Dịch giả: LÂM HOÀNG MẠNH - NGUYỄN HỌC
CHƯƠNG XIII
ĐỊA DANH MANG TÊN ĐIỆN BIÊN PHỦ

     ự đoán Hồ Chí Minh sẽ về thủ đô ăn Tết năm 1951 quả là ngây thơ. Mặc dù trong giai đoạn khởi đầu, cuộc tấn công của Việt Minh đã bắt đầu một cách đầy hứa hẹn - với việc các đơn vị Việt Minh từ các cánh rừng dưới chân núi Tam Đảo tràn ra trong một cuộc tấn công theo kiểu “biển người” của Trung Quốc nhằm vào các vị trí của đối phương tại Vĩnh Yên - các chỉ huy của họ đã đánh giá thấp quyết tâm của tướng Jean De Lattre de Tassigny mới đến Đông Dương ngày 19-12-1950 với tư cách là Cao uỷ mới và Tổng Tư lệnh các Lực lượng viễn chinh Pháp (FEF) tại Đông Dương. De Lattre đã chứng tỏ một đối thủ đáng gờm đối với Võ Nguyên Giáp. Là một anh hùng chiến tranh, một con người vô cùng tự tin và có hàm quân sự cao nhất, De Lattre đã hành động ngay lập tức củng cố vị thế quân Pháp. Để nâng cao tinh thần binh lính, ông huỷ bỏ lệnh của người tiền nhiệm sơ tán nhân dân Pháp khỏi Hà Nội. Để bẻ gẫy cuộc tấn công của Việt Minh, ông huy động lực lượng dự bị chiến lược từ các nơi khác, đồng thời ra lệnh cho máy bay Pháp sử dụng bom napalm mới nhận được từ Hoa Kỳ.
Kết quả thật kinh ngạc. Binh lính Việt Minh chưa từng gặp phải tác động của bom khí cháy, tháo chạy tán loạn và thị xã Vĩnh Yên vẫn nằm trong quyền kiểm soát của người Pháp. Một người tham gia lực lượng tấn công sau này viết:
“Đơn vị của chúng tôi tấn công từ buổi sáng. Từ xa, ba con chim én hiện ra to dần. Đó là những chiếc máy bay. Chúng bổ nhào và địa ngục mở ra ngay trước mắt tôi. Địa ngục trông giống như một chiếc công-te-nơ chứa đầy những quả trứng khổng lồ rơi xuống từ chiếc máy bay đầu tiên, rồi từ chiếc thứ hai rơi xuống ngay bên phải tôi… Một quầng lửa dữ dội lan ra tới hàng trăm mét, gieo rắc kinh hoàng trong binh lính. Đó là bom napalm, đám cháy từ trên trời rơi xuống.
Một chiếc máy bay khác lại đến và các đám cháy mới lại bùng lên. Bom rơi phía sau chúng tôi và tôi cảm thấy hơi lửa đang lan toả khắp người. Mọi người tháo chạy và tôi không thể nào cản họ lại được. Không có cách nào sống được dưới quầng lửa đang hoành hành và thiêu rụi mọi thứ trên đường đi của nó”.[1]
Theo một báo cáo tình báo của Mỹ, khoảng từ 3.500 đến 4.000 lính trong tổng số 10.000 lính tham gia cuộc tấn công của Việt Minh đã bị thương. Hơn 400 lính Pháp chết và 1.200 bị thương. Các cuộc tiến công sau đó vào Mạo Khê và các cứ điểm dọc sông Đáy ít thành công hơn và cuối cùng, sau khi chịu nhiều thương vong, họ phải rút lên núi. Khi mối đe doạ đối với Hà Nội tạm thời dịu xuống, De Lattre thú nhận, quyết định huỷ bỏ lệnh sơ tán của ông chỉ là “tiếng còi trong bóng đêm” và là một cuộc trình diễn trên sân khấu nhằm khôi phục niềm tin của công chúng.[2]
Không những không mở được đường tiến về Hà Nội, cuộc tiến công lại là một thất bại của các lực lượng Việt Minh và thực sự là một thất bại cá nhân đáng xấu hổ của Võ Nguyên Giáp - nhà chiến lược thượng hạng của Hồ Chí Minh. Mấy tuần sau đó, Bộ Tổng tham mưu bắt đầu suy tính lại cách đánh của mình. Tại một cuộc họp của các cán bộ cao cấp trong Đảng tổ chức giữa tháng Tư, Hồ Chí Minh kêu gọi tự kiểm điểm để rút kinh nghiệm từ những bài học vừa qua, chuẩn bị cho cuộc chiến đấu mới. Một chương trình phát thanh của Việt Minh tháng Năm nói, chỉ nên phát động các chiến dịch quân sự lớn khi cầm chắc chiến thắng. Các nguồn tin chính thức đã thôi thúc không dùng khẩu hiệu “chuẩn bị chuyển sang giai đoạn tổng tấn công”, bắt đầu nhấn mạnh đến tầm quan trọng của một cuộc kháng chiến trường kỳ. Trong các bài viết và nói chuyện cuối năm 1951, Hồ Chí Minh gián tiếp đưa ra quan điểm tương tự, nói đến tầm quan trọng của chiến thuật chiến tranh du kích trong việc tiến hành một cuộc đấu tranh lâu dài chống lại kẻ thù. Các cố vấn Trung Quốc rũ bỏ trách nhiệm thất bại bằng cách báo cáo cho cấp trên (một cách muộn màng) rằng binh lính Việt Minh thiếu kinh nghiệm cần thiết để tiến hành một chiến dịch quân sự đầy tham vọng như vậy. Họ cũng khuyên nên chuyển sang áp dụng chiến tranh du kích. Ông Giáp cũng thừa nhận, đối đầu với quân đội Pháp được trang bị tốt hơn trong một trận chiến bằng những lực lượng vẫn còn thiếu kinh nghiệm là một sai lầm và các lực lượng này đôi khi không có được mức độ quyết chiến, một quyết tâm cần thiết.[3]
Ảnh hưởng của Trung Quốc đối với chiến lược chiến tranh du kích của Việt Minh ngày càng trở lên nên rõ nét sau năm 1950, tác động của nó cũng rõ nét trong các thay đổi đang diễn ra trong chính sách đối nội của Việt Minh. Từ giữa những năm 1950, các cán bộ Trung Quốc mặc trang phục kiểu Mao miệng hô hào các khẩu hiệu cách mạng bắt đầu đến Việt Nam với số lượng lớn để cố vấn cho phía Việt Nam trên mọi phương diện quản lý và hành vi ứng xử. Trước khi họ rời Trung Quốc, Lưu Thiếu Kỳ đã cẩn thận chỉ thị cho các thành viên của đoàn cố vấn không được áp đặt các kỹ thuật Trung Quốc vào Việt Nam một cách tùy tiện, nhưng nhiều người đã phớt lờ lời khuyên, làm dấy lên sự bực tức trong hàng ngũ binh lính và sĩ quan Việt Nam, những người từ lâu đã nhạy cảm trước thái độ trịnh thượng của những người anh em phương Bắc.
Đối với nhiều người Việt Nam, việc thiết lập các chương trình i có một chiến thắng quân sự. Tôi rất tiếc, nhưng những gì mà Việt Minh đã làm phải bị trừng trị”. Moutet cũng chẳng đoái hoài tìm cách liên lạc với người bạn cũ Hồ Chí Minh trong Đảng Xã hội trước khi quay về Pháp đầu tháng Giêng và Moutet dành nhiều thời gian thảo luận với quan chức Pháp ở Lào và Campuchia. Về phần mình, Hồ Chí Minh đã gửi cho Moutet một bức thư ngày 3 tháng 1 với bản dự thảo ngừng bắn nối lại thương lượng, nhưng bức thư này bị chính quyền thực dân Pháp chặn và trả lại.[5]
Tướng Leclerc và Moutet tin rằng việc giáng trả mạnh mẽ của Pháp vào Việt Minh là cần thiết trước khi mở thương lượng hoà bình. Nhưng Leclerc cũng tin rằng giải pháp cuối cùng cho cuộc khủng hoảng này phải là giải pháp chính trị, việc Moutet từ chối gặp Hồ làm ông khó xử. Từ Đông Dương trở về Pháp ngày 1 tháng 1, Leclerc nhấn mạnh: “Có quá nhiều người tưởng có thể xây chiếc cầu nối giữa Việt Nam và Pháp bằng súng đạn”. Trong báo cáo gửi chính phủ, Leclerc nhấn mạnh “một giải pháp phức tạp chắc chắn hiện thực trong thời gian tới, trừ giải pháp chính trị”. Ông kết luận Pháp không thể dùng vũ lực để khuất phục hai mươi bốn triệu người với tinh thần dân tộc đang cao. Theo Leclerc, vấn đề chủ yếu làm thế nào thay thế hình thức đang tồn tại chủ nghĩa dân tộc của Việt Minh bằng những đảng phái chính trị ôn hoà hơn. Nếu vị thế quân sự của Pháp càng mạnh trên chiến trường, việc giải quyết vấn đề sẽ càng thuận lợi hơn.[6]
Do quan điểm Leclerc về tình hình nói chung hợp với quan điểm của chính Leon Blum, nên khi Leclerc về Pháp giữa tháng 1-1947, vị thủ tướng đánh tiếng đưa ông trở về Đông Dương làm Tổng tư lệnh và Cao uỷ, thay Thierry d'Argenlieu, người có quan điểm quá khích, đẩy tình hình vào ngõ cụt. Nhưng trong khi Leclerc còn cân nhắc, thủ tướng Blum bị thay thế bằng Paul Ramadier, cũng từ đảng Xã hội. Ramadier tán thành đường lối hiện thời phục hồi trật tự bằng vũ lực, đồng thời ông đồng ý xem xét việc thống nhất ba miền Việt Nam thành một quốc gia nằm trong Liên hiệp Pháp. Nhưng khi tân thủ tướng lưỡng lự tăng quân Pháp ở Đông Dương, Leclerc - nghe tướng De Gaulle khuyên - đã từ chối lời đề nghị làm Cao uỷ. Để lấp chỗ trống, Ramadier chọn Emile Bollaert, một chính trị gia có quan điểm tự do và uy tín, không thuộc bất cứ phái nào trong Quốc hội. Một nhà ngoại giao Mỹ mô tả Bollaert, “rất có năng lực và năng động nhưng ít ai biết tiếng”.[7]
Bollaert lên đường tới Đông Dương đầu tháng 3. Khi tới Sài Gòn, ông lập tức đối mặt với thách thức ngay trong nội bộ. Được d'Argenlieu ủng hộ, các quan chức thực dân địa phương ráo riết tìm cách qua mặt Việt Minh, thoả thuận với cựu hoàng Bảo Đại, lúc đó đang ở Hong Kong. Bảo Đại từ lâu đã bỏ danh xưng “Công dân Vĩnh Thụy”, vốn lười biếng và ăn chơi, Bảo Đại chẳng còn đoái hoài đến công việc quốc gia, vùi đầu trong sòng bạc và gái gú. Tuy những tiếp xúc đầu tiên của Pháp với vị cựu hoàng phì nộn này không kết quả, nhưng triển vọng sử dụng Bảo Đại được nhiều người ủng hộ, ở cả Pháp lẫn Đông Dương. Tuy vậy đối với Bollaert, kế hoạch này cũng ở thế lưỡng nan. Trong khi đó Việt Minh vẫn được sự ủng hộ của đông đảo dân chúng, và Hồ được thừa nhận như nhà lãnh đạo của dân tộc. Trước khi rời Paris, Leclerc khuyên Bollaert “nên thương lượng bằng mọi giá”.
Nhiều người thân cận Bollaert cũng tán đồng đàm phán với Việt Minh, gồm chánh văn phòng chính phủ Pierre Messmer và Paul Mus, cố vấn riêng của ông đồng thời là một học giả Đông Dương có tiếng. Tuy hơn một ngàn quân Pháp chết hoặc mất tích, nhưng tâm lý cộng đồng Pháp ở Đông Dương lúc này là cương quyết chống Việt Minh. Phương án dùng Bảo Đại là khả dĩ nhất, nhưng liệu Bảo Đại có thể là đối trọng với Hồ Chí Minh không? Trong khi vị cựu hoàng được sự ủng hộ nào đấy trong những người hoài cổ thì đa số nhân dân Việt Nam khinh bỉ ông về lối sống bê tha. Những người khác còn nghi ngờ ông không có đủ năng lực thống nhất những nhóm dân tộc chủ nghĩa cứng đầu, nhỏ nhen, manh mún.
Hồ Chí Minh vẫn cố gắng giữ mối liên lạc mỏng manh với Pháp. Ngày 23 tháng 4, Hoàng Minh Giám, một người không cộng sản, vừa được bổ nhiệm bộ trưởng Bộ ngoại giao hồi tháng 3-1947, gửi thông điệp của Hồ tới Bollaert đề xuất ngừng bắn tức khắc và mở lại thương lượng để chấm dứt xung đột. Nghi ngờ ý định kẻ thù và nghe các cố vấn của mình cam đoam tình thế quân sự bây giờ tốt đẹp, Bollaert đưa ra một loạt điều kiện thực chất đòi Việt Minh đầu hàng trước khi khôi phục hoà bình. Bollaert đưa thư cho Paul Mus. Người đã một lần gặp Hồ Chí Minh, để chuyển cho Hồ. Chiều ngày 12 tháng 5, trước tiên, Mus bí mật gặp Hoàng Minh Giám tại một địa điểm gần Hà Nội, sau đó gặp Hồ tại Thái Nguyên. Hồ nhã nhặn nghe Mus trình bày, nhưng thẳng thừng bác bỏ đòi hỏi của Pháp. Hồ nhấn mạnh: “Trong Liên hiệp Pháp không có chỗ đứng cho những kẻ hèn nhát. Nếu tôi chấp nhận những điều khoản này, tôi sẽ là người như vậy”.[8]
Thái độ khinh miệt trả lời những đề nghị của Việt Nam về thương lượng hoà bình rõ ràng làm Hồ Chí Minh thất vọng, dù ông luôn luôn bày tỏ hy vọng Pháp sẽ giảng hoà để không muốn mất thuộc địa Đông Dương. Tuy nhiên, khi đó không có sự chọn lựa nào tối hơn bằng vũ lực. Cuối tháng đó, Hồ Chí Minh lại ra lời kêu gọi mới kháng chiến toàn quốc, tuyên bố rằng Pháp không chấp nhận hoà bình.
Nhưng Hồ tiếp tục theo đuổi khả năng quốc tế giải quyết vấn đề. Hồ biết sự đối đầu giữa hai khối siêu cường trên thế giới đang tăng lên, và Moscow vẫn thể hiện sự quan tâm quá nhỏ nhoi tới cuộc chiến tranh ở Đông Dương xa xôi. Dù vậy, vẫn có cơ hội để Mỹ tham gia vai trò hữu ích giải quyết xung đột. Thực vậy, chính quyền Truman theo dõi những hành động của Pháp từ khi tái chiến ở Đông Dương với vẻ không hài lòng. Mặc dù Hồ và những đồng chí của ông không nhận thấy điều này. Ít ngày sau khi nổ súng ở Hà Nội, thứ trưởng ngoại giao Dean Acheson mời Đại sứ Pháp Henri Bonnet tới Bộ ngoại giao, cảnh báo tình hình ở Đông Dương đang xấu đi và theo quan điểm Washington, không thể giải quyết bằng vũ lực. Acheson cam đoan với Bonnet Mỹ không muốn can thiệp, nhưng sau đấy gợi ý đưa một số sĩ quan Mỹ hiểu biết tình hình đến giải quyết. Paris thẳng thừng bác bỏ đề nghị này, khẳng định rằng Pháp sẽ khôi phục trật tự trước khi liên lạc với Việt Nam.
