng bào ông cũng là nỗi đau khổ của các dân tộc Á, Phi sống dưới ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc. Điều đó càng được củng cố thêm trong thời gian ở Paris. Tại đó, ông nhận thấy thái độ giả dối của người Pháp không vận dụng những lý tưởng của mình vào các dân tộc thuộc địa. Hai năm ở Moscow trong những ngày đầu đầy sóng gió của cuộc thử nghiệm Xô viết dường như đã làm dấy lên lòng nhiệt thành ngây thơ mong muốn xây dựng một xã hội cộng sản trong tương lai. Trong thế giới hoàn toàn mới mẻ của ông Hồ, chủ nghĩa yêu nước bị thay thế bởi quan điểm của Lenin về một liên bang xã hội chủ nghĩa cộng sản toàn cầu trong tương lai.
Rõ ràng, những sự kiện sau này có tác động cảnh tỉnh thái độ của ông. Những vụ thanh trừng ở Moscow, gần như đe doạ tới sự an toàn của ông, chắc hẳn làm tổn hại tới niềm tin vào cuộc thử nghiệm của Liên Xô. Việc Moscow không tôn trọng cam kết tích cực ủng hộ sự nghiệp giải phóng dân tộc thuộc địa khiến ông nghi ngờ chủ nghĩa quốc tế vô sản trong một thế giới chính trị cường quyền. Tuy nhiên, không gì có thể làm lung lay niềm tin vào tính siêu việt của hệ thống xã hội chủ nghĩa. Cho tới cuối đời, ông vẫn theo quan điểm cho rằng mô hình tư bản chủ nghĩa đã gây đau khổ vô hạn cho hàng triệu người bị áp bức trên toàn châu Á, châu Phi và Mỹ La tinh.
Do đó, vấn đề không phải liệu ông là một nhà dân tộc chủ nghĩa hay một người cộng sản - bằng con đường riêng của chính mình, ông là cả hai. Nói đúng hơn đó là vấn đề sách lược của ông. Hồ Chí Minh, một người tin vào nghệ thuật nắm bắt thời cơ, điều chỉnh lý tưởng của mình tuỳ theo điều kiện của phong trào. Đối với nhiều người, ngay cả những người trong đảng mình, lối cư xử của ông có vẻ như không có nguyên tắc, nhưng theo ông có thể đạt được tiến bộ bằng những bước rất nhỏ. Đối với Hồ Chí Minh, theo một câu trích nổi tiếng của một nhà khoa học xã hội Anh Walter Bagehot, “chín quá hoá nẫu”. Ông Hồ có thái độ thực dụng trong chính sách đối ngoại. Thí dụ, ông thà chấp nhận những giải pháp thoả hiệp năm 1946 và 1954 chứ không tiến hành chiến tranh trong những điều kiện bất lợi. Ông còn có thái độ thực dụng trong những vấn đề nội bộ, luôn tin rằng cần từng bước tiến hành quá trình chuyển sang xã hội chủ nghĩa đồng thời với nỗ lực giành được sự ủng hộ rộng rãi của quần chúng.
Giống như tổng thống Mỹ Lyndon B. Johnson, Hồ Chí Minh cho rằng ông là một nhà giao tế lớn, một người lãnh đạo tận dụng mọi cơ hội để đạt được mục đích của mình không cần bằng sức mạnh mà bằng lý lẽ. Trong một số trường hợp, ông đã thành công. Một số trường hợp khác, sự sẵn lòng thoả hiệp của ông đã tước đi vũ khí của đối thủ và cho phép ông biến yếu điểm quân sự trở thành thế mạnh chính trị. Đồng thời, hình ảnh giản dị, tốt bụng, vị tha tạo ra sức quyến rũ mạnh mẽ, do vậy đóng góp ý nghĩa vào sự ủng hộ rộng rãi ở trong nước cũng như ngoài nước đối với cách mạng và cuộc đấu tranh giành độc lập. Khó có thể tưởng tượng được làn sóng ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam trong những năm 1960 trên toàn thế giới nếu như gương mặt ở Hà Nội lúc đó lại là Lê Duẩn hay Trường Chinh chứ không phải là Hồ Chí Minh.
Liệu hình ảnh Hồ Chí Minh có xác thực không? Có lẽ không dễ dàng trả lời cho câu hỏi này. Rõ ràng ông không thích sống xa hoa mà chỉ thích sống giản dị, khiêm tốn. Tuy nhiên, nhiều người hiểu rõ ông Hồ hơn nhận xét, điều đó có vẻ giả tạo bên ngoài, cách ông sống như một người khổ hạnh, một học giả Nho giáo trở thành một nhà cách mạng theo chủ nghĩa Marx. Trong thời gian sống ở Pháp sau Thế chiến II, ông nói với thư ký riêng của mình, ông Vũ Đình Huỳnh, đôi khi những giọt nước mắt giả dối cũng có ích để truyền đạt ý tới người nghe. Nhiều năm sau, đại diện của Ba Lan tại Uỷ ban giám sát và kiểm soát tại Hà Nội nhận xét, mặc dù công khai phản đối tệ sùng bái cá nhân, ông Hồ dường như vẫn thích được đồng bào khen mình. Cái tôi của ông rõ ràng đã nổi lên trong những năm 1940 và 1950 khi ông viết hai cuốn tự truyện tự khen mình dưới bút danh khác. Không chỉ những người khác nói về hình ảnh có tính chất thần thánh của Hồ Chí Minh mà bản thân ông còn khai thác điều này.
Dĩ nhiên có những lý do chính trị đáng để ông khuyến khích thái độ sùng bái cá nhân. Năm 1947, một nhà báo Mỹ hỏi, tại sao ông lại được ca tụng nhiều như vậy, ông trả lời, một phần người ta xem ông là biểu tượng của những ước nguyện của chính bản thân họ. Ông nói thêm, có lẽ lý do là ông yêu tất cả trẻ em Việt Nam như thể chúng là cháu ông và để đáp lại họ dành tình yêu đặc biệt cho “Bác Hồ”. Thời gian đầu của cuộc đời ông khi dân tộc và nền văn hoá dường như đứng trên bờ vực của sự diệt vong, ông đã chứng kiến sự sùng kính mà thanh niên Việt Nam dành cho những ông đồ nho quê mùa, những người dành trọn cuộc đời và những lời giáo huấn của họ theo đuổi nguyên tắc bất dịch của chủ nghĩa nhân văn Nho giáo. Trong suốt đời mình, ông Hồ dùng tính cách đó làm phương tiện cứu vớt nhân dân và phong trào nổi dậy của dân tộc.[12]
Không biết quyết định đó đem lại lợi ích chính trị gì nhưng đôi khi Hồ Chí Minh phải trả giá cho hình ảnh vị tha và thực dụng. Ông là một nhà hoà giải luôn tin vào sức mạnh của thuyết phục hơn là hăm doạ khi chỉ đạo Đảng cộng sản Đông Dương. Ngay từ đầu ông dựa vào sách lược lãnh đạo tập thể hơn là dựa vào sự thống trị của một cá nhân như cách của Lenin, Stalin hay Mao Trạch Đông. Trong thời gian những năm 1930 và 1940, sức mạnh thuyết phục, trên cơ sở uy tín và những gì ông đã trải nghiệm trong suốt một thời gian dài là đặc vụ Quốc tế Cộng sản, nhìn chung là thành công. Tuy nhiên, điều đó bắt đầu không có hiệu quả trong những năm 1950 khi các cộng sự cao cấp bắt đầu đặt câu hỏi về tính đúng đắn trong những khuyến nghị của ông và xác lập vai trò của họ khi vạch ra chiến lược. Cuối cùng, Hồ Chí Minh gần như bất lực. Những cộng sự chỉ hứa sẽ cân nhắc những ý kiến của ông, song những ý kiến đó ngày càng bị phản đối và bị xem là không thích hợp.
Phải chăng Hồ Chí Minh đã ngây thơ, tin vào châm ngôn của Tôn Tử cho rằng chiến thắng thành công nhất là chiến thắng không dùng bạo lực? Nhìn lại, có thể nói, ông có phần nhẹ dạ vì hy vọng sẽ thuyết phục được Pháp rút khỏi Việt Nam một cách hoà bình sau Thế chiến II. Sau đó một vài năm, Hồ lại tính toán sai khi ông lập luận, Mỹ có thể quyết định chấp nhận chính phủ do Đảng cộng sản thống trị ở Việt Nam nếu như chính phủ đó được thành lập không làm Mỹ bẽ mặt. Tuy nhiên, có bằng chứng cho rằng ông thường đánh giá tình hình quốc tế rất chính xác và nhận thấy cần phải có chính sách linh hoạt lường trước được tất cả các khả năng có thể sảy ra khác nhau. Mặc dù ông luôn cố đạt được mục tiêu của mình mà không dùng đến bạo lực, ông cũng sẵn sàng dùng tới lực lượng quân sự khi cần thiết. Những cộng sự của ông không thể làm những điều tương tự vì họ thiếu đi sự tinh tế và kiên nhẫn theo đuổi một giải pháp ngoại giao.
Người ta thường nói Mỹ mất đi cơ hội vàng, tránh được một cuộc xung đột trong tương lai ở Đông Dương khi Mỹ không đáp lại những cử chỉ thiện chí của Hồ Chí Minh cuối Thế chiến II. Xét cho cùng, là người thực dụng, ông Hồ chắc đã nhận ra sau chiến tranh, Việt Nam có thể giành được nhiều viện trợ hơn từ Washington chứ không phải từ Moscow. Ông cũng thú nhận mình là người ngưỡng mộ văn minh Mỹ, đã đưa những lý tưởng của Mỹ vào bản Tuyên ngôn Độc lập. Nhiều nhà chỉ trích quả quyết, sau khi xem xét lại tình hình Đông Dương trong bối cảnh Mỹ và Liên Xô cạnh tranh ngày càng quyết liệt về tư tưởng, chính quyền Truman đã chuẩn bị cho cuộc chiến tranh Việt Nam.
Mặc dù điều này có phần đúng, cũng có thể phần nào là vì người Mỹ chỉ có hiểu biết mang tính huyền thoại về Hồ Chí Minh. Trước hết, có chứng cứ cho thấy ông Hồ đã tính toán chứ không phải là vấn đề hệ tư tưởng khi ông bày tỏ sự ngưỡng mộ của mình đối với Mỹ. Ông Hồ ca ngợi văn minh Hoa Kỷ cũng giống như ông ca ngợi nhiều đồng minh của mình và những đối thủ tiềm tàng của ông, chủ yếu để giành được lợi thế chiến thuật. Mặc dù ông luôn nghĩ, có khả năng các nhà lãnh đạo Mỹ cuối cùng sẽ nhận ra sự can thiệp vào Đông Dương là vô ích. Ông luôn luôn tin những nhà lãnh đạo đó là đại diện cho hệ thống tư bản chủ nghĩa bóc lột ở mức độ nào đó có thể nguy hiểm cho các nước thành viên của khối xã hội chủ nghĩa. Ông không nghi ngờ về lòng trung thành của mình trước các cuộc đụng độ.[13]
Vấn đề nổi lên là liệu Hồ Chí Minh có được toàn quyền vạch ra chiến lược ở Hà Nội giống như Stalin thống trị chính trường ở Moscow hay không. Trên thực tế, rất nhiều đồng nghiệp của ông Hồ không có chung niềm tin với ông về khả năng không dùng vũ lực để giải phóng dân tộc và có thể phản đối những điều mà họ cho là thoả hiệp vô nguyên tắc với kẻ thù giai cấp. Giống như các tổng thống Mỹ phải cân nhắc những vấn đề nội bộ khi họ đề ra những mục tiêu chính sách đối ngoại. Hồ Chí Minh cũng gặp mặt phát biểu với các cử tri nơi ông ứng cử, nhưng sự khó khăn chủ yếu là với những cộng sự luôn luôn sốt ruột trong Bộ Chính trị - rất nhiều người trong số họ như Trường Chinh và Lê Duẩn không thể chia sẻ thái độ cả tin vào sức mạnh của lý lẽ.
Có những lý do xác thực cho thấy cử chỉ hoà giải của Nhà Trắng năm 1945 và năm 1946 đủ để đưa Hồ Chí Minh và các cộng sự của mình theo con đường tư bản chủ nghĩa. Rõ ràng việc Mỹ công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hoà rất được Hà Nội hoan nghênh song điều đó chưa đủ làm cho Đảng cộng sản Đông Dương từ bỏ miền tin vào Moscow và từ bỏ học thuyết Marx - Lenin. Rất giỏi trong việc cân bằng quan hệ giữa Moscow và Bắc Kinh, ông Hồ và các cộng sự chắc đã phải cố lèo lái trong quan hệ với Washington nhằm đạt được mục tiêu của mình. Như chúng ta đã biết, một số mục tiêu này có liên quan tới các nước khác. Cuối cuộc chiến tranh Thái Bình Dương, Đông Nam Á đã trải qua một giai đoạn bất ổn chính trị và xã hội tương đối lớn. Nhiều người vẫn còn nghi ngờ về khả năng các nhà hoạch định chính sách của Mỹ có sẵn sàng ngồi đàm phán hay không trong khi Hà Nội tìm cách thúc đẩy phong trào cách mạng đang còn trong thời kỳ trứng nước ở các nước láng giềng Lào và Campuchia.
Tuy nhiên, việc các nhà hoạch định chính sách ở Paris và Washington không nắm lấy bàn tay hữu nghị mà Hồ Chí Minh chìa ra cho họ sau Thế chiến II đã đem lại hậu quả xấu cho nhân dân Việt Nam và toàn thế giới. Tuy có mạo hiểm khi trao quy chế chính đáng cho một chính phủ mới ở Hà Nội, rõ ràng chính phủ này còn tốt hơn sự lựa chọn khác. Nếu vấn đề đạo đức và chính trị trong những nguyên tắc tư tưởng của Hồ Chí Minh ưu việt hơn so với những nguyên tắc của những đối thủ của ông là một vấn đề cần phải tranh luận, rất khó có thể bác bỏ luận điểm cho rằng trong điều kiện lúc đó các nhà lãnh đạo Việt Minh là lực lượng được chuẩn bị tốt nhất để đối phó với rất nhiều vấn đề có tác động đến các đồng bào của họ. Khả năng duy trì sự ủng hộ rộng rãi của quần chúng đối với Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, ít nhất là ở miền Bắc, phụ thuộc và khả năng duy trì thái độ trung thành của một thế hệ đấu tranh chống lại những âm mưu của Pháp và sau này là của Mỹ.
Ngày nay, đã hơn ba thập niên sau khi ông qua đời, tệ sùng bái cá nhân Hồ Chí Minh vẫn tồn tại ở Hà Nội. Tệ sùng bái này chủ yếu làm chỗ dựa cho một chế độ tuyệt vọng tìm cách duy trì tính chính đáng của mình khi tình hình đã thay đổi theo thời gian. Đối với nhiều người Việt Nam (đặc biệt ở miền Bắc sự sùng kính ông Hồ vẫn rất mạnh mẽ), hình ảnh ông vẫn còn đậm nét. Hình ảnh của ông mờ nhạt hơn ở miền Nam và ở chính nơi đây chính phủ trung ương thường bị mất lòng tin, những người đại diện của Hà nội bị coi là những kẻ đầu cơ chính trị. Tuy nhiên, những ước vọng suốt đời không dứt của ông Hồ về một đảng với nền tảng là sự trong sáng chính trị, quan tâm đến người dân ngày nay không còn nguyên vẹn nữa. Trong những năm gần đây, hầu như chẳng ai làm gì để giải quyết nạn tham nhũng đang đe doạ nhấn chìm cuộc cách mạng trong sự giận giữ và bất bình đang dâng cao của nhân dân.
Rất khó duy trì sự sùng bái ông Hồ trong tương lai. Có những dấu hiệu rõ ràng cho thấy cho dù hầu hết thanh niên Việt Nam tôn kính Hồ Chí Minh vì những đóng góp của ông cho sự nghiệp giành độc lập và thống nhất đất nước, nhiều người không còn coi ông là nhân vật trung tâm trong đời sống của họ. Gần đây, một thanh niên Việt Nam nói với tôi “Chúng tôi kính trọng ông Hồ, nhưng chúng tôi không quan tâm đến chính trị”. Đối với thế hệ trẻ lớn lên trước thềm thiên niên kỷ tới, ảnh hưởng của Hồ Chí Minh cũng chỉ như ảnh hưởng của Abraham Lincon đối với người dân Mỹ bình thường.
Ngay cả trong số những người thấy được giá trị của sự sùng bái ông Hồ, nhiều người xem đó như một thứ thuốc phiện đối với nhân dân. Như một trí thức Việt Nam nhận xét: Tất cả những người sống trong thời kỳ chiến tranh phải có những điều bí ẩn riêng của họ. Ngày nay, nhiều người cảm thấy quan điểm chính thức coi Hồ Chí Minh như một mẫu mực hoàn hảo về đạo đức cách mạng cần phải được thay thế bằng một hình ảnh thực tế hơn, mô tả ông như một con người có thể có sai lầm. Trong những năm gần đây, có những lời đồn đại không được kiểm chứng về những đám cưới trong quá khứ và những vụ tình ái - và thậm chí những người con hoang - đã được lưu truyền rộng rãi bất chấp những lời chối bỏ mạnh mẽ về tính xác thực của nó từ các nguồn tin chính thức. Tháng 4-2001, Nông Đức Mạnh được bầu làm tổng bí thư Đảng, người ta xì xầm bàn tán nói rằng ông Mạnh là con hoang của ông Hồ.[14]
Tương tự như vậy trên chính trường thế giới, hình ảnh của ông Hồ là một nhân vật có ảnh hưởng sâu rộng trong thế kỷ XX không còn sức quyến rũ như cách đây một thế hệ, mặc dù sự hiện diện bức chân dung của ông trong một cửa hàng người di cư Việt Nam ở California đã đủ gây ra sự tức giận cho những người Mỹ gốc Việt. Cách đây một thế hệ, các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc nổ ra trên khắp Thế giới thứ ba lúc đó nước Mỹ dường như là một nền văn minh đang suy tàn. Trong điều kiện như vậy, ông Hồ có vẻ như là tiếng nói của tương lai. Với việc chủ nghĩa cộng sản mất uy tín và chủ nghĩa tư bản đang lên trước thềm thiên niên kỷ mới, sự kết hợp đặc biệt của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa xã hội của ông Hồ có vẻ như là điều kỳ quặc, giống như Cách mạng Văn Hoá của Mao Trạch Đông hoặc những ý tưởng tinh thần của Mahatma Gandhi. Ngày nay, Hồ Chí Minh thường được xem như là một nhà chiến thuật cách mạng thông minh của cuộc cách mạng và chỉ vậy thôi. Những bài viết của ông có vẻ như tẻ nhạt, phong cách tầm thường và không có nội dung tư tưởng. Tầm nhìn của ông về cách mạng thế giới xa rời thời gian không khác gì Marx nhìn người vô sản giận dữ đập cửa của những người áp bức tư bản.
Tuy nhiên, thái độ như vậy không đánh giá đúng tầm quan trọng của Hồ Chí Minh đối với thời đại của chúng ta. Nếu như tầm nhìn tương lai của ông về một xã hội cộng sản thế giới trong tương lai không hoàn mỹ (ít nhất giống như ngày nay người ta nhìn nhận) thì người ta cũng không phủ nhận rằng sự nghiệp mà ông thúc đẩy và chỉ đạo tạo ra những thời khắc có một không hai trong thế kỷ XX, là đỉnh cao của kỷ nguyên giải phóng dân tộc ở Thế giới thứ ba và sự thừa nhận rõ ràng đầu tiên về hạn chế của chính sách ngăn chặn cộng sản của Mỹ. Sau Việt Nam, thế giới không bao giờ như cũ nữa.
Khó tưởng tượng ra một cuộc cách mạng Việt Nam không có sự tham gia tích cực của Hồ Chí Minh. Mặc dù xu hướng lịch sử hiện tại nhấn mạnh tầm quan trọng của những lực lượng xã hội lớn trong việc tạo ra những sự kiện lớn của thời đại chúng ta, điều rõ ràng là trong nhiều trường hợp như trong cuộc cách mạng Bolsevich và cuộc nội chiến của Trung Quốc, vai trò cá nhân đôi khi rất lớn. Điều đó cũng đúng với Việt Nam. Ông Hồ không chỉ là người sáng lập Đảng và sau này là Chủ tịch nước, mà còn là một nhà chiến lược chủ chốt và là một biểu tượng giành được nhiều thiện cảm nhất. Một nhà tổ chức tài năng cũng như là một nhà chiến lược tinh tế và một nhà lãnh đạo lôi cuốn, Hồ Chí Minh là một nửa Lenin và một nửa Mahatma Gandhi, có lẽ thêm chút hơi hướng Khổng Tử. Đó là một sự kết hợp sống động. Cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của Việt Nam là một sự thực không thể phủ nhận làm thay đổi số phận của mỗi cá nhân, nếu không có ông thì có thể nó đã trở thành một vấn đề hoàn toàn khác và một kết cục hoàn toàn khác.
Đối với nhiều quan sát viên, bi kịch của cuộc đời Hồ Chí Minh là một tài năng kỳ lạ về nghệ thuật lãnh đạo mà đáng lẽ ra phải được sử dụng để hoàn thiện hệ tư tưởng chưa hoàn hảo và trên thực tế, hệ tư tưởng đó bị chối bỏ bởi nhiều người trước đây đã chân thành theo đuổi trên toàn thế giới, mặc dù vẫn chưa được từ bỏ trên đất nước của ông. Một câu hỏi chưa có trả lời, liệu trong hoàn cảnh khác, chàng thanh niên Nguyễn Tất Thành có quyết định theo đuổi lý tưởng và tập quán của nền văn minh phương Tây đương đại hay không. Giống như nhiều nhà lãnh đạo châu Á trong những ngày đó, những gì ông đã trải nghiệm khi sống ở các nước tư bản chủ nghĩa không phải là những điều dễ chịu và những tội ác gây ra bởi chủ nghĩa thực dân của phương Tây mà ông nhận thấy trong những năm đầu của cuộc đời mình đã làm tổn thương tới sự nhạy cảm của ông. Tuy nhiên, rất nhiều niềm tin triết lý của ông dường như đúng với các lý tưởng của phương Tây hơn là với Karl Marx và Lenin. Mặc dù ông tìm cách xây dựng hình ảnh của bản thân mình trước các cộng sự của ông như một nhà Marxist chính thống, dường như rõ ràng ông không thích những vấn đề mang tính học thuyết giáo điều và thường cố làm mềm những giáo lý khô khan của cộng sản khi áp dụng vào Việt Nam. Tuy nhiên, là người thành lập Đảng và Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về những hậu quả đối với những hành động của mình, dù tốt hay xấu xuất phát từ điều kiện Việt Nam hiện nay, ngay cả nhiều người nhiệt tình bảo vệ ông cũng phải thừa nhận, di sản của ông là tốt xấu lẫn lộn.
Tại sao Hồ Chí Minh nhận thức được những khía cạnh nhân văn của Khổng Tử và truyền thống phương Tây, lại tiếp tục ôm chặt chủ nghĩa Marx - Lenin thậm chí sau khi nó không đủ sức bảo vệ những giá trị hiển nhiên đó? Một số nhà phê bình đoan chắc, chủ nghĩa nhân đạo của Hồ (nếu có) chỉ đơn thuần để đánh lừa những người cả tin. Nhưng có lẽ, cách giải thích thuyết phục hơn, ông tin rằng ông có thể tránh được cạm bẫy của chủ nghĩa Stalin và kết hợp những mặt tích cực chủ nghĩa Marx cổ điển và những giá trị nhân văn ở nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa tương lai. Giờ đây rõ ràng là chủ nghĩa xã hội Việt Nam đối tượng của nhiều thói hư tật xấu giống như Liên Xô láng giềng, một bản sao, Hồ có lẽ không nhìn rõ, hoặc không đủ dũng khí chính trị để phát biểu mạnh mẽ chống lại.
Hồ Chí Minh là “người tạo ra sự kiện” (trong một đoạn trích đáng nhớ của Sidney Hook's, triết gia Mỹ), một “đứa con của khủng hoảng” hiện thân hai sức mạnh trung tâm trong lịch sử của Việt Nam hiện đại: Mong muốn độc lập dân tộc và tìm kiếm công lý xã hội và kinh tế. Do hai sức mạnh này vượt qua biên giới nước mình, ông Hồ có khả năng chuyển tải thông điệp cho các dân tộc thuộc địa trên toàn thế giới và lên tiếng đòi giá trị của chân lý và tự do thoát khỏi sự áp bức của chủ nghĩa đế quốc. Cho dù người dân của ông có đánh giá cuối cùng về di sản của ông như thế nào chăng nữa, ông cũng đã nằm trong đền thờ các vị anh hùng cách mạng dành cho người đấu tranh vĩ đại đem lại cho những người thống khổ tiếng nói chân chính.[15]

Chú thích
[1] Trích dẫn từ Ấn Độ có trong “Hồ Chí Minh” (NXB Uỷ ban Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1989), trang 82. Xã luận của Uruguay trên tạp chí “Nhân Dân (Montevideo) ngày 4-9-1969. Cả hai trích trong” Thế giới ngưỡng mộ và thương tiếc Chủ tịch Hồ Chí Minh” (NXB Sự thật, 1976). Phản ứng của Liên Xô trích trong Kobelev, “Hồ Chí Minh”, trang 236.
[2] Điếu văn của Lê Duẩn trong “Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh” (NXB Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, 1989), trang 57-64.
[3] Xem “Giữ yên giấc ngủ của Người” (NXB Quân đội Nhân dân, 1990), trang 36-39, 92-93. Theo báo cáo của nhà báo Úc Malcolm Salmon, tin Hồ Chí Minh qua đời đến Moscow rất nhanh, giới lãnh đạo Xô viết đề nghị Hà Nội có hành động tức thời để bảo quản thi hài ông. Vì Bộ chính trị vẫn chưa quyết định có xây lăng hay không, chuyên gia Liên Xô bay đến Hà Nội để thực hiện bảo quản thi hài trước khi Bộ Chính trị có quyết định xây lăng. Trong khi đó, thi hài ông được ướp đá. Xem Malcolm Salmon, “Hồi ức về Hồ Chí Minh”, “Việt Nam Ngày nay”, tháng 4-1980, trang 3.
[4] Về việc xây lăng, xem “Giữ yên giấc ngủ của Người”, trang 95-122. Về ý kiến của Hồ Tài Huệ Tâm, trong tài liệu của bà “Sự nhập nhằng hoành tráng: Sự tưởng niệm cấp Nhà nước đối với Hồ Chí Minh”, trong K. W. Taylor và John K.Whitmore, eds., “Tiểu luận về quá khứ Việt Nam” (Ithaca, N.Y.: Chương trình Đông Nam Á Đại học Cornell, 1995), trang 281.