Vài tuần sau, tướng George C. Marshall, vừa từ Trung Quốc trở về, thay James Byrnes làm ngoại trưởng. Từ tháng 12-1945, Marshall thường xuyên tới Trùng Khánh tìm cách dàn hoà giữa những phần tử dân tộc chủ nghĩa và Đảng cộng sản Trung Quốc trong chính phủ liên hiệp do Tưởng Giới Thạch cầm đầu. Bất chấp những cố gắng của ông, nội chiến vẫn nổ ra vào cuối 1946. Sau khi bao quát tình hình ở Đông Dương, Marshall gửi điện cho đại sứ Hoa Kỳ Caffery ở Paris, đây là một văn bản dài mơ hồ, tối nghĩa, một thông điệp lần đầu tiên bày tỏ chính thức quan điểm Washington về vấn đề Việt Nam kể từ khi bắt đầu xung đột Pháp-Việt. Marshall vạch rõ, Mỹ chính thức công nhận chủ quyền của Pháp ở Đông Dương, và không có ý định can thiệp vào vùng này. Marshall nói thêm “Chúng tôi không thể làm ngơ trước thực tế cả hai phía có trách nhiệm giải quyết vấn đề này và báo cáo của chúng tôi cho thấy Pháp thiếu hiểu biết đối phương (tại Sài Gòn nhiều hơn ở Paris) vẫn còn cố bám lấy mô hình và cách suy nghĩ thực dân lạc hậu”.
Nhưng Marshall lập tức tự đào hố dưới chân mình khi thừa nhận thực chất tình thế khó xử của Pháp: “Chúng ta không quên rằng Hồ có những mối quan hệ trực tiếp với cộng sản và không muốn mô hình thực dân lại được thay thế bằng một tổ chức mới do Kremlin kiểm soát”. Cuối cùng, Marshall cũng chẳng đưa được ra giải pháp nào, ngoài việc khuyên Pháp nên để ngỏ quan hệ và “rộng lượng” hơn trong việc tìm giải pháp. Sự thiếu quả quyết đáng buồn của Marshall trong chủ trương rối mù về vấn đề Đông Dương kéo dài tới khi Truman rời chức vụ.[9]
Cuối tháng 2, Marshall chỉ thị lãnh sự Mỹ James O'Sullivan ở Hà Nội bắt liên lạc với giới lãnh đạo Việt Nam nếu gặp dịp. Chẳng cần đợi lâu. Tháng 4-1947, Phạm Ngọc Thạch, người một thời cầm đầu Đội thanh niên xung phong Sài Gòn, hiện là thứ trưởng trong chính phủ Hồ Chí Minh, có quan hệ với vài thương nhân Mỹ ở Thái Lan và trung tá William Law, -trợ lý tuỳ viên quân sự tại Đại sứ quán Mỹ ở Bangkok. Sau những cuộc hội đàm không chính thức với đại tá Law, Thạch đồng ý trả lời một loạt câu hỏi bằng văn bản của Law và của đại sứ Hoa Kỳ Edwin F. Stanton. Thạch nhấn mạnh đặc tính rộng rãi, không đảng phái chính phủ Việt Nam và cam kết mục đích của chính phủ là dân tộc chứ không phải cách mạng xã hội chủ nghĩa. Thạch khẳng định cương lĩnh kinh tế của chính phủ “tạo điều kiện phát triển quyền tự trị tư bản và kêu gọi tư bản nước ngoài giúp đỡ tái thiết đất nước”. Ngay sau đó, Thạch đệ trình lời kêu gọi đại diện cộng đồng doanh nhân Mỹ tại Thái Lan, đưa ra những nhượng bộ kinh tế đổi lấy các thiết bị công nghiệp một máy móc nông nghiệp cũng như các khoản vay có hoàn lại. Thạch cảnh báo rằng nếu không có dàn xếp hoà bình, Việt Nam chuẩn bị tiến hành chiến tranh du kích sáu năm. Cùng thời gian này, Hồ trả lời phỏng vấn của một nhà báo Mỹ, phủ nhận chính phủ ông theo tinh thần nguyên lý Marxist, lớn tiếng hỏi tại sao không thể có giải pháp tương tự như Philippin và Ấn Độ cho Việt Nam.[10]
Động thái của Việt Nam có ít nhiều tạo ra sự quan tâm trong hàng ngũ quan chức Bộ ngoại giao Hoa Kỳ, với việc bổ nhiệm phần tử ôn hoà Hoàng Minh Giám làm Bộ trưởng Bộ ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hoà hồi tháng 3. Trong lời nhận xét gửi về Washington, đại sứ Stanton nhấn mạnh, Phạm Ngọc Thạch - được quan chức Mỹ tại Sài Gòn cuối năm 1945 xem là có thiện cảm – “một người thông minh và rất năng động”. Từ Hà Nội, O'Sullivan đề nghị cho phép ông trực tiếp gặp Thạch ở Bangkok. O'Sullivan nhận xét Hồ là người “rất quỷ quyệt”, cho rằng một cuộc nói chuyện không chính thức với Thạch ít ra cũng cung cấp những thông tin hữu ích về bản chất chính phủ Việt Nam. Marshall chấp thuận, hy vọng cuộc gặp với Thạch có thể tiết lộ phạm vi kiểm soát của thế lực cộng sản trong chính phủ Việt Nam và “mức độ phục vụ cho Moscow”. Nhưng cuộc gặp không diễn ra. Ngày 7 tháng 5, Stanton thông báo Thạch bất ngờ rời Bangkok. Hai ngày sau, Marshall chỉ thị O'Sullivan bỏ kế hoạch đi Bangkok, nói Thạch đã rời Bangkok và lo ngại Pháp phản ứng về cuộc gặp dự kiến.
Nhưng sự cố này chưa hoàn toàn chấm dứt hy vọng. Ngày 8 tháng 5, Hoàng Minh Giám gửi thông điệp chính thức yêu cầu Hoa Kỳ công nhận về mặt ngoại giao chính phủ ông, bước đi này “nâng cao uy tín và ảnh hưởng của Hoa Kỳ và thiết lập hoà bình ở Đông Nam Á”. Phạm Ngọc Thạch đưa ra thông điệp thứ hai kêu gọi giúp đỡ văn hoá, kinh tế, chính trị và đề nghị Washington làm trung gian hoà giải xung đột Pháp-Việt. Khi những sáng kiến này tới ngoại trưởng Marshall, ông đề nghị các nhà ngoại giao Hoa Kỳ ở Paris, Sài Gòn, Hà Nội đánh giá chính phủ Việt Nam và phạm vi ảnh hưởng cộng sản trong giới lãnh đạo. Ông muốn biết quan điểm thực của ông Hồ là gì? Vai trò Trường Chinh và Hoàng Quốc Việt, những nhân vật hiếu chiến, trong chính quyền ra sao? Những phần tử dân tộc chủ nghĩa không cộng sản nghĩ gì về Việt Minh? Họ có biết xu hướng cộng sản của chính phủ không? Có phải họ định làm khuôn mẫu cộng sản ở Việt Nam? Cuối cùng, liệu Việt Nam Dân chủ Cộng hoà có thừa nhận “quyền tự do bày tỏ chính kiến một cách hợp lý” không?
Trong thư trả lời, O'Sullivan khẳng định, mặc dù những người cộng sản có ảnh hưởng đáng kể trong chính phủ, nhưng khó đưa đất nước theo con đường Liên Xô, “mặc dù có xu thế kéo về hướng này”. Ông bóng gió nói việc Hồ Chí Minh ngần ngừ không nhận mình thực sự Nguyễn Ái Quốc là dấu hiệu cho thấy Hồ nhận thức được ông cần làm việc với phương Tây. O'Sullivan kết luận, Hồ đang cố gắng tiếp nhận viện trợ bất cứ nguồn nào và sẽ lái chính sách của mình tới nơi nào giúp đỡ ông.
Những người khác nhận xét theo cách khác ít lạc quan hơn. Charles Reed miêu tả Hồ là một tay “cơ hội xảo quyệt” và “có thể dẫn đến một quốc gia cộng sản, cho dù phần đông nhân dân không mấy người quan tâm đến cộng sản là gì”. Đại sứ Hoa Kỳ tại Paris Caffery cân nhắc quan điểm của mình, cho rằng tuy nhân dân Việt Nam nói chung không ưa chủ nghĩa cộng sản, vì sự nghiệp của Hồ trong quá khứ “ít nghi ngờ là Hồ có những quan hệ mật thiết với cộng sản”.[11]
Việc Việt Minh bác bỏ những điều khoản hoà bình của Pháp làm thất vọng Bollaert, người có lẽ thật sự mong muốn dàn xếp chính trị cho cuộc xung đột, nhưng điều đó không ngăn cản ông tìm cách khác. Bộ trưởng chiến tranh Pháp Paul Coste-Floret, sau khi hoàn thành chuyến thị sát Đông Dương, nói “Không có vấn đề quân sự ở Đông Dương, vũ khí của chúng ta đem lại thành công”. Tin vào tình hình sáng sủa, Bollaert bây giờ bắt đầu nhìn Việt Minh không phải là đại diện duy nhất cho nhân dân Việt Nam mà đơn thuần chỉ là một trong những nhóm có thể tiếp xúc để tìm kiếm hoà bình. Chủ trương mới của Bollaert gặp được thuận lợi khi bối cảnh chính trị ở Pháp thay đổi, Đảng cộng sản không có chân trong chính phủ liên hiệp. Thủ tướng Ramadier lúc này cần sự ủng hộ của phái ôn hoà và bảo thủ để trụ lâu trên ghế. Một giải pháp chính trị lúc này sẽ mang tai mang tiếng dù chỉ là tạm thời, mọi con mắt bây giờ quay về tướng Valluy ở Đông Dương, người không còn tin Hồ Chí Minh muốn hoà bình và tin rằng chỉ có dùng quân sự mới giải quyết được vấn đề.
Coste-Floret đánh giá tình hình quân sự đang có lợi cho Pháp. Trên thực tế, những cố gắng của Việt Minh nhằm bảo tồn sức mạnh trong giai đoạn đầu cuộc chiến đã bị thất bại, lực lượng Việt Minh thường xuyên trong tình trạng lộn xộn khi đối mặt với quân Pháp. Đôi khi những đơn vị chủ lực tham chiến quá đông hoặc quá hung hăng dẫn đến thương vong nặng. Mặt khác, các sĩ quan chỉ huy yếu kém chiến thuật chiến tranh du kích, dẫn đến lộn xộn và nạn đào ngũ lan rộng trên chiến trường. Thêm nữa là rất thiếu vũ khí. Phần đông, quân đội Việt Nam chỉ có được vũ khí tự sản xuất ở địa phương, tịch thu được từ quân Nhật hoặc Pháp. Lãnh đạo Việt Minh cũng đánh giá quá cao sự ủng hộ từ những người giàu có ở nông thôn. Không làm được việc giảm tô, họ mất dịp may huy động sự ủng hộ của nông dân nghèo, những người đang lê chân khi được kêu gọi phụng sự chiến tranh.[12]
Tin vào thắng lợi trên chiến trường, tướng Valluy dự kiến mở cuộc tấn công lên Việt Bắc bắt Hồ Chí Minh và đánh tan lực lượng kháng chiến. Sau đó và chỉ sau đó, theo Valluy, mới thương lượng. Trong khi đó, Pháp cũng tấn công về mặt chính trị nhằm hạ bớt sự ủng hộ của dân chúng cho Việt Minh, đánh tan ý chí nóng bỏng những người Việt Nam nào muốn đuổi Pháp ra khỏi Đông Dương.
Chủ trương này của Valluy cần tăng quân số Pháp ở Đông Dương lên hơn 100.000 lính. Lúc này, cuộc xung đột ở Đông Dương được coi là chuyện vụn vặt thứ yếu ở một góc xa xôi của thế giới. Chính phủ Pháp đang bận tâm bận với cuộc nổi dậy trên Madagascar nên chỉ chấp thuận một phần yêu cầu của Valluy. Vì thế Valluy buộc phải thay đổi kế hoạch sử dụng một lực lượng nhỏ binh lính ông cho là cần thiết.
Một trong số điểm quan trọng trong chiến lược Valluy đánh giá những hoạt động của Việt Minh ở Nam Kỳ. Để đạt được mục tiêu của mình, Valluy tung gần một nửa Quân đội viễn chinh Pháp vào Nam Kỳ. Đối địch với Valluy là 18.000 quân thường tru nước và các nông dân giàu có không uyễn Bình. Khắp Đông Dương, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà bấy giờ chỉ có gần sáu mươi ngàn quân, chưa tính đến một lực lượng đông đảo tự vệ và du kích. Tuy thiếu vũ khí nhưng hoạt động hết sức linh động, được nhân dân địa phương ủng hộ đáng kể, các tiểu đoàn Việt Minh bây giờ né tránh những cuộc hành quân càn quét của Pháp và tiến hành tấn công chớp nhoáng kẻ thù tại những đồn bốt nhỏ theo cách họ chọn. Thành công duy nhất của Pháp trong mùa hè năm 1947 là thành công về mặt chính trị, do Nguyễn Bình sử dụng chiến thuật tàn bạo khiến nhiều đồng bào ở Nam Kỳ sợ hãi và đẩy những người cầm đầu hai giáo phái Cao Đài, Hoà Hảo chạy sang phía Pháp.[13]
Trong khi đó, Bollaert muốn đưa ra một chiến dịch hoà bình. Hồ Chí Minh đã gửi một tín hiệu vào tháng 8, loại bỏ hai phần tử hiếu chiến Tôn Đức Thắng và Võ Nguyên Giáp ra khỏi chức bộ trưởng nội vụ và quốc phòng, thay bằng những phần tử ôn hoà. Nhưng Valluy mạnh mẽ phản đối đề xuất Bollaert, cả hai được triệu về Paris để tư vấn. Kết quả là thoả hiệp. Phát biểu tại Hà Nội vào tháng 9-1947, Bollaert đề nghị một nước Việt Nam thống nhất nằm trong Liên hiệp Pháp, nhưng ông không nói đến nền độc lập hoàn toàn. Ông không nhắc đến đối phương chính của ông và chỉ nói “tất cả các nhóm Việt Nam”. Theo những quan sát viên Hoa Kỳ, nhiều Pháp kiều ở Đông Dương hài lòng với bài phát biểu, nhưng người Việt Nam thì “sững sờ”. Ngày 15 tháng 9, Hoàng Minh Giám thay mặt chính phủ trả lời: “Không có tự do là không có độc lập hoàn toàn”. Ba ngày sau, Bảo Đại công khai chấp nhận đề xuất của Pháp để thay mặt nhân dân Việt Nam thương lượng. Nhưng ông cũng khăng khăng đòi độc lập và thống nhất quốc gia. Mặt trận quốc gia thống nhất vừa vội vàng thành lập gồm những đại diện của những nhóm dân tộc chủ nghĩa không cộng sản khác nhau họp ở Hong Kong cũng bác bỏ những điều kiện Bollaert đưa ra. Dân Sài Gòn đồn ầm lên là Hồ đi đêm với Bảo Đại.
Ngày 7 tháng 10 năm 1947, Pháp một cuộc tấn công chờ đợi từ lâu vào Việt Bắc. Vì buộc phải hành quân với số lính ít hơn ông trù tính trước, Valluy thay đổi kế hoạch. Thay vì bao vây toàn bộ khu vực, sau đó tấn công từ mạn bắc cũng như mạn nam, ông chọn một cuộc hành quân nhỏ nhằm chiếm một căn cứ đầu não Việt Minh, sau đó già
  • CHƯƠNG XI
  • CHƯƠNG XI (tt)
  • CHƯƠNG XII
  • CHƯƠNG XIII
  • CHƯƠNG XIV
  • CHƯƠNG XIV (tt)
  • CHƯƠNG XV
  • PHẦN KẾT
  • NGUỒN THAM KHẢO
  • ---~~~mucluc~~~--- ---~~~cungtacgia~~~--- !!!15272_2.htm!!!ở Đông Dương. Ngược lại, mặc dù các tổ chức được thiết lập tại Lào và Campuchia mang tên Đảng Nhân dân Cách mạng, kế hoạch thiết lập một liên minh chặt chẽ giữa ba nhóm đã được đưa ra ngay sau khi Đại hội II kết thúc. Theo một tài liệu chính thức của Đảng được đưa ra tại Đại hội sau này Pháp lấy được, Việt Nam không hề có ý định chấm dứt sự kiểm soát đối với phong trào cách mạng trên toàn Đông Dương. Tài liệu này tuyên bố “Đảng Việt Nam giữ quyền giám sát hoạt động của các đảng anh em ở Lào và Campuchia”, mặc dù các nguồn tin của Việt Nam sau này xác nhận, quan niệm về một liên bang Đông Dương (lần đầu tiên được đề cập tại Hội nghị Ma Cao năm 1935) đã được công khai từ bỏ tại Đại hội năm 1951, nhưng tài liệu tịch thu được này lại nói ngược lại. Mặc dù có ba đảng riêng biệt, “sau này, nếu điều kiện cho phép, ba đảng cách mạng ở Việt Nam, Lào, Campuchia sẽ có thể thống nhất lại để thành lập một đảng duy nhất: Đảng Liên bang Việt - Miên - Lào”.[7]
    Quyết định duy trì quan hệ chặt chẽ giữa ba nước, đoàn kết thống nhất trong Liên hiệp Pháp chứng tỏ giới lãnh đạo Đảng nhận thấy tầm quan trọng chiến lược của Đông Dương như một khối thống nhất. Trong một cuốn sách học của Đảng mà người Pháp thu được năm 1950, ba nước được miêu tả như một khối thống nhất từ quan điểm đến địa lý, kinh tế, chính trị và chiến lược. Tài liệu này nói rằng các phong trào cách mạng ở ba nước được định hướng giúp đỡ lẫn nhau trong mọi lĩnh vực để tiến hành cuộc đấu tranh chống đế quốc xâm lược và xây dựng “nền dân chủ mới” trong tương lai.[8]
    Dấu ấn của Hồ Chí Minh có thể được tìm thấy trong nhiều tài liệu được Đại hội thông qua. Các cộng sự của ông đã chiếu theo ý kiến kiên quyết của Hồ Chí Minh cần phải đặt mục tiêu phản đế lên trên phản phong ở Đông Dương và công nhận cần phải hiệu triệu những phần tử ôn hoà trong xã hội Việt Nam. Nhấn mạnh đến tầm quan trọng của cuộc cách mạng hai giai đoạn (dù có ngắn đến đâu) và sự cần thiết phải áp dụng ý thức hệ cách mạng vào điều kiện cụ thể ở mỗi nước, các đảng viên đã hưởng ứng khuynh hướng thực dụng, điều luôn là ý tưởng của ông từ những ngày đầu tiên của phong trào.
    Tuy nhiên, khó tránh khỏi kết luận Bắc Kinh cũng có ảnh hưởng chính đằng sau những quyết định tại Đại hội II. Bằng việc quyết định lập lại Đảng cộng sản như một “lực lượng đưa đường chỉ lối” hiện hữu thúc đẩy cách mạng Việt Nam, người Việt Nam đã đáp lại chỉ trích từ Trung Quốc và Liên Xô cuộc đấu tranh của họ từ trước đến giờ vẫn thiếu màu sắc Marxist cần thiết. Việc sử dụng thuật ngữ “nền dân chủ mới”, một sự bắt chước trực tiếp từ một mô hình mới được chính người Trung Quốc áp dụng, trong khi nhấn mạnh đến “sự lớn mạnh” của cách mạng từ giai đoạn một sang giai đoạn hai, họ nhấn mạnh đến những quan ngại từ phía Moscow và Bắc Kinh rằng Đảng cộng sản Đông Dương vẫn chưa chính thống trong các hoạt động của mình.
    Phản ứng của Hồ Chí Minh trước các quyết định tại Đại hội có lẽ lẫn lộn. Là một người có đầu óc thực tế, ông hiểu tầm quan trọng của việc xoa dịu Bắc Kinh để khuyến khích sự ủng hộ của Trung Quốc cho cách mạng Việt Nam và ít người sánh được với ông về khả năng quỵ luỵ trước Mao Chủ tịch và các cộng sự hãnh tiến của Mao. Nhưng chắc ông cũng lo lắng về hiểm hoạ của những ảnh hưởng thái quá của Trung Quốc và nhận thức được nhiều yếu tố trong mô hình Trung Quốc - cụ thể nâng cao vai trò của Đảng, sự nhấn mạnh ngày càng nhiều tới cải huấn tư tưởng, trừng phạt nặng nề giành cho những ai bị tình nghi là phản động - có thể sẽ không thành công trên mảnh đất nhiệt đới của xứ Đông Dương thuộc Pháp này. Những bản năng bao quát của ông chắc chắn đã phản kháng khi biết nhiều người yêu nước Việt Nam sẽ bị đẩy ra khỏi hàng ngũ của Mặt trận Việt Minh và rơi vào tay kẻ thù.
    Những lo lắng của ông Hồ không qua được mắt những quan sát viên thời đó và có nhiều lời đồn, mặc dù Hồ Chí Minh được khẳng định là Chủ tịch Đảng, cuộc họp đã đánh dấu một thất bại lớn của ông Hồ và ảnh hưởng của ông trong phong trào cách mạng Việt Nam. Theo các nguồn tin tình báo Pháp, một trong những kết quả của Đại hội thay thế ảnh hưởng của những người ôn hoà như Hồ Chí Minh bằng những thành phần hiếu chiến đứng đầu là Trường Chinh - người vừa được bầu lại vào vị trí Tổng Bí thư Đảng. Một nguồn tin báo chí tại Sài Gòn thậm chí đưa tin, ông Hồ đã bị tử hình theo lệnh của Võ Nguyên Giáp. Các nguồn thạo tin tại Hà Nội thừa nhận, Đại hội thể hiện thất bại của Hồ Chí Minh và thắng thế của những người như Trường Chinh - những người quyết tâm đi theo lời khuyên của Trung Quốc, áp dụng đường lối cứng rắn hơn đối với cách mạng Việt Nam. Một Uỷ ban Trung ương mới gồm 29 uỷ viên đã được bầu ra (thành phần chủ yếu những nhà cách mạng lão thành đã hoạt động tích cực trong Đảng từ trước Thế chiến II). Uỷ ban Trung ương lại bầu ra một Ban Chấp hành nữa (theo mô hình của Liên Xô, Bộ Chính Trị), gồm bảy đảng viên hàng đầu của Đảng và một uỷ viên dự khuyết. Bộ Chính trị sẽ điều khiển công việc của Đảng và chính phủ. Các thành viên chính của tổ chức này được mọi người coi là “tứ trụ” là Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp và Hồ Chí Minh. Tóm tắt tiểu sử đăng trên báo Nhân Dân của Đảng tháng 3-1951 mô tả Trường Chinh như kiến trúc sư, người lãnh đạo cách mạng Việt Nam trong khi Hồ Chí Minh là linh hồn của cuộc cách mạng.[9]
    Sau khi Giáp thất bại trong cuộc tấn công ở đồng bằng sông Hồng, cuộc xung đột dần lắng xuống, trở thành cuộc chiến cân bằng. Năm 1951, hầu hết các cố gắng của Việt Minh tập trung vào phía Bắc. Sau thất bại của cuộc tiến công của Nguyễn Bình mùa Hè năm 1950, các nhà chiến lược Việt Minh tạm gác cuộc đấu tranh ở Nam Bộ. Ông Bình tổ chức những cuộc tuần hành lớn ở Sài Gòn (còn gọi là “những ngày đỏ”) chống lại chiến tranh, những khó khăn kinh tế, xã hội do chiến tranh gây ra. Ông coi đó là một phần chiến lược của mình. Nhân dân, đặc biệt là công nhân và sinh viên, phải chịu cảnh lạm phát và quân dịch, đã tham gia vào các cuộc tuần hành nhưng nhiều người trung dung cảm thấy đường đột vì các cuộc tuần hành này có khả năng dẫn đến bạo lực và không ủng hộ phong trào. Nguyễn Văn Tâm, thủ tướng mới của Bảo Đại, trước là Tổng trưởng cảnh sát được mọi người gọi là “hùm xám Cai Lậy”; vì đã áp đặt mạnh mẽ những hoạt động nổi dậy ở miền Nam, phá vỡ bộ máy của Việt Minh tại Sài Gòn, đến tháng Tám, bộ máy Việt Minh hầu như đã chấm dứt hoạt động. Để chỉ đạo hoạt động cách mạng ở miền Nam, Đảng Lao động Việt Nam thành lập Trung ương Cục (tiếng Anh là COSVN), trực tiếp dưới sự kiểm soát của Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
    Chiến trường Nam Bộ hầu như không hoạt động, Giáp và cộng sự của ông chuyển cố gắng của mình sang Lào và Campuchia cũng như vùng núi Tây Bắc Bắc Bộ. Mục tiêu của Giáp giữ chặt lực lượng quân sự của Pháp, buộc Pháp phải dàn trải quân khắp Đông Dương. Điều này tạo điều kiện cho Việt Minh có thể chọn được điểm yếu của quân Pháp. Việt Minh có thể tấn công công khai lực lượng quân địch, rồi có thể giáng cho lực lượng này thất bại nhuc nhã.
    Tỉnh Hoà Bình là một thời cơ như vậy. Quân Pháp cho tỉnh lỵ Hoà Bình nằm ở ngoại vi đồng bằng sông Hồng, ngã ba trọng yếu nối tổng hành dinh của Việt Minh ở Việt Bắc với miền Trung và miền Nam, nguồn cung cấp tân binh và lương thực chính. Hồ Chí Minh đã nói với cộng sự: “Ruộng đất là chiến trường”. Các đơn vị Pháp chiếm thị xã tháng 11-1951, với sự đồng ý của cố vấn Trung Quốc, Việt Minh tấn công mạnh vào các vị trí của Pháp ở khu vực này. Chiến sự dồn dập - như nhà sử học Bernard Fall gọi là “cối xay thịt” - đã diễn ra sau đó. Quân Pháp đã bị buộc phải bỏ vị trí vào tháng 2-1952, rút quân về đồng bằng. Thời gian đó, tướng De Lattre về Pháp, chết vì ung thư vào tháng 1-1952. Đến thời điểm này, cách nhìn lạc quan trong các phần tử thân Pháp ở Đông Dương do tính năng động của ông De Lattre đem lại đã biến mất. Trận Hoà Bình được coi là thất bại lớn của Pháp. Sứ quán Hoa Kỳ ở Sài Gòn báo cáo những người quốc gia chủ nghĩa không cộng sản nản lòng và ngày càng tin rằng đến mùa hè Việt Minh sẽ chiếm Hà Nội.
    Theo lệnh của De Lattre, quân Pháp xây dựng một loạt đồn bốt hòng ngăn chặn Việt Minh xâm nhập đồng bằng, những phòng tuyến De Lattre cũng không hữu hiệu hơn phòng tuyến Maginot của Pháp trong Thế chiến II. Việt Minh bỏ qua các đồn bốt đó hoặc tấn công, đánh chiếm từng đồn một. Đến cuối năm 1952, các đơn vị Việt Minh đã có thể tự do di chuyển trong vùng quanh Hà Nội, tổ chức cách mạng đã được thành lập trong nửa số làng ở vùng đồng bằng. Chiến thắng Hoà Bình mở ra triển vọng lớn.
    Mùa Thu năm ấy, các nhà chiến lược Việt Minh mở mặt trận mới ở vùng Tây Bắc xa xôi. Quân Pháp đã chiếm giữ vùng rộng lớn núi cao và thung lũng nhỏ hiểm trở từ khi cuộc chiến bắt đầu. Vào mùa xuân năm 1952, theo gợi ý của các cố vấn Trung Quốc, các nhà chiến lược Việt Minh bắt đầu soạn thảo kế hoạch tấn công vào đồn bốt quân Pháp ở vùng này chuẩn bị cho một chiến dịch ở Trung và Bắc Lào. Làm như vậy, Việt Minh đã đánh lạc hướng lực lượng địch chú ý tới vùng đồng bằng, càng làm cho quân địch dễ bị tấn công hơn. Tháng 9-1952, Hồ Chí Minh bí mật đi Bắc Kinh tham khảo ý kiến về chiến dịch. Ông còn đi tiếp đến Liên Xô, tham dự Hội nghị lần thứ XIX Đảng cộng sản Liên Xô. Vào cuối tháng 9-1952, kế hoạch tấn công căn cứ của Pháp tại Nghĩa Lộ được thông qua. Ông Hồ về Việt Nam tháng 12-1952.
    Từ khi kết thúc Thế chiến II, lãnh đạo Đảng cộng sản Đông Dương ít có liên lạc với Đảng cộng sản Trung Quốc. Mùa xuân năm 1947, một đường liên lạc vô tuyến được thành lập nối với trụ sở Đảng cộng sản Trung Quốc ở Diên An, Chu Ân Lai và Hồ Chí Minh trao đổi tin tức giữa hai đảng và tìm cách giúp đỡ lẫn nhau. Mối liên lạc cũng diễn ra giữa những đơn vị Việt Minh và những phần tử Đảng cộng sản Trung Quốc rải rác hoạt động ở các tỉnh sát biên giới, đôi khi cả hai bên phối hợp chung chống lại Pháp. Theo nguồn tin từ phía Pháp, một lúc nào đó năm 1946 những người cộng sản dọc biên giới đã thành lập những đơn vị hỗn hợp Trung-Việt gọi là Trung đoàn Độc Lập tiến hành chiến tranh du kích chống Pháp tại vùng này. Nhóm này hoạt động chủ yếu ở vùng dân tộc thiểu số Nùng và Thổ ở cả hai bên biên giới. Tuy nhiên, lúc đầu, lãnh đạo Việt Minh chủ trương giữ mối quan hệ hạn chế để tránh gây phức tạp trong mối quan hệ của họ với những phần tử dân tộc chủ nghĩa địa phương.[18]
    Khi nội chiến Trung Hoa bắt đầu 1948, Quân đội giải phóng nhân dân Trung Quốc hoạt động mạnh hơn dọc biên giới và tăng cường hợp tác với những đơn vị Việt Minh. Việc cộng sản Trung Quốc tràn xuống nam Trung Hoa khiến Pháp bối rối, tháng 3, tướng Salan, thay thế tướng Valluy làm tư lệnh Quân đội viễn chinh Pháp, đề nghị hành động mạnh mẽ khôi phục kiểm soát của Pháp ở vùng biên giới trước thắng lợi của lực lượng Cộng sản Trung Hoa.
    Để thực hiện những chiến dịch mới đánh vào Việt Bắc, Salan đòi tăng quân. Salan đã không tiếc lời chỉ trích chính phủ thờ ơ. Ngay lập tức tháng 4-1948, lấy cớ Salan còn trẻ và thiếu kinh nghiệm quân sự, Paris đã cử tướng Blaizot sang thay. Khi tới Đông Dương, Blaizot đề xuất rút lui chiến thuật khỏi biên giới, củng cố quân Pháp ở châu thổ sông Hồng nhằm chuẩn bị cho một tấn công lớn vào Việt Bắc. Cao uỷ Léon Pignon (Bollaert cũng bị thay) đồng ý, nhưng không mấy tin vào kế hoạch tấn công quân sự của Blaizot.
    Để hoà giải mâu thuẫn, Paris cử tướng Revers đi thị sát vào tháng 5-1949. Revers đả kích chiến lược hiện thời cả về mặt chính trị lẫn quân sự, không tin tưởng gì chính phủ tham nhũng của Bảo Đại, đề nghị đặt chức Cao uỷ nắm cả quân sự lẫn chính trị. Nhưng ông cũng khá bi quan về giải pháp quân sự, cho rằng cách tốt nhất để cải thiện tình hình là thương lượng. Revers gợi ý quân Pháp củng cố vùng Bắc Bộ cho đến khi thuyết phục được Hoa Kỳ đưa quân tham chiến trực tiếp. Về chính sách, biên giới cần phải được giữ, nhưng quân Pháp không đủ sức giữ nổi toàn bộ. Tạm thời, Revers khuyên nên phòng thủ biên giới đoạn từ Móng Cái đến Thất Khê. Các chỗ biên giới còn lại thì rút hết.