[5] Bản fax của bản gốc tiếng Việt và bản dịch sang tiếng Pháp của Di chúc Hồ Chí Minh có trong “Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh”. Xem thêm Bùi Xuân Quang, “Công bố Di chúc của Hồ Chí Minh: Những điều dối trá”, “Những bình luận Việt Nam” (tháng 3 và 4-1990), trang 4-6. Giáo sư Quang, trích dẫn một bài báo của Hoàng Văn Hoan buộc tội Lê Duẩn thậm chí không thông báo cho các đồng chí của ông trong Bộ chính trị tình hình sớm hơn, sửa chữa Di chúc của Hồ và trình với họ chỉ một bản đánh máy mà Lê Duẩn chứng kiến và ký.
[6] Xem “Chủ tịch Hồ Chí Minh chúng ta” (NXB Ngoại văn, Hà Nội, 1970), trang 188-95. Về một thí dụ quyết định để tư tưởng Hồ Chí Minh sống mãi, xem “Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh”, tập 2 (NXB Viện Hồ Chí Minh, 1993).
[7] Về sự mô tả ngắn, xem “Bảo tàng Hồ Chí Minh”, “Tin tức Việt Nam” (tháng 5-1986), trang 6. Trong chuyến thăm Hà Nội ngắn ngày trước khi khánh thành Bảo tàng Hồ Chí Minh, tôi may mắn nói chuyện với một số thợ thủ công Tiệp đang làm công việc trưng bày trong Bảo tàng. Họ nói với tôi rằng mặc dù ý định chính thức là thể hiện những tồi tệ của xã hội tư bản thế kỷ XX, nhưng trong công việc của mình họ lén lút tìm cách trưng bày những ấn tượng tốt hơn của thời đại. Về ý kiến, xem Hồ Tài Huệ Tâm, “Sự nhập nhằng hoành tráng: Sự tưởng niệm cấp Nhà nước đối với Hồ Chí Minh”, trang 283.
[8] Võ Nguyên Giáp bị rớt khỏi Bộ chính trị tại Đại hội Đảng V, năm 1982. Sau này ông sang phụ trách khối khoa học kỹ thuật.
[9] Sự “thoả thuận ma quỷ” này rõ ràng được khẳng định trong hiến pháp mới thông qua năm 1991. Xem “Hiến pháp Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam” (NXB Ngoại văn, 1992).
[10] “Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh”, trang 5-10; bài báo của Hoàng Văn Hoan trên “Tạp chí Bắc Kinh”, ngày 14-4-1981, và Vũ Kỳ, “Bác Hồ viết di chúc” (NXB Sự thật, Hà Nội 1989).
[11] Charles Fenn, “Chạy thử đến ngày tận số”, trang 238-39 (bản thảo do Charles Fenn cung cấp).
[12] Trích “Journal I'Union Française”, ngày 20-5-1947, trong hồ sơ nhãn “Hồ Chí Minh 1947-1948”, SPCE, hộp 370, CAOM. Xem thêm Vincent Hugeux, “Phỏng vấn Vũ Thư Hiên”, “Tạp chí Chính trị Quốc tế”, số 77 (Mùa thu 1997), trang 272, và Mieczyslaw Maneli, “Chiến tranh hạn chế” (New York: Harper & Row, 1971), trang 153.
[13] Trong một chuyến đi gần đây tới Hà Nội, tôi khám phá rằng một số học giả Việt Nam đã trở thành nạn nhân cho huyền thoại của Hồ đặc biệt gắn với Mỹ. Khi một số người hỏi tôi tại sao Tổng thống Roosevelt và Truman không trả lời những bức thư của Hồ Chí Minh yêu cầu công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, tôi nhắc nhở họ rằng Joseph Stalin cũng không trả lời đề nghị của Hồ. Điều quan trọng là nhiều bài viết của Hồ Chí Minh chỉ trích khía cạnh khác nhau của xã hội Mỹ, được viết tất nhiên dưới bút danh, chưa bao giờ được dịch sang tiếng Anh.
[14] Nông Đức Mạnh đã phủ nhận những tin đồn này, nhưng ông thừa nhận mẹ ông, dân tộc Tày, là người phục vụ Hồ khi ông trở về Việt Nam đầu thập niên 1940. Ngẫu nhiên, là Chủ tịch Quốc hội, Nông Đức Mạnh kiếm được danh tiếng là trung hoà thuyết phục các đồng chí của ông chấp nhận thoả hiệp. Điều này, tất nhiên, là một trong những tính cách nổi tiếng của Hồ Chí Minh. Về nhận xét về sự cần thiết của huyền hoại, xem Olivier Todd, “Huyền thoại Hồ Chí Minh: Độ cao của thông tin sai”, “Bình luận Việt Nam” số tháng 5 và 6-1990), trang 13-14.
[15] Về ý tưởng của Sidney Hook trong vấn đề này, xem Sidney Hook, “Người anh hùng trong lịch sử” (NXB Beacon, Boston, 1943).

Truyện Hồ Chí Minh- Chân Dung Một Cuộc Đời LỜI NÓI ĐẦU DANH SÁCH MỞ ĐẦU CHƯƠNG I CHƯƠNG I (tt) CHƯƠNG II CHƯƠNG II (B) CHƯƠNG II (C) CHƯƠNG III CHƯƠNG IV CHƯƠNG V CHƯƠNG VI CHƯƠNG VII CHƯƠNG VIII CHƯƠNG IX CHƯƠNG IX (tt) CHƯƠNG X CHƯƠNG XI vị 559 (theo ngày thành lập đơn vị, tháng 5-1959) được chỉ thị xây dựng hệ thống đường mòn để đưa quân đội, vũ khí và tiếp liệu từ Bắc vào Nam. Những đường mòn - từng được khai phá trước đây xuyên qua rừng rậm trong kháng chiến chống Pháp - sau này nổi tiếng trên thế giới với cái tên Đường Mòn Hồ Chí Minh -. Nhóm thứ hai, mang tên Đơn vị 759, được lệnh vận chuyển hàng và người bằng tầu thuỷ trong chuyến đi dài ngày nhưng không được bảo vệ dọc biển Đông. Việc vận tải do Bộ đội Trường Sơn đảm nhận. Thoạt đầu họ gùi hàng hoặc bằng xe đạp thồ, về sau tuyến đường mòn được mở rộng, xe tải chạy được. Đây là công việc khá khó khăn. Nhưng một người nói “Càng đi sâu về phía Nam, tình hình càng tồi tệ. Cuối cùng chúng tôi chỉ giữ được vài cân gạo, để tự cứu mình những lúc khẩn cấp nhất. Suốt hai tháng trời, chúng tôi ăn những gì có thể kiếm được trong rừng - lá cây, các loại củ rừng, thú vật và chim rừng”.
Theo ghi chép của một người khác:
Ban đầu chúng tôi đi bộ tám giờ một ngày. Rừng núi mỗi ngày một hiểm trở, càng ngày đi càng chậm. Tuy mệt mỏi, nhưng chỉ khi nào giao liên và trưởng đoàn cho nghỉ mới được nghỉ. Những trạm tiếp đón thường là chỗ vắng vẻ và an toàn. Nhưng những trạm giao liên này không giống chỗ dừng chân nào đó ở thị xã hay thành phố. Chẳng có chỗ trú mưa, cũng chẳng có giường. Chúng tôi mắc võng, ngủ trên cây..
Trạm giao liên do những người đi trước lập ra. Tuy họ có chuẩn bị thực phẩm và nước nhưng thường xuyên thiếu thốn. Vì thế mọi người tự học cách tiết kiệm. Càng đi xa càng đói. Khi thức ăn trở nên khan hiếm, tình đồng chí cũng bị mòn theo. Ai cũng chỉ lo mạng sống của mình.[4]
Tin tức những quyết định đưa ra tại Hội nghị toàn thể lần thứ XV tháng 1-1959 và được khẳng định qua Nghị Quyết XV tháng 5-1959 chỉ tới tay những đồng chí ở miền Nam từ cuối tháng 6-1959. Nhiều người phấn khởi đón nhận, vì chế độ Diệm bắt đầu tăng cường nỗ lực đàn áp phong trào cách mạng bằng một loạt những chỉ thị mới được gọi là Luật 10-59, cho phép lực lượng an ninh Sài Gòn thêm quyền bắt bớ và trừng phạt những người đối lập. Trong thời gian còn lại của năm, các toà án lưu động đi khắp miền Nam, buộc tội, kết án và thỉnh thoảng xử tử những người tình nghi có quan hệ chính trị với Hà Nội. Vì những gia đình nông dân ở vùng đông dân đồng bằng Cửu Long bây giờ bị dồn vào ấp chiến lược và phòng vệ mạnh mẽ, nên du kích khó tiếp cận được dân chúng.
Bị dồn vào chỗ tuyệt vọng, những người lãnh đạo nổi dậy tìm mọi cách phản ứng lại. Cuối tháng Tám, đám đông dân làng ở những khu vực nghèo đói thuộc tỉnh Quảng Ngãi tập họp phản đối cuộc bầu cử sắp diễn ra Quốc Hội Việt Nam Cộng hoà. Những người biểu tình, được lực lượng Việt Cộng hoạt động trong vùng hỗ trợ, đã tạm thời chiếm 16 thôn ở huyện Trà Bồng, một vùng núi ở sườn đông Tây Nguyên, lập ra một vùng giải phóng gồm 50 làng với dân số hơn một ngàn người.
Năm tháng sau, cuộc khởi nghĩa thứ hai nổ ra, lần này ở Kiến Hoà (Việt Cộng gọi là tỉnh Bến Tre) nằm giữa đồng bằng Cửu Long. Dân chúng địa phương có cảm tình với cách mạng từ kháng chiến, khi đó Việt Cộng chiếm những trang trại của những địa chủ thân Pháp và chia cho dân nghèo. Sau Hiệp định Geneva, bọn địa chủ quay lại, dưới họng súng quân đội chính phủ lấy lại đất của họ, sau đó thỉnh thoảng có những cuộc trả thù hung bạo (kẻ cả bắt và tống giam) chống lại người chiếm đất trước đây. Tháng 1-1960, lực lượng du kích địa phương do Việt Cộng chỉ huy bất ngờ tấn công đồn bốt quân đội chính phủ và với sự giúp đỡ của dân địa phương chiếm hơn một chục ấp. Các cán bộ đảng vạch kế hoạch, vũ trang cho những người cảm tình bằng giáo mác hoặc gậy tầm vông chiến đấu làm kẻ thù sợ hãi và điều những đơn vị đóng giả binh sĩ Sài Gòn tới các ấp khác nhau chiếm cơ quan hành chính. Một người miêu tả sự việc này:
Khoảng sau 9 giờ tối, tôi vừa về đến trụ sở thì nghe tiếng trống và đám đông đi từ làng này sang làng khác, bao vây khắp nơi, theo sau tiếng hò reo ầm ĩ của nhân dân… Càng về đêm tiếng trống, tiếng mõ càng thôi thúc kêu gọi tất cả mọi người vùng lên. Đó là tín hiệu của nhân dân để cuộc chiến đấu được chuyển đi mọi nơi… Bất thình lình, có tiếng kêu to: “Bốt cháy rồi. Cháy nhanh quá”.
Các lực lượng vây đồn được lệnh đốt tất cả các đồn bốt họ chiếm được. Nhân dân xé cờ ba sọc, đốt biển số nhà và sổ đăng ký. Trên đường, dân làng chặt cây dựng chướng ngại vật chặn đường kẻ thù… Tại tất cả các bốt đang bị bao vây. Nhân dân kêu gọi binh lính bằng loa điện cầm tay. Đây là một đêm sấm sét kinh hãi và tấn công sấm sét của Việt Cộng trên đầu họ. Bị tấn công bất ngờ, binh sĩ sợ hãi, ẩn nấp trong bốt.[5]
Nhịp độ cuộc kháng chiến vũ trang ở Nam Việt Nam tăng lên gây ra những vấn đề cho các lãnh đạo Đảng ở Hà Nội, đang lo lắng đến sự rạn nứt khi xung đột mở rộng. Để trấn an Liên Xô và Trung Quốc, trong bài phát biểu tháng 4-1959, Lê Duẩn tuyên bố, điều quan trọng là phải hạn chế bạo lực cách mạng ở Nam Việt Nam. Lê Duẩn thừa nhận, tầm quan trọng giữ gìn hoà bình trên thế giới và tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã tạo ra “những phức tạp” đối với cách mạng ở Nam Việt Nam, nhưng về lâu dài những nhân tố này sẽ có lợi cho sự nghiệp thống nhất đất nước.[6]
Trong khi đó, Hồ Chí Minh thể hiện là nhà ngoại giao xuất sắc, cố gắng tranh thủ sự đồng minh của Hà Nội trong nỗ lực thống nhất đất nước. Đây là thời gian căng thẳng ngày càng gia tăng giữa Trung Quốc và Liên Xô về chiến lược toàn cầu. Giận dữ với thái độ không hợp tác của Bắc Kinh, Moscow chính thức từ chối yêu cầu của Trung Quốc về mẫu bom nguyên tử, như đã hứa trong hiệp định tương hỗ ký vài năm trước đây. Sau này, Bắc Việt Nam đã nhận ra cách làm thế nào sử dụng đồng minh này chống đồng minh kia một cách hiệu quả, thay cho trước đây họ chỉ biết cầu xin hai đồng minh giữ tình đoàn kết anh em. Đầu tháng 7-1959, Hồ Chí Minh tới Moscow hội đàm với giới lãnh đạo Xô viết. Trước khi rời Hà Nội ông cảnh báo Bộ Chính trị, cuộc đấu tranh ở miền Nam sẽ khốc liệt và rất phức tạp. Ông khuyên không nên phiêu lưu một cách mù quáng.[7]
Đây không phải là thời điểm tốt đẹp để thảo luận về việc tiếp tục đấu tranh cách mạng ở Nam Việt Nam. Nikita Khrushchev đang sửa soạn chuyến đi Mỹ vào tháng 9-1959, không muốn làm mất mặt Mỹ. Liên Xô cam kết viện kinh tế cho Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nhưng về vấn đề thống nhất đất nước, Liên Xô nhấn mạnh, cần phải thực hiện hoà bình trong những điều khoản Hiệp định của Geneva.
Sau cuộc hội đàm với giới lãnh đạo Xô viết, Hồ lưu lại thêm một thời gian ngắn ở Moscow chữa bệnh (nghe nói sức khoẻ ông tốt hơn so với những năm trước), đi thăm một số nước cộng hoà thuộc Liên Xô, qua Ukraine, Crum và Kavkaz. Cuối tháng 7-1959 ông đi tàu hoả qua Trung Á tới Alma-Ata, thủ đô Cộng Hoà Xô viết Kazakhstan. Ngày 1-8-1959, từ đó ông bay tới Urumqi, thủ phủ Tân Cương, Trung Quốc.
Hồ phải lưu trú lâu ở Liên Xô vì Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc đang triệu tập cuộc hội nghị kiểm điểm, do vậy không thể gặp Hồ. Hội nghị họp ở Lư Sơn, một khu nghỉ mát ở nam Trung Hoa, nhằm mục tiêu giải quyết mâu thuẫn phát sinh trong nội bộ lãnh đạo về chính sách Đại Nhảy Vọt. Phát động một năm trước đây với mục tiêu tăng sản lượng nông nghiệp, đẩy mạnh xã hội chủ nghĩa ở nông thôn, chiến dịch Đại Nhảy Vọt bị sự chống đối của nông dân và gây nạn đói lớn ở nông thôn. Tại Hội nghị Lư Sơn, Bộ trưởng Quốc phòng Bành Đức Hoài, Tư lệnh Quân Đội Giải Phóng Quân Nhân Dân tại chiến tranh Triều Tiên, do bất bình với Mao Trạch Đông đã phê bình chiến dịch Đại Nhẩy Vọt gây thảm hoạ cho nền kinh tế Trung Quốc. Ông cũng lên tiếng bảo vệ mối quan hệ quân sự Trung - Xô để chống lại những người muốn thay thế nó bằng với chính sách tự lực. Do sự liều lĩnh và dũng cảm của mình, Bành Đức Hoài bị cách chức, thay bằng nguyên soái Lâm Bưu, tướng lĩnh hàng đầu, Tư lệnh quân đội trong nội chiến và bây giờ một trong những đồng minh thân cận nhất của Mao Trạch Đông.
Hồ Chí Minh lưu lại Urumqi ít ngày, sau đó đi tàu hoả tới Tây An, nơi mùa thu năm 1938, ông đến đó với tư cách một du khách. Cuối cùng ông tới Bắc Kinh ngày 13-8-1959. Do Mao vẫn chưa trở lại Bắc Kinh, Hồ gặp Chu Ân Lai và Lưu Thiếu Kỳ, hai ông thông báo cho Hồ, Trung Quốc vẫn giữ quan điểm chiến tranh của mình ở nam Việt Nam nên chỉ giới hạn ở đấu tranh chính trị và các hoạt động vũ trang ở mức thấp, mặc dù họ chấp nhuận quyết định chiến lược đấu tranh cách mạng của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Hồ trở lại Hà Nội ngày 26-8-1959.[8]
Hồ Chí Minh có thể không hài lòng về kết quả ít ỏi trong chuyến đi nước ngoài dài ngày. Cả Liên Xô và Trung Quốc không tán thành trước việc phá vỡ Hiệp định Geneva, họ cũng chẳng thể hiện quyết tâm ủng hộ quyết định của Hà Nội dùng chính sách bạo lực cách mạng để hoàn thành nhiệm vụ thống nhất đất nước. Hồ cũng giận cách đối xử của Trung Quốc, khi Mao Trạch Đông thậm chí không về Bắc Kinh tiếp ông. Nhưng Hồ phần nào đã quen hạ mình trước các đồng chí Trung Hoa, tuy thỉnh thoảng, trước các đồng chí của mình, ông chế nhạo Mao Trạch Đông là “Ông Trời con”. Nhưng sự coi thường đó chẳng mấy chốc được bỏ qua. Mùa Thu năm đó, ông dẫn đầu đoàn đại biểu chính thức đi thăm Bắc Kinh dự lễ kỷ niệm 10 năm thành lập nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa. Sau khi gặp bà Tống Khánh Linh, người bạn cũ và ân nhân của mình, Hồ đã hội ý với Mao ngày 3-10 và về nước ngày hôm sau. Trong một bài báo đăng trên tờ Nhân Dân tháng đó, Hồ kêu gọi nhân dân học tập kinh nghiệm Trung Quốc và đời đời cám ơn sự ủng hộ của Trung Quốc trong cuộc đầu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam.[9]
Trong khi Hồ Chí Minh đang tư vấn với hai nước đồng minh về chính sách đối ngoại, thì các đồng chí của ông bận tâm với những vấn đề trong nước. Kế hoạch ba năm nhằm xây dựng nền tảng xã hội xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc đang diễn ra tương đối thuận lợi, nói chung không có bạo lực và bất hoà như trong chương trình Cải cách ruộng đất. Việc không xảy ra bạo lực trong chiến dịch tập thể hoá chắc chắn làm Hồ Chí Minh hài lòng vì ông kêu gọi các lãnh đạo Đảng tránh sự cưỡng bức và sử dụng “phương pháp dân chủ” để giáo dục nông dân tin vào sự ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa. Hồ luôn cho biện pháp thuyết phục tốt hơn sử dụng bạo lực ở thành thị, nơi khối công nghiệp và thương mại đã nằm trong tay nhà nước và sở hữu tập thể. Trong một hội nghị Đảng đánh giá tình hình, Hồ đấu tranh với quan điểm một số người hiếu chiến cho giai cấp tư sản là đối thủ của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Bắc Việt Nam, ông tranh cãi, giai cấp tư sản đã đi theo quần chúng, có thể chuyển hoá hoà bình và tự nguyện trở thành những thành viên của giai cấp công nhân. Thật khó biết chắc ý kiến của Hồ trong những cuộc họp Đảng có sức nặng bao nhiêu. Ảnh hưởng của Hồ đối với những quyết định về nội tình việc trong nước đã suy giảm nhiều, các cán bộ lãnh đạo đảng chủ chốt đã quyết định, ông nên dành nhiều thời gian cho chính sách đối ngoại và vấn đề thống nhất đất nước.[10]
Cuối năm 1959, phần lớn kinh tế Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ở thành thị và nông thôn đã được cải tạo theo đường lối xã hội chủ nghĩa, giới lãnh đạo đảng bắt đầu nghĩ tới bước tiếp theo - một kế hoạch năm năm kiểu Liên Xô, bắt đầu quá trình công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa. Không những kế hoạch cần những nỗ lực lớn mà còn phải kết hợp với cuộc đấu tranh ở miền Nam ngày càng gia tăng, vì thế giới lãnh đạo đảng đã quyết định triệu tập Đại hội Đảng toàn quốc để công khai thảo luận kế hoạch và cách thức đảm vảo kế hoạch này được chấp thuận. Tháng 10-1959, bắt tay vào công việc chuẩn bị Đại hội, dự kiến sẽ khai mạc vào cuối mùa Hè hoặc mùa Thu 1960.
Trong lúc ấy, căng thẳng giữa Liên Xô và Trung Quốc ngày càng gia tăng. Tại Đại hội Đảng cộng sản Rumani tháng 6-1960, mâu thuẫn Trung - Xô lần đầu tiên bùng ra công khai làm thế giới ngỡ ngàng, khi cả hai bên công kích nhau kịch liệt. Sau hội nghị, Moscow ra lệnh rút chuyên gia ở Trung Quốc về nước. Đoàn đại biểu Việt Nam ở Bucharest có lẽ tán thành quan điểm Khrushchev, giữ im lặng khi Liên Xô đả kích quan điểm Trung Quốc về chủ nghĩa đế quốc và chiến tranh thế giới. Lê Duẩn, dẫn đầu đoàn đại biểu Việt Nam tại Đại hội, phát biểu ngắn ủng hộ đường lối Trung Quốc cho rằng đế quốc Mỹ âm mưu kích động một cuộc chiến tranh thế giới mới. Nhưng Hà Nội cũng không đứng về bên nào trong sự rạn nứt ngày càng tăng giữa Liên Xô và Trung Quốc về chiến lược những nước xã hội chủ nghĩa áp dụng trong chiến tranh lạnh. Xã luận báo Nhân Dân sau Đại hội công khai đưa vấn đề này và cảnh báo, việc mất đoàn kết trong Cộng sản thế giới có thể rất có hại cho Đảng và sự thống nhất Việt Nam.
Hà Nội cố gắng không để mâu thuẫn Liên Xô và Trung Quốc gây hại cho lợi ích của mình, bản thân Hồ Chí Minh tận dụng cơ hội để không làm mất lòng hai bên. Tháng 5-1960, Hồ bay tới nam Trung Hoa để kỷ niệm sinh nhật 70 tuổi và nghỉ ít ngày. Ngay sau khi về nước, ông viết một bài đăng trên báo Nhân Dân ủng hộ “những chính sách đúng đắn” của Liên Xô. Tháng 8-1960, ông có chuyến thăm bí mật Moscow và Bắc Kinh, mục đích để có được sự đảm bảo của hai nước này đối với những quyết định Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ở miền Nam, đồng thời kêu gọi họ cố gắng giảng hoà mối bất đồng.
Đại hội lần thứ III Đảng Lao động Việt Nam họp ở Hà Nội ngày 5-9-1960. Tham dự có 576 đại biểu đại diện cho hơn nửa triệu Đảng viên cả hai miền. Với tư cách chủ tịch Đảng, Hồ phát biểu khai mạc, đề cập sơ qua sai lầm của Đảng trong Cải cách ruộng đất (ông cho biết Đảng đã tích cực sửa chữa những thiếu sót và không “hoa mắt với thắng lợi”), ông chủ yếu nói về tương lai, tuyên bố nhiệm vụ quan trọng cho vài năm tới, đưa miền Bắc trên đường tiến tới chủ nghĩa xã hội. Ông nhấn mạnh, sự bảo đảm tốt nhất cho cách mạng Việt Nam là “tự thấm nhuần chủ nghĩa Marx - Lenin, luôn luôn trung thành với những lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, giữ gìn sự đoàn kết, sự thống nhất trong Đảng, giữa tất cả những Đảng cộng sản anh em và tất cả các nước trong đại gia đình xã hội chủ nghĩa”. Ông nói tương đối ít về miền Nam - gọi là “thành đồng tổ quốc” - nhưng nhận xét Đảng hy vọng để đạt được thống nhất đất nước bằng phương pháp hoà bình.[11]
Phát biểu của Hồ thu hút sự chú ý và giúp chính thức phê chuẩn kế hoạch năm năm đặt nền tảng tiến bộ kỹ thuật cho xã hội xã hội chủ nghĩa. Cuộc đấu tranh thống nhất đất nước không bỏ quên. Nghị quyết Đại hội chỉ rõ nhiệm vụ này có tầm quan trọng tương đương với các mục tiêu của Đảng năm năm tới. Nhưng rõ ràng giới lãnh đạo đảng vẫn không tỏ ra nhất trí tiến trình ở miền Nam sẽ như thế nào. Đọc báo cáo chính trị trước Đại hội, Lê Duẩn phân tích tình hình, ông tránh đi vào cụ thể, chỉ nhận xét, đó là “cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ, không giản đơn mà phức tạp, phối hợp nhiều hình thức đấu tranh”, đòi hỏi sự mềm dẻo, chuyển từ dạng hoạt động công khai sang bí mật. Ông tuyên bố, vũ khí chính sẽ là sức mạnh quần chúng. Ông không đề cập tới khả năng can thiệp của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Hội nghị tán thành đề nghị của Bộ Chính trị đưa ra kế hoạch 5 năm công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Dù vậy, có dấu hiệu cho thấy tranh luận về chiến lược ở miền Nam không hoàn toàn dịu đi. Phát biểu trước các đại biểu, Võ Nguyên Giáp nhấn mạnh, một số đồng chí hoàn toàn không nhận thức những âm mưu của Mỹ và bọn tay sai Sài Gòn, vạch ra rằng họ “không hiểu trong khi chính sách bảo vệ hoà bình và thống nhất đất nước bằng phương pháp hoà bình, chúng ta vẫn phải luôn luôn cảnh giác, chuẩn bị đối phó với mọi hành động của kẻ thù”.
Cuối cùng, Đại hội Đảng toàn quốc III thông qua danh sách lãnh đạo mới. Lê Duẩn chính thức được bầu Bí thư thứ nhất (thay thế chức danh cũ Tổng bí thư Đảng Lao động Việt Nam, rập khuôn Đảng cộng sản Liên Xô). Hồ Chí Minh vẫn giữ chức chủ tịch Đảng. Sự thăng tiến của Lê Duẩn chỉ vì bản thân Hồ tin vấn đề thống nhất đất nước sẽ được quan tâm nhiều hơn trong thập niên tới. Một dấu hiệu thêm nữa cũng tầm quan trọng, bây giờ ba uỷ viên Bộ chính trị người miền Nam - Lê Duẩn, Phạm Hùng và Nguyễn Chí Thanh. Là người có tài và nhiều tham vọng, Thanh được thăng đại tướng cuối thập niên 1950, tương đương với đối thủ Võ Nguyên Giáp. Không như Giáp, Thanh hoạt động nhiều về chính trị, từng là Tổng cục trưởng Cục Chính trị, có trách nhiệm duy trì lãnh đạo tư tưởng trong quân đội. Uỷ viên Bộ chính trị hàng thứ tư là nhân vật đầy uy thế - Lê Đức Thọ - tuy không phải người miền Nam, nhưng từng là phó của Lê Duẩn trong kháng chiến chống Pháp.[12]
Đại hội III không chính thức đả động đến mâu thuẫn Trung-Xô, (đoàn đại biểu cả hai nước đều tham dự) vấn đề không nổ ra tranh cãi tại phiên họp công khai. Tuyên bố sau khi kết thúc Đại hội tiếp tục coi Liên Xô người lãnh đạo phe xã hội chủ nghĩa, nhưng đối với những người lãnh đạo hiếu chiến của phe cánh Lê Duẩn đang giữ quyền lãnh đạo, Hồ cố duy trì cân bằng mối quan hệ của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà với hai nước đàn anh, bây giờ đang rất căng thẳng. Hồ đã góp một phần làm dịu căng thẳng với tư cách người trung gian trong những cuộc thảo luận giữa Liên Xô và Trung Quốc tại Đại hội. Nhưng cả hai nước đàn anh không sẵn sàng chấp thuận việc leo thang đang sôi sục ở Nam Việt Nam. Moscow từ chối ủng hộ Hồ toàn diện về vấn đề miền Nam Việt Nam và bác bỏ lời yêu cầu của Hồ làm dịu căng thẳng trong nội bộ phe xã hội chủ nghĩa. Trong chuyến thăm ngắn ngủi Hà Nội vào tháng Bảy, Chu Ân Lai kêu gọi Việt Nam mềm dẻo, sử dụng tối đa phương pháp đấu tranh chính trị để mang lại thắng lợi ở miền Nam.[13]
Các lãnh đạo Đảng tiếp tục đeo bám vấn đề làm thế nào đánh đổ chế độ Diệm mà Mỹ không can thiệp trực tiếp. Kinh nghiệm trong quá khứ cho thấy một tổ chức chính trị mới ở miền Nam cần phải chiếm một vai trò giống như vai trò Mặt trận Việt Minh trong cuộc đấu tranh chống Pháp trước đây. Trên thực tế, Hà Nội muốn có một mặt trận dân tộc thu hút tất cả những phần tử chống đối chế độ Sài Gòn, nhưng phải chịu sự chi phối của đảng. Mặt trận phải có cương lĩnh thu hút những người yêu nước tận tâm với sự nghiệp thống nhất Việt Nam mà không phải liên minh với những người ly khai ở miền Nam và nghi ngờ sự thống trị của miền Bắc. Cương lĩnh mặt trận phải thu hút những người ôn hoà không tin tưởng cộng sản về ý thức hệ và thực hành, nhưng lại ủng hộ công nhân và nông dân. Cương lĩnh cần phải giữ lời hứa giải phóng miền Nam khỏi bè lũ độc tài Ngô Đình Diệm không sợ đe dọa tức thời bị chế độ cộng sản miền Bắc thôn tính.
Lần đầu tiên dự án một mặt trận mới được Tôn Đức Thắng đề cập tại Đại hội III. Theo Tôn Đức Thắng, mặt trận dựa trên khái niệm Leninist liên minh bốn giai cấp, nhưng để thích hợp với sự phức tạp của xã hội Nam Việt Nam, bao gồm cả những tôn giáo khác nhau và các dân tộc thiểu số. Mục đích của nó động viên rộng rãi quần chúng. Nó nhấn mạnh vấn đề dân tộc chủ nghĩa và cải cách để đạt được mục đích cuối cùng tạo ra một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh. Bước đi quá độ sẽ là sự hình thành một chính phủ bao gồm tất cả những lực lượng tiến bộ trong xã hội miền Nam, một sự hợp tác cuối cùng sẽ thảo luận với miền Bắc vấn đề thống nhất đất nước. Mặt trận mới, giống như Mặt trận Việt Minh, cần phải được tổ chức ở các cấp khác nhau, từ Ban Chấp hành Trung ương xuống tới các đơn vị ở cấp thôn xã. Không đề cập đến chủ nghĩa cộng sản.
Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam chính thức thành lập ngày 20-12-1960, trong một hội nghị bí mật gồm những đại diện các tầng lớp xã hội khác nhau miền Nam “tại một địa điểm trong vùng giải phóng miền Nam Việt Nam”. Sự thật, hội nghị diễn ra ở những khu nhà nhỏ trong khu rừng rậm rạp của một đồn điền cao su dọc theo biên giới Campuchia, về sau khu vực này là nơi đóng bản doanh của Trung ương Cục. Gồm có sáu mươi đại biểu tham dự, đây là một sự kiện đáng nhớ. Theo Trương Như Tảng, một trí thức tham gia lễ thành lập, viết “tất cả những người có mặt trong gian nhà đơn sơ đều hiểu mình đang tham dự một sự kiện có ý nghĩa lịch sử”. Trên đường về Sài Gòn bằng xe đò, Tảng có cảm giác lâng lâng “một hy vọng dù nhỏ nhoi”. Vài tuần sau, tân tổng thống Mỹ, John Fitzgerald Kennedy nhậm chức. Trong lễ bàn giao, tổng thống Eisenhower tuyệt nhiên không đả động gì đến những hoạt động nổi dậy ngày càng tăng ở miền Nam Việt Nam.[14]
Trên thực tế, dù Dwight Eisenhower không nhận thức được việc đó thì sự oán giận chống lại Ngô Đình Diệm và người em trai lạm quyền Ngô Đình Nhu ngày càng tăng lên trong nhiều thành phần xã hội miền Nam. Nông dân bất mãn vì tham nhũng và phải nộp tô quá cao. Giới Phật Giáo giận dữ trước việc chính phủ thiên vị Thiên Chúa Giáo, cũng như nhân dân các dân tộc ít người, Hoa kiều, các giáo phái và người Thượng ở Tây Nguyên bất mãn trước sự độc tài của chính quyền Ngô Đình Diệm. Lên tiếng chống đối mạnh là trí thức tại Sài Gòn và nhiều thành phố khác đả kích chế độ độc tài gia đình trị Ngô Đình Diệm. Bản hiến pháp, thảo ra năm 1956 với sự giúp đỡ của cố vấn Mỹ, chỉ còn là mớ giấy lộn.
Phong trào kháng chiến phát triển nhanh chóng ở Nam Việt Nam khiến các nhà lãnh đạo Đảng ở Hà Nội tin rằng cần phải tổ chức lại guồng máy cách mạng sẵn có. Giữa tháng 1-1961, ngay sau cuộc đảo chính quân sự lật đổ chế độ Diệm bất thành ở Sài Gòn, Bộ Chính trị họp đánh giá tình hình, đưa ra những chỉ thị hoạt động trong tương lai. Bộ Chính trị kết luận, thời kỳ ổn định ở miền Nam đã qua, các nhà lãnh đạo Đảng kêu gọi đẩy mạnh đấu tranh cả về chính trị và quân sự chuẩn bị cho một cuộc nổi dậy có thể đến bất cứ lúc nào. Không còn có sự lựa chọn nào nữa để giải quyết hoà bình trong các vấn đề. Cho dù Hồ Chí Minh đồng ý với những kết luận đó theo những điều khoản chung, ông tiếp tục nhắc các đồng chí của ông không được phát động một cuộc nổi dậy còn non yếu hoặc sử dụng quá mạnh những hoạt động quân sự. Ông khuyên, hãy chuẩn bị đầy đủ, khi gặp thời cơ sẽ nổi dậy.[15]
Với vấn đề quân sự, các nhà chiến lược của Đảng quyết định quay lại những cách thức từng dùng trong chiến tranh chống Pháp. Trung ương Cục Miền Nam - một chi nhánh cũ của Ban Chấp hành Trung ương hoạt động ở miền Nam kháng chiến chống Pháp và sau đó giải tán sau hội nghị Geneva - được bí mật thành lập, do Nguyễn Văn Linh làm chủ tịch. Dưới Trung ương Cục Miền Nam là năm Ban Chấp hành Đảng bộ khu vực, cùng với một loạt tỉnh uỷ, huyện uỷ và chi bộ đảng địa phương. Tại một hội nghị bí mật tháng 2-1961 ở Chiến khu D, những đơn vị bán quân sự ở đồng bằng Cửu Long và Tây Nguyên sát nhập thành Quân Giải Phóng, đặt dưới sự chỉ huy thống nhất. Cuối tháng đó, một số đơn vị mới, phối hợp với quân đội các giáo phái đối lập, bắt đầu giao chiến với kẻ thù. Quân Giải Phóng bây giờ trở thành cánh tay của Mặt trận Dân tộc Giải phóng. Chế độ Sài Gòn từ nay bắt đầu gọi họ là Việt Cộng.
Trong lúc các lãnh đạo kháng chiến bận rộn với việc tổ chức lại cơ sở cách mạng trong hoạt động nổi dậy ở Nam Việt Nam, Hồ Chí Minh tiếp tục tập trung vào mặt trận ngoại giao. Mâu thuẫn Trung - Xô bây giờ đã công khai, vấn đề lập trường của khối XHCN ủng hộ cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc đã trở thành chủ đề bàn luận gay gắt tại tất cả cuộc hội nghị những người cộng sản thế giới. Hội nghị 81 Đảng cộng sản và công nhân họp ở Moscow tháng 11-1960. Hồ Chí Minh dẫn đầu đoàn đại biểu gồm Lê Duẩn và tướng Nguyễn Chí Thanh.
Nikita Khrushchev hy vọng dùng hội nghị làm diễn đàn ép Trung Quốc đi theo chính sách Liên Xô, nhưng các đoàn đại biểu khác tại hội nghị đã can thiệp để tránh rạn nứt, Đoàn Việt Nam phát biểu tương đối ít tại hội nghị, nhưng họ lại tích cực hoạt động phía sau hậu trường soạn thảo nghị quyết của hội nghị, tái khẳng định tuyên bố 1957 về các hình thức khác nhau để chuyển biến các nước khác nhau từ tư bản chủ nghĩa sang xã hội chủ nghĩa. Bản dự thảo tuyên bố, nếu giai cấp bóc lột dùng vũ lực chống lại nhân dân, cần phải tính đến khả năng chuyển tiếp không hoà bình lên chủ nghĩa xã hội. Vai trò Hồ Chí Minh rất quan trọng. Khi phó chủ tịch Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa Lưu Thiếu Kỳ bỏ một phiên họp mà người phát ngôn Liên Xô xỉ vả Trung Quốc, ông giận dữ quay về toà đại sứ của mình, Khrushchev khẩn khoản yêu cầu Hồ thuyết phục Lưu Thiếu Kỳ trở lại. Sự cố gắng của Hồ đã giúp tránh được rạn nứt công khai. Nhưng theo những người thân cận, Hồ rất buồn trước mâu thuẫn Trung - Xô về chiến lược toàn cầu, một sự rạn nứt, theo ông, phá hoại nặng nề uy tín của phe xã hội chủ nghĩa trước Thế giới thư ba và tạo thuận lợi cho bọn đế quốc chủ nghĩa thù địch. Trong khi nhiều đại biểu Việt Nam nghiêng theo quan điểm Trung Quốc, Hồ Chí Minh rất nghi ngờ tham vọng của Mao Trạch Đông và muốn “toạ sơn quan hổ đấu”(có lẽ ám chỉ mối quan hệ giữa Moscow và Washington). Vì thế ông ủng hộ vai trò Liên Xô trong những phiên họp then chốt trong hội nghị. Quen với việc “làm theo ý bác” (bất cứ điều gì Bác Hồ nói đều đúng) nên Lê Duẩn, Nguyễn Chí Thanh không nói gì. Tuy nhiên khi về Hà nội, chắc họ cũng đã thì thầm với các thành viên khác của Bộ Chính trị vẫn bất mãn về quan điểm “ba phải” của Hồ tại hội nghị.[16]
Cuộc tranh luận được nối lại tại Đại hội lần thứ XXII Đảng cộng sản Liên Xô diễn ra mùa Thu năm ấy. Một lần nữa, Hồ Chí Minh dẫn đầu đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tại hội nghị và tìm cách né tránh những vấn đề dễ gây tranh cãi. Nhưng khi Chu Ân Lai bỏ Đại hội quay về Bắc Kinh, Việt Nam buộc phải bỏ cuộc họp. Hồ Chí Minh và Lê Duẩn cũng rời Moscow, nhưng không trở về Hà Nội ngay, họ tỏ thái độ trung lập bằng cách đi thăm mấy nước cộng hoà Baltic thuộc Liên Xô.
Việc thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Quân Giải Phóng, tạo sức mạnh đối với phong trào kháng chiến chống Ngô Đình Diệm ở Nam Việt Nam. Cuối năm 1961, Quân Giải Phóng đã phát triển lên tới gần 15 ngàn người, gấp năm lần lực lượng nổi dậy mùa xuân năm 1959. Với thuận lợi tăng quân số và sự cơ động, các đơn vị Việt Cộng bắt đầu tấn công đồn bốt quân đội Việt Nam Cộng Hòa, đoàn xe hộ tống, trụ sở hành chính. Họ thiết lập căn cứ địa giải phóng ở Tây Nguyên nhằm mở đường tấn công xuống đồng bằng.
Một lý do tăng quân số Việt Cộng là do quân đội Bắc Việt Nam thâm nhập ngày càng nhiều theo Đường mòn Hồ Chí Minh, tăng gấp đôi trong thời kỳ 1959-1961, đạt con số năm ngàn người năm 1962. Nhưng yếu tố chính là việc mở rộng Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, thúc đẩy nhân dân chống chế độ Diệm bắt đầu lan toả cắm rễ xuống thôn làng và thị trấn thuộc Việt Nam Cộng Hoà. Khi bộ máy chính trị mạnh cả về số lượng lẫn chất lượng, nhiều thanh niên hăng hái có năng lực đã gia nhập Quân Giải Phóng.
Phong trào nổi dậy phát triển mạnh khiến Washington lo lắng. Trong những tháng cuối nhiệm kỳ chính quyền Eisenhower, Mỹ tập trung quan tâm vào Lào, nơi lực lượng Pathet Lào do Hà Nội hậu thuẫn, đã lật đổ chính phủ liên hiệp yếu ớt của phái hữu ở Vientiane bằng quân sự. Nhưng khi Kennedy vào Nhà Trắng tháng 1-1961, ông nhận được báo cáo đáng buồn, tình hình Nam Việt Nam đang xấu đi nhanh chóng. Kennedy thành lập lực lượng đặc biệt để hành động, cuối năm ông thông qua chương trình tăng thêm cố vấn Mỹ cho Việt Nam Cộng Hoà. Mục tiêu huấn luyện quân đội Việt Nam Cộng Hoằ cách thức chống nổi dậy với hy vọng chính quyền Sài Gòn có thể phòng thủ, tự bảo vệ không cần Mỹ can thiệp. Trong khi đó, Kennedy tìm cách dàn xếp cuộc xung đột đang lan rộng ở Lào, cho dù bất kỳ lý do gì sự hiện diện của Mỹ để đảm bảo lợi ích an ninh của Thế giới Tự do rất khó thanh minh.
Bạo lực cách mạng ở Nam Việt Nam ngày càng tăng là bằng chứng nhận xét của Hồ Chí Minh, chế độ Diệm đã hoàn toàn thối nát và nhất định sụp đổ. Trong khi đó, Hồ căn dặn, đừng lạc quan quá mức. Ngô Đình Diệm mặc dầu có những sai lầm, nhưng là nhà lãnh đạo kiên định, có đội ngũ cộng sự rất trung thành. Giới lãnh đạo Đảng thận trọng không đánh giá thấp Ngô Đình Diệm, tiên đoán chính phủ Diệm sẽ sụp đổ nhưng phải cảnh giác với Mỹ, vì Nam Việt Nam là sự sống còn đối với an ninh quốc gia Mỹ và lo sợ những hậu quả do thất bại sẽ mất mặt ở Đông Nam Á. Giới lãnh đạo Đảng tranh luận những lựa chọn chiến lực trong cuộc họp Bộ Chính trị tháng 10-1961. Hồ Chí Minh vạch ra, Mỹ mạnh gấp nhiều lần hơn Pháp trong kháng chiến chống Pháp, do vậy, nếu sử dụng sức mạnh chống lại sức mạnh, “ăn miếng, trả miếng” sẽ thất bại. Ông nhấn mạnh, những yếu kém của bọn đế quốc và sức mạnh của lực lượng cách mạng là ở lĩnh vực chính trị. Vì thế Hồ đề ra chiến lược dựa vào chiến tranh du kích, phát động sự ủng hộ của quần chúng, dành được sự ủng hộ của dư luận thế giới. Do những điều kiện thuận lợi cho cách mạng ở Nam Việt Nam tiến triển nhanh chóng, Hồ Chí Minh thuyết phục các đồng chí của ông thận trọng, mềm dẻo trong sách lược, hai điều này thể hiện trong những chỉ thị gửi tới ban lãnh đạo Trung ương Cục. Chỉ thị vạch rõ cao trào cách mạng chưa tới và chúng ta chỉ có thể giành thắng lợi “từng bước một”.[17]
Tháng 7-1962, chính quyền Kennedy ký hiệp định thành lập nước Lào trung lập dựa trên chính phủ liên minh dân tộc bao gồm phái trung lập, phái tả và Pathet Lào trong chế độ liên hợp ba bên. Trong thư gửi cán bộ chủ chốt Trung ương Cục, Lê Duẩn nhắc đến khả năng Mỹ có thể chấp nhận một giải pháp tương tự ở miền Nam Việt Nam. Ông vạch ra, Washington trước đây không thắng nổi Trung Quốc và Bắc Triều Tiên bằng quân sự. Hồ đặc biệt hứng thú với giải pháp này. Trong một cuộc phỏng vấn với nhà báo tờ “London Daily Express” (Nhật báo Tin nhanh London) vào tháng 3-1962, Hồ vạch ra những điều kiện dàn xếp cuộc xung đột ở Nam Việt Nam trên cơ sở của Hiệp định Geneva. Hà Nội bây giờ tích cực tiếp xúc những nhân vật trung lập ở Nam Việt Nam và Pháp để tranh thủ sự ủng hộ của họ nếu chính phủ ba phái được thành lập tại Sài Gòn.[18]
Washington chấp nhận chính phủ liên hiệp trung lập ở Lào dựa trên giả định, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, dưới sức ép của Liên Xô, sẽ tôn trọng những điều khoản hiệp định, không đưa quân và vũ khí theo đường mòn Hồ Chí Minh, phần lớn chạy qua đất Lào. Nhưng khi tin tức tình báo cho thấy, Hà Nội không có ý định tôn trọng những điều khoản hiệp định, Nhà Trắng thôi theo đuổi một dàn xếp tương tự ở Nam Việt Nam. Nhưng Hồ Chí Minh vẫn còn hy vọng. Tại cuộc họp Bộ Chính trị tháng 2-1963, ông nêu rõ sự cần thiết đẩy mạnh nỗ lực chính trị ở miền Nam thúc đẩy thương lượng và thành lập một chính phủ trung lập, với nhiều người thuộc Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Ông vạch ra, Washington đang hoang mang, không phải tìm kiếm một chiến thắng mà một rút lui trong danh dự.[19]
Một số uỷ viên Bộ Chính trị hoài nghi không tin vào quan điểm của Hồ có thể giành thắng lợi thống nhất đất nước không cần phải leo thang bạo lực cách mạng. Có dấu hiệu cho thấy Washington đang tìm kiếm thắng lợi ở miền Nam. Một minh chứng cho việc này đó là chương trình ấp chiến lược. Ấp chiến lược lập ra từ cuối thập niên 1950 để bảo vệ nông dân, giúp chính quyền Sài Gòn chống lại Việt Cộng thâm nhập để tuyển dụng người và tuyên truyền cộng sản. Ý tưởng này được Anh sử dụng thành công ở Mã Lai vài năm trước đây, đã thu hút cả Sài Gòn và Washington. Năm 1962 tổng thống Diệm đồng ý áp dụng chương trình này cho Nam Việt Nam. Chỉ trong vài tháng, hàng ngàn ấp chiến lược cấp tốc được xây dựng ở khắp miền Nam.
Hà Nội ngay lập tức nhận ra chương trình Ấp chiến lược đe doạ nghiêm trọng phong trào cách mạng. Trung ương Cục Miền Nam được chỉ thị khẩn cấp tìm mọi thâm nhập hoặc phá hoại chương trình ấp chiến lược. Hồ Chí Minh sau khi cân nhắc, đề xuất phối hợp giữa sách lược chính trị và quân sự chống lại chương trình này, bao gồm dùng biện pháp phản gián, khủng bố và mở rộng chiến tranh du kích. Ông nhấn mạnh tại cuộc họp Bộ Chính trị tháng 11-1962 “Chúng ta phải tìm mọi cách phá hoại chúng, có thế mới bảo đảm chắc chắn thắng lợi về phía chúng ta”. Dù chương trình ấp chiến lược lúc đầu gây khó khăn nghiêm trọng tới phong trào kiểm soát nông thôn, song sự yếu kém và quan liêu của chính phủ Sài Gòn khiến chương trình Ấp chiến lược bị trở ngại, hậu quả là hơn một nửa ấp chiến lược bị Việt Cộng thâm nhập hoặc phá hoại.[20]
Trong khi đó, Hồ Chí Minh yêu cầu các đồng chí của ông hết sức duy trì tình cảm và sự ủng hộ của cả Moscow và Bắc Kinh. Đầu thập niên 1960, Hà Nội cố giữ vững cân bằng mối quan hệ với Liên Xô và Trung Quốc, lúc này rất căng thẳng. Dù Khrushchev ngại mất lòng Bắc Việt Nam vì không ủng hộ chiến tranh giải phóng dân tộc, song ông hy vọng tránh được đối đầu trực tiếp với Mỹ và lo lắng xu hướng gia tăng bạo lực ở Đông Nam Á. Sự lo lắng của Khrushchev làm Bắc Kinh hể hả. Trung Quốc rất muốn có đối đầu của chính họ với Mỹ, khi họ quyết tâm thay thế Moscow là người cầm đầu các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Theo Mao chủ tịch, sự hiện diện của quân đội Mỹ tăng lên ở Nam Việt Nam sẽ làm các cơ sở của Mỹ bị yếu đi ở châu Á nói chung, vì thế sẽ tự tạo ra thòng lọng xiết cổ đế quốc Mỹ ở khắp nơi trên thế giới.
Để kiếm ưu thế với Moscow, cũng như lấy lòng Hà Nội, Trung Quốc hứa tăng viện trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đầu thập niên 1960. Bắc Kinh rút kinh nghiệm từ thời kỳ chiến tranh Pháp - Việt Minh, viện trợ quân sự ít tạo ra khả năng xung đột trực tiếp với Mỹ, đồng thời làm tăng sự phụ thuộc của Hà Nội vào Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa. Mùa Hè năm 1962, một phái đoàn Việt Nam do Hồ Chí Minh và đại tướng Nguyễn Chí Thanh thăm Bắc Kinh yêu cầu tăng cường giúp đỡ để cân bằng với dự hiện diện của Mỹ đang gia tăng ở miền Nam, Trung Quốc đã nhanh chóng đáp ứng.[21]
Trung Quốc hy vọng Hà Nội hoan nghênh sự giúp đỡ của họ, vì thế tháng 5-1963, chủ tịch Lưu Thiếu Kỳ thăm Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đánh giá tình hình. Lưu Thiếu Kỳ nhấn mạnh mối quan hệ gần gũi lịch sử giữa hai nước và thẳng thừng đả kích “chủ nghĩa xét lại hiện đại” (ám chỉ Liên Xô), buộc tội họ nhiều sai phạm về nguyên lý, đả kích thái độ “lừng chừng”. Trong cuộc cuộc hội đàm với Hồ Chí Minh, Lưu Thiếu Kỳ hứa, nếu chiến tranh ở Nam Việt Nam leo thang, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà có thể dựa vào “hậu phương lớn” Trung Quốc. Tuy thế, Lưu Thiếu Kỳ cảnh báo Hà Nội, cuộc đấu tranh thống nhất đất nước sẽ kéo dài và sự giúp đỡ của Trung Quốc cũng có giới hạn.
Tuy nhiên, Hà Nội vẫn chưa dựa hẳn vào Trung Quốc. Dù đón tiếp Lưu Thiếu Kỳ nồng hậu, như tiếp đón chẳng kém long trọng đoàn đại biểu thương mại Liên Xô vài ngày trước. Lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hoà cám ơn cả hai nước về sự ủng hộ, đồng thời tỏ thái độ trung lập. Trong bữa tiệc chiêu đãi Lưu Thiếu Kỳ, Hồ Chí Minh bày tỏ lòng biết ơn sự giúp đỡ của Trung Quốc, nhưng không đả động vấn đề chia rẽ giữa hai nước cộng sản hùng mạnh, chỉ nhấn mạnh sự cần thiết đoàn kết, thống nhất trong phe xã hội chủ nghĩa.[22]
Mùa Xuân năm 1963, chế độ Diệm bước vào thời kỳ cuối cùng của khủng hoảng, Phật giáo bất bình với sự thiên vị Thiên Chúa Giáo, dẫn đến những vụ bạo động khắp các thành phố miền Nam. Ngày 11-6-1963, một hoà thượng tự thiêu ngay tại một phố đông đúc ở Sài Gòn. Bức hình chụp cảnh tự thiêu xuất hiện trên màn hình TV khắp thế giới, khiến dư luận thế giới xúc động. Khi chính quyền Kennedy công khai đả kích Sài Gòn đàn áp những cuộc biểu tình, em trai Diệm, cố vấn chính trị Ngô Đình Nhu giận dữ nói, ông sẽ tìm cách thương lượng hoà bình với đại diện Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam nhằm tống cổ cố vấn Mỹ về nước và trung lập hoá miền Nam. Theo một tin đồn, mùa Hè năm đó Hồ Chí Minh gửi một thư riêng cho Ngô Đình Diệm đề nghị thương lượng. Không rõ Diệm có trả lời hay không, nhưng khi Mieczyslaw Maneli, đại sứ Ba Lan trong Uỷ ban Kiểm soát Quốc tế tại Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, hỏi Phạm Văn Đồng những điều kiện cho hoà bình sẽ là gì, nghe đồn rằng thủ tướng trả lời “Mỹ phải ra khỏi miền Nam. Trên những cơ sở chính trị này, chúng tôi có thể thương lượng mọi thứ”. Khi được hỏi một chính phủ liên hiệp giữa Bắc và Nam liệu có ra đời được không, Phạm Văn Đồng đáp “sẽ thương lượng mọi thứ trên cơ sở của độc lập và chủ quyền Việt Nam. Hiệp định Geneva tạo ra cơ sở chính trị và luật pháp cho điều này: không có căn cứ quân sự hoặc binh sĩ nước ngoài trên lãnh thổ chúng tôi. Chúng tôi đi tới một hiệp định với bất cứ người Việt Nam nào”. Theo Maneli, Hồ Chí Minh có mặt trong cuộc hội đàm này, nhưng không nói gì.[23]
Không rõ liệu Hồ có nghiêm túc đề nghị thương lượng với Diệm và với những điều khoản thương lượng là gì. Hà Nội đã thể hiện thành tâm từ 1962 muốn thương lượng hoà bình với Mỹ, nhưng đó là những điều kiện cho hoà bình - rút hoàn toàn quân đội Mỹ và hình thành một chính phủ liên hiệp ba phái ở Nam Việt Nam, ngụ ý Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam sẽ thống lĩnh - là khá cứng rắn, Washington khó chấp thuận. Năm sau, tình hình ở miền Nam được cải thiện nhiều theo quan điểm Hà Nội, dù chính phủ Diệm vẫn còn yếu, Hồ Chí Minh thừa nhận Diệm là một đối thủ đáng nể, vẫn chiếm được đa số khu vực bầu cử có nhiều người ủng hộ. Đảng cần phải dàn xếp thoả đáng để có thể giảm thiểu quyền lực của Diệm. Hồ kêu gọi các đồng chí miền Nam cố gắng tranh thủ cảm tình, sự ủng hộ của tất cả mọi tầng lớp nhân dân, trong lúc chờ đợi Washington tỏ thái độ. Trong cuộc phỏng vấn với nhà báo Nhật Bản vào tháng Bẩy, Hồ nhận xét, theo kinh nghiệm của ông, bất chấp thái độ của giới lãnh đạo Mỹ, nhưng nhân dân Mỹ rất yêu chuộng hoà bình và tiến bộ. Ông nói, câu trả lời duy nhất giải quyết vấn đề, Mỹ phải rút hết quân để nhân dân Việt Nam có thể tự giải quyết công việc nội bộ theo Hiệp định Geneva.