    Do quân Pháp suy yếu và những đơn vị Giải phóng quân Trung Quốc đầu tiên tiến sát biên giới, viễn cảnh Việt Nam bắt đầu cải thiện. Đầu năm 1949, du kích Việt Minh tấn công dọc vùng biên giới. Tình báo Pháp báo cáo những cuộc hành quân này đều có sự phối hợp với quân đội Trung Quốc phía bắc biên giới. Bản báo cáo khẳng định, cuối tháng 3, những đơn vị Giải phóng quân Trung Quốc chiếm thị trấn Móng Cái, sau đó rút lui về bên kia biên giới. Có tin vào tháng 4, Võ Nguyên Giáp đã ký một thoả thuận tạm thời với đại diện cộng sản Trung Quốc tại Tĩnh Tây kêu gọi cộng tác và liên kết quân đội hai nước ở vùng biên giới. Theo nguồn tin ngoại giao Hoa Kỳ, cũng tháng đó đài phát thanh Việt Minh tuyên bố, những đơn vị Giải phóng quân Trung Quốc đã tới vùng biên giới và đang có sự “giúp đỡ quan trọng” cho Việt Minh.[19]
    Mùa xuân năm 1949, quân đội Cộng sản Trung Quốc vượt sông Dương Tử tiếm vào nam Trung Hoa, chuẩn bị thành lập một chính quyền mới ở Bắc Kinh. Tưởng Giới Thạch chuẩn bị sơ tán chính phủ ông sang đảo Đài Loan. Lãnh đạo Việt Minh hy vọng một nước Trung Quốc anh em ở biên giới bắc Đông Dương sẽ tạo ra sự lạc quan về một cuộc tấn công chờ từ lâu nằm trong tầm tay. Tình báo Pháp báo cáo, có một cuộc họp lớn của giới lãnh đạo Việt Minh, có Hồ Chí Minh tham dự, tổ chức vào tháng 4 gần Vinh để đánh giá tình hình; Hồ tuyên bố, mặc dù Pháp tăng quân có tạo ra vấn đề, nhưng có thể tổng tấn công với sự giúp đỡ của Trung Quốc. Để chuẩn bị cho tình huống này, cuộc họp quyết định chuẩn bị mở một chiến tuyến dọc biên giới, tạo thuận lợi tiếp xúc với Giải phóng quân Trung Quốc.[20]
    Tất cả điều này, tất nhiên, là tin tức tốt cho Việt Minh. Nhưng Hồ Chí Minh rõ ràng ý thức được bất kỳ một dự dính líu của Việt Minh với cộng sản Trung Hoa có thể đầu độc mối quan hệ những người Việt Nam ôn hoà và tạo cớ để Hoa Kỳ nhúng tay vào cuộc chiến với Pháp. Tránh bị ngờ vực đó, ông thường xuyên phủ nhận chính phủ ông có liên hệ với chính quyền mới ở Trung Hoa. Tháng 3-1949, ông phủ nhận đã có một thoả thuận với Trung Quốc chỉ là “tin đồn của bọn thực dân”. Tháng sau, ông nói với một nhà báo Mỹ trong một cuộc phỏng vấn ở Việt Bắc, độc lập sẽ đến qua những nỗ lực của bản thân Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và gạ bỏ lời cáo buộc “cộng sản thống trị Việt Minh” coi đó là “trò tuyên truyền của Pháp”. Tháng 8-1949, ông thú nhận có một số tươmg đồng giữa “nền dân chủ mới” của Mao Trạch Đông và những chính sách của chính phủ ông, nhưng “Nền dân chủ mới Trung Quốc là của Trung Quốc, của chúng tôi là Việt Nam”.[21]
    Việc Pháp công nhận Quốc gia Liên hiệp của Bảo Đại là chính phủ hợp pháp duy nhất ở Việt Nam cũng gây thêm thách thức mới. Bởi vì việc này có thể làm Hoa Kỳ hết nghi ngờ những ý định của Pháp, đẩy Hoa Kỳ trực tiếp nhảy vào cuộc chiến tranh Pháp-Việt. Tháng 6-1949, trong một nỗ lực gây ảnh hưởng đến những sự kiện ở Paris, trả lời phỏng vấn của một nhà báo Indonesia, Hồ nói, Việt Minh muốn thương lượng vình công khai tương tự như các buổi “ôn nghèo kể khổ” ở Trung Quốc đã được tổ chức trong các làng xã giải phóng, khuyến khích người nghèo chỉ trích thái độ độc tài của các phần tử giàu có trong cộng đồng. Có những tin cho rằng trong một số trường hợp, do cố vấn Trung Quốc hối thúc, các nhà hoạt động Việt Minh đã hành quyết ngay những người bị buộc tội là phạm”tội phản dân”. Như tác giả Dương Vân Mai Elliott mô tả trong cuốn sách đầy hấp dẫn về những điều đã xẩy ra đối với gia đình bà trong cuộc xung đột. Cán bộ cải cách ruộng đất bắt giam những địa chủ bị buộc tội đàn áp dân nghèo. Và rồi:
    “Họ xử địa chủ tại phiên toà mở tại chỗ, được chuẩn bị cẩn thận để những phiên toà này thể hiện ý chí của nhân dân. Khoảng 10 nông dân nghèo từng chịu đau khổ nhất, căm thù địa chủ nhất được chọn và chuẩn bị sẵn từ trước để tố cáo địa chủ trước toà. Khi nông dân lần lượt tố cáo địa chủ ở toà, các nông dân nghèo khác sẽ hô to: “Đả đảo địa chủ” để tăng bầu không khí thù địch. Nếu là án tử hình, địa chủ sẽ bị hành hình ngay tại chỗ. Nếu là án tù, họ sẽ bị chuyển đi nơi khác. Tài sản của địa chủ phạm tội bao gồm đất đai, nhà cửa, trâu bò, công cụ bị trưng dụng và phân phối lại cho những nông dân thiếu thốn nhất”.[14]
    Các nhà lãnh đạo Đảng hy vọng những biện pháp như vậy sẽ làm nông dân nghèo nhất phấn khởi, khuyến khích họ tham gia kháng chiến. Ngày 4-6-1953, đài phát thanh của Việt Minh đã truyền đi một bức thư, theo đài là của một phụ nữ nông dân gửi cho Hồ Chí Minh:
    “Trong thời gian bị Pháp đô hộ, tôi và con tôi không có cơm ăn và cũng chẳng có áo mặc. Con của tôi phải đi ở đợ, tôi phải mót khoai, đào củ mài để sống qua ngày… Cuối năm 1952, nông dân bắt đầu đấu tranh chống địa chủ bất lương, tàn ác… Nhờ có Chủ tịch, chúng tôi mới có cuộc sống dễ chịu. Chúng tôi không bao giờ quên ơn này”.[15]
    Với các phần tử quá khích thì những biện pháp này chưa đủ vì số nông dân không có ruộng đất ở vùng giải phóng dù đã giảm nhưng vẫn ở mức 15% dân số. Tại Hội nghị nông nghiệp toàn quốc tháng 11, Trường Chinh đề xuất phải có chính sách cứng rắn hơn, đệ trình dự án luật cải cách ruộng đất mới cho phép tịch thu ruộng đất và tài sản của toàn bộ giai cấp địa chủ.
    Thái độ của Hồ Chí Minh với dự án luật này chưa bao giờ rõ ràng, mặc dù rất có thể ông đã có lý do chống lại chương trình cải cách ruộng đất tiến hành quá chặt chẽ đến mức phân hoá các phần tử trung dung. Tuy nhiên, nhu cầu về nhân lực của cách mạng cuối cùng đã thắng thế. Trong một diễn văn đọc trước Quốc Hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà vài tuần sau Hội nghị nông nghiệp toàn quốc, ông Hồ công nhận, các chính sách trước đó của chính phủ chú ý quá nhiều đến quan điểm của giai cấp địa chủ mà không chú ý đầy đủ đến mối quan tâm của nông dân. Tháng sau, luật cải cách ruộng đất mới quy định thực hiện việc giảm tô và trưng thu đất đai của toàn bộ giai cấp địa chủ. Địa chủ được xếp hạng tiến bộ về mặt chính trị sẽ được đền bù bằng công trái nhà nước, nhưng vẫn phải từ bỏ toàn bộ ruộng đất của mình ngoài phần cần thiết để sống. Địa chủ bị buộc tội cường hào ác bá sẽ bị trừng trị. Mục tiêu của luật mới này không những chỉ nhằm giành được sự ủng hộ của nông dân mà còn phá bỏ quyền lực của giai cấp địa chủ ở nông thôn. Tuy chương trình cải cách ruộng đất quy định tiến hành cải huấn cho địa chủ không bị buộc tội là phản dân, trên thực tế những quy định này không được các cán bộ đầy tham vọng cấp xã chú ý đến. Lần đầu tiên kể từ cuộc nổi dậy Nghệ Tĩnh năm 1930-1931, Đảng đã quyết định mở cuộc đấu tranh giai cấp ở nông thôn.[16]
    Tháng 1-1953, Dwight D. Eisenhower bước vào Nhà Trắng, trở thành tổng thống thứ ba mươi tư của Hoa Kỳ. Trong khi tranh cử, ông đưa ra cương Lĩnh “đẩy lùi cộng sản”, lãnh đạo Đảng Cộng hoà chỉ trích việc mất Trung Hoa và tình thế tiến thoái lưỡng nam ở Triều Tiên, coi đó là di sản của tổng thống Đảng Dân Chủ trước đó. Trong diễn văn Liên bang đầu tháng Hai, Eisenhower hầu như chẳng đề cập đến Đông Dương, chỉ nói cuộc chiến tranh Triều Tiên là “một phần của cuộc tấn công có tính toán trước của kẻ địch ở Đông Dương và Mã Lai. Một phần của tình hình chiến lược rõ ràng bao gồm Đài Loan và lực lượng Quốc dân Đảng đang chiếm giữ tại đó”.[17]
     Trong khi hội đàm với thủ tướng Pháp René Mayer tại Nhà Trắng cuối tháng 3-1953, tân tổng thống Mỹ cho biết, ông sẵn sàng tăng viện trợ cho quân Pháp với điều kiện, nếu quân Pháp chứng tỏ ý chí giải quyết vấn đề mạnh bạo hơn trong công cuộc tìm kiếm thắng lợi cuối cùng ở Đông Dương.
    Tuy nhiên, Pháp từ lâu đã từ bỏ ý định này. Ngay từ đầu tháng 12-1949, tướng Carpentier đã cảnh báo tổng thống Vincent Auriol, nhiều nhất Pháp cũng chỉ có thể đạt được một giải pháp chính trị. Việc quân Pháp rút khỏi vùng biên giới một năm sau đó thể hiện sự chấp nhận ngầm quan điểm bi quan của Carpentier. Việc cử tướng De Lattre de Tassigny chỉ huy quân Pháp ở Đông Dương cuối năm 1950 đã làm cho mọi người tin quân Pháp có thể thắng cộng sản, việc tướng Tassigny về nước, cử tướng Salan thay thế một năm sau đã làm cho các tướng lĩnh, các nhà chính trị Pháp chỉ còn thấy giải pháp chính trị mà thôi.
    Để nhận viện trợ của Hoa Kỳ nhằm cải thiện vị thế của mình trước khi có giải pháp thương lượng, quân Pháp cần phải chứng minh họ đã có cách giải quyết vấn đề mạnh hơn. Trách nhiệm thuyết phục Nhà trắng tăng viện trợ quân sự của Mỹ nay thuộc về chỉ huy mới của Pháp là tướng Henri Navarre. Là tổng tham mưu trưởng lực lượng NATO của Pháp tại châu Âu, Navarre hoàn toàn không phải là người Washington ưa để thay Salan vì ông có tiếng là thận trọng, thậm chí không quyết đoán. Sau khi được cử làm chỉ huy lực lượng viễn chinh Pháp, Navarre đã cố giảm bớt mối nghi ngờ bằng cách đưa ra một chiến lược đầy tham vọng “Kế hoạch Navarre”, giành thế chủ động trong chiến trận Đông Dương.
    Việc Mayer tỏ ra có vẻ có lập trường cứng rắn đối với Đông Dương lại có kết quả rất hạn chế ở Washington và Washington vẫn nghi ngờ ý định của Pháp. Đầu tháng 8-1953, một bài báo của tạp chí Đời Sống chỉ trích mạnh mẽ những nỗ lực của Pháp ở Đông Dương, khẳng định, Pháp“đã thua”. Tuy vậy, chính quyền mới ở Washington không có mấy lựa chọn nữa. Tham mưu trưởng Liên quân đồng ý với Kế hoạch Navarre. Tháng 9-1953, chính quyền Eisenhower ký hiệp ước mới tăng viện trợ của Hoa Kỳ cho lực lượng viễn chinh Pháp. Tuy vậy, Paris đánh giá tình hình không khả quan. René Pleven, Bộ trưởng Quốc Phòng Pháp, cảnh báo, kế hoạch Navarre không thực tế và tháng 7-1953 sứ quán Hoa Kỳ tại Paris cho biết chính phủ Pháp không chấp nhận đề nghị của tướng Navarre chuyển từ châu Âu sang thêm 12 tiểu đoàn. Sự ủng hộ của dân chúng đối với cuộc chiến tranh giảm sút nhanh chóng khi tin tức về hiệp định viện trợ được thông báo tại Paris ngày 29-9-1953, những người chỉ trích cuộc chiến tranh lại nói, máu của người Pháp đang được đổi lấy đô-la Mỹ.[18]
    Kế hoạch Navarre dự kiến sẽ phát huy tác dụng vào mùa Xuân và mùa Hè năm 1954. Trong thời gian này, quân Pháp sẽ thực hiện chính sách phòng ngự, đồng thời củng cố các vị trí ở đồng bằng sông Hồng và các khu vực trọng yếu khác ở Việt Nam. Một trong những khu vực trọng yếu này là ở vùng Tây Bắc xa xăm, khu vực bị các đơn vị Việt Minh chiếm giữ từ mùa Thu năm 1952 làm bàn đạp tấn công Lào. Tháng 11-1953 theo lệnh của Paris phải bảo vệ thủ đô Luang Prabang của Lào khỏi sự đe doạ của địch, Navarre quyết định chiếm giữ cứ điểm Điện Biên, một huyện lỵ nhỏ trong thung lũng vùng núi xa xăm gần biên giới với Lào, coi đó là cách làm gián đoạn liên kết giữa Trung và Bắc Lào của Việt Minh. Huyện lỵ này trước đây đã bị Việt Minh chiếm giữ trong chiến dịch Tây Bắc. Giờ đây, quân Pháp nhảy dù xuống chiếm lại.