Tuy nhiên quan điểm lạc quan thận trọng của Hồ về một giải pháp thương lượng không được sự ủng hộ hoàn toàn trong Đảng. Tại hội nghị Bộ Chính trị tháng 12-1962, giới lãnh đạo Đảng kết luận, cuộc chiến tranh ở miền Nam là cuộc chiến tranh chống đế quốc và cần phải tăng cường cả đấu tranh chính trị lẫn đấu tranh vũ trang. Một chỉ thị bí mật gửi vào Nam nhấn mạnh, vấn đề chắc chắn phải giải quyết bằng vũ lực, với mức độ chiến tranh leo thang dần từ thấp đến cao. Dù tài liệu này không công khai hạ thấp những hoạt động chính trị và đặc biệt bác bỏ chủ trương quân sự sử dụng trong kháng chiến chống Pháp, cho rằng làn sóng cách mạng miền Nam bắt đầu lên cao trào và câu hỏi duy nhất trước mắt là khi nào và lực lượng vũ trang sẽ sử dụng theo hình thức nào. Bản chỉ thị tiên đoán chiến tranh sẽ gắn liền với cuộc nổi dậy của quần chúng và cuộc tổng tấn công của Quân Giải Phóng - tức là kết hợp Cách mạng tháng Tám và mô hình Maoist chiến tranh nhân dân ba giai đoạn.
Tuy không rõ ai là tác giả của những chỉ thị này, song có vẻ nó phản ánh quan điểm của Lê Duẩn, nhà chiến lược ở Hà Nội, luôn luôn tin vào một thắng lợi bằng quân sự. Trên thực tế, Lê Duẩn chế giễu Hồ Chí Minh miễn cưỡng quay lại cuộc đấu tranh vũ trang và không còn chỉ dựa vào ngoại giao, điều mà Lê Duẩn có lẽ cho là ngây thơ. Duẩn có lần đã nói: “Bác (Hồ) lưỡng lự, nhưng khi tôi rời miền Nam tôi đã chuẩn bị sẵn sàng mọi thứ. Tôi chỉ có một mục đích - giành thắng lợi cuối cùng”.[24]
Đầu tháng 11-1963, một cuộc đảo chính quân sự xảy ra được chính quyền Kennedy chấp thuận lật đổ chế độ Diệm. Nhà Trắng ngầm bật đèn xanh cho đảo chính, ủng hộ ban lãnh đạo mới tại Sài Gòn. Tuy nhiên, cả Ngô Đình Diệm và người em trai Ngô Đình Nhu bị giết sau khi đầu hàng phe đảo chính.
Việc thành lập chính phủ quân sự mới tại Sài Gòn làm thay đổi cơ bản triển vọng của các nhà chiến lược của Đảng ở Bắc Việt. Một mặt, họ không còn dựa vào công tác tuyên truyền chống lại Ngô Đình Diệm để mở rộng lực lượng cho Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam và Việt Cộng. Trên thực tế, nhóm cầm quyền mới do tướng Dương Văn Minh (Minh “lớn”) lên nắm quyền trong làn sóng hăng hái, đặc biệt ở các thành phố, nơi chống đối Diệm và gia đình ông chiếm tỷ lệ cao. Mặt khác, những nhà hoạch định chính sách ở Hà Nội lường trước, chính quyền mới vẫn thiếu một cái đầu như Diệm và mạnh mẽ chống lại phong trào kháng chiến. Biết được chủ nghĩa bè phái khá nặng nề phong trào dân tộc Việt Nam từ kỷ nguyên thuộc địa, các lãnh đạo Đảng tiên đoán, chính phủ quân sự, ngày càng yếu kém, do vậy mở đường cho cách mạng chiến thắng. Tại cuộc họp Bộ Chính trị đầu tháng 12-1963, Hồ Chí Minh tiên đoán - rất may sau này lại đúng - đây chưa phải là cuộc đảo chính cuối cùng tại Sài Gòn.
Dù dễ đánh giá tình hình mới, một câu hỏi khó trước khi có kết luận, điều gì sẽ xảy ra tiếp theo. Liệu lực lượng nổi dậy ở miền Nam có đủ sức đẩy mạnh chiến tranh để hy vọng chính quyền mới sụp đổ nhanh? Hoặc họ có cần tăng cường áp lực quân sự để hy vọng có một cuộc thương lượng dàn xếp hay không? Liệu miền Bắc có đóng được vai trò trực tiêp chỉ huy trong cuộc chiến? Điều gì xảy ra nếu Mỹ nhảy vào cuộc xung đột với vai trò chính để cứu chính phủ bù nhìn Sài Gòn trước sự sụp đổ sắp tới? Bất ngờ ba tuần lễ sau khi Ngô Đình Diệm bị giết tại Sài Gòn, John F. Kennedy bị ám sát tại Dallas. Cái gì sẽ đến nếu người kế nghiệp, Lyndon B. Johnson, thay đổi đường lối thậm chí hiếu chiến hơn Kennedy?
Với những băn khoăn đó, các lãnh đạo Đảng họp Hội nghị IX Đại hội Đảng toàn quốc III đầu tháng 12-1963. Dựa trên những bằng chứng không đầy đủ còn sót lại, có thể nói đây là một trong những cuộc họp nóng bỏng nhất trong lịch sử của Đảng, khi các đại biểu tranh cãi nẩy lửa về phương hướng sắp tới. Đây cũng là lần đầu Ban Chấp hành Trung ương không thể hiện đơn giản chỉ là con dấu đóng lên quyết định do Bộ Chính trị dàn xếp. Một số uỷ viên trung ương Đảng kêu gọi đưa ngay lập tức quân đội thường trực miền Bắc vào để buộc chính quyền Sài Gòn phải quỳ gối trước khi Mỹ ra tay. Một số khác lo ngại rằng sự hiện diện của quân đội miền Bắc ở miền Nam có thể làm nổ ra sự can thiệp thô bạo của Washington, dẫn tới Mỹ trực tiếp nhảy vào cuộc chiến. Một tình huống như thế, tất nhiên, sẽ không vừa lòng Liên Xô và sẽ phải tăng sự nhờ cậy vào Trung Quốc. Dù Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa đã tăng mức viện trợ quân sự cho Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sau chuyến thăm chính thức của Lưu Thiếu Kỳ vào tháng 5-1963, nhiều lãnh đạo Đảng đồng ý với lo ngại của Hồ Chí Minh trước áp lực gia tăng Bắc Kinh phải theo đường lối Trung Quốc trong mối bất hoà Trung - Xô.
Sau cuộc tranh cãi kéo dài, Ban Chấp hành Trung ương đề xuất thoả hiệp. Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tăng mức giúp đỡ quân sự, bộ đội miền Bắc được gửi vào Nam sẽ không trực tíếp tham gia chiến đấu. Các nhà chiến lược của Đảng đã quyết định đánh cá (cược) rằng chế độ Sài Gòn có thể sụp đổ mà không lo ngại nguy cơ Mỹ nhẩy vào cuộc chiến. Trung ương Cục Miền Nam được chỉ thị tiến lên giành thắng lợi cuối cùng trong thời gian ngắn nhất có thể, không cần phải có tăng mạnh sự giúp đỡ của hậu phương miền Bắc. Đảng bây giờ chính thức công nhận, đấu tranh vũ trang sẽ đóng vai trò chủ yếu và quyết định trong quá trình cách mạng, mặc dù cuộc vận động chính trị nhằm tập hợp quần chúng tiếp tục có tầm quan trọng.
Không rõ vai trò của Hồ Chí Minh trong cuộc tranh cãi chính sách ra sao, nhưng có lẽ ông kêu gọi thận trọng trước khi đưa ra bất cứ quyết định nào có thể làm mất lòng Moscow và Bắc Kinh hoặc khiến Mỹ trực tiếp nhảy vào chiến tranh. Dù vậy, Hồ nhận ra dịp may hiếm có trước tình hình và cần phải hành động. Tại cuộc họp Bộ Chính trị ngày 10-12-1963, ông kêu gọi tận dụng cơ hội “lộn xộn” ở miền Nam, gia tăng áp lực quân sự và chính trị đối với chế độ Sài Gòn. Ông tuyên bố, thậm chí nếu Mỹ leo thang chiến tranh gấp mười lần “chúng ta cũng sẽ chiến thắng”.[25]
Quyết định leo thang với mức vừa phải vẫn bị đối đầu với nguy hiểm, không những đối đầu với Mỹ mà còn có những vấn đề nghiêm trọng với Moscow. Suốt nhiều năm, các lãnh đạo Đảng thận trọng tìm cách tránh điều bất lợi không những của hai nước đồng minh lớn, mà còn cả một số người lãnh đạo đảng đang trở nên mất bình tĩnh. Trong một bài báo viết mùa hè năm 1963, tướng Nguyễn Chí Thanh tuyên bố, ông và các đồng chí của ông không ảo tưởng vào Mỹ và không đánh giá Mỹ quá thấp. “Nếu ai đó sợ Mỹ và nghĩ rằng đụng vào chúng sẽ bị thất bại và tin sự xung đột mạnh mẽ với Mỹ sẽ dẫn đến chiến tranh hạt nhân, sau đó chỉ còn cách duy nhất thoả hiệp và đầu hàng đế quốc Mỹ”. Thông điệp của Nguyễn Chí Thanh rõ ràng nhằm vào Moscow.[26]
Quan điểm của đại tướng Nguyễn Chí Thanh được Lê Duẩn và phe cánh của ông trong Bộ Chính trị ủng hộ, những người bây giờ đang chiếm trọng trách hoạch định chính sách. Với sự đồng loã của bộ trưởng Bộ Công An Trần Quốc Hoàn và đồng minh gần gũi Lê Đức Thọ, Lê Duẩn đã cách ly thành công các đối thủ chính trị trong giới lãnh đạo Đảng. Thủ tướng Phạm Văn Đồng hiện tại không tỏ thái độ. Dù là một nhà quản lý có năng lực và cựu trào cách mạng Hội Thanh Niên Cách mạng ở Quảng Đông, Phạm Văn Đồng khiêm tốn, nhưng thiếu ý chí chiến đấu và thường kêu ca với người thân cận về sự bất lực của mình. Trường Chinh ở tuổi 56 tỏ ra là nguy hiểm hơn. Trinh kiêu ngạo hơn Đồng, cương quyết trong đường lối của Đảng, chắc chắn căm tức Lê Duẩn đã chiếm chức vụ Tổng bí thư của ông để thể hiện ý tưởng giải phóng miền Nam Việt Nam cao hơn nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Dù vậy, ông cũng tỏ ra không thách thức với quyền lực mạnh của đối thủ. Có lẽ lấy lòng Lê Duẩn, Chinh đồng ý bản dự thảo báo cáo chính trị tại Hội nghị IX, do vậy trên thực tế Trinh cũng đứng trong hàng ngũ với Lê Duẩn trong quyết định sắp tới.
Mối đe doạ tiềm năng khác là Võ Nguyên Giáp. Có uy tín trong nhân dân chỉ thua Hồ Chí Minh, tướng Giáp có quan điểm khác với Lê Duẩn và Nguyễn Chí Thanh về vấn đề làm thế nào dẫn dắt cuộc chiến tranh ở miền Nam. Ông phản đối đề xuất của Lê Duẩn về tăng cường chiến tranh du kích, thiên về chủ trương quân sự thông thường, không giống Thanh, ông không muốn đối đầu với Mỹ vì quân đội Nhân dân Việt Nam chưa được huấn luyện và trang bị vũ khí hiện đại. Theo Giáp, sẽ là tự sát nếu khiêu khích Moscow, vì chỉ có Liên Xô mới có thể giúp đào tạo bài bản và có vũ khí hiện đại. Tuy nhiên, giống Phạm Văn Đồng, Giáp nin nhịn trước mặt bộ mặt kiêu ngạo thách thức của Lê Duẩn. Trong những phiên họp Bộ Chính trị ông không phát biểu chống lại một cách mạnh mẽ đề xuất chiến lược mới.
Đối thủ nguy hiểm tiềm năng nhất của phe cánh Lê Duẩn lại chính là Hồ Chí Minh, nhưng lúc này, Lê Duẩn và phe cánh đang ấp ủ thái độ kẻ cả, thậm chí coi thường Hồ, theo quan điểm của họ, những năm gần đây, Hồ mất sự sắc bén về chính trị và bắt đầu lẩn thẩn. Thậm chí có nhiều tin đồn lan truyền ở Hà Nội rằng Lê Duẩn có kế hoạch thay thế chức vụ chủ tịch nước của Hồ Chí Minh bằng Nguyễn Chí Thanh, đồng thời chuyển Hồ sang vị trí ngồi chơi xơi nước - Viện trưởng Viện nghiên cứu chủ nghĩa Marxist - Leninist. Lê Duẩn, tất nhiên, sẽ hoàn toàn kiểm soát Đảng.[27]
Không rõ liệu Hồ Chí Minh có căm giận khi bị gạt ra rìa không, nhưng ông có lẽ vẫn quan tâm chiến lược mới áp dụng ở Nam Việt Nam. Ông nêu rõ, đây là cuộc chiến tranh chiến thuật đối đầu trực diện, có thể ông tán thành chủ trương mà kết quả dẫn đến xung đột trực tiếp với Mỹ. Tương tự, ông thường tìm cách cân bằng những mối quan hệ với Moscow và Bắc Kinh, từ chối chính sách dựa hẳn vào Trung Quốc. Khi tướng Lê Liêm, cựu binh Điện Biên Phủ, cảnh báo Hồ một cách bí mật, bản dự thảo Nghị quyết sắp đưa ra cuối hội nghị toàn thể sẽ có những lời đả kích trực tiếp vào Moscow. Hồ nói làm thế khác gì tát vào mặt người ta, khuyên Liêm phát biểu chống lại bản dự thảo. Nhưng khi Lê Liêm làm như thế, Hồ Chí Minh (giống Võ Nguyên Giáp) ngồi im lặng, không nói một lời. Khi những phát biểu chống Liên Xô trong hội nghị lên đến đỉnh điểm, Hồ lặng lẽ bỏ phòng họp ra ngoài hút thuốc. Mười thành viên Ban Chấp hành Trung ương bỏ phiếu chống lại bản Nghị quyết. Khi một người bạn hỏi Hồ ông bỏ phiếu như thế nào, Hồ lặng thinh. Liệu có phải Hồ Chí Minh bị ban lãnh đạo mới hăm doạ nên phải im lặng?[28]
Ngay khi chiến lược mới được thông qua, vấn đề quan trọng nhất còn lại tại hội nghị toàn thể là làm sao xoa dịu được Liên Xô. Dự thảo nghị quyết đưa ra cuối hội nghị ban đầu đả kích trực tiếp Khrushchev, nhưng, theo yêu cầu của Lê Duẩn, đoạn đó bỏ đi. Lê Duẩn, cũng như các đồng chí của ông, nuôi dưỡng mối nghi ngờ Trung Quốc, không muốn đối đầu với Moscow. Trên thực tế, nghị quyết chỉ ngầm giải thích với giới lãnh đạo Xô viết, tuyên bố rằng mục tiêu cơ bản của chiến lược mới là “hạn chế chiến tranh trong khuôn khổ Nam Việt Nam và để đánh bại kẻ thù trên chiến trường chính”. Thậm chí nếu Washington quyết định can thiệp, “khả năng một cuộc chiến tranh hạn chế ở miền Nam biến thành chiến tranh thế giới hoàn toàn không thể xảy ra và quy mô của cuộc chiến tranh này không thể tạo ra những điều kiện dẫn tới chiến tranh thế giới”. Để bảo đảm với Liên Xô và Trung Quốc đang đau đầu, Bộ Chính trị gửi thư tới những đảng cộng sản anh em giải thích quyết định và tìm sự ủng hộ, sự cảm thông của họ. Bức thư nhằm xoa dịu nỗi sợ chiến tranh mở rộng và đề xuất phe cộng sản ủng hộ những cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc trong Thế giới thứ ba. Bức thư tuyên bố, khái niệm cùng chung sống hoà bình chỉ là sách lược áp dụng giữa những hệ thống thế giới khác nhau, nhưng không phải giữa những người áp bức và kẻ bị áp bức trong một xã hội riêng lẻ. Lập luận hình mẫu cùng chung sống hoà bình và đấu tranh cách mạng là phụ thuộc lẫn nhau, không có mâu thuẫn. Bức thư kết luận, chiếm quyền lực bằng hoà bình trong một xã hội hà khắc chỉ là ảo tưởng.[29]
Dù các lãnh đạo Đảng có cố gắng xoa dịu Moscow muộn màng đi nữa, nhưng thái độ chống Liên Xô và những người bảo vệ Liên Xô đang tăng lên mạnh mẽ ở Hà Nội. Sau khi hội nghị toàn thể kết thúc giữa tháng Mười Hai, một phiên toà bí mật được lập ra theo lệnh Bộ Chính trị khai trừ “bọn xét lại” ra khỏi Đảng. Nhiều nhân vật chính trị lỗi lạc có thiện cảm với quan điểm Liên Xô hoặc bị nghi ngờ chống đối đường lối chính thức bị cách chức hoặc thậm chí bị bắt. Trong số những người bị nghi ngờ nuôi dưỡng quan điểm đó là Bộ trưởng Quốc phòng Võ Nguyên Giáp. Dù Giáp khá nổi tiếng nên không bị đả kích trực tiếp, nhưng phe cánh ông, bao gồm Lê Liêm, đã bị thanh lọc do quan điểm thân Liên Xô. Vài tháng sau đó, Giáp bị một số uỷ viên Bộ chính trị kết tội trao đổi thư riêng với Nikita Khrushchev, nhưng họ không buộc tội được Giáp vì Hồ Chí Minh xác nhận ông biết bức thư này và hoàn toàn tán thành.[30]
Dù bài xích giới lãnh đạo Liên Xô, phe đa số trong Bộ Chính trị nhận thức được sự cần thiết tránh đổ vỡ hoàn toàn với Moscow. Sau khi Hội nghị IX kết thúc, Lê Duẩn, Lê Đức Thọ và phe cánh, nhà thơ cách mạng Tố Hữu, thăm Liên Xô để trình bày quan điểm của Hà Nội. Sự có mặt của Tố Hữu là đáng chú ý. Sinh năm 1920 ở Huế, ông nổi lên là một gương mặt chính trị lớn, ông không công khai lớn tiếng đả kích chủ nghĩa xét lại Liên Xô tại Hội nghị IX. Hồ Chí Minh nằm lại Hà Nội, có lẽ vì ông lường đưọc trước kết quả cuộc hội đàm ở Moscow.
Trên đường tới Liên Xô, đoàn đại biểu dừng chân ngắn ở Bắc Kinh để thảo luận với ban lãnh đạo Trung Quốc. Ở Moscow, những cuộc hội đàm với Liên Xô có lẽ chẳng mấy thành công. Thông cáo chung mơ hồ và cho rằng sự bất đồng về tình hình miền Nam vẫn tiếp tục. Sau khi đoàn đại biểu trở lại Hà Nội, những bài xã luận trên báo chí chính thức ca ngợi vai trò của Trung Quốc lãnh đạo cách mạng toàn cầu và tiếp tục cuộc đả kích gay gắt vào chủ nghĩa xét lại.[31]
Hồ Chí Minh có lẽ nhìn thấy những sự kiện quanh Hội nghị IX và hậu quả của nó với phần nào không hài lòng. Quyết định của Washington chấp thuận đảo chính lật đổ chế độ Diệm làm tăng khát khao tránh một cuộc xung đột trực tiếp ở Nam Việt Nam. Dù Hồ đã xác nhận quyết định leo thang chiến tranh ở miền Nam, ông lo lắng trước thái độ của những đồng sự nóng tính công kích Liên Xô và khủng bố những đồng chí của mình tại Hà Nội, cái đó đi ngược lại với bản tính ôn hoà của ông. Sau khi một thời gian im lặng dài, Hồ cuối cùng lộ diện cuối tháng 3-1964, chủ trì “Hội nghị chính trị đặc biệt” được triệu tập vội vàng để bàn về sự rạn nứt đang gia tăng về chính sách trong nội bộ giới lãnh đạo Đảng. Hồ thiết tha yêu cầu thống nhất hai miền bằng biện pháp hoà bình, tuân thủ với những điều khoản Hiệp định Geneva, nhưng tuyên bố, nhân dân miền Bắc “toàn tâm, toàn ý ủng hộ cuộc chiến đấu yêu nước của đồng bào miền Nam”. Ông tuyên bố cuộc chiến tranh là vất nhơ danh dự của nước Mỹ, kêu gọi nhân dân Mỹ hãy hành động buộc chính phủ Mỹ chấm dứt cuộc chiến tranh bẩn thỉu, xây dựng tình hữu nghị giữa dân tộc hai nước. Cuối cùng, ông kêu gọi thống nhất mục đích của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và cũng như trong phe xã hội chủ nghĩa.[32]
Vài tháng sau, lực lượng nổi dậy ở Nam Việt Nam nỗ lực đánh đổ chế độ Sài Gòn. Như Hồ Chí Minh đã tiên đoán, chế độ Sài Gòn sa lầy trong cuộc đấu đá phe phái và có lẽ không có khả năng chú ý những đe doạ đang gia tăng ở nông thôn. Dù chiến lược của Đảng ở miền Nam bây giờ đã chuyển sang cuộc xung đột vũ trang, tuy vai trò của đấu tranh chính trị vẫn là trọng tâm ngang với đấu tranh vũ trang, điều đáng chú ý lực lượng cách mạng đã hoạt động trong điều kiện thuận lợi. Dù Quân Giải Phóng không có hoả lực và sức mạnh như đối thủ, nhưng lại hưởng lợi do sự kém cỏi về chính trị cố hữu của chính phủ Sài Gòn. Mục đích chiến tranh bây giờ là phối hợp “tổng tấn công và nổi dậy”, dựa trên kế hoạch của Đảng tiến hành những cuộc tấn công vũ trang vào nông thôn và phối hợp với nổi dậy chống lại chính phủ ở những thị trấn và thành phố lớn. Thấy trước kết quả sụp đổ của chế độ Sài Gòn và qua những cuộc thương lượng hình thành chính phủ liên hiệp ba phái gồm những nhân vật trong chế độ Sài Gòn, phái trung lập, và những nhân vật của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam. Vì Đảng đã âm mưu bí mật lôi kéo một số nhân vật trung lập nổi tiếng và có uy tín ở Nam Việt và nước ngoài, chắc chắn rằng chính phủ liên hiệp này sẽ là bàn đạp để dần dần chiếm Nam Việt Nam bởi những lực lượng chính trị trung thành với Đảng.
Hồ Chí Minh tán thành quan điểm của các đồng chí, vấn đề sống còn là thuyết phục Washington hiểu, nhân dân Việt Nam quyết tâm thống nhất đất nước, sẵn sàng hy sinh to lớn và lâu dài để đạt được mục đích. Tại cuộc họp Bộ Chính trị tháng 12-1963, ông nhấn mạnh cần phải tấn công vào bọn xâm lược Mỹ ở Việt Nam. Ông nói, “người Mỹ rất sợ chết”, vì thế họ không cảm thấy tầm quan trọng của chiến tranh. Trong bài báo đăng trên tờ Nhân Dân (vài bài có tên “Mỹ mà xấu”, thể hiện chính thức vấn đề Việt Nam đối với Mỹ, “Đất nước tươi đẹp”), quật Mỹ vì chính sách hiếu chiến trên thế giới và những khó khăn trong nước. Trích một số nguồn tin trên báo chí Mỹ (liên quan đến cuộc chiến tranh chống nghèo khổ mà Lyndon Johnson đang tuyên truyền mạnh mẽ), Hồ vạch ra, không phải chỉ là một xã hội “tươi đẹp”, Mỹ còn phải đối mặt với những vấn đề đau đầu như tỷ lệ tội ác cao, nạn thất nghiệp ngày một gia tăng, nghèo đói lan tràn và sự chia rẽ chủng tộc.[33]
Mùa Xuân và đầu mùa Hè năm 1964, các nhà chiến lược của Đảng vẫn hy vọng công thức tổng tấn công và nổi dậy có thể thành công mà không cần đưa quân đội miền Bắc vào Nam. Sự có mặt của quân đội miền Bắc ở miền Nam có thể khiến Mỹ trả đũa và đưa quân trực tiếp tham gia chiến tranh, điều mà giới lãnh đạo Đảng rất muốn tránh. Tuy nhiên Hà Nội không biết rằng chính quyền Johnson ngày càng muốn có mặt tại Nam Việt Nam. Đầu tháng 8-1964, tàu phóng lôi của hải quân Bắc Việt tấn công Tuần dương hạm Mỹ Maddox ở Vịnh Bắc Bộ. Khi cuộc tấn công lần thứ hai, “hình như” diễn ra một vài giờ sau đó, Nhà Trắng, tìm cớ để tấn công Bắc Việt, tức khắc tung không lực không kích trả đũa vào các cơ sở quân sự ở vùng cán xoong Bắc Việt Nam (Thanh Hoá - Nghệ An). Dù bộ trưởng quốc phòng Robert McNamara tuyên bố, tuần dương hạm Mỹ chỉ “tuần tra thông thường”, nhưng ngay sau đó mọi người ai cũng biết tàu chiến Mỹ tiến hành trinh sát tình báo gần vùng duyên hải Bắc Việt để dò xét khả năng hệ thống radar theo dõi hành động của tàu chiến Mỹ trong vùng. Người ta còn tăng thêm nghi ngờ, khi một những toán biệt kích Nam Việt đang tiến hành một chiến dịch gần đó. Những vị Tư lệnh quân đội Bắc Việt trong vùng này hầu như tin hai chiến dịch đó có liên quan với nhau và ra lệnh tấn công tuần dương hạm Mỹ ngay tại chỗ.
Sự kiện Vịnh Bắc Bộ khiến các lãnh đạo Đảng tin Washington đang chuẩn bị leo thang chiến tranh. Vài ngày sau sự kiện Vịnh Bắc Bộ, Bộ Chính trị quyết định lần đầu tiên những đơn vị Quân Đội Nhân Dân Việt Nam đến đường mòn Hồ Chí Minh. Ngay lập tức ở miền Nam, họ tung sức mạnh của Quân Giải Phóng để có những quả đấm cuối cùng giành thắng lợi mùa xuân năm 1965. Các lãnh đạo Đảng vẫn hy vọng có thể làm sụp đổ chế độ Sài Gòn trước khi Mỹ nhảy vào xung đột. Sau khi kết thúc cuộc họp Bộ Chính trị, Lê Duẩn bay tới Bắc Kinh thông báo với giới lãnh đạo Trung Quốc về quyết định của Hà Nội và tham khảo chiến lược tương lai.[34]
Mao Trạch Đông khuyến khích Bắc Việt theo đuổi chiến lược chiến tranh ở Nam Việt Nam, Mao tin tưởng, dù Quốc hội Mỹ vừa thông qua Nghị quyết về Vịnh Bắc Bộ thì Mỹ cũng không muốn trực tiếp nhảy vào xung đột ở Nam Việt Nam, bởi vì xung đột sẽ mở rộng trên thế giới và Mỹ thiếu quân lính đưa đến Đông Nam Á. Mao nói với Lê Duẩn, người Mỹ “không muốn đánh nhau” ở Đông Dương. Do vậy, cả Hà Nội và Bắc Kinh đều không muốn xung đột lan ra, “sẽ không có chiến tranh”. Trong khi đó, Mao không tin vào một dàn xếp thương lượng vì tình hình Nam Việt Nam vẫn chưa đủ thuận lợi cho Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Như ông nhấn mạnh với Phạm Văn Đồng trong cuộc hội đàm ở Bắc Kinh vài tuần sau đó: “Dù các đồng chí thắng thêm nhiều trận, nhưng chúng vẫn không nao núng. Khi Pháp bại trận họ sẵn sàng chấp nhận đàm phán với các đồng chí, đó là chuyện thời xa xưa”.
Mao thừa nhận, Mỹ trái ngược với mong đợi, có thể quyết định đưa quân vào Nam Việt Nam, hoặc thậm chí đánh ra miền Bắc. Sau cùng, Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ cho phép tổng thống Johnson có những hành động mà ông cho là cần thiết để bảo vệ lợi ích an ninh Mỹ ở Đông Nam Á. Trong hoàn cảnh đó, Mao khuyên Việt Nam đừng đương đầu với quân đội Mỹ tại duyên hải, tránh đánh nhau trực tiếp, rút quân về đất liền, để có thể tiến hành chiến tranh du kích chống lại Mỹ. Trong cuộc chiến tranh có thể kéo dài một trăm năm, Mao hứa Trung Quốc sẽ giúp đỡ bằng câu thành ngữ “Rừng xanh còn đây, lo gì thiếu củi”.[35]
Vài tuần lễ sau, Bắc Kinh thực hiện lời hứa. Những đơn vị quân đội và không quân ở nam Trung Hoa được đặt trong trình trạng sẵn sàng chiến đấu và điều động thêm quân tới vùng này. Những cuộc tuần hành chống Mỹ do Bắc Kinh chỉ huy nổ ra khắp Trung Quốc, báo chí chính thức Trung Quốc hứa ủng hộ mạnh mẽ Việt Nam. Dù vậy, lãnh đạo Việt Nam xác định chiến đấu dựa vào sự giúp đỡ của Trung Quốc và nhưng từ chối đề nghị của phó thủ tướng Đặng Tiểu Bình hứa giúp đỡ mạnh hơn nếu Việt Nam Dân chủ Cộng hoà cắt đứt mối quan hệ với Moscow.
Sự kiện Vịnh Bắc Bộ làm tăng mối quan hệ của Hà Nội với Bắc Kinh lại làm cho mối ràng buộc với Moscow xấu đi. Liên Xô phản ứng trước tình hình với sự lập lờ, chỉ đơn thuần lên án Mỹ tấn công Bắc Việt Nam, vài lời yêu cầu thống nhất Việt Nam bằng hoà bình. Sau khi rời Bắc Kinh, Lê Duẩn đến Moscow giữa tháng Tám, Liên Xô nhấn mạnh cần phải dàn xếp thương lượng để chấm dứt xung đột ở Việt Nam, nhưng trì hoãn chính thức công nhận về mặt ngoại giao Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam là chính quyền hợp pháp duy nhất của Nam Việt Nam.
Tuy nhiên, tình hình thay đổi giữa mùa Thu, Nikita Khrushchev bị phe Leonid Brezhnev lật đổ. Ngày 16-10-1964, ngay sau khi biết tin, Hồ Chí Minh và Lê Duẩn gửi một bức thư ngắn chúc mừng Brezhnev, Bí thư thứ nhất Đảng cộng sản Liên Xô. Bức thư này cũng cẩn thận cân bằng một thông điệp gửi Bắc Kinh một ngày sau đó, chúc mừng Trung Quốc lần đầu tiên thử thành công bom khinh khí.
Hồ Chí Minh vui mừng trước sự xuất hiện ban lãnh đạo mới ở Moscow, không những do triển vọng sáng sủa tăng viện trợ quân sự của Liên Xô, còn tăng khả năng Việt Nam Dân chủ Cộng hoà duy trì được mối quan hệ cân bằng giữa hai cường quốc. Thậm chí đối với Lê Duẩn, Nghị quyết Hội nghị IX nghiêng về Bắc Kinh có ý nghĩa sách lược hơn là sự thay đổi chiến lược. Tháng 11-1964, Phạm Văn Đồng được cử đến Moscow đánh giá thái độ của ban lãnh đạo mới Liên Xô. Lần này Đồng được nồng nhiệt đón tiếp. Ban lãnh đạo Xô viết hứa viện trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và hứa ủng hộ thêm nữa nếu Mỹ mở rộng chiến tranh ra Bắc Việt. Để tỏ lòng chân thực, Liên Xô cho phép mở văn phòng đại diện Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ở Moscow. Đổi lại, Hà Nội cam kết không đả kích công khai chính sách Liên Xô và cố gắng hạn chế cuộc chiến trong phạm vi Nam Việt Nam. Hà Nội bây giờ đã có được những lời hứa chắc chắn ủng hộ từ cả hai nước đàn anh.[36]
Mùa thu năm 1964, chế độ Sài Gòn tiếp tục bất ổn, do các tướng lĩnh và chính khách đấu đá giành quyền lực mặc cho Mỹ tức giận. Trong khi đó, tình hình quân sự ở miền Nam càng trở nên bi đát hơn bao giờ hết. Thiếu sự chỉ huy từ cấp trên, quân đội Việt Nam Cộng Hòa chẳng muốn chiến đấu, thậm chí còn lén lút thoả thuận với Việt Cộng trong vùng. Tình báo Mỹ tiên đoán, nếu Mỹ không hành động cương quyết, chính phủ Sài Gòn sẽ sụp đổ trước những người cộng sản trong vòng từ ba đến sáu tháng. Hà Nội cũng có quan điểm đó, khi các lãnh đạo Đảng ra lệnh Trung ương Cục Miền Nam cố gắng đạt được thắng lợi cuối cùng. Những chỉ thị tấn công khủng bố vào cơ sở Mỹ ở Nam Việt Nam như một cách cảnh báo Washington, leo thang có thể dẫn đến tăng số thương vong của Mỹ. Ngày 31-10-1964, Việt Cộng tấn công căn cứ không quân Mỹ tại Biên Hoà, giết bốn lính Mỹ, làm bị thương hơn 30 người khác. Những vụ đánh bom khác diễn ra ở trung tâm Sài Gòn, tại khách sạn Caravelle, nơi các nhà báo phương Tây thường trú và cư xá sĩ quan Mỹ Brink trên ngã tư đường Hai Bà Trưng, ngay đêm đón Giáng Sinh, giết hai người Mỹ.[37]
Ban lãnh đạo Trung ương Cục Miền Nam không quá lạc quan như cấp trên ở miền Bắc. Tổng kết cuối năm, họ cho rằng Quân Giải Phóng chưa đủ sức giáng những đòn mạnh trực tiếp vào kẻ thù. Nhưng, vào tháng 12-1964, Việt Cộng nện một đòn chí mạng vào quân đội Việt Nam Cộng Hòa gần làng Bình Giã, cách Sài Gòn 45 km về phía đông, các nhà chiến lược ở Hà Nội cho rằng trận Bình Giã thể hiện khả năng Quân Giải Phóng có thể đánh bại lực lượng chính quy Sài Gòn. Thậm chí, một người vốn thận trọng như Hồ Chí Minh cũng hân hoan đánh giá Bình Giã là một “Điện Biên Phủ thu nhỏ”. Trong bức thư tháng 2-1965, gửi Nguyễn Chí Thanh, vừa được bổ nhiệm làm Tổng tư lệnh tất cả các lực lượng nổi dậy ở miền Nam, Lê Duẩn kêu gọi phát động mọi nỗ lực để đánh đổ chế độ Sài Gòn trước khi Mỹ có thể quyết định xem có đưa lính bộ binh vào miền Nam hay không. Lê Duẩn tin, nếu đưa bộ binh vào miền Nam, Nhà Trắng sẽ không còn con đường nào khác ngoài việc thương lượng, cuối cùng Mỹ phải rút quân. Lê Duẩn không bảo đảm thắng lợi, nhưng - trích lời Lenin - ông nhấn mạnh, “Cứ làm, rồi khắc biết”. Thậm chí nếu chiến dịch không thành công hoàn toàn, họ sẽ ở thế vượt trội để bù lại và làm lại.[38]
Lần này, Hà Nội đã hành động quá muộn. Ngày 7-2-1965, Việt Cộng tấn công Trại Lực lượng Đặc biệt Mỹ tại Pleiku, một tỉnh lỵ ở Tây Nguyên, giết tám người Mỹ, làm bị thương hơn một trăm người khác. Ngay ngày hôm đó, tổng thống Johnson ra lệnh không kích trả đũa Bắc Việt Nam. Đây là cuộc tấn công đầu tiên mở màn cho một loạt các cuộc ném bom hàng loạt mở rộng trên nhiều vùng lãnh thổ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, bao gồm những thành phố lớn. Tháng 3-1965, Johnson ra lệnh đưa hai tiểu đoàn thuỷ quân lục chiến Mỹ tới Nam Việt Nam bảo vệ căn cứ không quân Mỹ ở Đà Nẵng. Ngay sau đó gửi thêm hai tiểu đoàn thuỷ quân lục chiến bổ xung, như đại tướng William Westmoreland, tư lệnh lực lượng Mỹ ở Nam Việt Nam, lập luận, nếu không có sự hiện diện của lực lượng chiến đấu của Mỹ, “Việt Cộng sẽ chiếm miền Nam” chỉ trong vòng một năm.
Trong khi đó, những mối quan hệ giữa Liên Xô và Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tiếp tục cải thiện. Đầu tháng 2-1965, Alexei Kosygin, tân thủ tướng Liên Xô, thăm Hà Nội. Trong cuộc hội đàm với Hồ Chí Minh và những nhà lãnh đạo Bắc Việt Nam, Kosygin hứa “ủng hộ và sự giúp đỡ tất cả những nhu cầu cần thiết” cho Bắc Việt Nam và Moscow cam kết tăng viện trợ quân sự, bao gồm tên lửa phòng không, pháo phòng không. Đổi lại, Bắc Việt Nam hứa hết sức giới hạn chiến tranh ở miền Nam không để lan rộng và tìm giải pháp thương lượng.
Các cuộc gặp với lãnh đạo Trung Quốc không có kết quả. Việc Bắc Kinh từ chối lời đề nghị của Kosygin ra bản tuyên bố chung ủng hộ sự nghiệp Việt Nam, làm Hà Nội tức giận. Trong chuyến thăm Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đầu tháng 3-1965, Chu Ân Lai giải thích, Trung Quốc từ chối lời đề nghị đó vì chính sách đối ngoại mới mà Liên Xô thực hiện chính là “Chủ nghĩa Khrushchev không có Khrushchev”. Chu Ân Lai cũng tìm cách thuyết phục Việt Nam từ chối viện trợ quân sự của Liên Xô, thẳng thừng cảnh báo, việc tăng hiện diện của Liên Xô ở Việt Nam Dân chủ Cộng hoà có thể gây nguy hiểm quan hệ Trung - Việt.[39]
Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị toàn thể lần thứ XI ngày 26-3-1965, xem xét mục tiêu phản ứng của Washington trước tình hình xấu đi ở Nam Việt Nam trở nên rõ nét, thậm chí nếu không phải là mục tiêu tối thượng. Có lẽ, một số lãnh đạo đảng phán đoán, Mỹ chỉ mở rộng chiến tranh để thương lượng trên thế mạnh. Nếu vậy, không cần thay đổi ngay chiến lược đang sử dụng để giành thắng lợi và không phải đưa nhiều bộ đội chính quy Bắc Việt Nam vào Nam. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cho rằng tình hình có vẻ nguy hiểm hơn. Sau sự kiện Vịnh Bắc Bộ những vụ không kích của mạnh Mỹ khiến ông tin, chính quyền Johnson đã quyết định chiến lược cố giữ Nam Việt Nam. Tại cuộc họp Bộ Chính trị cuối tháng 2-1965, ông cảnh báo đừng đánh giá thấp Mỹ. Theo Hồ, điều vô cùng quan trọng là kìm chế cuộc xung đột ở mức “chiến tranh đặc biệt” (nghĩa là, để Mỹ không ồ ạt đưa quân đội vào miền Nam), hơn là tiến đến giai đoạn tiếp “chiến tranh hạn chế” với bộ binh Mỹ nhảy vào chiến đấu.[40]
Vì không đánh giá được những ý định của Mỹ, Hội nghị toàn thể lần thứ XI tiếp tục chọn chính sách hiện hành, đồng thời tìm hiểu liệu Nhà Trắng có muốn thương lượng Mỹ rút quân hay không. Trong thời gian mùa Thu và mùa Đông năm 1964-1965, Hà Nội đã bác bỏ đề nghị hoà bình của Mỹ cho rằng Mỹ chưa thối chí, vẫn tin vào thắng lợi cuối cùng. Bây giờ các lãnh đạo Đảng chuẩn bị thăm dò dư luận thế giới. Ngày 22-3-1965, đài phát thanh Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, đưa ra một loạt điều kiện để dàn xếp hoà bình, đó là đề nghị năm điểm, tuyên bố cuộc hội đàm có thể bắt đầu nếu Mỹ rút quân khỏi Nam Việt Nam. Vài ngày sau, Đài Phát Thanh Hà Nội phát lại bản tuyên bố của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, nhưng có sửa đổi đôi chút, ngụ ý, không cần toàn bộ quân Mỹ rút trước khi mở cuộc đàm phát mà chỉ cần Washington hứa thực hiện việc đó. Sau đó, ngày 8-4-1965, Phạm Văn Đồng đề xuất tuyên bố “bốn điểm” của Hà Nội, kêu gọi rút tất cả quân đội nước ngoài ra khỏi Việt Nam, trở lại những điều khoản Hiệp định Geneva, giải quyết công việc nội bộ Nam Việt Nam theo cương lĩnh của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, sau đó thống nhất hai miền bằng phương pháp hoà bình. Bản tuyên bố này không nêu thời gian Mỹ rút quân và Hồ Chí Minh mập mờ nói với nhà báo Nhật, Washington phải rút quân để tạo ra những điều kiện thuận lợi cho hội nghị hoà bình.[41]
Như thường lệ, Hồ Chí Minh đóng vai trò tích cực trong việc chỉ huy chiến dịch hoà bình của Hà Nội. Trong những phiên họp Bộ Chính trị ông kêu gọi chuẩn bị khả năng mở lại hội nghị Geneva, hễ khi nào Washington tỏ ra đồng ý rút quân, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẵn sàng tạo thuận lợi thực hiện. Đồng thời, ông lập luận quan điểm chống chiến tranh ở Mỹ, ở khắp nơi trên thế giới đang nổi lên và những nước đồng minh của Hà Nội thận trọng bàn bạc. Ông khuyên, chiến dịch hoà bình không những phải tỏ ra vững chắc và quyết tâm, mà còn phải được tiến hành một cách khôn khéo và mềm dẻo.
Nếu Hà Nội có chút hy vọng nào Nhà Trắng sẵn sàng thương lượng thì chẳng mấy chốc họ phải thất vọng. Đầu tháng 4-1965, ngay đúng lúc Phạm Văn Đồng đang chuẩn bị tung ra đề nghị “bốn điểm”, Tổng thống Johnson ra lệnh đưa hai sư đoàn bộ binh Mỹ vào Việt Nam để củng cố các vị trí ở Tây Nguyên. Sau đó, ngày 7-4-1965, trong bài phát biểu tại Đại học Johns Hopkins ông đề nghị mở những cuộc thương lượng hoà bình”không điều kiện”, mặc dù ông không gợi ý những nhượng bộ chính của Mỹ để tiến hành việc đó. Trong khi đó các nhà lãnh đạo Đảng lập tức kết luận, Nhà Trắng vẫn không sẵn sàng xem xét việc dàn xếp theo những điều khoản của Hà Nội và không có thiện chí thương lượng.
Thái độ cứng rắn của Washington chắc chắn làm cho phe chủ chiến như Lê Duẩn tin thắng lợi chỉ có thể trên chiến trường chứ không phải tại bàn đàm phán hoà bình như Hồ Chí Minh hy vọng. Trong một bức thư gửi tướng Nguyễn Chí Thanh tháng 5-1965, Lê Duẩn kết luận, việc Mỹ đưa quân vào chứng tỏ, hoàn cảnh chưa chín muồi cho thương lượng. “Chỉ khi nào cuộc nổi dậy ở Nam Việt Nam thắng lợi thì vấn đề hình thành một chính quyền trung lập mới đem ra bàn lại”. Dù chương trình “bốn điểm” vẫn nằm trên bàn, họ chỉ “dự định dọn đường cho Mỹ rút quân, ít mất thể diện nhất”.[42]
Vai trò của Trung Quốc trở nên đặc biệt quan trọng khi cuộc chiến bắt đầu leo thang đầu năm 1965. Trong khi viện trợ Liên Xô giúp Hà Nội những vũ khí tối tân để phòng thủ Bắc Việt, đánh trả những trận không kích của Mỹ, thì Trung Quốc rất coi quan trọng về cả lĩnh vực quân sự và và viện trợ kinh tế để ngăn Mỹ đưa chiến tranh trực tiếp ra miền Bắc. Trong các tuyên bố chung và riêng, giới lãnh đạo Trung Quốc hứa, Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa là”hậu phương lớn” giúp đỡ Việt Nam dưới mọi hình thức để ủng hộ sự nghiệp thống nhất đất nước. Một quan trọng không kém với Hà Nội là Bắc Kinh ngầm ý đe doạ, nếu Mỹ quyết định đưa quân ra phía bắc khu phi quân sự, Trung Quốc sẽ nhảy vào trực tiếp chiến đấu sát cánh với Bắc Việt Nam.
Mao Trạch Đông lúc này đang bận rộn các cuộc đấu đá lớn với những kẻ thù thực dụng hơn trong nội bộ giới lãnh đạo Đảng cộng sản Trung Quốc, nên cuộc chiến tranh lan rộng ở Việt Nam được Mao lợi dụng như cái cớ để kích động nhiệt huyết cách mạng trong nước, đồng thời dìm Mỹ vào vũng lầy cuộc chiến tranh không thể thắng được ở Đông Nam Á.
Tháng 4-1965, khi Lê Duẩn và Võ Nguyên Giáp tới Bắc Kinh yêu cầu vũ khí, phi công chiến đấu để bảo vệ không phận Bắc Việt Nam, Lưu Thiếu Kỳ (sau đó ít lâu bị thanh trừng trong Cách mạng văn hoá) tỏ ra đồng ý đòi hỏi như là cách nâng cao tinh thần Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nhận bảo vệ không phận Bắc Việt từ vĩ tuyến 20, sát ngay phía nam đồng bằng sông Hồng. Tháng 5-1965, Hồ Chí Minh tới thăm Bắc Kinh, Mao đồng ý cung cấp “bất cứ thứ gì mà Việt Nam cần”. Mao cử những toán công nhân làm đường để giúp Việt Nam cải thiện mạng lưới giao thông vận tải, gồm đường mòn Hồ Chí Minh và những con đường từ biên giới Trung Hoa dẫn vào Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, xây dựng những tuyến đường từ bắc Lào tới Thái Lan. Mao nhấn mạnh, những tuyến đường từ bắc Lào tới Thái Lan sẽ đặc biệt hữu ích cho “những trận đánh lớn sau này”. Đáp lại, Hồ tỏ lòng biết ơn sự ủng hộ của “các đồng chí anh em” Trung Quốc và hứa Việt Nam sẽ tự tiến hành chiến tranh bằng cách đưa quân vào Nam Việt Nam.[43]
Tuy nhiên, Bắc Kinh đề phòng phải đối đầu trực tiếp với Washington, càng thận trọng hơn khi tính đến dính líu sâu hơn vào cuộc chiến Đông Dương. Trong cuộc phỏng vấn với nhà báo Mỹ Edgar Snow tháng 1-1965, Mao tuyên bố, Trung Quốc sẽ không nhảy vào tham chiến trừ khi bị tấn công trực tiếp - đây là một tín hiệu ngầm để Washington hiểu, Mỹ có thể leo thang trong phạm vi ở Nam Việt chừng nào mà họ chưa đem quân ra Bắc Việt. Tháng 4-1965, Chu Ân Lai qua trung gian tổng thống Pakistan Ayub Khan gửi một thư riêng cho Washington nói, Trung Quốc không muốn kích động chiến tranh với Mỹ, nhưng sẽ phải thực hiện nghĩa vụ quốc tế ủng hộ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Chu Ân Lai nhấn mạnh nếu chính quyền Johnson quyết định mở rộng chiến tranh ra khỏi bờ cõi Nam Việt Nam thì ngọn lửa chiến tranh lan ra xa, Trung Quốc buộc phải dập tắt chúng. Trong trường hợp đó rất khó ngăn được chiến tranh thế giới bùng nổ. Chu Ân Lai kết luận, kể cả nếu chiến tranh không lan tới Trung Hoa “Trung Quốc vẫn sẽ ủng hộ Việt Nam, chừng nào Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam còn yêu cầu”.[44]
Tháng 5-1965, tướng Văn Tiến Dũng tới Trung Hoa để hoàn thành chi tiết hiệp định viện trợ Trung - Việt. Nếu tình hình vẫn không thay đổi, Việt Nam sẽ tự chiến đấu với viện trợ của Trung Quốc. Nếu Mỹ đem không quân và hải quân tấn công Bắc Việt Nam, Trung Quốc sẽ đưa không quân và hải quân sang giúp. Nếu bộ binh tấn công Bắc Việt Nam, Trung Quốc sẽ đưa bộ binh sang làm quân hậu bị chiến lược và tiến hành những nhiệm vụ khi cần thiết.
Vì thế Trung Quốc đồng ý cung cấp một khoản viện trợ lớn cho Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trong cuộc chiến đấu với Mỹ. Nhưng có những dấu hiệu cho thấy mối bất hoà giữa Trung Quốc, Liên Xô và Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Trong cuộc phỏng vấn của Edgar Snow tháng 1-1965, Mao Trạch Đông đã làm cho Bắc Việt Nam sợ những lời phát biểu của ông sẽ khuyến khích Mỹ tin có thể leo thang chiến tranh ở Nam Việt Nam mà không sợ bị trừng phạt. Sau đó, vào tháng 7-1965, Bắc Kinh từ chối đưa phi công chiến đấu giúp Bắc Việt Nam bảo vệ không phận. Trong một bài báo, được coi là một thông điệp gửi Hà Nội, nguyên soái Lâm Bưu kêu gọi Việt Nam phải “tự lực cánh sinh”, giống như Trung Quốc đã làm trong nội chiến với Tưởng Giới Thạch. Lê Duẩn giận dữ phản đối và bỏ đi Liên Xô, nơi ông ca ngợi là “tổ quốc thứ hai”.[45]
Việc Trung Quốc từ chối đưa phi công chiến đấu sang Việt Nam Dân chủ Cộng hoà có thể do Bắc Kinh thay đổi quan điểm. Mùa Xuân và mùa Hè năm 1965, Moscow công khai đề nghị Trung - Xô phối hợp giúp đỡ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thì ở Bắc Kinh nổ ra tranh cãi nảy lửa về vấn đề Trung Quốc nên dính líu vào cuộc xung đột này ở mức độ nào. Một số nhà lãnh đạo Trung Quốc cho đó là “nghĩa vụ quốc tế” giúp đỡ nước anh em đang kiệt sức, còn những người chống Liên Xô cho Moscow mưu mô xảo quyệt đẩy Trung Quốc đối đầu trực tiếp với Mỹ. Cuối cùng, Bắc Kinh bác bỏ đề nghị của Liên Xô cùng thống nhất hành động, đồng thời cảnh báo Bắc Việt Nam về sự xảo trá Liên Xô. Trong chuyến thăm Quảng Châu tháng 11-1965, Chu Ân Lai cảnh giác Hồ Chí Minh, sự giúp đỡ của Liên Xô cho Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nhằm cô lập Trung Quốc cải thiện mối quan hệ Mỹ - Liên Xô và khuyên Hà Nội từ chối sự giúp đỡ của Liên Xô.[46]
Số lượng quân đội Mỹ ở miền Nam tăng đều đặn trong năm 1965, đến cuối năm 1965 lên đỉnh cao 200.000 quân. Nhận thấy chiến lược Mỹ ở Nam Việt Nam đã leo thang từ “chiến tranh đặc biệt” thành “chiến tranh hạn chế” với sự tham gia hoàn toàn lính chiến đấu Mỹ, tháng 12-1965, Ban Chấp hành Trung ương Đảng thông qua kế hoạch đưa số lượng lớn quân đội chính quy Bắc Việt để cân xứng với sự leo thang của Mỹ. Tướng Nguyễn Chí Thanh đã chỉ đạo quân đội giao chiến trực tiếp với Mỹ tại một số địa điểm chọn trước, nhằm chứng minh khả năng đối đầu trên chiến trường. Trong khi đó một số các nhà chiến lược hàng đầu của Đảng kể cả Võ Nguyên Giáp chống lại chiến lược của Nguyễn Chí Thanh chủ trương “năng động” được Lê Duẩn ủng hộ, người coi Giáp là “nhát như thỏ đế” sợ đối đầu kẻ thù trực tiếp.
Lúc này, sức khoẻ Hồ Chí Minh ngày càng yếu, không còn tham gia tích cực trong việc hoạch định chiến lược chiến tranh. Khi sức khoẻ cho phép, ông đóng góp ý kiến trong những phiên họp Bộ Chính trị. Dù ông muốn có những biện pháp để giảm bớt nguy cơ Mỹ can thiệp, bây giờ ông ủng hộ mạnh mẽ tăng vai trò miền Bắc trong leo thang chiến tranh, với lý do Mỹ phải biết rõ nhân dân Việt Nam hoàn toàn quyết tâm thống nhất đất nước bằng bất cứ giá nào. Ông khẳng định, nhân dân Bắc Việt Nam có mọi quyền ủng hộ người anh em của họ chống lại “chiến tranh xâm lược” của Mỹ ở miền Nam. Ông cảnh báo, chiến tranh sẽ tiếp tục leo thang, vì Mỹ bây giờ tin, nếu thất bại sẽ là một thảm hoạ tác động tới các mục tiêu toàn cầu của Mỹ và Mỹ muốn thương lượng trên thế mạnh. Nhưng ông kết luận “chúng ta sẽ chiến đấu bằng bất cứ cách nào mà kẻ thù muốn và chúng ta sẽ chiến thắng”.