    Trong khi tướng Navarre cố thực hiện giai đoạn đầu chiến lược của mình, các nhà chiến lược Việt Minh cũng vạch ra kế hoạch tác chiến cho chiến dịch năm 1953. Tại một cuộc họp Trung ương đầu năm, các nhà hoạch định chính sách của Đảng quyết định tránh đối đầu công khai với lực lượng thù địch trong tương lai gần, đồng thời tìm điểm yếu trong lá chắn của địch, đặc biệt là ở Lào, Campuchia và vùng Tây Bắc. Chiến lược này không thay đổi trong cả năm, ngay cả khi Navarre đã quyết định một cách rõ ràng, phải tập trung lực lượng ở đồng bằng sông Hồng để ngăn chặn mối đe doạ của Việt Minh đối với vùng phụ cận Hà Nội. Võ Nguyên Giáp đề xuất tiến hành chiến dịch lớn ở đồng bằng với mục tiêu cuối cùng đánh chiếm Hà Nội và Hải Phòng, nhưng cố vấn Trung Quốc lại muốn có chiến lược thận trọng hơn tập trung vào vùng núi Tây Bắc. Hồ Chí Minh ủng hộ ý kiến của các cố vấn Trung Quốc và Bộ Chính trị đã chấp thuận ý kiến này vào tháng 9-1953. Kế hoạch này dự kiến sẽ được khẳng định tại một cuộc họp của Quân uỷ Trung ương tháng 11-1953.[19]
    Tin quân Pháp chiếm đóng Điện Biên Phủ đến tổng hành dinh của Việt Minh trong lúc các nhà chỉ huy quân sự đang chuẩn bị trình Quân uỷ Trung ương kế hoạch tấn công Pháp ở Lai Châu, vị trí quân sự biệt lập cách Điện Biên Phủ 80 cây số về phía bắc. Theo các nhà lãnh đạo Việt Minh, nếu Việt Minh chiếm lại căn cứ này thì sẽ tác động tới tinh thần quân Pháp và chuẩn bị cho những bước tiếp theo trong những năm tới. Khu vực này cũng có những lợi thế chiến lược. Cách Hà Nội hơn 400 cây số, quân Pháp sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc hậu cần và tăng viện cho Điện Biên Phủ.
    Mặt khác, đánh Điện Biên Phủ sẽ là lần đầu tiên Việt Minh chủ động tấn công trực diện một căn cứ được lực lượng Pháp bảo vệ vững chắc. Tuy vậy, Điện Biên Phủ nằm ở thung lũng, gần biên giới với Trung Quốc và tổng hành dinh Việt Minh ở Việt Bắc cho phép Việt Minh dễ dàng chuyển khối lượng lớn vật dụng từ Trung Quốc. Sau khi tính toán kỹ lưỡng các khả năng, được cố vấn Trung Quốc và cấp trên ở Bắc Kinh khuyến khích, ngày 6-12-1953, lãnh đạo Đảng quyết định tập trung nỗ lực trong chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954. Trong năm đó, lãnh đạo Đảng bắt đầu bí mật chuyển ba sư đoàn chủ lực mới được thành lập ở vùng núi quanh Điện Biên Phủ trong khi các đơn vị khác tiến vào Bắc Lào để đánh lạc hướng, buộc quân Pháp phải dàn trải lực lượng của mình.[20]
    Tại sao các nhà lãnh đạo Trung Quốc lại đột nhiên quyết định kêu gọi khẩn thiết đồng minh Việt Minh tham gia vào cuộc đụng đầu lớn với quân Pháp? Nghĩ cho cùng quyết định tấn công Điện Biên Phủ sẽ buộc Trung Quốc phải tăng viện trợ cả về chất lẫn số lượng. Điểm mấu chốt dẫn đến thành công sẽ là khả năng pháo cao xạ của Việt Minh có thể làm yếu đi hoặc ngăn được quân Pháp tiếp viện và cung ứng cho khu vực này khi chiến sự leo thang. Mặc dù Bắc Kinh đã viện trợ cho Việt Minh trong cuộc chiến suốt ba năm, thấy được điểm lợi, vừa hoàn thành nghĩa vụ quốc tế của Trung Quốc, bảo vệ biên giới phía nam vừa chống lại sự kiểm soát của đế quốc, trong những tháng đó các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã bắt đầu suy nghĩ. Tháng 7-1953, ngừng bắn đã có hiệu lực ở bán đảo Triều Tiên. Trung Quốc đã trả giá cao cho hành động can thiệp của Quân Giải Phóng Nhân Dân và đã có dấu hiệu chứng tỏ các nhà lãnh đạo Trung Quốc quyết định tìm cách cải thiện quan hệ với phương Tây để giảm bớt nguy cơ xung đột trong tương lai, tạo điều kiện cho chính phủ chuyển những nguồn lực hiếm hoi cho kế hoạch 5 năm tới. Trong môi trường mới, cách nhìn nhận ngày tận thế của Mao Trạch Đông về chiến tranh với đế quốc tất yếu ở châu Á đã mất đi sức mạnh. Trong một cuộc phỏng vấn ngày 24-8-1953, Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Chu Ân Lai tuyên bố “các vấn đề khác” có thể được bàn đến tại Hội nghị;'>
    Lúc này, những quan chức Bắc Kinh nhận được bức thư của Việt Nam, cho biết một đoàn đại biểu những quan chức Việt Nam đã rời Việt Nam đi bộ tới Trung Quốc. Mặc dù Bắc Kinh được thông báo trưởng đoàn là Cục trưởng hậu cần thuộc Bộ tham mưu Trần Đăng Ninh, thực chất Hồ chính là người dẫn đầu đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Để tránh thu hút chú ý của lực lượng an ninh Pháp, mọi người trong đoàn của Hồ phải giữ bí mật; trên thực tế, chỉ hai thành viên trong toán biết được sự có mặt của ông. Sau khi rời căn cứ Việt Minh ở tỉnh Tuyên Quang ngày 20 tháng 12, toán đi bộ vượt biên giới. Hồ mặc bộ quần áo kiểu Tôn Dật Tiên bằng ka-ki quen thuộc, mang bí danh Ding. Ngày 16 tháng 1 năm 1950, đoàn đến Tĩnh Tây. Được một Giải phóng quân Trung Quốc hộ tống, họ tiếp tục tới Nam Ninh, tại đây đoàn gặp quan chức Trung Quốc và được thông báo, Cộng hoà nhân dân Trung Hoa vừa quyết định công nhận về mặt ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Tuyên bố này của Trung Quốc vào ngày 18 tháng 1, bốn ngày sau khi nguồn Việt Minh ở Bangkok tuyên bố Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là chính phủ hợp pháp duy nhất ở Việt Nam. Sau khi nghỉ ngơi, Hồ và các đồng chí của ông lên tầu hoả đến thành phố cảng Vũ Hán trên sông Dương Tử.[27]
    Vài ngày sau, đoàn đại biểu tới Bắc Kinh, tại đây Hồ gặp đồng chí cũ Hoàng Văn Hoan, người từ châu Âu tới quá muộn nên không dự Hội nghị Công đoàn thế giới tháng 11. Trung Quốc cố gắng giữ kín chuyến đi của phái đoàn Việt Nam, nhưng tình báo phương Tây vẫn biết. Tin này nhanh chóng xuất hiện trên trong giới thạo tin phương Tây. Lưu Thiếu Kỳ cử tướng Chu Đức đứng đầu phái đoàn hội đàm với Hồ Chí Minh, trong đó vấn đề quân sự chắc chắn sẽ đem ra bàn. Chu Đức là cánh tay phải của Mao, bây giờ phó chủ tịch nước kiêm Tư lệnh Giải phóng quân Trung Quốc. đồng thời Lưu Thiếu Kỳ thông báo cho Mao Trạch Đông ở Moscow về chuyến đi của Hồ. Mao điện trả lời, đề nghị Lưu Thiếu Kỳ chuyển lời chào nồng nhiệt của ông tới Hồ Chí Minh và chúc mừng Việt Nam Dân chủ Cộng hoà vào phe xã hội chủ nghĩa.
    Tại Bắc Kinh, Hồ sống ở Trung Nam Hải, trong khu biệt thự xa hoa trong phía Tây của Hoàng cung nơi Mao Trạch Đông sống. Một số nhân vật Bộ Chính trị Đảng cộng sản Trung Quốc cũng sống ở Trung Nam Hải. Lưu Thiếu Kỳ chính thức thông báo cho Hồ Chí Minh biết, Trung Quốc quyết định công nhận về mặt ngoại giao nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nhấn mạnh, giới lãnh đạo Trung Quốc cũng biết sẽ phải trả giá việc này trong quan hệ với Pháp. Tại bữa tiệc chiêu đãi đoàn, Lưu Thiếu Kỳ đề nghị đại sứ Liên Xô Roshin, Hồ Chí Minh muốn tới Moscow với tư cách cá nhân để hội đàm với Stalin và trình bày với Stalin tình hình hiện tại ở Đông Dương. Stalin chấp thuận bằng điện báo, Hồ và Trần Đăng Ninh cùng Chu Ân Lai rời Bắc Kinh lên đường tới Moscow ngày 3 tháng 2. Hoàng Văn Hoan ở lại Bắc Kinh lo chuẩn bị mở Đại sứ quán Việt Nam.[28]
    Sau khi Thế chiên II kết thúc, sự quan tâm của Liên Xô đến vận mệnh cách mạng Việt Nam xuống tới mức thấp nhất. Trong một bài phát biểu nổi tiếng tháng 9-1947, Andrey Zhdanov - nhân vật đứng sau Stalin - tuyên bố Liên Xô ủng hộ cuộc đấu tranh của các dân tộc thuộc địa bị áp bức chống lại bọn thực dân đế quốc, ngụ ý Liên Xô ủng hộ những lực lượng dân tộc chủ nghĩa tư sản chiến đấu giành độc lập ở những nước thuộc địa. Nhưng đầu năm 1948, chính sách Liên Xô thay đổi hẳn, tỏ ra cực đoan hơn, khi những Đảng cộng sản ở châu Á được chỉ thị phải huỷ bỏ liên minh tạm thời với những tổ chức dân tộc chủ nghĩa và tự giành chính quyền. Chính sách đó, có lẽ được truyền đạt tại hội nghị thanh niên thế giới họp ở Calcutta, thật là một thảm hoạ, tại Đông Ấn Độ (thuộc Hà Lan) cuộc nổi dậy của những người cộng sản bị đàn áp, các Đảng cộng sản bị gạt ra khỏi mặt trận thống nhất bởi những kẻ thù dân tộc chủ nghĩa trên toàn Đông Nam Á.
    Việc Moscow chống đối không khoan nhượng với những đảng tư sản dân tộc chủ nghĩa - quan điểm này khiến người ta nhớ lại chính sách đầu thập niên 1930 - đã phản ánh quan điểm của Stalin trước việc Quốc-Cộng mặt trận thống nhất trong thập niên 1920. Theo những người thân cận, Stalin từ lâu đã nghi ngờ quan điểm tư tưởng không chính thống của Hồ Chí Minh và càng nghi ngờ hơn khi Hồ tìm kiếm mối quan hệ với Hoa Kỳ ngay sau chiến tranh Thái Bình Dương. Stalin không hài lòng khi Đảng cộng sản Đông Dương chính thức tự giải tán tháng 11-1945. Hai năm sau, khi Moscow công nhận về mặt ngoại giao nước Cộng hoà Indonesia của Sukarno mà không công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, có lẽ nghi ngờ Việt Minh sẽ chiến thắng trong cuộc chiến chống Pháp.
    Trong những năm đầu xung đột Pháp-Việt, Việt Nam có lẽ không có liên lạc trực tiếp với Liên Xô, mặc dù đoàn đại biểu Đảng cộng sản Pháp tới Đông Dương năm 1949 có thể nhận lệnh Moscow đánh giá tình hình. Dù thế nào đi nữa, cuối tháng 8-1949 Hồ cũng gửi thư cho Stalin, cám ơn Liên Xô ủng hộ Đảng cộng sản Trung Quốc trong nội chiến và giúp đỡ Liên hiệp Công đoàn thế giới.[29]
    Stalin nghi Hồ và viễn cảnh Việt Minh thể hiện rõ ràng khi Hồ tới thăm Moscow. Theo Nikita Khrushchev, Stalin đối xử với Hồ với thái độ khinh miệt công khai trong chuyến thăm. Hai hoặc ba ngày sau khi Hồ tới, phía lãnh đạo Liên Xô họp với Stalin, theo lời Khrushchev, Stalin tỏ thái độ với Hồ một cách “khiêu khích và xúc phạm”. Khi Stalin và Mao Trạch Đông ký Hiệp ước Liên minh ngày 14-2-1950, Hồ Chí Minh tham dự lễ ký và đề nghị Stalin ký một Hiệp ước tương tự với Việt Nam. Stalin chối phắt, vì Hồ Moscow đi thăm bí mật. Khi Hồ đề nghị đưa ông lên trực thăng bay vòng Moscow và sau đó hạ cánh tại sân bay với nghi lễ thích hợp, Stalin đáp: “Ông đúng là người phương Đông! Người phương Đông các ông thật giàu trí tưởng tượng!” Hồ Chí Minh dùng mọi mưu mẹo quen thuộc của mình tranh thủ sự ủng hộ của vị chủ nhà thô lỗ. Cuối cuộc gặp, ông đề nghị Stalin ký vào tạp chí “Liên Xô kiến thiết”. Theo Khrushchev, Stalin phản ứng theo lối đa nghi vốn có, ký vào tạp chí, sau đó nói vệ sĩ riêng, ông lỡ ký và nói họ lấy về. Sau khi vệ sĩ đem lại, Stalin nói đùa với những người bạn: “Ông ta chắc vẫn đang đi tìm cuốn tạp chí, nhưng ông ta làm sao tìm được!”.[30]
    Dù vậy, Stalin cuối cùng cũng phải chấp nhận một số đòi hỏi của Hồ Chí Minh. Ngày 30-1-1950, Moscow chính thức tuyên bố công nhận về mặt ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, chính phủ hợp pháp duy nhất của Việt Nam. Nhưng sự nghi ngờ của Stalin về quan điểm tư tưởng không chính thống của Hồ Chí Minh vẫn không bớt đi. Nguồn tin Việt Nam vẫn còn kể câu chuyện (nhưng chắc chắn) rằng tại một cuộc gặp giữa hai người vào năm 1952, Stalin chỉ hai chiếc ghế và nói: “Đồng chí Hồ, một chiếc là dành cho người dân tộc chủ nghĩa, một cho người quốc tế chủ nghĩa, đồng chí sẽ ngồi ghế nào?”. Hồ đáp, “Thưa đồng chí Stalin, tôi sẽ ngồi cả hai ghế này”.[31]
    Tại sao Stalin quyết định công nhận về mặt ngoại giao nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, bất chấp sự dè chừng Đảng cộng sản Đông Dương và Hồ Chí Minh? Theo phía Trung Quốc, Stalin quan tâm đến cuộc hội đàm Mao Trạch Đông. Mao đến Moscow với mục đích phải ký được một Hiệp ước với Liên Xô đòi trả lại một số vùng đất Liên Xô chiếm của Trung Hoa theo Hội nghị thượng đỉnh Yalta tháng 2-1945. Stalin muốn giữ những vùng đất này vì lý do an ninh, nhưng Stalin sợ Trung Quốc trả đũa có thể làm việc trực tiếp với Hoa Kỳ. Do vậy, điều quan trọng với Stalin là phải bảo đảm chính sách đối ngoại Trung Quốc ở châu Á phải quá khích khiến Hoa Kỳ phải chống đối, do đó cản trở khả năng Bắc Kinh liên minh với Mỹ. Tại cuộc gặp ba bên ở Moscow, Stalin khuyến khích Mao cầm đầu cách mạng châu Á. Stalin hứa với Hồ Chí Minh, Liên Xô sẽ giúp Việt Nam tất cả những gì có thể, nhưng Trung Quốc phải có vai trò nổi bật trong đấu tranh trực tiếp. Stalin nói với Hồ “Chúng tôi quan tâm tới Việt Nam giống như chúng tôi quan tâm tới Trung Quốc, từ nay, ông có thể tin vào sự giúp đỡ của chúng tôi, đặc biệt trong kháng chiến, chúng tôi đủ vật tư hậu cần, và chúng tôi sẽ chở tới Việt Nam qua Trung Quốc. Nhưng do hoàn cảnh địa lý, Trung Quốc sẽ giúp Việt Nam là chính. Cái gì mà Trung Quốc thiếu, chúng tôi sẽ cung cấp”. Mao cam đoan với Hồ Chí Minh, “Bất cứ thứ gì mà Trung Quốc có và Việt Nam cần, chúng tôi sẽ cung cấp”.[32]
    Ngày 17 tháng 2, Hồ theo Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai đi tầu hoả qua Siberia trở về Bắc Kinh. Giống như Hồ Chí Minh, Mao đã có được một phần những gì ông muốn từ Moscow. Hiệp ước Trung-Xô ít nhiều đã loại bớt những yếu tố ô nhục trong Hiệp định Yalta và Moscow hứa viện trợ kinh tế. Những thứ kiếm được cũng khá nhọc nhằn. Sau này Mao kể cho cũng đồng chí của mình,“lấy được cái gì đó từ Stalin chẳng khác gì giằng miếng thịt ra khỏi miệng hổ”.