Hồ cho rằng bây giờ chưa phải là lúc chín muồi để thương lượng. Ông tin lực lượng cách mạng sẽ đấu tranh trên cả hai mặt trận chiến đấu và thương lượng, nhưng trong thời gian này chiến đấu phải ưu tiên, dùng ngoại giao để phục vụ chiến trường. Sẽ thương lượng nếu Mỹ đồng ý từ bỏ không điều kiện ném bom Bắc Việt Nam, chấp nhận tuyên bố “bốn điểm” của Hà Nội làm lộ trình giải quyết xung đột. Trong khi đó, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà phải trình bày quan điểm đàm phán của mình rõ ràng để thế giới thấy được bản chất dối trá trong những đề nghị của Mỹ. Hồ Chí Minh và các đồng chí của ông nhận thức được phong trào phản chiến đang lớn mạnh tại Mỹ. Ông nhấn mạnh cần phải tấn công quân đội Mỹ cũng như chế độ Sài Gòn. Điều này không những suy yếu vị thế của chúng trên chiến trường mà còn làm tăng sức mạnh của những nhân vật bồ câu trong Quốc Hội và công chúng Mỹ.[47]
Chiến tranh ở Nam Việt Nam ngày càng khốc liệt và Hà Nội càng phải dựa vào vũ khí Liên Xô khiến quan hệ Trung - Việt căng thẳng. Trung Quốc nhắc nhở lãnh đạo Việt Nam phải đề phòng bọn phản bộ Liên Xô. Bắc Kinh khuyên Việt Nam tiến hành đấu tranh cách mạng như thế nào và khi nào mở thương lượng hoà bình với Mỹ - Chu Ân Lai vạch ra rằng Trung Quốc có nhiều kinh nghiệm ngoại giao với Washington hơn Việt Nam - khiến Hà Nội nhớ lại những kỷ niệm cay đắng về thái độ kiêu ngạo và coi thường người khác của Trung Quốc. Hồng Vệ Binh (tình nguyện tới Việt Nam Dân chủ Cộng hoà những năm trước khi xảy ra Cách mạng Văn Hoá) làm dân chúng Bắc Việt bực tức khi nhớ tới những cố vấn Trung Quốc trong Cải cách ruộng đất miệng hô như con vẹt các khẩu hiệu Maoist. Như Chu Ân Lai sau này thú nhận với một đồng sự, Cách mạng văn hoá không phải lúc nào cũng đi đúng đường.
Đến mùa Xuân năm 1966, căng thẳng giữa Hà Nội và Bắc Kinh đã đến mức nguy hiểm. Trong một bài phát biểu tháng 5-1966, Lê Duẩn cạnh khoé đáp trả bài báo tháng 9-1965 của Lâm Bưu về “tinh thần tự lực cánh sinh”. Lê Duẩn tuyên bố, Hà Nội nghiên cứu kỹ những kinh nghiệm của các đảng anh em trong thực tế đấu tranh cách mạng, nhưng tìm cách để áp dụng những kinh nghiệm đó một cách sáng tạo và không áp dụng một cách máy móc. Lê Duẩn tuyên bố “Không phải ngẫu nhiên trong lịch sử dân tộc ta, mỗi khi đứng lên chống giặc ngoại xâm, chúng ta đều quyết chiến đấu”. Một tín hiệu thêm cho thấy Hà Nội không còn kiên nhẫn nữa, báo chí Việt Nam cũng bóng gió nói về sự đe dọa từ phía Bắc của các hoàng đế Trung Hoa thời phong kiến.
Bắc Kinh cũng nhanh chóng nhận ra sự căng thẳng này. Giữa tháng 4-1966, khi tiếp Phạm Văn Đồng, Mao đã xin lỗi về thái độ ngỗ ngược của bọn Hồng vệ binh, “Nếu chúng nó phá, các đồng chí cứ bắt giao lại cho chúng tôi”. Chu Ân Lai phản ứng trước lời phê bình cạnh khoé của Lê Duẩn về vấn đề Trung Quốc gây sức ép Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Chu Ân Lai hỏi liệu các đồng chí Việt Nam có lo lắng rằng Trung Quốc đang cố gắng áp đặt sự thống trị trong lịch sử đối với Việt Nam. Ông đáp, nếu thế, Bắc Kinh vui lòng rút quân đội ra khỏi Bắc Việt Nam (bấy giờ lên đến hơn 100.000 người), cũng như những đơn vị bổ xung đang đóng ở các tỉnh dọc biên giới Trung Quốc.
Không muốn xúc phạm Trung Quốc, Lê Duẩn hạ giọng hoà giải. Ông cám ơn sự giúp đỡ của Trung Quốc là một bảo đảm quan trọng cho sống còn của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và thành công sắp tới mang lại thống nhất đất nước. Nhưng Lê Duẩn nhấn mạnh tầm quan trọng của mối quan hệ giữa Hà Nội với Moscow, nói riêng là bắt đầu chủ nghĩa thực dụng, cho rằng ngay cả Trung Quốc cũng đã từng áp dụng tại những thời điểm khác nhau trước đây. Về phần cho là Liên Xô phản bội học thuyết cách mạng, Lê Duẩn nhận xét cần phải có thái độ hoà giải đối với những nước “cải cách” (nghĩa là chủ nghĩa xét lại) trong phe xã hội chủ nghĩa là cách thuyết phục họ trở lại nguyên tắc cách mạng.
Cuối cùng, bản thân Hồ Chí Minh cũng lao vào cuộc tranh cãi. Khi Hồ gặp giới lãnh đạo Trung Quốc, Chu Ân Lai thẳng thừng buộc tội ông “anh đang hăm doạ chúng tôi”. Chu Ân Lai nhắc lại đề nghị của ông di chuyển tất cả quân đội Trung Quốc ra khỏi các tỉnh biên giới nếu họ gây ấn tượng uy hiếp Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Đặng Tiểu Bình ngắt lời, nói lực lượng đó chỉ duy nhất để chống lại khả năng Mỹ can thiệp. Hồ lập tức phản đối chính phủ ông không có ý định hăm doạ Trung Quốc và tuyên bố Việt Nam cảm thấy thoải mái việc quân đội đóng ở phía bắc biên giới. Mối quan hệ căng thẳng Trung - Việt đánh dấu sự rạn nứt bắt đầu, nhưng mầm mống sự bực bội trong tương lai và nghi ngờ lẫn nhau đang nẩy mầm.[48]
Suốt năm 1966, xung đột ở Nam Việt Nam tăng mạnh. Để tránh thất bại nhục nhã ở Đông Nam Á, chính quyền Johnson đều đặn đổ thêm quân. Lúc này, quân Mỹ bắt đầu thực hiện những chiến dịch “tìm và diệt” để phá vỡ phong trào kháng chiến và dồn lực lượng nổi dậy từ vùng đồng bằng lên Tây Nguyên và dọc biên giới Campuchia, cắt đứt việc tuyển quân và tiếp tế. Quân đội Sài Gòn chủ yếu làm nhiệm vụ bình định và hoạt động trong đô thị, các vùng đông dân ở đồng bằng Cửu Long cùng các tỉnh duyên hải. Quân đội Mỹ và Nam Việt Nam tiến hành những cuộc hành quân chung đánh Chiến khu D và những khu vực khác quanh Sài Gòn.
Tướng Nguyễn Chí Thanh tiếp tục chiến lược đối đầu, ra lệnh tấn công hàng loạt các đồn bốt địch khắp Nam Việt Nam. Theo quan điểm của Thanh và của những người ủng hộ ông ở Hà Nội, nếu chùn lại tấn công không những làm giảm tinh thần cách mạng quần chúng, mà còn giảm sức ép đối với Washington đi đến thương lượng. Trong thời gian này, các lãnh đạo Đảng đã quyết định duy trì sức ép trên chiến trường gây thương vong cao nhất cho Mỹ và thúc đẩy tâm lý chống chiến tranh ở Mỹ. Những đơn vị bộ đội mới đưa từ Bắc Việt Nam vào đảm nhận chiến đấu ở Tây Nguyên và ở các tỉnh phía bắc Nam Việt Nam, còn Quân Giải Phóng tiếp tục tích cực chiến đấu chống lại những cuộc hành quân của quân đội Sài Gòn ở đồng bằng Cửu Long.
Chiến lược này cực kỳ tốn xương máu, vì Hà Nội có thể không hy vọng ngang sức với Mỹ về hoả lực mà phải dựa vào đông quân và yếu tố bất ngờ. Trong vài tháng, tướng Nguyễn Chí Thanh cố gắng duy trì thế chủ động trên chiến trường. Người ta nghi ngờ con số 300.000 Việt Cộng và Bắc Việt Nam thương vong theo cách “đếm đầu” của Mỹ và cho rằng con số bị thổi phồng, nhưng chắc chắn mất mát của Hà Nội cũng khá cao. Để duy trì lực lượng, liên tục bổ sung quân từ miền Bắc, nghe đồn lúc này lên tới hơn 50.000 hàng năm.
Mùa Hè năm 1966, nổ ra tranh cãi mạnh ở Hà Nội về chiến lược hiếu chiến của Nguyễn Chí Thanh ở miền Nam, cho đến lúc này chẳng mang lại lợi ích rõ ràng gì cả. Chính phủ Việt Nam Cộng Hoà vẫn không ổn định, nhưng nguy cơ sụp đổ bớt đi nhiều từ mùa hè năm 1965, khi nhóm “tướng trẻ” Nguyễn Cao Kỳ và Nguyễn Văn Thiệu đã dẹp một loạt các cuộc đảo chính và phản đảo chính tại Sài Gòn những tháng trước đây. Dưới sức ép của Mỹ, chính quyền Sài Gòn tiến hành chuẩn bị dự thảo bản hiến pháp mới và tổ chức bầu cử tổng thống. Phong trào hoà bình ở Mỹ đang tăng lên mạnh mẽ, có lẽ chiếm được sự ủng hộ rộng rãi của nhân dân Mỹ, nhưng không có dầu hiệu thay đổi chính sách của Nhà Trắng. Những người phê bình Nguyễn Chí Thanh ở Hà Nội, kể cả đối thủ lâu dài của Thanh là Võ Nguyên Giáp, bắt đầu nghi ngờ chiến lược “chống trời” và đề xuất một chủ trương thận trọng hơn.
Khi Bộ Chính trị bàn cãi chủ đề này, Hồ Chí Minh đứng về phe ôn hoà, ủng hộ chiến lược chiến tranh trường kỳ kết hợp đấu tranh chính trị, tuyên truyền và chiến tranh du kích để làm địch suy yếu dần dần. Để thuyết phục những người nóng vội muốn đạt thắng lợi nhanh, Hồ sử dụng hình ảnh nấu cơm. Rút lửa sớm, cơm sẽ sống. Để lửa to quá cơm sẽ khê. Tuy nhiên, Hồ tiếp tục lạc quan về triển vọng thắng lợi cuối cùng, vạch rõ mâu thuẫn nội bộ Mỹ đang tăng lên và sẽ đạt được đỉnh vào chiến dịch tranh cử tổng thống tới. Tháng 12-1966, ông viết thư ngỏ gửi nhân dân Mỹ nêu rõ những mất mát của nhân dân Việt Nam, cũng như uy tín của nước Mỹ, do cuộc chiến gây ra. Bức thư của Hồ đã thuyết phục một số người Mỹ tin vào thành tâm khát khao hoà bình của Hà Nội, nhưng nó không tác động đến chính quyền Johnson. Tại thời điểm ông viết bức thư đó, Washington chuẩn bị những sáng kiến hoà bình thông qua đại sứ Ý tại Sài Gòn. Tuy nhiên, những sáng kiến này chết yểu sau khi Mỹ dội bom vùng phụ cận Hà Nội, khiến Việt Nam Dân chủ Cộng hoà huỷ bỏ cuộc họp giữa hai bên dự kiến ở Warsaw (Ba Lan).[49]
Hồ cũng đã tỏ rõ thái độ rất cương quyết khi tiếp ông bạn cũ là Jean Sainteny, đến Hà Nội vào tháng 7-1966 để thăm dò khả năng trung gian hòa giải của Pháp. Cũng như tổng thống Pháp Charle de Gaulle, Sainteny kết luận, Mỹ không thể đạt được mục đích của mình ở Nam Việt Nam, theo ông, tốt nhất là thương lượng, tạo nên một chính phủ trung lập ở Sài Gòn. Hồ nhấn mạnh với Sainteny ông biết rõ Mỹ có khả năng phá huỷ tất cả các thành phố ở Bắc Việt Nam, nhưng khẳng định, ông và nhân dân Việt Nam sẵn sàng chiến đấu, bất chấp mọi hy sinh và chiến đấu đến thắng lợi cuối cùng. Hồ mong muốn tìm một giải pháp rút lui trong danh dự cho Mỹ, nhưng quân Mỹ vẫn phải rút hết. Lúc đó mọi vấn đề sẽ được giải quyết.[50]
Tháng 5-1965, Hồ Chí Minh 75 tuổi. Suốt thập niên cuối cùng, ông chỉ đóng vai trò nghi lễ trong công việc đất nước, chủ trì họp chính phủ, cũng như Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương, nhưng càng ngày càng ủy quyền cho các đồng chí của mình. Dù họ tiếp tục lắng nghe kinh nghiệm của ông về ngoại giao và chiến lược đấu tranh cách mạng, ảnh hưởng của ông giảm dần ở những lĩnh vực khác và chức năng chủ yếu của ông giữa thập niên 1960 đóng vai “Bác Hồ” kính yêu, thăm trường học, nhà máy, hợp tác xã nông nghiệp thúc đẩy sự nghiệp chủ nghĩa xã hội và thống nhất đất nước.
Thời kỳ giữa và cuối thập niên 1960 là những năm vô cùng khó khăn. Khi chiến tranh gia tăng, nhu cầu nhân lực phục vụ sự nghiệp giải phóng miền Nam tăng mạnh mẽ. Giữa 1965 và cuối thập niên, quân đội miền Bắc Việt Nam tăng từ 250.000 lên hơn 400.000 binh lính. Hầu như nam giới độ tuổi 16 và 45 trong hàng ngũ trù bị. Số bộ đội Bắc Việt đưa vào miền Nam tăng nhanh chóng. Những cuộc tuyển quân lớn hàng năm chủ yếu là đàn ông, còn phụ nữ đôi khi là những người tình nguyện, thường là phục vụ văn công, điệp viên, hoặc thanh niên xung phong trong giao thông vận tải. Trong khi đa số người miền Bắc chiến đấu ở Nam Việt Nam là người kinh, một số đơn vị gồm Hoa kiều hoặc những người thượng ở miền núi cũng tham gia. Phụ nữ thay thế đàn ông ra trận đảm đang công việc đồng áng và nhà máy. Một số phụ nữ cũng tham gia dân quân hoặc trong đội tự vệ phòng không, phá bom nổ chậm được thành lập trên miền Bắc.
Tỷ lệ thương vong bộ đội miền Bắc chiến đấu trong Nam, cũng như Quân Giải Phóng và người của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam khá cao và đáng báo động, với con số chết và trọng thương lên tới hàng trăm ngàn người. Tình hình miền Bắc khi chiến tranh ở đỉnh cao cũng gặp rất nhiều khó khăn. Do đưa nhiều người dân nông thôn vào Nam chiến đấu, sản xuất lương thực giảm mạnh, nhưng may tránh được nạn đói lớn nhờ gạo do Trung Quốc viện trợ. Thiếu hụt trầm trọng hàng hoá tiêu dùng do Mỹ ném bom và chính phủ dồn tất cả hàng hoá sản xuất được đưa vào phục vụ chiến tranh ở miền Nam. Những trận oanh tạc của Mỹ khiến nhiều thành phố đổ nát, kể cả thị xã Vinh. Trong lúc đó, Mỹ ném bom mạnh mẽ ở vùng cán xoong, rồi mở rộng từ vĩ tuyến 20 ra tận ngoại vi Hà Nội. Chính phủ sơ tán nhân dân về nông thôn và ra lệnh xây dựng những hầm trú ẩn tránh bom ở các thành phố, cũng như những mục tiêu trọng điểm bị ném bom thường xuyên ở nông thôn. Theo thống kê chính thức, có hơn 55.000 km đường hào và 20 triệu hầm trú ẩn cá nhân được xây dựng. Không có con số chính xác dân thường thương vong ở miền Bắc, nhưng có rất nhiều người chết và bị thương. Trong khi hơn 55.000 người Mỹ bị giết ở Việt Nam, hơn 1 triệu người Việt Nam bị chết ở cả hai miền trong chiến tranh. Thực vậy, nhân dân Việt Nam đã phải trả giá đắt cho quyết tâm thực hiện giấc mơ thống nhất đất nước của Bác Hồ.
Hồ Chí Minh cũng muốn chia xẻ khó khăn chung của nhân dân. Ông vẫn sống trong ngôi nhà sàn trong khuôn viên Phủ Chủ tịch cạnh Quảng trường Ba Đình. Ngôi nhà này hiển nhiên gợi cho Hồ kỷ niệm những năm trước đây cuộc chiến đấu giải phóng và thể hiện lối sống giản dị trong thời gian cực kỳ gian khổ đối với nhân dân. Ngôi nhà sàn vừa dùng làm văn phòng vừa là chỗ ở cho đến khi ông qua đời.[51]
Tuổi tác đã in dấu ấn lên ông. Những người nước ngoài quen ông nhận xét ông bắt đầu thở khó khăn và di chuyển chậm chạp, đôi lúc lẩn thẩn. Trò chuyện với khách nước ngoài, đôi lúc ông mất tập trung và có vẻ buồn ngủ. Hồ bắt đầu viết di chúc lần đầu tiên vào dịp sinh nhật lần thứ 75. Liên Xô lo ngại sức khoẻ của ông từ đầu năm 1959, khi ông thăm Moscow thảo luận về cuộc xung đột lan rộng ở Nam Việt Nam. Hồ phàn nàn khi ông phải chịu đựng kiểm tra sức khoẻ (“Tôi không nghĩ mình có bệnh”, ông nhấn mạnh), Kliment Voroshilov đã thuyết phục ông, tuyên bố “Ban Chấp hành Trung ương đã quyết định rồi”.[52]
Tháng 5-1965, Hồ thăm Trung Quốc ba tuần, không những hội đàm riêng với Mao Trạch Đông về viện trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hoà mà còn để chữa bệnh và có lẽ tránh bom của Mỹ. Ông đi cùng với thư ký riêng Vũ Kỳ. Sau khi gặp Mao Trạch Đông ở Trường Sa, Hồ đến Bắc Kinh hội đàm với ban lãnh đạo Trung Quốc. Giống như ở Moscow, Trung Quốc quan tâm sức khoẻ của ông. Khi được hỏi ông có ngủ ngon không, Hồ đáp: “Cứ hỏi chú Vũ Kỳ thì rõ”. Dù ông phản đối, giới lãnh đạo Trung Quốc cũng tổ chức sinh nhật Hồ rầm rộ với vô số khách mời là các cô gái trẻ (Vũ Kỳ nhận xét một cách khó hiểu trong hồi ký của mình, cho biết, Hồ rất “tôn trọng” họ).
Sau khi kết thúc hội đàm, Hồ đi Sơn Đông thăm quê hương Khổng Tử. Ông công khai thừa nhận là người ngưỡng mộ Cố sư phụ suốt đời. Trước đền thờ Khổng Tử, Hồ nhắc lại sự cam kết sâu sắc của Khổng giáo với những giá trị nhân đạo và nhận xét, nguyên tắc Đại Đồng nổi tiếng của Khổng Tử tương đương với khái niệm hiện đại của xã hội bình đẳng. Ông kết luận, hoà bình chân chính chỉ có thể khi kỷ nguyên Đại Đồng lan rộng khắp thế giới. Trên máy bay về Hà Nội, Hồ Chí Minh viết một bài thơ ngắn ghi lại cảm xúc sâu sắc của ông khi thăm quê hương của người con vĩ đại của Trung Hoa.[53]
Sau chuyến đi này, Hồ Chí Minh dần dần yếu hơn, mặc dù có lúc có những phút lóe sáng bất thường. Trong chuyến thăm chính thức của uỷ viên Bộ Chính trị Đảng cộng sản Trung Quốc, Đào Chú tới Hà Nội vài tháng sau đó, Hồ bất ngờ đề nghị người bạn cũ của ông kiếm cho ông một phụ nữ trẻ tỉnh Quảng Đông để bầu bạn. Khi Đào Chú hỏi lại, sao Hồ không kiếm một cô gái Việt Nam, Hồ nói: “Ở Việt Nam, ai cũng gọi tôi là Bác Hồ”. Về đến Trung Quốc, Đào Chú báo cáo lại với Chu Ân Lai, do mối quan hệ tế nhị giữa hai Đảng, Chu tư vấn với ban lãnh đạo Việt Nam và vụ việc yên lặng chìm đi.[54]
Tháng 5-1966, Hồ Chí Minh trở lại Trung Quốc để kỷ niệm sinh nhật 76 tuổi. Trong khi ông ở Bắc Kinh, ban lãnh đạo Trung Quốc bảo đảm với ông, Trung Quốc ủng hộ sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Hồ viết một bức thư gửi Bộ Chính Trị, cam đoan Trung Quốc dự định giúp đỡ Việt Nam thực hiện thắng lợi cuối cùng, thậm chí chấp nhận nguy cơ Mỹ tấn công Trung Quốc. Ông đi nghỉ vài ngày tại khu nghỉ dưỡng ở miền trung Trung Quốc, rồi tiếp tục đến Sơn Đông và Mãn Châu trước khi về nước vào tháng 6-1966. Ngày 17-7-1966, ông đọc lời kêu gọi nhân dân Việt Nam, tuyên bố “không có gì quý hơn độc lập và tự do”. Ở Bắc Kinh, hàng trăm ngàn người tham dự mít tinh tại Quảng trường Thiên An Môn để biểu thị sự ủng hộ của Trung Quốc đối với cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam giải phóng dân tộc.[55]
Lúc này, Hồ đi lại ngày càng khó khăn hơn. Để giải quyết vấn đề khó khăn đi lại, Hồ vẫn tuân thủ chặt chẽ việc tập thể dục buổi sáng. Ông giữ một nếp sống lành mạnh: tự đi đến nhà ăn, làm vườn, cho cá ăn và tiếp khách. Hồ tiếp tất cả từ nhà báo phương Tây, các chính khách nước ngoài, đại biểu miền Nam cho đến nhân dân khắp nơi, dưới một rặng cây ngay gần nhà. Bộ chính trị họp ngay dưới nhà sàn. Khi máy bay Mỹ bắt đầu ném bom sát Hà Nội, ông sống trong hầm trú ẩn xây dựng ngay trong khuôn viên Chủ tịch phủ. Đến lúc đó, không phải lúc nào Hồ cũng tham dự họp, một số quan sát viên nhận xét, ông thường tỏ ra “lẩn thẩn”. Khi có những vấn đề rắc rối, Duẩn dặn các đồng chí: “Đừng làm Bác lo lắng. Chúng ta không nên làm Bác phải suy nghĩ nhiều”.
Lãnh đạo Đảng ngày càng lo lắng về sức khoẻ đang đi xuống của Hồ. Ngay sau sinh nhật 77 tuổi, trong lúc Hồ đang chữa bệnh ở Quảng Châu, Lê Duẩn họp Bộ Chính trị thảo luận vấn đề bảo vệ sức khoẻ của Hồ. Bộ chính trị quyết định giữ bí mật cuộc họp để tránh Hồ khó chịu hoặc gây hoang mang cho nhân dân Việt Nam. Chính phủ cử Nguyễn Lương Bằng theo dõi sức khoẻ của ông và cử một đoàn đại biểu đặc biệt do Lê Thanh Nghị tới Liên Xô để tư vấn, tìm hiểu cách thức giữ gìn thi hài của Hồ sau khi chết.[56]
Hồ Chí Minh từ nam Trung Hoa về nước cuối tháng 6-1966 và theo dõi tình hình miền Nam. Thỉnh thoảng ông cũng tham dự công việc đối ngoại. Đầu năm 1967, ông tiếp hai nhà hoạt động hoà bình Mỹ, Harry Ashmore và William Baggs, và gợi ý thương lượng hoà bình có thể bắt đầu chỉ sau khi Washington tuyên bố chấm dứt ném bom Bắc Việt Nam. Sau khi hai ông này báo cáo với Bộ Ngoại giao về kết quả chuyến đi, tổng thống Johnson gửi một bức thư tới Hồ Chí Minh mong muốn chấm dứt ném bom, nhưng chỉ khi Bắc Việt Nam ngừng đưa quân vào Nam Việt Nam. Nhưng giới lãnh đạo Đảng, hy vọng chấm dứt ném bom là cơ hội tăng vận chuyển quân và vũ khí vào Nam, không chấp nhận đề nghị của Washington. Tháng 3-1967, trả lời thư của tổng thống Johnson, Hồ Chí Minh yêu cầu ngừng ném bom Việt Nam Dân chủ Cộng hoà vô điều kiện. Quan điểm này được lặp đi lặp lại đối với Raymond Aubrac, người bạn cũ của ông ở Paris hồi tháng 7-1967. Aubrac tới Hà Nội trong chuyến thăm ngắn ngày để thăm dò khả năng mở thương lượng hoà bình. Việt Nam Dân chủ Cộng hoà nói rằng, ít ra cũng là từ bạn thân Hồ Chí Minh, thương lượng có thể bắt đầu nếu Mỹ ngừng ném bom Bắc Việt Nam vô điều kiện. Tháng 9-1967, Hồ tới Trung Hoa dưỡng bệnh dài hạn ở vùng núi gần Bắc Kinh.[57]
Trong lúc Hồ đi vắng, Bộ Chính trị tích cực thảo luận về tiến hành “Cuộc tổng tiến công và nổi dậy” được xem xét từ đầu thập niên. Đảng cần khôi phục khí thế cách mạng ở miền Nam, bằng cách chiếm lại những vùng đất bị mất do Mỹ tăng quân từ mùa hè năm 1965. Dù lực lượng Việt Cộng ở miền Nam (và hơn 100.000 bộ đội miền Bắc) vẫn hoạt động tương đối hiệu quả trên toàn chiến trường, nhưng tỷ lệ thương vong đáng báo động và bắt đầu tỏ ra giảm sút tinh thần. Việc tuyển quân khó khăn hơn và nạn đào ngũ tăng nhanh, khi Washington không chấp nhận thất bại làm cho nhiều người nghi ngờ cách mạng sẽ tất yếu thắng lợi. Sau chuyến thăm Hà Nội của hai nhà hành động vì hoà bình Mỹ, Bộ Chính trị nhận thấy một thực tế là phong trào chống chiến tranh đang dâng cao ở Mỹ. Nhưng vẫn chưa có dấu hiệu nào cho thấy chính quyền Johnson có ý định rút quân. Trên thực tế, số quân nhân Mỹ tại Nam Việt Nam đã tăng lên gần nửa triệu và có thể tăng thêm nữa.
Trong suốt nhiều năm, Hồ Chí Minh cho thời điểm tốt nhất để tung ra một chiến dịch như thế là năm bầu cử tổng thống Mỹ, khi Hà Nội có thể tăng tối đa sức ép sân khấu chính trị nước Mỹ. Những cuộc tấn công của Quân Giải Phóng ở nông thôn phối hợp nhịp nhàng với sự nổi dậy của dân chúng trong các thành phố lớn. Ít ra cũng làm mất ổn định Nam Việt Nam và buộc Mỹ phải thương lượng trên thế yếu, nhưng mục đích cuối cùng phải dẫn đến chế độ Sài Gòn sụp đổ. Quyết định tổng tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân đầu tháng 2-1968 được Bộ chính trị thông qua vào tháng 12-1967, khi Hồ Chí Minh từ Trung Quốc về. Hồ đồng ý với kế hoạch, sau đó quay lại ngay Bắc Kinh để tiếp tục chữa bệnh.
Cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân bắt đầu ngày 31-1-1968. Lực lượng nổi dậy tấn công các thành phố lớn, các tỉnh lỵ, huyện lỵ và vùng nông thôn khắp miền Nam. Những cuộc tấn công mạnh diễn ra giữa thanh thiên bạch nhật tại Sài Gòn, những đơn vị bắn tỉa, đặc công cảm tử đánh chiếm các trụ sở cơ quan chính phủ, thậm chí chiếm được tầng trệt Đại sứ Quán Mỹ một thời gian ngắn và binh sĩ Bắc Việt chiếm giữ cố đô Huế ba tuần lễ trước khi bị lính thuỷ đánh bộ Mỹ đánh bật ra khỏi thành phố trong những trận giao chiến đẫm máu. Kết quả khá thất vọng về mặt quân sự. Lực lượng nổi dậy bị thiệt hại 30.000 người. Do phần lớn là lực lượng Việt Cộng địa phương, nên những mất mát này làm suy yếu phong trào suốt nhiều năm sau đó. Cuộc nổi dậy không dẫn đến sụp đổ chế độ Nguyễn Văn Thiệu như Đảng tiên lượng. Tuy nhiên, cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân lại có tầm quan trọng về mặt chính trị ở Mỹ, vì số quân Mỹ bị thương vong cao. Gần 2.000 người Mỹ chết trong tháng chiến dịch Tết Mậu Thân, cộng thêm 3.000 người Mỹ bị thương nặng. Làn sóng chống chiến tranh của nhân dân Mỹ bùng nổ tới cao trào, buộc Nhà Trắng phải có những nhượng bộ mới đi đến dàn xếp hoà bình. Cuối tháng Ba, Lyndon Johnson quyết định ném bom hạn chế dưới vĩ tuyến 20 để thúc đẩy khởi động thương lượng.
Trong khi Nhà Trắng đang rơi vào tình thế nan giải, Lê Đức Thọ, uỷ viên Bộ chính trị tới Bắc Kinh thăm Hồ Chí Minh, thông báo cho Hồ kết quả cuộc Tổng Tấn Công Tết Mậu Thân. Dù Thọ (sau đó được cử làm nhà thương lượng chính trong những cuộc thương lượng hoà bình) sau này thừa nhận, Tổng tấn công Tết Mậu Thân chỉ có thắng lợi vừa phải, nhưng chắc chắn ông nói với Hồ đó là thắng lợi to lớn và Hồ hài lòng. Khi Thọ thông báo cho Hồ, ông sắp có chuyến đi miền Nam để đánh giá tình hình sau cuộc Tổng Tấn Công Tết Mậu Thân, Hồ thiết tha muốn đi cùng Thọ. Thọ cố gắng khuyên can, giải thích Hồ cần có visa để qua cảng Sihanoukville của Campuchia (phần lớn quan chức hàng đầu của Đảng đều qua con đường này vào Nam), như thế nhiều người nhận ra Hồ qua bộ râu của ông. Hồ đáp, ông sẽ cạo nó. Nhưng Thọ nhanh nhẩu trả lời: “Nếu thế đồng bào miền Nam lại không nhận ra Bác!” Hồ nằn nì nói sẵn lòng làm bất cứ việc gì, kể cả phải đóng giả thủy thủ hoặc nấp trong hầm tàu. Cuối cùng Thọ phải hứa sẽ báo cáo với bộ chính trị để xem xét sự việc. Khi Thọ đứng lên ra về Hồ ôm hôn và khóc. Sau này Thọ kể lại, ông có cảm giác không bao giờ gặp lại người đồng chí già của mình nữa.
Hồ Chí Minh lường trước những đòi hỏi của mình sẽ bị lãnh đạo từ chối vì lý do sức khỏe. Hồ viết thư cho Lê Duẩn, cho rằng nếu được thay đổi không khí, sức khỏe của ông sẽ khá hơn. Ông cũng giải thích chuyến đi của ông vào Nam sẽ cổ vũ tinh thần của đồng bào chiến sĩ miền Nam đang hy sinh cho sự nghiệp. Ngày 19-3-1968, ông viết thư cho thủ tướng Chu Ân Lai đề nghị giúp đỡ những yêu cầu của ông. Đề nghị này của ông bị chìm trong im lặng.[58]
Ngày 21-4-1968, khi trở lại Hà Nội, Hồ Chí Minh được mời tham dự cuộc họp Bộ Chính trị để đánh giá kết quả cuộc Tổng Tấn Công Tết Mậu Thân. Dù sức khoẻ rất yếu, nhưng Hồ cố gắng theo dõi sát tình hình miền Nam, vui vì sự tiến triển của chiến tranh đã buộc bộ trưởng quốc phòng Mỹ Robert McNamara phải từ chức. Ông cũng hài lòng với quyết định của tổng thống Johnson trong lời tuyên bố ngày 30- 3-1968 ném bom hạn chế và không ra tái ứng cử tổng thống năm 1968. Tháng 6-1968, Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy, một chính khách nổi tiếng, người chống chiến tranh, bị ám sát ở Mỹ, Hồ thương xót viết một bài báo ngắn đăng trên báo Nhân Dân nói rằng chiến tranh càng gia tăng thì số người Mỹ cũng bị giết ở Việt Nam cũng tăng theo.[59]
Đầu tháng 5-1968, tổng thống Johnson chấp nhận ném bom hạn chế từ vĩ tuyến 20 trở xuống và đồng ý ngồi vào thương lượng hoà bình ở Paris. Có lẽ Hồ không được hỏi ý kiến liệu có chấp nhận đề nghị đàm phán hay không, nhưng ông hài lòng. Tuy thế, ông khuyên, sau khi thắng lợi, điều vô cùng quan trọng là phải hàn gắn vết thương chiến tranh của dân tộc Việt Nam, một nhiệm vụ “rất khó khăn và phức tạp”. Để tránh mắc sai lầm nghiêm trọng, Đảng phải có kế hoạch cụ thể tái tổ chức Đảng, mỗi đảng viên phải nhận ra nhiệm vụ thiêng liêng phục vụ nhân dân. Những nhiệm vụ quan trọng là hàn gắn vết thương chiến tranh cho nhân dân và cải tạo những “cặn bã” của xã hội miền Nam - như trộm cắp, đĩ điếm, nghiện hút - thành những công dân hữu ích bằng cách giáo dục và nếu cần thiết, bằng những biện pháp hành chính khác.[60]
Hồ cũng khuyên các đồng chí của ông cách tiến hành thương lượng với Mỹ. Trên thực tế, vấn đề thương lượng sẽ phức tạp. Không những Washington chống lại đòi hỏi của Hà Nội bằng văn bản cam kết vô điều kiện không quay lại ném bom Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, mà Bắc Kinh - đang vật lộn trong vũng bùn Cách mạng Văn hoá - đã chỉ trích các đồng chí Bắc Việt Nam vội vã quan hệ với Mỹ. Tháng 4-1968, Chu Ân Lai khuyên Thủ tướng Phạm Văn Đồng kiên trì thực hiện tuyên bố “bốn điểm” nổi tiếng trước khi mở thương lượng. Chu Ân Lai khuyên Phạm Văn Đồng, Việt Nam chỉ nên thương lượng trên thế mạnh. Phạm Văn Đồng vặn lại, Hà Nội sẽ không thoả hiệp và không thương lượng hoà bình trong những điều kiện bất lợi. Phạm Văn Đồng nhấn mạnh, dù sao chăng nữa, đây là công việc của Việt Nam người đang trực tiếp chiến đấu.[61]
Hồ Chí Minh không tham gia tích cực tranh luận, nhưng ông có quan điểm thực dụng, tháng 7-1968 khuyên Bộ Chính trị nên thận trọng quyết định cái gì có thể được và mất, ngay khi bắt đầu ngồi vào thương lượng. Khi cuộc thương lượng khai mạc vài tuần lễ sau đó, ông khuyên trong lúc tận dụng bất cứ dịp may nào để phá vỡ bế tắc ngoại giao, cũng phải tập trung nỗ lực chuẩn bị quân sự. Ông cảnh báo Đảng đề phòng mắc bẫy Mỹ, có thể đi tới ngừng bắn ở miền Nam nhưng có khả năng Washington trở lại ném bom miền Bắc một lúc nào đấy trong tương lai.
Đầu tháng 11-1968, cuộc thương lượng hoà bình họp tại Paris sau khi Washington đồng ý ngừng hoàn toàn ném bom, dù Lyndon Johnson không chịu hứa bằng văn bản. Không có ngừng bắn ở miền Nam, mặc dù Hà Nội hứa không tung ra một cuộc tấn công mạnh tương tự cuộc Tổng Tấn Công Tết Mậu Thân. Nhưng sự phá vỡ bễ tắc thương lượng hoà bình đã quá muộn để Hubert Humphrey, ứng cử viên tổng thống của Đảng Dân Chủ. Humphrey, người được chỉ định ra tranh cử trong một hội nghị toàn quốc cực kỳ sóng gió của Đảng Dân chủ ở Chicago tháng 8-1968, là người chỉ trích chiến tranh, nhưng vì ông là phó tổng thống chính quyền Johnson nên phải giữ thái độ dè dặt. Làn sóng công khai chống chiến tranh đã gây tác hại cho ông, trong khi ứng cử viên đảng Cộng hoà, Richard M. Nixon, đã hứa, ông ta có một “kế hoạch bí mật” để chấm dứt chiến tranh. Trong cuộc bầu cử tổng thống tháng 11-1968, Nixon đã đem đảng Cộng Hoà quay lại Nhà Trắng lần đầu tiên sau tám năm.
Trong những năm cuối đời, Hồ thường xuyên sửa lại di chúc nhiều lần, nhưng lần nào ông cũng nêu rõ nguyện vọng được hỏa táng. Trong bản cuối cùng, Hồ muốn tro của mình sẽ được rải tại ba địa danh ở miền Bắc, miền Nam và miền Trung, biểu tượng cho sự cống hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp thống nhất đất nước. Sau đó, ông viết, sẽ vui lòng đi gặp Karl Max, Vladimir Lenin và các nhà cách mạng đáng kính khác. Hồ cũng bày tỏ mong muốn sau khi kết thúc chiến tranh, miến thuế nông nghiệp một năm để giảm bớt khó khăn và để tỏ lòng biết ơn của Đảng đối với sự nhân dân lao động và những hy sinh trong cuộc chiến tranh lâu dài và đẫm máu.[62]
Trong dịp Tết năm 1969, Hồ lần cuối cùng ra khỏi Hà nội, đi thăm nhân dân thị xã Sơn Tây. Khi trở về, sức khoẻ ông vẫn bình thường. Tháng 4-1969, Hồ tham gia họp Bộ chính trị, đưa ra lời khuyên, nếu tân chính phủ Mỹ đã quyết định rút quân khỏi miền Nam, phải để cho họ rút trong danh dự. Tại hội nghị Trung ương lần thứ XVI vào giữa tháng Năm, Hồ căn dặn không nên chủ quan vội vã nhận định vấn đề, mặc dù Mỹ đã quyết định rút quân (tổng thống Nixon tuyên bố chiến lược mới “Việt nam hoá” còn gọi là rút quân từng bước ra khỏỉ Nam Việt Nam) tình hình vẫn rất nguy hiểm.
Hồ vẫn muốn gặp đại biểu chiến sĩ miền Nam. Đáp lại nguyện vọng của ông, cuối cùng ông gặp gỡ với đoàn đại biểu các chiến sĩ miền Nam tại Hồ Tây. Trong lễ sinh nhật 79 tuổi tại nơi ông ở, những đồng sự thân cận hứa sẽ chiến đấu đến thắng lợi cuối cùng và khi đó sẽ mời ông vào thăm miền Nam. Cũng tháng đó, ông sửa lần cuối cùng bản thảo di chúc của mình, viết chỗ sửa ngay vào bên lề bản thảo trước đây. Nhưng Hồ ngày càng yếu đi nhanh chóng, các bác sĩ đã quyết định theo dõi nhịp tim của ông thường xuyên. Dù Mỹ ngừng ném bom và ông trở lại sống trong ngôi nhà sàn rợp bóng cây, Hồ bắt đầu yếu đi trong mùa Hè nóng nực, ẩm ướt. Bộ Chính trị khẩn cấp yêu cầu bác sĩ Liên Xô và Trung Quốc giúp đỡ. Hồ vẫn cố duy trì tập thể dục buổi sáng, tưới cây và cho cá ăn. Trường Chinh và Nguyễn Lương Bằng thường xuyên ăn cơm cùng ông.[63]
Một ngày giữa tháng 8-1969, sức khoẻ Hồ đột ngột xấu đi, phổi bị xung huyết nặng. Mặc dù được tiêm penicillin, nhưng hôm sau Hồ vẫn thấy đau ở ngực. Ngày 28-8-1969, tim bắt đầu loạn nhịp. Tuy nhiên khi Bộ Chính trị đến báo cáo tình hình miền Nam, Hồ nói đã đỡ rất nhiều. Hai ngày sau, khi Đồng đến thăm, Hồ hỏi han về tình hình chuẩn bị cho ngày lễ Quốc Khánh dự kiến ngày 2- 9-1969. Sáng hôm sau, Hồ dậy sớm, ăn một bát cháo và tiếp một đoàn cựu chiến binh đến thăm. Vào lúc 9h45 sáng ngày 2-9-1969, 24 năm sau ngày khôi phục nền độc lập của Việt Nam, trái tim Hồ Chí Minh đã ngừng đập.[64]
Chú thích
[1] Trích ở Lê Duẩn, “Thư vào Nam” (NXB Sự thật, 1985), trang 31. Cuốn sách này tập hợp những bức thư tiế lộ cao nhất do Tổng bí thư Lê Duẩn viết để hướng dẫn cán bộ Đảng ở Nam Việt Nam gần hai thập niên. Bản tóm tắt “Thư vào Nam” bằng tiếng Anh cũng được xuất bản (NXB Ngoại văn, Hà Nội, 1986).
[2] Ang Cheng Guan, “Mối quan hệ Cộng sản Việt Nam với Trung Quốc và cuộc xung đột Đông Dương lần thứ hai, 1956-1962” (Jefferson, N.C.: McFarland, 1997), trang 86-87; Guo Ming, “Bốn lăm năm quan hệ Trung-Việt”, (NXB Nam Ninh, tỉnh Quảng Tây, 1992), trang 66-67. Theo nguồn tin gần đây, Đảng Lao động Việt Nam đệ trình hai giác thư cho Bắc Kinh vào mùa hè năm 1958 xin lời khuyên của Trung Quốc về hai vấn đề chuyển hoá lên xã hội chủ nghĩa và thống nhất đất nước. Đáp lại, Trung Quốc nhấn mạnh, lời khuyên của họ chỉ là thăm dò và chưa dựa trên sự nghiên cứu kỹ lưỡng.
[3] Trích ở James Walker Trullinger Jr., “Làng xã trong chiến tranh: Ghi chép cuộc cách mạng ở Việt Nam” (New York: Longman, 1980), trang 71. Tham khảo về Hồ Chí Minh rất đáng chú ý, vì Cơ quan tuyên truyền chính thức Việt Nam Dân chủ Cộng hoà nhấn mạnh, gia đình duy nhất của Hồ Chủ tịch là toàn thể nhân dân Việt Nam.
[4] Trích David Chanoff và Đoàn Văn Toại, “Việt Nam: Chân dung nhân dân trong chiến tranh” (NXB I. B. Tauris, London, 1996), trang 151, 153.
[5] Nguyễn Thị Định, “Không còn con đường nào khác” (Ithaca, New York: Chương trình Đông Nam Á Đại học Cornell, 1976), trang 65, 69-70. Bà Định sau này trở thành Bộ trưởng Quốc phòng Chính phủ Cách mạng Lâm thời Nam Việt Nam thành lập năm 1969.
[6] Một số quan sát viên lập luận rằng những phát biểu của Lê Duẩn cho thấy Hà Nội tiếp tục chủ trương chính sách thống nhất đất nước bằng phương pháp hoà bình, nhưng điều này làm hiểu sai thông điệp chính trong phát biểu này, chắc chắn nhằm trước hết tới Moscow và Bắc Kinh. Trong một bức thư viết đầu năm 1962 gửi Nguyễn Văn Linh, bấy giờ là người lãnh đạo Đảng ở miền Nam, Lê Duẩn giải thích và đoan chắc đến cuối thập niên 1950, cuộc đấu tranh chính trị phải được bổ xung bằng quân sự để đánh đổ chế độ Diệm. Xem Lê Duẩn, “Thư vào Nam” tháng 2-1962, trang 51-70.
[7] “Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử”, tập 7, trang 307.
[8] “Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử”, tập 7, trang 320-347; Ang Cheng Guan, “Mối quan hệ Cộng sản Việt Nam với Trung Quốc và cuộc xung đột Đông Dương lần thứ hai, 1956-1962”, trang 120-28; Hoàng Tranh, “Hồ Chí Minh và Trung Quốc”, trang 151-52.
[9] Hoàng Tranh, “Hồ Chí Minh và Trung Quốc”, trang 156; “Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử”, tập 7, trang 367-70; Ang Cheng Guan, “Mối quan hệ Cộng sản Việt Nam với Trung Quốc và cuộc xung đột Đông Dương lần thứ hai, 1956-1962”, trang 128-29. Quan điểm của Hồ về sự ngạo mạn của Trung Quốc, xem Vũ Thư Hiên, “Đêm giữa ban ngày” (NXB Văn Nghệ, Westminster, Calif., 1997), trang 108; cuốn sách này cũng đưa lời nhận xét của đảng viên cựu trào Trần Huy Liệu trong một lần nổi giận bởi cách đối xử của quan chức Trung Quốc: “Tao cũng như Bác Hồ, tao ỉa vào thiên triều, tao là thằng dân tộc chủ nghĩa”.
[10] Về ý kiến của Hồ ở Bộ chính trị về vấn đề đối nội xem những cuộc họp ngày 7, 13, và 16-4-1959, và 14-5-1959, trong “Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử”, tập 7, trang 270-94 và 310. Ông cũng đề cập vấn đề này trong bài phát biểu tại Hội nghị toàn thể thứ 16 vào tháng 4 và hội nghị vào tháng 5. Xem “Diễn văn khai mạc Hội nghị lần thứ 16 của Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá II)” trong Toàn Tập I, tập 8, trang 388-90, và “Bài nói tại lớp chỉnh huấn khoá II của Bộ Công an” trong tài liệu nêu trên, trang 429-432.
[11] Toàn Tập I, tập 8, trang 763-73. Bản dịch bài phát biểu sang tiéng Anh, xem Bernard Fall, ed., “Hồ Chí Minh trong Cách mạng: Tuyển tập 1920-1966”, trang 313-319. Biên bản của Hội nghị bằng tiếng Anh, xem “Đại hội lần thứ ba Đảng Lao động Việt Nam”, Tập 3 (NXB Ngoại văn, Hà Nội, 1960). Xã luận báo Nhân Dân cũng đề cập những đoạn văn của W. R. Smyser, trong “Việt Nam Độc lập: Cộng sản Việt Nam giữa Nga và Trung Quốc, 1956-1969” (Athens, Đại học Ohio, Trung tâm nghiên cứu quốc tế, 1980), trang 40-41.
[12] Phạm Hùng sinh ở Vĩnh Long, ở đồng bằng Cửu Long. Về gốc gác Nguyễn Chí Thanh: nhiều bằng chứng cho rằng ông sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo ở Huế, nhưng những nguồn tin khác cho rằng ông xuất thân từ gia đình giàu có và có quá khứ khá bí ẩn. Xem Vũ Thư Hiên, “Đêm giữa ban ngày”, trang 359. như chúng ta biết, Nguyễn Chí Thanh nhanh chóng trở thành nhân vật chính trong việc soạn thảo chiến lược quân sự ở miền Nam, thay thế Võ Nguyên Giáp. vai trò của Hồ Chí Minh trong việc chọn Lê Duẩn làm Bí thư thứ nhất là một vấn đề gây tranh cãi. Một số quan sát viên ở Hà Nội cho rằng ông đồng ý với quyết định do vai trò của Lê Duẩn ở miền Nam, nhưng những người cho là ông ưa thích Võ Nguyên Giáp - một chiến hữu cũ của ông.
[13] Chen Jian, “Sự dính líu của Trung Quốc trong cuộc chiến tranh Việt Nam, 1964-1969”, “Trung Hoa Quý báo”, 142 (tháng 6-1995), trang 338. Bản tiếng Việt lời khuyên của Trung Quốc với giới lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hoà vào háng 5, xem “Sự thật mối quan hệ Trung-Việt hơn ba mươi năm qua” (Bộ ngoại giao Việt Nam, 1979), trang 31-32. Trong báo cáo về Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ ba gửi về Moscow, nhà ngoại giao Liên Xô ở Hà Nội nhận xét rằng Bí thư thứ nhất Lê Duẩn đã đặt trọng tâm vấn đề thống nhất đất nước. Xem Ilya V. Gaiduk, “Sự phát triển một đồng minh: Liên Xô và Việt Nam, 1954-1975”; trong Peter Lowe (ed.) “Cuộc chiến tranh Việt Nam” (NXB St. Martin’s, New York, 1998), trang 142.
[14] Có nhiều sự khác nhau từ những nguồn tin khác nhau được tiết lộ. Về sự thành lập Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, xem Trương Như Tảng “Hồi ký của một Việt Cộng: Bên trong cuộc chiến tranh Việt Nam và hậu quả” (San Diego: Harcourt Brace Jovanovich, 1985), trang 76-80.
[15] Tham khảo cuộc họp Bộ chính trị tháng Giêng, xem “Cuộc kháng chiến chỗng Mỹ cứu nước” 1954-1975 (NXB Quân đội Nhân dân, 1980), trang 74-75. Ý kiến của Hồ Chí Minh có trong “Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử”, tập 8, trang 21-22. Lê Duẩn theo sát cuộc họp với một lá thư dài về chủ đề này gửi Nguyễn Văn Linh ở miền Nam, xem “Thư vào Nam” ngày 7-2-1961, trang 35-36
[16] Giới lãnh đạo Trung Quốc cũng không hài lòng với những nỗ lực của Hồ “đứng giữa” các vấn đề. Xem Qiang Zhai, “Trung Quốc và cuộc chiến tranh Việt Nam, 1950-1975” (Chapel Hill: Đại học North Carolina Press, 2000) trang 87-88. Những nghi ngờ của Hồ với Mao Trạch Đông, xem Vũ Thư Hiên, “Đêm giữa ban ngày”, trang 229. Dù vậy, khi ở Moscow, Hồ khẩn khoản yêu cầu Khrushchev thoả hiệp với Bắc Kinh, vì Trung Quốc là một nước lớn có vai trò quan trọng trên thế giới; khi lãnh đạo Liên Xô nói rằng Liên Xô cũng là một nước quan trọng, Hồ đáp: “Đối với chúng tôi, điều này khó gấp đôi. Đừng quên, Trung Quốc là láng giềng chúng tôi” - xem Ang Cheng Guan, “Mối quan hệ Cộng sản Việt Nam với Trung Quốc và cuộc xung đột Đông Dương lần thứ hai, 1956-1962”, trang 168.
[17] Về cuộc họp Bộ chính trị tháng 10-1961 và ý kiến của Hồ, xem “Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử”, tập 8, trang 150. Về hướng chỉ đạo miền Nam, xem “Tình hình của cách mạng ở Nam Việt Nam”, một tài liệu chưa được xuất bản gửi Ban lãnh đạo miền Nam năm 1962. Xem thêm chỉ thị cuộc họp Bộ chính trị vào tháng 2-1962, nằm trong “Một số văn kiện của Đảng chống Mỹ cứu nước”, 1954-1965, tập 1 (NXB Sự thật, 1985), trang 137-57.
[18] Việc Hà Nội hy vọng rằng Washington có thể chấp nhận một hiệp định thoả hiệp ở Nam Việt Nam tương tự như ở Lào tháng 7-1962, được thảo luận trong lá thư của Lê Duẩn tháng 7-1962 gửi Nguyễn Văn Linh (bí danh Mười Cúc), trong “Thư vào Nam”, trang 63-66. Hà Nội bắt đầu tuyển mộ những nhóm “chùm chăn” từ những người trung lập có thiện cảm trong đám nhóm lưu vong ở Pháp để chuẩn bị cho tình huống nếu xảy ra.
[19] “Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử”, tập 8, trang 367-368.
[20] “Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử”, tập 8, trang 322-323.
[21] Tạp chí Bắc Kinh, 23 và 30-11-1979 và 7-12-1979. Xem thêm Guo Ming, “Bốn lăm năm quan hệ Trung-Việt”, (NXB Nam Ninh, tỉnh Quảng Tây, 1992), trang 67; Smith, “Lịch sử quốc tế”, Tập II, trang 87-88, và Chen Jian, “Sự dính líu của Trung Quốc”, trang 359. Thảo luận chiến lược “thòng lọng treo cổ”, xem phát biểu của Mao Trạch Đông trước Quốc hội Trung Quốc ngày 8-9-1958, trong “Những tuyên bố của Mao Trạch Đông từ khi thành lập đất nước”.
[22] Smyser, “Việt Nam Độc Lập”, trang 63-64; Chen Jian, “Sự dính líu của Trung Quốc”, trang 359-60, trích dẫn Qu Aiguo, “Người Trung Quốc giúp Việt Nam và chống Mỹ” (Tạp chí Lịch sử Quân sự), 6, trang 40. Smyser cho rằng Hồ Chí Minh phát biểu thận trọng hơn nhiều so với những người lãnh đạo khác của Việt Nam, nhưng chứng cớ lại không rõ ràng (xem trang 65-66). Nhiều năm sau này, những nguồn tin chính thức ở Hà Nội buộc tội Trung Quốc âm mưu chiếm vai trò lãnh đạo cách mạng thế giới và hình thành Quốc tế Cộng sản mới do Bắc Kinh chỉ huy - xem “Sự thật quan hệ Việt-Trung”, trang 33.