    Tầu hoả về đến Bắc Kinh ngày 3-3-1950. Mao mở tiệc chiêu đãi Hồ Chí Minh tại Trung Nam Hải, có tất cả các quan chức lãnh đạo Trung Quốc tham dự. Trong các cuộc thương lượng chính thức, Cộng hoà nhân dân Trung Hoa đồng ý đảm bảo an ninh tại biên giới, cho phép Việt Nam lập lãnh sự quán tại thành phố Nam Ninh và Côn Minh ở Hoa Nam. Đổi lại, Hồ bổ nhiệm Hoàng Văn Hoan làm đại sứ Việt Nam đầu tiên tại Trung Hoa, chỉ thị Hoan chuyển trụ sở hải ngoại Đảng cộng sản Đông Dương từ Thái Lan (trụ sở này đóng tại đó từ khi bắt đầu chiến tranh Pháp-Việt), về Trung Quốc. Theo lời một kẻ đào tẩu, Hồ cũng đồng ý cung cấp chỉ dẫn cho những Đảng cộng sản anh em khắp khu vực này, ông quay lại vai trò một nhân viên Quốc tế Cộng sản đầu thập niên 1930. Ngày 11-3, Hồ và những đồng chí của ông rời Bắc Kinh lên đường về nước.
    Hồ Chí Minh chắc chắn hài lòng về kết quả chuyến đi. Ông đã giành được công nhận về mặt ngoại giao của hai nước xã hội chủ nghĩa lớn, lời hứa và viện trợ kinh tế, quân sự - tuy hạn chế - từ hai nước đàn anh. Việt Minh không còn chiến đấu đơn độc. Trong khi đó, Trung Quốc cũng kiếm lợi từ mối quan hệ mới được thiết lập với Việt Nam. Theo nguồn tin Trung Quốc, Mao Trạch Đông tin chiến tranh với Mỹ không thể tránh được, nó có thể nổ ra tại bất cứ điểm nào dọc biên giới Trung Hoa. Vì lý do đó, Mao cho rằng điều quan trọng với Trung Quốc là phải phòng thủ vững không những ở Triều Tiên, mà còn cả ở Đông Dương nữa.[33]
    Nếu Hồ Chí Minh, bằng nhậy cảm chính xác của mình trước bối cảnh quốc tế thay đổi, lo ngại mối quan hệ gần gũi giữa chính phủ ông và chính quyền mới ở Trung Hoa có thể chọc tức Hoa Kỳ đang đóng vai trò quan trọng cuộc chiến Đông Dương thì nỗi lo này của ông rất chính đáng. Trên thực tế, quyết định của Bắc Kinh giữa tháng 1-1950 công nhận về mặt ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, tiếp đó hai tuần sau, Liên Xô cũng làm như vậy, đã tác động manh đến Washington. Chính quyền Truman cảm thấy lo ngại trước những nỗ lực của Pháp lôi kéo những phần tử không cộng sản ở Việt Nam chống lại Mặt trận Việt Minh. Pháp chọn Bảo Đại đối trọng với Hồ Chí Minh, đại diện hợp pháp của dân tộc Việt Nam, gây nên không ít nghi ngờ trong giới quan chức Mỹ, những người này xem vị cựu hoàng thiếu tính cả quyết và không có được lòng dân để đảm đương trách nhiệm đứng đầu quốc gia độc lập ở Việt Nam.
    Việc ký Hiệp định Hiệp định Elysée tháng 3-1949, do vậy chỉ nhận được phản ứng lãnh đạm ở Washington. Dean Acheson, thay George C. Marshall làm ngoại trưởng đầu năm 1949, điện cho đại sứ Mỹ David Bruce ở Paris rằng theo ông, nếu Pháp không đảm bảo nhiều quyền tự trị thêm cho quốc gia Việt Nam non trẻ, họ sẽ không thành công. Giới báo chí loan tin Nhà Trắng đang chuẩn bị tiếp cận Hồ Chí Minh tham gia chính phủ liên hiệp với Bảo Đại. Những tin đồn khác đánh giá, hai đối thủ Việt Nam đang đi đêm với nhau. Hồ Chí Minh, tất nhiên, tận dụng cơ hội những tin đồn như thế để kẻ thù của ông bớt giận. Trong một cuộc phỏng vấn với nhà báo Mỹ Harold Isaacs, ông tuyên bố không phải cnếu không có sự hỗ trợ hoàn toàn của Trung Quốc. Đây không phải là lần đầu ông Hồ chấp nhận phải nhượng bộ để tiếp tục chiến đấu. Về phần mình, Moscow và Bắc Kinh hầu như chẳng cần sự đồng ý của Hà Nội để bảo vệ lợi ích an ninh quốc gia của mình. Tại một Hội nghị tổ chức đầu năm 1954 ở Berlin, đại biểu các nước lớn thoả thuận, một hội nghị quốc tế khác sẽ được tổ chức tại Geneva tháng 4 để thảo luận các vấn đề liên quan đến hoà bình thế giới. Tuy chính quyền Eisenhower khó chịu, Đông Dương và tình hình ở Triều Tiên đều nằm trong đề mục thảo luận. Tháng 3-1953, một phái đoàn Việt Nam đến Bắc Kinh tham khảo ý kiến các quan chức Trung Quốc và xây dựng một chiến lược chung tại Geneva. Ít lâu sau, một phái đoàn Việt Nam do Hồ Chí Minh dẫn đầu đi Bắc Kinh và Moscow để hoạch định chiến lược đàm phán chung với các nhà lãnh đạo Trung Quốc và Liên Xô. Dựa trên kinh nghiệm đàm phán với Mỹ nhằm chấm dứt xung đột ở Triều Tiên, Trung Quốc và Liên Xô khuyên Việt Nam phải “thực tế” tại Hội nghị Geneva.[27]
    Hai ngày sau khi Hội nghị Geneva được công bố triệu tập, nguồn tin tình báo Pháp cho hay đơn vị Việt Minh ở Thượng Lào đã chuyển quân theo hướng đông về Điện Biên Phủ. Mặc dù hoạt động của Việt Minh còn được tiến hành ở nhiều nơi khác như Bắc Bộ, Tây Nguyên, Lào và hành lang Hà Nội - Hải Phòng vào đầu tháng Ba, tài liệu do Pháp bắt được cho thấy, Việt Minh đang chuẩn bị tấn công lớn ở vùng Tây Bắc. Cuộc tấn công này sẽ phối hợp với cuộc đàm phán sắp tới tại Geneva. Có thêm những dấu hiệu chứng tỏ viện trợ quân sự của Trung Quốc cho Việt Minh đã tăng nhiều, làm tăng thêm khả năng Việt Minh thắng trận.
    Lần này, nguồn tin tình báo của Pháp đã đúng. Bắt đầu từ tháng 12-1953, các đơn vị Việt Minh đã dần tập trung ở vùng núi bao quanh căn cứ của Pháp tại Điện Biên Phủ, trong khi hàng ngàn dân công được huy động để chuyển đạn dược và pháo cao xạ từ biên giới Trung Quốc đến khu vực này. Một người tham gia chiến dịch đã kể lại cho nhà báo Mỹ:
    “Chúng tôi phải vượt núi, băng rừng, ban đêm hành quân còn ban ngày ngủ để tránh bom của kẻ thù. Có lúc chung tôi ngủ hầm, có lúc chúng tôi ngủ ngay cạnh đường. Mỗi chúng tôi đeo súng, đạn và ba - lô. Chúng tôi có chăn, màn và một bộ quần áo. Mỗi người đều có đủ gạo ăn một tuần và được nhận thêm tại các trạm dọc đường. Chúng tôi ăn rau và măng lấy trong rừng, thỉnh thoảng dân làng lại cho chúng tôi thịt. Tôi đã tham gia Việt Minh chín năm rồi nên quen như vậy”.[28]
    Để mang lại điều thuận lợi cần thiết trên chiến trường nhằm đạt được một giải pháp hoà bình tại bàn hội nghị, trong vài tháng liền Trung Quốc tăng viện trợ quân sự. Theo một nguồn tin của Trung Quốc, hơn 200 xe tải, 10.000 thùng dầu, hơn 100 pháo, 60.000 đạn cao xạ, 3.000 súng và khoảng 1.700 tấn gạo đã được chuyển cho quân đội Việt Nam đang bao vây Điện Biên Phủ. Để khuyến khích cố vấn Trung Quốc ở Việt Nam cố đạt được thắng lợi quân sự, Chu Ân Lai gửi thông điệp sau: “Nhằm giành thắng lợi trong lĩnh vực ngoại giao, chúng ta có thể cần phải tính đến việc giành thắng lợi mạnh ở Việt Nam trước khi đình chiến ở Triều Tiên”. Hồ Chí Minh hiểu rõ điều này. Trong một bức thư gửi ông Giáp tháng 12-1953, ông viết: “Chiến dịch này rất quan trọng, không chỉ về mặt quân sự mà còn về mặt chính trị, không chỉ vì lý do trong nước mà còn vì lý do quốc tế nữa. Do vậy, toàn thể nhân dân, toàn thể lực lượng vũ trang và toàn thể Đảng ta phải đoàn kết để thực hiện việc này”.[29]
    Với ông Hồ và các cộng sự, vấn đề không còn liệu có tấn công cứ điểm quân Pháp hay không mà làm thế nào tấn công được. Ông Võ Nguyên Giáp vốn thận trọng ủng hộ kế hoạch làm suy yếu quân địch, sử dụng pháo binh bắn phá sân bay nhỏ ở thung lũng Điện Biên Phủ, cắt đường tiếp tế của quân Pháp. Quân Việt Minh sau đó có thể dần dần vô hiệu hoá hoả lực của quân Pháp, chiếm từng cứ điểm bên ngoài căn cứ. Theo các nguồn tin Việt Nam, tướng Vi Quốc Thanh, cố vấn cao cấp của Trung Quốc, ủng hộ cách giải quyết khác, tiến hành cuộc tấn công thần tốc dựa trên chiến thuật “biển người” đã được các đơn vị giải phóng sử dụng rất có hiệu quả chống lại quân của Liên Hợp Quốc tại Triều Tiên.[30]
    Cuộc tấn công đầu tiên của Việt Minh vào Điện Biên Phủ bắt đầu vào giữa tháng 1-1954. Việt Minh tập trung 33 tiểu đoàn chính quy bao gồm 50.000 quân ở vùng núi quanh cứ điểm. Số quân này đối chọi với kẻ địch gồm 16.000 quân. Ngoài lực lượng chính quy, Việt Minh có hơn 55.000 quân hỗ trợ và khoảng 100.000 dân công. Nhiều dân công là phụ nữ ở các tỉnh miền trung đã phải đi qua khu vực địch chiếm đóng ở đồng bằng sông Hồng để đến được khu tập kết dọc biên giới Trung Quốc. “Đội quân tóc dài” mang vác pháo và phương tiện chiến tranh khác đi hàng trăm dặm đường địa hình khó khăn đến khu vực căn cứ. Mỗi dân công chuyển trung bình 15 cân hàng qua 16 cây số đường rừng mỗi đêm. Tuy hầu hết hàng cung cấp là xăng dầu và đạn dược, nhưng cũng còn có những khẩu pháo lớn của Liên Xô được chuyển từng bộ phận từ biên giới Trung Quốc ở Lạng Sơn, cách hơn 400 cây số.[31]
    Trong giai đoạn đầu, những người tấn công đã theo lời khuyên của Trung Quốc sử dụng chiến thuật “biển người”, nhưng tổn thất nặng nề đến mức cuối tháng 1-1954, Bộ Tư lệnh Việt Nam (theo yêu cầu khẩn thiết của Bắc Kinh) đánh giá lại tình hình và quyết định chuyển sang cách đánh thận trọng hơn. Trong vài tuần sau đó, quân Việt Minh đào mấy trăm cây số giao thông hào tiến vào hệ thống phòng thủ bên ngoài của Pháp mà không bị hoả lực của Pháp khống chế. Đồng thời quân Việt Minh cũng đào một loạt giao thông hào quanh cứ điểm đã bao vây. Pháo được dân công chuyển từ biên giới Trung Quốc từng phần đến, lắp ráp lại tại chỗ, đặt bên trong đường hầm. Pháo có thể cơ động nhanh giữa các địa điểm khác nhau, ngăn không cho quân Pháp từ cứ điểm phát hiện chính xác điểm bắn.[32]
    Lúc đầu, hàng tiếp tế và quân tiếp cận đến bằng đường không, nhưng rồi sân bay bên ngoài căn cứ không thể sử dụng được nữa vì bị pháo bắn phá rất ác liệt. Máy bay hạ cánh để dỡ đồ tiếp tế hầu như bị pháo của Việt Minh từ các vùng núi bao quanh cứ điểm bắn phá. Ít lâu sau, phi công Pháp buộc phải bay vội qua thung lũng, thả dù tiếp tế và tiếp viện. Cuối cùng hoả lực của Việt Minh mạnh đến mức quân tiếp viện nhảy dù xuống thường chết trước khi xuống được đến đất.