[23] Mieczyslaw Maneli, “Chiến tranh hạn chế” (New York: Harper & Row, 1971), trang 127-28. Maneli nói rằng Hồ Chí Minh đưa ra một điều gì đó có doạ dẫm trước cuộc đàm luận. Xem thêm Gareth Porter, “Ngoại giao khiên cưỡng ở Việt Nam: Xem xét lại Sự kiện Vịnh Bắc Bộ”; Jayne Werner và David Hunt, eds., “Cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam “(Ithaca, N.Y.: Chương trình Đông Nam Á Đại học Cornell, 1993), trang 11-12. Hồ Chí Minh có thể đề nghị thương lượng thông qua nhà báo Úc cánh tả Wilfred Burchett - xem “Quan hệ đối ngoại của Mỹ (1961-1963)”, tập 4, Việt Nam, từ tháng 8 đến tháng 12-1963, trang 85.
[24] Vũ Thư Hiên, “Đêm giữa ban ngày”, trang 230. Theo Hiên, Hồ Chí Minh không thích chiến tranh và chỉ sử dụng như phương sách cuối cùng mà thôi. Lê Duẩn,dựa vào chiến tranh để đạt được các mục tiêu của mình. Những chỉ thị bí mật gửi vào Nam kể trong mục này được gọi là “tài liệu CRIMP” (quân đội Nam Việt Nam thu được của Việt Cộng trong Chiến dịch CRIMP, 1963). Hồ Chí Minh trả lời phỏng vấn nhà báo Nhật Bản trong “Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử”, tập 8, trang 484-85.
[25] “Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử”, tập 8, 492-93. Tại cuộc họp này ông tiên đoán những cuộc đảo chính trong tương lai ở Sài gòn. Những Hội nghị toàn thể Ban chấp hành Trung ương được đánh số từ lúc Đại hội Đảng trước đây. Trong trường hợp này, Đại hội Đảng mới nhất diễn ra tháng 9-1960.
[26] Donald Zagoria, “Tam giác Việt Nam: Moscow - Bác Kinh - Hà Nội” (New York: Pegasus, 1972), trang 109, trích dẫn bài báo của Thanh, “Ai sẽ thắng ở Nam Việt Nam”, (Tạp chí Học Tập tháng 7-1963).
[27] Tin đồn về thay Hồ Chí Minh, xem Nguyễn Văn Trấn, “Viết cho Mẹ và Quốc hội” (Garden Grove, Calif.: NXB Văn Nghệ, 1996), trang 328. Xem thêm Georges Boudarel và Nguyễn Văn Kỳ, “Hà Nội, 1936-1996: Màu cờ Đỏ và Xanh” (NXB Autrement, Paris, 1997), trang 144-46. Nhận xét về sự thiếu minh mẫn của ông, xem “Phát biểu của Vũ Thư Hiên”, “Tin tức Việt Nam” (Mùa thu 1997), trang 13. Đánh giá vai trò của Phạm Văn Đồng, Trường Chinh, và Võ Nguyên Giáp trong Vũ Thư Hiên, “Đêm giữa ban ngày”, trang 25-26, 275, 296, và 337, và Nguyễn Văn Trấn, “Viết cho Mẹ và Quốc hội”, trang 328.
[28] “Phát biểu của Vũ Thư Hiên”, trang 13; Vũ Thư Hiên, “Đêm giữa ban ngày”, trang 362; Nguyễn Văn Trấn, “Viết cho Mẹ và Quốc hội”, trang 328-29; Boudarel và Nguyễn Văn Kỳ, Hà Nội, trang 146.
[29] Cuộc tranh cãi về thông tri có lẽ cũng gay gắt. Có lần, Hồ Chí Minh đắng lòng về những lời phát biểu chua cay trong cuộc họp và nhắc các đại biểu rằng sự bất đồng trong những người Marxist-Leninists nên để trong giới hạn tình anh em và đồng chí. Ông nói, đó là “nguyên tắc bất di bất dịch”. Hồ kết luận, với chủ nghĩa Marx-Lenin soi đường, phong trào cộng sản cách mạng chắc chắn thành công và phát triển. Xem những phát biểu của ông tại cuộc họp ngày 7-12-1963, trong “Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử”, tập 8, trang 490. Bản sao nghị quyết và bức thư chỉ thị sau này bị quân đội Nam Việt Nam tịch thu và được dịch và xuất bản bằng tiếng Anh trong “Tài liệu Việt Nam và Ghi chú nghiên cứu (Nhiệm vụ Mỹ tại Việt Nam, Sài Gòn)”, tài liệu 96 và 99. Việc cắt bỏ tư vấn với Khrushchev được Hoàng Văn Hoan viết trong hồi ký của mình “Giọt nước trong biển cả”, trong “Tin tức Việt Nam” (Đông Xuân 1988), trang 24.
[30] Vũ Thư Hiên, “Đêm giữa ban ngày”, trang 354. Theo Georges Boudarel, Võ Nguyên Giáp khá sốc với kết quả Hội nghị 9 đến mức ông bị cô lập và chơi piano để xả căng thẳng, xem Boudarel và Nguyễn Văn Kỳ, “Hà Nội 1936-1996: Màu cờ Đỏ và Xanh” (NXB Autrement, Paris, 1997), trang 146. Nạn nhân nổi bật trong vụ thanh trừng là Viện trưởng Viện Triết học Hoàng Minh Chính, một người được đào tạo bài bản và là người anh hùng trong kháng chiến chống Pháp. Hoàng Minh Chính từng học nhiều năm ở Liên Xô và có quan hệ thân thiết với to Võ Nguyên Giáp. Cuối năm 1963 Trường Chinh đề nghị ông dự thảo nghị quyết sẽ trình Hội nghị 9 vào tháng 12-1963. Tại hội nghị toàn thể, bản dự thảo này cuối cùng bị bác bỏ vì lý do “giọng lưỡi bọn xét lại”, và Hoàng Minh Chính tống giam một thời gian dài. Một số người ngờ rằng ông là mục tiêu để trừng phạt có chủ ý mối quan hệ của ông với Võ Nguyên Giáp và ông thường phê phán giới lãnh đạo đương thời - xem “Bùi Tín, “Sau Hồ Chí Minh: Hồi ký của một Đại tá Bắc Việt Nam”, trang 55-56, (Nhà in Đại học Hawaii, Honolulu, 1995), và Georges Boudarel, “Trăm hoa nở trong đêm Việt Nam: chủ nghĩa cộng sản và bất đồng chính kiến​​, 1954-1936” (Paris: Jacques Bertoin, 1991), trang 257-58. Những người khác bị thanh trừng trong thời kỳ này là Ngoại trưởng Ung Van Khiêm, và Bùi Công Trừng - một đảng viên cựu trào.
[31] Bắc Kinh mưu đồ củng cố danh tiếng của mình là người đề xướng cách mạng trong Thế giới thứ ba bằng việc tổ chức hội nghị bí mật các Đảng cộng sản châu Á ở tỉnh Quảng Châu vào tháng 9-1963. Hồ Chí Minh cũng tham dự hội nghị này. Tại hội nghị, Chu Ân Lai thúc đẩy đấu tranh cách mạng ở nông thôn trong toàn bộ khu vực này. Xem Chen Jian, “Trung Quốc và cuộc chiến tranh Việt Nam, 1950-1975”; trong Peter Lowe và ed., “Cuộc chiến tranh Việt Nam”, trang 164. Các bài xã luận công bố ở Hà Nội trong và sai Hội nghị tháng 12 ở Moscow, xem Smyser, “Việt Nam Độc Lập”, trang 71-72. Smyser phỏng đoán rằng chuyến viếng thăm này diễn ra theo lời mời của Liên Xô. Trong thông điệp đầu năm mới gửi nhân dân Xô viết, Hồ Chí Minh ca ngợi những thành công của Liên Xô trong công cuộc xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa có khoa học kỹ thuật hiện đại, nhưng cạnh khoé nhận xét rằng Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc đang thành công khắp thế giới và ngày càng có nhiều nước đang giành được tự do, thoát khỏi áp bức của đế quốc - xem Toàn Tập I, tập 9, trang 626-627.
[32] Hồ Chí Minh, “Báo cáo tại hội nghị chính trị đặc biệt”, trong Toàn Tập I, tập 9, trang 661-81. Bài phát biểu kết thúc hội nghị, nằm trong tài liệu đã dẫn, trang 682-83, ca ngợi đại biểu vì tinh thần thống nhất về quyết tâm.
[33] Về những tấm gương “Người tốt, việc tốt” của Hồ Chí Minh đăng trên báo Nhân Dân, xem bài báo ngày 29-5-1964, trong Toàn Tập I, tập 9, trang 735-38. Về nỗi sợ chết của người Mỹ, xem cuộc họp ngày 9-12-1963, trong “Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử”, tập 8, trang 492.
[34] Những đơn vị đầu tiên Quân đội Nhân dân Việt Nam có lẽ rời vào tháng 9 hoặc tháng 10 và tới cuối năm đó. Xem Gareth Porter, “Ngoại giao khiên cưỡng”, trang 13. Tôi không có bằng chứng vai trò của Hồ Chí Minh trong việc đưa ra quyết định. Tuy nhiên, theo một nguồn tin, cuối tháng 9 ông khuyên các đồng chí của ông nên chuẩn bị đối phó với tình huống xấu nhất, vì hoạch định của Mỹ phá hoại Bắc Việt Nam là quyết định chiến lược, không phải chiến thuật - xem cuộc họp Bộ chính trị ngày 26-9-1964, trong “Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử”, tập 9, trang 130.
[35] Trong cuộc hội đàm với Mao Trạch Đông, diễn ra giữa tháng 8, Lê Duẩn thông báo cho Mao rằng Việt Nam Dân chủ Cộng hoà dự định đưa một sư đoàn Quân đội Nhân dân Việt Nam vào Nam. Lê Duẩn cũng khẳng định rằng quyết định ban đầu tấn công khu trục hạm Mỹ Maddox ở Vịnh Bắc Bộ là do tư lệnh địa phương. Mao đáp lại rằng theo thông tin Bắc Kinh nhận được, thì Mỹ đổ lỗi cuộc tấn công thứ hai xảy ra dựa trên những tin tức sai lệch ở Washington. Xem “Mao Trạch Đông và Phạm Văn Đồng, Hoàng Văn Hoan”, cuộc gặp ngày 5-10-1964, trong Odd Arne Westad et al., “77 cuộc thảo luận giữa Trung Hoa và những nhà lãnh đạo nước ngoài trong chiến tranh Đông Dương, 1964-1977” (Washington, D.C.: Dự án Lịch sử Chiến tranh lạnh quốc tế, Trung tâm Woodrow Wilsonr, 1998), trang 74.
[36] Xem “Tài liệu Việt Nam và Ghi chú nghiên cứu (Nhiệm vụ Mỹ tại Việt Nam, Sài Gòn)”, tài liệu 67 (tháng 9-1969), trang 7. Theo nguồn tin khác, Moscow đã hứa ủng hộ cuộc tổng tấn công ở Nam Việt Nam nếu thấy cần thiết - xem Gareth Porter, “Sự phủ nhận hoà bình: Mỹ, Việt Nam và Hiệp định Paris” (Bloomington, Ind.: Đại học Indiana Press, 1975), trang 23. Học giả Xô viết Ilya Gaiduk khẳng định rằng ba nhà lãnh đạo hàng đầu Việt Nam Dân chủ Cộng hoà - Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, và Võ Nguyên Giáp - đồng ý tìm cách khôi phục cân bằng lâu năm những mối quan hệ với Trung Quốc và Liên Xô, xem bình luận của Ilya Gaiduk có trong Thư viện LBJ “Hội nghị cuộc chiến tranh Việt Nam”, ngày 17-10-1993.
[37] Bản chỉ thị này có trong “Những sự kiện lịch sử Đảng” (NXB Sự thật, 1976), tập 3, trang 315. Nhà ngoại giao Ba Lan Mieczyslaw Maneli nói rằng lúc đầu Hà Nội không tấn công người Mỹ để tránh khiêu khích Washington; ông khẳng định Hồ Chí Minh chống lại những vụ khủng bố bừa bãi để thực hiện mục tiêu quốc gia, xem Maneli, “Chiến tranh hạn chế”, trang 156. Làm một viên chức ngoại giao tại Đại sứ quán Mỹ ở Nam Việt Nam thời đó, Tôi có nhiều kinh nghiệm bản thân với sự thay đổi luôn xoành xoạch các chính phủ tại Sài gòn. Vào thứ Sáu đầu năm 1965, tôi rời Nam Việt Nam sang nghỉ cuối tuần ở Bangkok. Hôm thứ Bảy, một cuộc đảo chính lật đổ chính phủ tại Sài gòn. Chủ nhật, một nhà lãnh đạo mới lại bị chính những người làm đảo chính tống ra khỏi quyền lực. Tôi trở về Sài gòn ngày thứ Hai thì nhận ra, mình đã không ngờ nhìn thấy toàn bộ chính phủ Nam Việt Nam chết yểu đến như vậy.
[38] Lê Duẩn, “Thư vào Nam”, lá thư gửi Xuân (Nguyễn Chí Thanh) tháng 2-1965, trang 96. Phát biểu của Hồ về trận Bình Giã xuất hiện trong một bài báo trên tờ Nhân Dân ngày 7-1-1965.
[39] Về sự phân tích sâu sắc chính sách Xô viết trong thời kỳ này, xem Ilya V. Gaiduk, “Thế lưỡng nan của chính sách Liên Xô trong cuộc xung đột Việt Nam”, trong Lloyd C. Gardner và Ted Gittings, eds., “Việt Nam: Những quyết định ban đầu” (Austin: Nhà in Đại học Texas, 1997), trang 207-18. Về chuyên thăm Hà Nội của Chu Ân Lai tháng 3, xem “77 cuộc thảo luận giữa Trung Hoa và những nhà lãnh đạo nước ngoài trong chiến tranh Đông Dương, 1964-1977”, trang 77-78.
[40] Về phản ứng của Hồ Chí Minh đã với của không kích của Mỹ, xem “Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử”, tập 9, trang 130. Việc ông cảnh báo Mỹ hồi tháng 2 xem tài liệu đã dẫn trên, trang 197. Về nghị quyết Hội nghị toàn thể lần thứ 11, xem “Một số văn kiện”, Tập I, trang 311-27. Hồ Chí Minh phát biểu khai mạc Hội nghị, nhưng ý kiến của ông trong cuộc tranh cãi không rõ ràng. Theo nguồn tin tin cậy, ông xuất hiện để ủng hộ một chủ trương đang thịnh hành, xem “Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử”, tập 9, trang 215-17. Hồ đặc biệt lo lắng đến việc chuẩn bị trước cho dân chúng Bắc Việt biết sẽ phải hy sinh và cho rằng việc triệu tập Hội nghị chính trị đặc biệt là để huy động ủng hộ đường lối mới - xem tài liệu đã dẫn, trang 207-209.
[41] Hồ Chí Minh trả lời phỏng vấn nhà báo Nhật Bản, có trong Toàn Tập I, tập 10, trang 79-84 (đặc biệt trang 82). Sự mơ hồ trong những điều khoản của Hà Nội về thời gian Mỹ rút quân có phải chủ tâm hay không, hoặc là hệ quả của quan điểm khác nhau giữa Hà Nội những người lãnh đạo Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam? Tôi từ lâu đã có xu hướng tin rằng trước đây, với lý do phạm vi và thời gian của các cuộc đàm phán hòa bình có thể xem như là công việc cho các nhà lãnh đạo của Đảng xác định. Nhưng đáng chú ý là tháng 12-1965 Hồ Chí Minh phàn nàn rằng điều quan trọng, những thông báo của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam phải được phối hợp với những thông báo của Bắc Việt để trình bày một vị trí thống nhất. Có lẽ ông tỏ ra bực bội ở Hà Nội rằng Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đôi khi thông qua các chức vụ ngoại giao mà chẳng chịu hỏi ý kiến các lãnh đạo Đảng ở miền Bắc. Xem “Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử”, tập 9, trang 338-339.
[42]Lê Duẩn, “Thư vào Nam”, tháng 5-1965; cũng xem George Herring, ed., “Ngoại giao bí mật trong chiến tranh Việt Nam: Những tập về Thương lượng trong tư liệu Lầu Năm Góc (Austin: Nhà in Đại học Texas, 1983), trang 42-44.
[43]. Lưu Thiếu Kỳ gặp Lê Duẩn, ngày 8-4-1965; Mao Trạch Đông gặp Hồ Chí Minh ngày 16-5-1965; Chu Ân Lai và Đặng Tiểu Bình gặp Hồ Chí Minh ngày 17-5-1965, tất cả xem “77 cuộc thảo luận giữa Trung Hoa và những nhà lãnh đạo nước ngoài trong chiến tranh Đông Dương, 1964-1977”, trang 85-87. Hồ Chí Minh tới thăm Trung Hoa vào tháng 5 được tiếp đón trong kỳ nghỉ ngắn để kỷ niệm ngày sinh của ông - xem “Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử”, tập 9, trang 244-45; Hoàng Tranh, “Hồ Chí Minh và Trung Quốc”, trang 250; và Vũ Kỳ, “Bác Hồ viết di chúc” (NXB Sự thật, Hà Nội 1989), trang 44-45. Sự phân tích mối quan hệ giữa chính sách Trung Quốc ở Việt Nam và Cách mạng văn hoá, xem những bình luận của Odd Arne Westad trong “77 cuộc thảo luận giữa Trung Hoa và những nhà lãnh đạo nước ngoài trong chiến tranh Đông Dương, 1964-1977”, trang 8-20.
[44] Chu Ân Lai gặp Ayub Khan, ngày 2-4-1965, xem trong “77 cuộc thảo luận giữa Trung Hoa và những nhà lãnh đạo nước ngoài trong chiến tranh Đông Dương, 1964-1977”, trang 79-85. Xem thêm Chen Jian, “Sự dính líu của Trung Quốc”, trang 368-369. Cuộc phỏng vấn của Edgar Snow với Mao Trạch Đông, xem “Sự thật quan hệ Việt-Trung”, trang 35-36, và Edgar Snow, “Cuộc cách mạng lâu dài” (London: Hutchinson, 1973), trang 216.
[45] Chen Jian, “Sự dính líu của Trung Quốc”, trang 380-81. Theo Odd Arne Westad, bài báo nổi tiếng của Lâm Bưu, thực chất của nỗ lực của một tập thể - xem “77 cuộc thảo luận giữa Trung Hoa và những nhà lãnh đạo nước ngoài trong chiến tranh Đông Dương, 1964-1977”, trang 10.
[46] “77 cuộc thảo luận giữa Trung Hoa và những nhà lãnh đạo nước ngoài trong chiến tranh Đông Dương, 1964-1977”, trang 90.
[47] Quan điểm của ông về điều kiện thương lượng, xem những phiên họp Bộ chính trị tháng 12-1965, trong “Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử”, tập 9, trang 338-353. Đáng lưu ý là Hồ coi lý do quan trọng nhất việc Mỹ chấm dứt chiến dịch ném bom là để tạo thuận lợi cho việc đưa bộ đội và vũ khí vào Nam - xem cuộc họp Bộ chính trị ngày 18-10-1966, trong tài liệu nêu trên, trang 485-486. Về sự thể hiện cứng rắn của Hà Nội, xem cuộc họp Bộ chính trị ngày 31-7-1965, trong tài liệu đã dẫn, trang 280-81. Về thúc đẩy phong trào hoà bình ở Mỹ, xem cuộc họp Bộ chính trị ngày 30-12-1965, trong tài liệu đã dẫn, trang 350-351.
[48] Ngày tháng Hồ Chí Minh thảo luận với Chu Ân Lai và Đặng Tiểu Bình không rõ ràng, nhưng chắc chắn diễn ra vào tháng 5-1965. Bài phát biểu của Lê Duẩn trả lời bài báo của Lâm Bưu, xem William Duiker, “Con đường Cộng sản đến quyền lực ở Việt Nam”, 2d ed. (Boulder, Colo.: Westview Press, 1996), trang 269-70. Về những cuộc thảo luận khác các nhà lãnh đạo Trung Quốc và Bắc Việt Nam trong mối quan hệ căng thẳng của họ, xem Chu Ân Lai và Lê Duẩn et al., ngày 13-4-1966; Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai với Phạm Văn Đồng, ngày 10-4-1967; và Đặng Tiểu Bình với Lê Duẩn, ngày 29-9-1975; tất cả có trong “77 cuộc thảo luận giữa Trung Hoa và những nhà lãnh đạo nước ngoài trong chiến tranh Đông Dương, 1964-1977”, trang 90, 104, và 195. Trong cuộc thảo luận với phái đoàn Việt Nam vào tháng 4-1967, Chu Ân Lai thừa nhận trong quá khứ Đảng cộng sản Trung Quốc đã sai lầm nghe lời khuyên của giới lãnh đạo Xô viết như Joseph Stalin, nhưng ông khẳng định, cuối cùng họ đã rút ra bài học là phải dựa vào sức của mình.
[49] Về những người thăm dò hoà bình trong “Chiến dịch Marigold”, xem George C. Herring, “LBJ và Việt Nam: Một kiểu khác của chiến tranh” (Austin: Nhà in Đại học Texas, 1994), trang 104-7. Xem thêm cuộc họp Bộ chính trị ngày 11-12-1965, trích trong “Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử”, tập 9, trang 336. Bức thư của Hồ Chí Minh bằng tiếng Việt có trong Toàn Tập I, tập 10, trang 461-62.
[50] “Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử”, tập 9, trang 437-38; Jean Sainteny, “Chân dung Hồ Chí Minh” (Paris: Seghers, 1970), trang 190.
[51] Về nhà sàn, xem “Nơi ở và làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh tai Phủ chủ tịch” (NXB Lăng Hồ Chí Minh, 1984), trang 9.
[52] Vũ Kỳ, “Bác Hồ viết Di chúc”, trang 35-36.
[53] Chuyến đi được thuật lại trong Vũ Kỳ, “Bác Hồ viết Di chúc”, trang 38-48. Một số câu của Khổng Tử mà Hồ Chí Minh dẫn ra: “Không sợ nghèo, chỉ sợ không công bằng”, “Dân là gốc”, và “Phải đặt lợi ích của nhân dân lên đầu, của đất nước tiếp theo, và cuối cùng mới là vua”. Hồ ngưỡng mộ nhà văn hoá và là chiến lược quân sự thế kỷ XV Nguyễn Trãi. Tháng 2-1965 ông thăm đền thờ Nguyễn Trãi ở Côn Sơn (Hải Dương) và đứng lâu trước mộ Nguyễn Trãi. Theo Vũ Kỳ, Hồ kính trọng sau sắc sự cống hiến của Nguyễn Trãi đối với sự nghiệp độc lập của Việt Nam.
[54] Quan Yan, “Bí hiểm của Đào Chú” (NXB Văn học quân sự Thiểm Tây, Trung Quốc) (Thành Đô) 72 (1995), trang 53-55. Đào Chú là Bí thư Đảng ở Quảng Châu trước khi bị thanh trừng trong Cách mạng văn hoá. Thời gian đó ông là người rất thân với Hồ Chí Minh. Từ bối cảnh này, tôi cho rằng thời gian xảy ra sự kiện này là từ mùa xuân tới mùa hè năm 1966. Theo bài báo này, Hồ Chí Minh chắc chắn muốn có bầu bạn từ Quảng Châu vì ông vẫn còn thương nhớ người vợ đầu của mình - Tăng Tuyết Minh. Nguồn tin khác không giải thích tại sao người Việt Nam không đóng vai trò này. Chính phủ Trung Hoa đã lâm vào tình thế khó khăn khi chọn ba ứng cử viên trước khi từ bỏ ý định. Khi nghe được dự án này, Chu Ân Lai bày tỏ lo ngại rằng điều đó có thể khuấy động tư tưởng chống Trung Quốc trong nội bộ lãnh đạo Đảng ở Hà Nội.
[55] Thông điệp của Hồ Chí Minh gửi nhân dân Việt Nam, “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, trên báo Nhân Dân - xem Toàn Tập I, tập 10, trang 374-77. Xem thêm Quan Yan, “Đào Chú”, “Bí hiểm của Đào Chú” (NXB Văn học quân sự Thiểm Tây, Trung Quốc) (Thành Đô) 72 (1995), trang 55.
[56] “Giữ yên giấc ngủ của Người”, di cảo của Hồ Chủ tịch (NXB Quân đội Nhân dân, 1990).
[57] “Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử”, tập 10, trang 40-41, 93-95, trong thư Hồ Chí Minh gửi Tổng thống Johnson tháng 3, trong Toàn Tập II, tập 12, trang 230-232. Về trao đổi ngoại giao, xem Herring, “LBJ và Việt Nam”, trang 108-111.
[58] “Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử”, tập 10, trang 156-57, 159; “Giữ yên giấc ngủ của Người”, trang 16-17. Fidel Castro kể cho những người quen rằng trong những năm cuối đời, thể lực Hồ Chí Minh không được tốt để đi bộ vào Nam - xem bài báo của Michael Salmon trong “Việt Nam Ngày nay” (tháng 4-1980), trang 2.
[59] “Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử”, tập 10, trang 195.
[60] Vũ Kỳ, “Bác Hồ viết di chúc”, trang 71; Hoàng Văn Hoan, “Giọt nước trong biển cả” (NXB Ngoại văn Bắc Kinh, 1988), trang 334.
[61] Trung Quốc khuyên đồng minh Bắc Việt Nam áp dụng đường lối cứng rắn trong thương lượng kể từ khi mở rộng chiến tranh năm 1965. Trong những cuộc thảo luận về vấn đề này vào tháng 4-1968, Chu Ân Lai cảnh báo Phạm Văn Đồng cuộc tấn công Tết Mậu Thân không phải là một thắng lợi quyết định và trong tình thế bố rối mở những cuộc thương lượng hoà bình, Hà Nội đã làm mất thế chủ động đối với Washington. Khi nói chuyện với Ngoại trưởng Trung Quốc Trần Nghị tháng 10, Lê Đức Thọ vạch ra, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã sai lầm khi nghe lời khuyên thoả hiệp của Trung Quốc tại hội nghị Geneva năm 1954. Xem cuộc gặp của Chu Ân Lai với Phạm Văn Đồng, ngày 13 và 17-4-1968, 29-6 và 17-10-1968, trong “77 cuộc thảo luận giữa Trung Hoa và những nhà lãnh đạo nước ngoài trong chiến tranh Đông Dương, 1964-1977”, trang 123-29, 137-38, 140.
[62] Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh (Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, 1989).
[63] “Giữ yên giấc ngủ của Người”, trang 17-18. Để chống nóng, Hồ dùng lá cọ làm quạt. Để tránh nhầm quạt giữa các đồng chí của ông, ông hơ cháy chữ “B” (Bác) lên quạt.
[64] “Giữ yên giấc ngủ của Người”, trang 19-20.
--!!tach_noi_dung!!--

Nhân Ảnh xuất bản 2014
Bìa: Tạ Quốc Quang
Trình bày: Lê Hân Nguồn: VNthuquan.net - Thư viện Online
Được bạn: Thanh Vân đưa lên
vào ngày: 18 tháng 11 năm 2014

--!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!--