    Tình hình càng nguy hiểm, quân Pháp càng khẩn thiết cầu cứu viện trợ của Hoa Kỳ. Vào giữa tháng 3-1954, Paris cử tướng Paul Ely đến Washington yêu cầu Mỹ tiến hành không kích để giảm căng thẳng cho cứ điểm của Pháp và bảo vệ cho cứ điểm này khỏi nguy cơ sụp đổ. Đề nghị này được đô đốc Arthur Radfor, Chủ tịch Tham mưu trưởng liên quân và Phó tổng thống Nixon ủng hộ. Trong một cuộc nói chuyện với đại sứ Pháp Henri Bonnet ngày 28 tháng 4, Nixon tuyên bố “hoàn toàn nhất trí với quan điểm của đô đốc Arthur Radfor và ủng hộ máy bay Mỹ can thiệp ồ ạt để cứu Điện Biên Phủ”. Nhưng tổng thống Eisenhower, do ý nguyện tham gia cuộc chiến trên bộ ở châu Á của ông đã giảm vì kết cục không dứt khoát hành động can thiệp tại bán đảo Triều Tiên, lại chần chừ không muốn đưa quân vào Đông Dương nếu không bảo đảm cuộc chiến đấu sẽ được thực hiện trên cơ sở đa phương, với điều kiện Pháp phải hứa sẽ trao quyền độc lập hoàn toàn cho ba nước Đông Dương. Trong chuyến đi London, Paris, Ngoại trưởng Mỹ Dullet phát hiện, cả Anh lẫn Pháp đều không đồng ý với điều kiện của Mỹ. Eisenhower sau đó đã không chấp nhận yêu cầu của Pháp cung cấp yểm trợ bằng máy bay tuy vẫn thăm dò khả năng Mỹ can thiệp. Eisenhower cũng chần chừ không muốn có một giải pháp thoả đáng trên bàn hội nghị hoà bình.[33]
    Đầu tháng 5-1954, Việt Minh thâm nhập vào tuyến phòng thủ bên ngoài của cứ điểm Điện Biên Phủ, bắt đầu nã pháo vào các cứ điểm bên trong. Theo nguồn tin của Trung Quốc, cuối cùng lòng tin của các nhà hoạch định kế hoạch chiến tranh của Việt Minh bị nao núng vì tổn thất quá lớn và mối đe doạ can thiệp của Hoa Kỳ. Với sự cổ vũ mạnh mẽ của Bắc Kinh, Việt Minh cuối cùng quyết định tấn công toàn bộ cứ điểm giành thắng lợi. Cuộc tấn công diễn ra ngày 6-5-1954. Võ Nguyên Giáp đã miêu tả một cách ngắn gọn: “bộ đội ta tấn công từ mọi phía, chiếm sở chỉ huy của địch và bắt sống toàn bộ Bộ tham mưu”. Quân Pháp thất bại hoàn toàn. Hơn 1.500 quân lính Pháp bị chết, 4.000 bị thương, số còn lại bị bắt làm tù binh hay mất tích. Khoảng 70 quân Pháp trốn thoát trở về phòng tuyến của mình. Tổn thất của Việt Minh lớn hơn nhiều, 25.000 bị thương vong, trong đó có 10.000 chết.[34]
    Ngày 8-5-1954, một ngày sau khi quân Pháp đầu hàng tại Điện Biên Phủ, đàm phán hoà bình để giải quyết cuộc xung đột Đông Dương bắt đầu như đã định tại Geneva. Tham dự hội nghị có đoàn đại biểu của Pháp, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Anh, Liên Xô, Trung Quốc và Mỹ cũng như đại diện chính phủ Bảo Đại, đại diện của chính phủ hoàng gia Campuchia và Lào, bấy giờ gọi là nước liên hiệp. Các nhà lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, thể hiện cảnh báo trước đây của Hồ Chí Minh, thắng lợi sẽ không dễ dàng, đến Hội nghị với thái độ thận trọng. Tuy nhiên họ cảm thấy đây là cơ hội sẽ có những bước tiến quan trọng trong cuộc đấu tranh thống nhất đất nước.[35]
    Tại phiên khai mạc Hội nghị, phái đoàn Pháp nêu điều kiện cho một giải pháp, kêu gọi cả hai bên tập kết quân dưới sự giám sát của Uỷ ban Kiểm soát quốc tế. Ông Phạm Văn Đồng, đứng đầu đoàn đàm phán của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (cũng như tại Hội nghị Fontainebleau năm 1946) chấp nhận đề nghị của Pháp cần có ngừng bắn trước khi có giải pháp về các vấn đề chính trị, nhưng trong tất cả các lĩnh vực khác, điều kiện (do Bộ Chính trị soạn thảo) của ông khác hẳn với đề nghị của Pháp. Ông đòi quốc tế công nhận chủ quyền và độc lập hoàn toàn của ba nước Đông Dương, rút hết quân đội nước ngoài, tổ chức tuyển cử tự do dưới sự giám sát của chính quyền địa phương. Ngoài ra, ông còn yêu cầu đại diện của phong trào cách mạng Lào và Campuchia (Pathet Lào và Khmer Đỏ) được dự Hội nghị với tư cách đại diện của nhân dân hai nước này. Ông Đồng đã đồng ý xem xét khả năng gia nhập Liên hiệp Pháp dựa trên cơ sở tự nguyện, công nhận quyền lợi kinh tế, văn hoá của Pháp tại ba nước Đông Dương.
    Paris không còn khả năng mặc cả được gì. Các nguồn tin tình báo Pháp công khai dự đoán Hà Nội có thể thất thủ nếu Việt Minh tấn công mạnh. Washington cũng có quan điểm bi quan như vậy. Tại một buổi thông báo tình hình của Hội nghị an ninh quốc gia ngày 8-5-1954, giám đốc CIA Allen Dullet dự kiến, với 5.000 chiếc xe tải, quân Việt Minh có thể di chuyển dễ dàng từ Điện Biên Phủ đến đồng bằng Bắc Bộ trong vòng từ hai đến ba tuần. Mặc dù lực lượng vũ trang của Pháp ở đồng bằng là 200.000 quân so với 76.000 quân chủ lực của Việt Minh, hầu hết quân Pháp tinh thần suy sụp và nằm bẹp trong đồn xung quanh toàn là dân cư thù địch hoặc không ủng hộ. Còn quân đội quốc gia Việt Nam do chính phủ Bảo Đại thành lập sau khi ký Hiệp ước Elysée, như tướng Navarre gọi họ là “lũ ô hợp”.[36]
    Tuy nhiên, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà gặp khó khăn nghiêm trọng tại Hội nghị. Mặc dù đại diện Việt Minh đã gặp đại diện của Trung Quốc và Liên Xô trước Hội nghị để soạn thảo chiến lược đàm phán chung, điều rõ ràng cả Moscow và Bắc Kinh đều không muốn ủng hộ Việt Minh tiếp tục cuộc chiến, họ cũng chẳng sẵn sàng đáp ứng hoàn toàn mọi yêu cầu của Việt Minh. Cả hai đều chú ý đến lợi ích an ninh của chính họ tại Geneva và đều mong tránh phải đụng đầu với Hoa Kỳ. Sau khi các cuộc tranh cãi ban đầu lắng đi, rõ ràng cả Ngoại trưởng Liên Xô, ông Vycheslav Molotov lẫn trưởng phái đoàn Trung Quốc tại hội nghị, ông Chu Ân Lai đều mong có thoả hiệp dựa trên việc chia cắt Việt Nam thành hai khu vực tập kết. Một do Việt Minh chiếm giữ, một do chính phủ Bảo Đại và những người ủng hộ chính phủ này chiếm giữ. Hơn nữa, sau thời gian đầu ủng hộ quan điểm của Việt Minh về Campuchia và Lào, Ngoại trưởng Chu Ân Lai nói rõ với Phạm Văn Đồng, Trung Quốc không ủng hộ yêu cầu của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đòi Pathet Lào và Khmer Đỏ tham gia Hội nghị như là đại diện chân chính của nhân dân Lào và Campuchia. Chu Ân Lai còn cảnh báo vấn đề này sẽ gây nguy cơ đối với quá trình đạt đến giải pháp và dẫn đến can thiệp trực tiếp của Mỹ vào cuộc chiến. Ông tin, tốt hơn là chấp nhận trung lập hoá hai quốc gia này với chính phủ hoàng gia hiện hành. Để khuyến khích Việt Nam Dân chủ Cộng hoà chấp nhận, ông Chu Ân Lai đồng ý kiên quyết lập trường phải cho lực lượng Pathet Lào có một khu vực tập kết sau khi xung đột kết thúc. Rõ ràng Phạm Văn Đồng đã phải đồng ý một cách miễn cưỡng.[37]
    Nhiều năm sau các nguồn chính thức của Việt Nam lại cho cách Chu Ân Lai cư xử tại Hội nghị Geneva là do Trung Quốc muốn kéo Lào và Campuchia vào khu vực ảnh hưởng của mình. Mặc dù hầu như không có bằng chứng gì chứng tỏ điều này là đúng, rất có thể Bắc Kinh đã coi hai nước này có tầm quan trọng thiết yếu đối với an ninh của mình ở khu vực, do vậy không muốn có một Liên bang Đông Dương. Tuy nhiên, tại thời điểm đó, lý do chính ngăn không cho đàm phán hoà bình sụp đổ loại bỏ khả năng Mỹ thiết lập căn cứ ở hai nước. Chắc chắn vì những lý do này mà ông Chu Ân Lai đã khẩn thiết kêu gọi ông Đồng chấp nhận thoả hiệp, một quan điểm mà phái đoàn Liên Xô ủng hộ mạnh mẽ.
    Giải quyết xong vấn đề Lào và Campuchia, Hội nghị tạm nghỉ. Trong khi đó đoàn đại biểu Pháp và Việt Nam Dân chủ Cộng hoà bắt đầu chú ý đến chi tiết của giải pháp ở Việt Nam. Trong hội đàm riêng về quân sự với Pháp, đại biểu Việt Minh nói rõ, họ muốn có một khu vực lãnh thổ liền kề nhau làm khu vực tập kết quân và những người theo họ bao gồm đồng bằng sông Hồng, kể cả Hà Nội và Hải Phòng. (Một nhà đàm phán cao cấp của Việt Minh nói: “Chúng tôi phải được Hà Nội, chúng tôi phải có đường thoát”). Quân Pháp không muốn mất Hà Nội, nhưng lại nói một cách gián tiếp, họ muốn được rảnh tay ở phía nam, ít nhất là một khu vực riêng ở phía bắc để chuyển quân và dân ra khỏi vùng đồng bằng sông Hồng.
    Do vậy, cuộc tranh luận tập trung vào đường phân chia hai khu vực tập kết và việc thực hiện những thảo thuận chung. Lúc đầu, ông Phạm Văn Đồng đòi đường phân chia phải ở vĩ tuyến 13 trong khi Pháp muốn đường này ở ngay phía nam đồng bằng sông Hồng ở miền Bắc. Để giám sát Hiệp định, đại biểu của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà muốn trong nước giám sát nhưng Pháp (với sự hỗ trợ của Mỹ) yêu cầu phải thành lập Uỷ ban Giám sát Quốc tế dưới sự bảo trợ của Liên Hợp Quốc.
    Trong khi hai phái đoàn Pháp và Việt Nam tranh cãi về chi tiết, Chu Ân Lai về Bắc Kinh tham khảo ý kiến của Mao Trạch Đông và các nhà lãnh đạo chính phủ khác. Trên đường về, dừng chân tại Ấn Độ, ông yêu cầu Thủ tướng Jawaharlal Nehru ủng hộ lập trường của Trung Quốc tại bàn Hội nghị. Để giảm bớt lo lắng của Nehru về khả năng toàn bộ Đông Dương sẽ sớm rơi vào tay cộng sản (và do vậy sẽ rơi vào sự kiểm soát của Trung Quốc), Chu Ân Lai hứa, toàn bộ quân Việt Minh sẽ rút khỏi Lào, Campuchia và hai nước này sẽ có chính phủ độc lập do họ tự chọn. Về tình hình Việt Nam, ông bảo đảm với các nhà lãnh đạo Ấn Độ, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẽ tôn trọng bất kỳ thoả thuận nào chia cắt Việt Nam thành hai miền, ông tuyên bố thêm, chủ nghĩa xã hội “không phải để xuất khẩu”. Trong một thông báo đưa ra sau một loạt các cuộc gặp gỡ, hai nhà lãnh đạo đã khẳng định ủng hộ khái niệm năm nguyên tắc chung sống hoà bình và coi năm nguyên tắc này là cơ sở thích hợp cho quan hệ quốc tế ở châu Á và thế giới.[38]
    Dừng chân ngắn ở Rangoon, Chu Ân Lai thảo luận với Thủ tướng Miến Điện, ông U Nu. Sau đó ông Chu Ân Lai về Bắc Kinh, đi thẳng đến Liễu Châu, nơi đã từng là đại bản doanh của Trương Phát Khuê ở nam Trung Quốc. Ở Liễu Châu, ông gặp Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp. Cuộc gặp này không được mấy ai chú ý. Một tuyên bố báo chí sau đó của Tân Hoa Xã chỉ nói rằng “Thủ tướng Chu Ân Lai và Chủ tich Hồ Chí Minh đã trao đổi toàn bộ ý kiến về Hội nghị Geneva, vấn đề khôi phục hoà bình ở Đông Dương và các vấn đề có liên quan”. Tuy nhiên, một nguồn tin Trung Quốc gần đây cho biết, ông Chu đã thuyết phục được ông Hồ thấy sự cần thiết phải có một giải pháp thoả hiệp ở Geneva để tránh can thiệp trực tiếp của Mỹ vào cuộc chiến. Hai vị lãnh tụ đã thoả thuận chấp nhận vĩ tuyến 16 làm đường phân giới giữa hai khu tập kết. Hai vị lãnh tụ cũng thoả thuận chấp nhận việc thành lập chính phủ không cộng sản ở Lào và Campuchia, với điều kiện Pathet Lào cũng có một khu vực tập kết nhỏ. Ông Hồ cũng đồng ý đưa ra tuyên bố chung, ba nước Đông Dương sẽ tuân thủ năm nguyên tắc cùng chung sống hoà bình. Để đổi lại, Chu Ân Lai hứa Trung Quốc sẽ tiếp tục ủng hộ, viện trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Trong những hiệp định viện trợ ký tại Bắc Kinh ngày 7-7-1954, Trung Quốc cam kết tăng thêm viện trợ thương mại và kinh tế. Những nguồn tin chính thức ở Việt Nam chỉ đưa tin cụt lủn về kết quả cuộc gặp. Báo Nhân Dân của Đảng ghi nhận một cách không rõ ràng “việc khôi phục hoà bình ở Đông Dương không thể chỉ do một bên quyết định”.[39]
    Sau những cuộc tham khảo ý kiến ngắn ở Bắc Kinh, Chu Ân Lai trở lại Geneva trong khi các đại biểu đang giải quyết nốt những vẫn đề tồn đọng, hiệp định đã được ký kết ngày 21-7-1954. Một Uỷ ban Quốc tế sẽ giám sát Hiệp định. Uỷ ban này bao gồm Ấn Độ, Canada và Ba Lan. Một tuyên bố chính trị không mang tính ràng buộc kêu gọi chính quyền ở hai khu vực tập kết tiến hành hiệp thương và tổ chức tổng tuyển cử thống nhất đất nước hai năm sau. Điểm khó khăn cuối cùng là thảo thuận thiết lập đường phân giới giữa hai khu vực tập kết tại vĩ tuyến 17. Khi Phạm Văn Đồng có vẻ chần chừ không chấp nhận nhượng bộ, ông Chu lập luận, cho phép Thủ tướng Pháp, ông Pierre Mendes France, giữ thể diện của mình là giá nhỏ phải trả cho việc quân Pháp rút. Ông Chu còn hứa “Khi quân Pháp rút hoàn toàn, toàn bộ Việt Nam là của các bạn”.[40]
    Tuy nhiên, theo quan điểm của Hồ Chí Minh và các cộng sự thì có những tiến triển bất lợi ngay sau khi Hội nghị kết thúc. Chính quyền Eisenhower đã lo ngại theo dõi đàm phán tại Geneva và quyết định không chấp nhận các điều kiện của Hiệp định trừ khi ít nhất một phần của Việt Nam vẫn an toàn. Vì điều khoản về thống nhất hoàn toàn đất nước thông qua tuyển cử tổ chức năm 1956 mở ra khả năng cộng sản thắng lợi hoàn toàn, Washington bắn tin sẽ không đồng tình với tuyên bố chính trị và sẽ không cam kết ủng hộ Hiệp định Geneva. Phái đoàn của Bảo Đại cũng làm như vậy, không chịu chấp thuận tuyên bố chính trị, lập luận, quyết định chia cắt đất nước là của chính quyền thực dân chứ không phải là nguyện vọng của nhân dân. Một vài ngày sau khi hội nghị kết thúc, Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ Dullet thông báo tại một cuộc họp báo, Mỹ sẽ gây dựng sự phát triển của một nhà nước không cộng sản ở Nam Việt Nam, Lào và Campuchia. Tuyên bố này tuyệt nhiên không hề là dấu hiệu tốt lành cho cuộc Tổng tuyển cử trong tương lai.
    Nhiều quan sát viên tại hội nghị đã nhận thấy thái độ cay cú của phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trước việc Trung Quốc và Liên Xô phản bội lợi ích của mình. Nhớ lại điều này, Vương Bỉnh Nam, một nhà ngoại giao Trung Quốc sau này nói, một số đại biểu “hy vọng sẽ thống nhất Việt Nam được ngay”.[41]
    Thái độ cay cú này rõ ràng không chỉ là thái độ của đoàn đại biểu Việt Nam mà còn thể hiện ở trong nước Việt Nam. Tình hình này rõ ràng nghiêm trọng đến mức Hồ Chí Minh cũng bắt đầu chú ý. Trong báo cáo chính trị cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng vài ngày trước khi Hiệp định Geneva được ký kết, ông Hồ viết:
    “Một số người quá say sưa với thắng lợi liên tục của chúng ta, muốn tiếp tục chiến đấu đến cùng với bất kỳ giá nào. Họ chỉ thấy cây mà không thấy rừng. Tập trung vào việc quân Pháp rút, họ không thấy âm mưu của chúng. Họ thấy Pháp nhưng không thấy Mỹ. Họ thiên về hành động quân sự và coi nhẹ ngoại giao. Họ không biết chúng ta đang đấu tranh tại các hội nghị quốc tế cũng như tại chiến trường để đạt được mục tiêu”.
    Hồ Chí Minh tranh luận với những người “muốn có kết quả nhanh, không biết rằng cuộc đấu tranh giành hoà bình là khó khăn và phức tạp”. Điều họ không thấy, ba nước đã có những bước tiến lớn trong cuộc đấu tranh giành độc lập cho các nước Đông Dương. Tuy nhiên, bây giờ cần có một chiến lược, vì Mỹ kiên quyết phá hoại khả năng hoà bình, can thiệp và biện hộ cho xung đột ở Đông Dương. Do hoàn cảnh mới, khẩu hiệu hiệu cũ “Kháng chiến đến cùng” phải được thay thế bằng khẩu hiệu “Hoà bình, đoàn kết, độc lập, dân chủ”. Một chính sách như vậy góp phần cô lập Mỹ (nay trở thành kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân Đông Dương) trên trường quốc tế và đánh bại âm mưu thâm độc của chúng.
    Hồ Chí Minh công nhận, cái giá phải trả cho hoà bình là sự chia cắt đất nước. Ông nhất mực cho rằng việc thiết lập khu vực tập kết không có nghĩa là đất nước bị chia cắt vĩnh viễn mà chỉ là tạm thời:
    Do việc hoạch định và trao đổi vùng, một số vùng tự do trước đây sẽ bị địch tạm chiếm, nhân dân sẽ không bằng lòng, một số người sẽ chán nản và dễ bị địch lừa bịp. Chúng ta phải làm cho đồng bào hiểu rõ những thử thách họ sẽ trải qua là vì lợi ích toàn đất nước, vì lợi ích lâu dài và sẽ là một sự nghiệp vinh quang mà cả nước đều biết ơn.
    Hồ Chí Minh hứa, với sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và sự ủng hộ của nhân dân trên thế giới, độc lập hoàn toàn và đoàn kết dân tộc chắc chắn sẽ đạt được.[42]
    Kêu gọi các cộng sự trong Đảng chấp nhận một giải pháp thông qua đàm phán về thực chất không phải là chiến thắng hoàn toàn, Hồ Chí Minh chắc chắn đã nghe theo lời khuyên của Chu Ân Lai. Ông Chu Ân Lai đã khẩn thiết kêu gọi ông Hồ chấp nhận một giải pháp như vậy trong cuộc gặp gỡ ở Liễu Châu trước đó vài ngày. Tuy vậy, thái độ sẵn sàng chấp nhận hoà bình trong nhân nhượng trên đường đến thắng lợi cuối cùng làm chúng ta nhớ lại cách giải quyết vấn đề của ông trong những dịp trước đó, đặc biệt là vào cuối chiến tranh Thái Bình Dương. Hồ Chí Minh nhận thấy, độc lập dân tộc và thống nhất đất nước không thể đạt được một cách riêng rẽ, nhưng phải đạt được trong bối cảnh những thay đổi phức tạp diễn ra trên trường quốc tế.
    Chú thích:
    [1] Ngô Văn Chiêu, “Nhật ký của một chiến sĩ Việt Minh” (Paris: NXB Seuil, 1957). Trang 154.
    [2] Hà Nội 366 gửi Ngoại trưởng, ngày 23-1-1951, RG 59, NXB Đại học Hoa Kỳ.
    [3] Chen Jian, “Trung Quốc và chiến tranh Đông Dương lần I”, “Trung Hoa quý báo” (tháng 3-1993), trang 95; Yves Gras, “Lịch sử chiến tranh Đông Dương” (NXB de Noel, Paris, 1992), trang 383-84; “Tổ cố vấn quân sự Trung Quốc ở Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp” (NXB Giải phóng quân, Bắc Kinh, 1990), trang 30-31. Về Hội nghị các lãnh đạo Đảng vào tháng 4, xem “Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử”, tập 5” trang 43-46. Theo Sài gòn 1580 gửi Ngoại trưởng, ngày 10-3-1951, RG 59, NXB Đại học Hoa Kỳ, báo địa phương báo cáo, Võ Nguyên Giáp đã tự sát. Về phản ứng của cố vấn Trung Quốc, xem Qiang Zhai, “Cấy ghép mô hình Trung Quốc: Cố vấn quân sự Trung Quốc và chiếặc Mỹ giúp Pháp hoặc xuất hiện chính phủ bảo thủ hơn ở Paris. Trong khi đó, ông cảnh báo các đảng viên, sự giúp đỡ của Trung Quốc cũng không bảo đảm Việt Minh thành công và khuyên Đảng cần phải chủ yếu dựa vào sức mình để dẫn đến thắng lợi.[38]
    Cuộc tranh cãi trong Đảng tại hội nghị phản ánh những phân tích lâu dài tình hình do Bộ trưởng quốc phòng Võ Nguyên Giáp phát biểu. Giáp cho rằng Pháp vẫn chiếm những ưu thế quân sự khắp Đông Dương, nhưng ông tin vào sức mạnh tinh thần, sự lãnh đạo chiến lược của lực lượng cách mạng, phối hợp với tình hình quốc tế thuận lợi (ý nói công nhận về mặt ngoại giao và Liên Xô và Trung Quốc giúp đỡ quân sự), tất cả sẽ góp phần cho một thắng lợi quyết định. Giáp giải thích tấn công không phải chỉ trong một chiến dịch đơn lẻ, mà phải gồm một chuỗi những cuộc tấn công trên nhiều điểm khác nhau ở Đông Dương, đẩy cán cân nghiêng dần sang phía Việt Nam.[39]
    Trong vòng vài tháng sau đó, Trung Quốc bắt đầu cung cấp vũ khí cho Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Tổ cố vấn quân sự Trung Quốc do tướng Vi Quốc Thanh tới căn cứ địa Việt Bắc huấn luyện cán bộ, dạy về chiến lược và chiến thuật. Trước khi rời Bắc Kinh, nhóm cố vấn này được giới lãnh đạo Trung Quốc cho biết nhiệm vụ của họ ở Việt Nam mang “ý nghĩa toàn cầu”. Lưu Thiếu Kỳ dặn, nếu kẻ thù không bị quét sạch khỏi Đông Dương, bọn đế quốc vẫn còn ở đó Trung Quốc sẽ gặp khó khăn hơn và phức tạp hơn.
    Những đơn vị chủ lực Việt Nam đến Vân Nam vào tháng 4-1950 để huấn luyện. Trang bị quân sự phần nhiều là vũ khí tịch thu của Nhật hoặc Mỹ sản xuất được chở đến bằng đường bộ hoặc từ cảng Du Lâm (nam đảo Hải Nam). Theo thoả thuận hai bên, quân đội Trung Quốc không tham chiến trừ khi Việt Minh bị đe doạ tiêu diệt. Theo yêu cầu của Bắc Kinh, mọi thoả thuận được giữ bí mật tránh làm xấu thêm quan hệ của Trung Quốc với Pháp. Sự cẩn thận này vô ích vì Pháp hoàn toàn biết rõ chuyến đi của Hồ Chí Minh và tầm quan trọng của nó.[40]
    Cuối mùa xuân, những trường huấn luyện cho quân đội Việt Minh được thiết lập tại một số nơi ở Hoa Nam. Phần lớn chương trình kéo dài ba tháng và được các cán bộ Tập đoàn Giải phóng quân Trung Quốc số 2 giảng dạy. Tháng 9-1950, khoảng mười hai ngàn quân Việt Nam được trang bị và huấn luyện ở Hoa Nam; khi trở về nước, nhiều người đã hoà vào Sư đoàn 308 mới thành lập. Hai trường cán bộ chính trị mở ra tại Nam Ninh và Khai Viễn tỉnh Vân Nam với khoá học sáu tháng. Các cố vấn giỏi của Trung Quốc như La Quý Ba, Vi Quốc Thanh đều đặn tham dự các cuộc họp quan trọng với ban lãnh đạo Đảng Việt Nam.[41]
    Mối quan hệ với Trung Quốc có tầm quan trọng lớn lao cho tương lai cách mạng Việt Nam. Tuy Việt Minh bây giờ có hơn 160.000 quân (ít hơn của Pháp chút ít), nhưng trang bị vẫn nghèo nàn, hoàn toàn thiếu khả năng hậu cần và pháo binh. Lần đầu tiên trong lịch sử ngắn ngủi của mình, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà bây giờ có được sự giúp đỡ to lớn của nước láng giềng hùng mạnh. Những lời hứa cung cấp vũ khí, cố vấn và những quân nhu khác tạo cơ sở chuyển hướng chiến lược chiến tranh sang giai đoạn ba - tấn công phòng ngự.
    Giới lãnh đạo Việt Nam không giấu tầm quan trọng của mối quan hệ mới Trong một cuộc phỏng vấn của nhà báo Mỹ Andrew Roth tháng 8-1950, Hồ Chí Minh không còn trầm lặng như trước đây, nhấn mạnh phong trào giải phóng Việt Nam đã thay đổi chiến thuật và bây giờ đang áp dụng mô hình Trung Quốc. Ông nhấn mạnh khắp Việt Bắc đang có một chiến dịch học tập kinh nghiệm Đảng cộng sản Trung Quốc trong cuộc chiến đấu chống Nhật và Tưởng Giới Thạch; các tài liệu được đưa vào Việt Nam và phát cho các cán bộ và binh sĩ vùng. Các khoá học được tổ chức thường xuyên khuyến khích những học viên tiếp thu mô hình Trung Quốc và áp dụng vào thực tế ở Đông Dương.
    Những tuyên bố công khai của Việt Minh vô tình phù hợp bất ngờ mô hình Trung Quốc một phần là giả dối, bởi vì, như chúng ta đã thấy, giới lãnh đạo đảng đã nhiều năm học hỏi rút ra bài học hữu ích từ cách mạng Trung Quốc. Một trong những tuyên bố chính thức đầu tiên của Hồ Chí Minh sau khi kháng chiến bùng nổ 12-1946 nói, lãnh đạo Việt Minh sẽ đi theo mô hình chiến tranh nhân dân của Mao trong cuộc chiến đấu giành thắng lợi. Một năm trước đó, Trường Chinh viết cuốn sách nhỏ nhan đề “Kháng chiến trường kỳ nhất định thắng lợi”, trong đó cũng trích những bài viết của Mao Trạch Đông về chiến tranh du kích trong hai thập niên trước. Có lẽ Chinh viết cuốn sách đó với sự chấp thuận của toàn thể ban lãnh đạo đảng, bí danh cách mạng ông chọn (“Trường Chinh”) rõ ràng chứng tỏ ông ngưỡng mộ cách mạng Trung Quốc. Tuy nhiên, Chinh cẩn thận vạch ra một số yếu tố mô hình Trung Quốc không áp dụng được cho Việt Nam. Do Việt Nam là nước nhỏ và hoàn toàn dưới sự thống trị thuộc địa, Việt Minh không thể hy vọng xây dựng một căn cứ địa giải phóng rộng lớn tương tự như căn cứ địa Diên An ở bắc Trung Hoa trong thời kỳ chống Nhật. Có thể Trung Quốc không để ý tới tầm quan trọng những sáng kiến ngoại giao, những hoạt động này chỉ có vai trò hạn chế trong cuộc chiến đấu giành quyền lực ở Trung Hoa. Dù vậy, lãnh đạo Việt Minh cảm thấy mô hình Trung Quốc có giá trị lớn trong cuộc kháng chiến chống Pháp và bây giờ chấp nhận nhóm cố vấn của Trung Quốc để giúp họ hiệu quả hơn.
    Nhưng chẳng mấy chốc, ảnh hưởng của Trung Quốc không những bị giới hạn trung quân sự, mà còn lan sang những chính sách đối nội và tổ chức Đảng. Ngay sau khi đến Việt Bắc cuối tháng 2, La Quý Ba trong đoàn cố vấn dân sự giúp Việt Nam chỉnh Đảng và chính phủ theo đường lối Trung Quốc. Từ Hội nghị lần thứ tám họp tại Pác Bó vào tháng 5-1941, giới lãnh đạo đảng đặt ưu tiên trước hết cho sự nghiệp giải phóng dân tộc chống lại đế quốc hơn là đấu tranh chống thế lực phong kiến trong nước, do vậy quay lại mô hình Lenin mà Hồ Chí Minh du nhập vào châu Á ở thập niên 1920. Theo kế hoạch này, cách mạng Việt Nam chia thành hai giai đoạn, giai đoạn đầu tiên hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc, giai đoạn thứ hai thực hiện chuyển biến sang chủ nghĩa xã hội. Trong giai đoạn đầu tiên, vai trò trọng tâm của Đảng cộng sản Đông Dương trong cách mạng Việt Nam nổi bật ở chỗ lôi kéo những phần tử ôn hoà trong nước, tránh sự can thiệp của thế lực phản động ngoài nước điều này thể hiện trong chính sách Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 và trong thời kỳ ba năm đầu kháng chiến chống Pháp.
    Bây giờ, với thắng lợi của Trung Quốc và triển vọng đánh bại Pháp tăng cao, giới lãnh đạo đảng chuyển sang chiến lược mới dựa trên mô hình Trung Quốc, trong đó sự lãnh đạo của đảng đối với phong trào là công khai, đồng thời giai đoạn đầu tiên giải phóng dân tộc sẽ tiếp tục không cần chia ra thành giai đoạn hai cách mạng xã hội chủ nghĩa. Tiến trình này thể hiện tại Hội nghị toàn quốc lần thứ III cuối tháng 1- 1950, khi ban lãnh đạo đảng quyết định nhấn mạnh vấn đề giai cấp trong mặt trận thống nhất và chuẩn bị đưa Đảng cộng sản ra công khai. Những hành động đó sẽ thúc đẩy Việt Nam Dân chủ Cộng hoà vào gần hơn với phe xã hội chủ nghĩa, gồm Trung Quốc và những nước “dân chủ nhân dân” ở Đông Âu; nhưng điều này lại làm phức tạp cho những nỗ lực đạt được thương lượng và ngăn Mỹ nhảy vào chiến tranh bên phe Pháp. Vài tháng sau, giới lãnh đạo đảng mở một chiến dịch lớn để những người ủng hộ họ thấm nhuần tư tưởng, hành động đảng cộng sản Trung Hoa và vị lãnh tụ Mao Trạch Đông của họ.[42]
    Vai trò của Hồ trong việc chuẩn y thay đổi đường lối này đến đâu là một câu hỏi lớn. Quan điểm của Hồ là công thức cách mạng hai giai đoạn tiệm tiến từ giữa thập niên 1920 và chắc chắn quan điểm này được đưa vào Hội nghị lần thứ tám năm 1941. Chính sách mới không những chống lại khả năng của ông tranh thủ tình hình quốc tế theo hướng thuận lợi cho ông mà ở mức độ nào đó còn trói buộc ông vào sự giám sát của Trung Quốc mà ông từng chống lại được trong quá khứ.
    Ngoài ra, có một điều lạ, Hội nghị Đảng toàn quốc lần thứ III họp khi Hồ vắng mặt. Có thể ở đây có sự nghi ngờ - cả trong nội bộ phong trào cộng sản quốc tế và trong những đồng sự của ông - về lòng trung thành của ông vào những nguyên tắc Marxist-Leninist chính thống được Moscow và Bắc Kinh phổ biến vào cuối thập niên 1940. Mùa đông năm 1949-1950, có nhiều tin đồn - phần nhiều dựa trên những nhận xét của một kẻ đào ngũ - Trường Chinh sẽ thay thế Hồ Chí Minh làm lãnh tụ phong trào cộng sản Việt Nam theo lệnh Stalin, hoặc thậm chí còn có tin ông chính thức bị coi là “kẻ dị giáo” vì ông từ chối đi theo đường lối Moscow. Khi Léo Figuères của Đảng cộng sản Pháp tới thăm Việt Bắc tháng 3-1950, có tin đồn ông này được cử đến không những để khôi phục liên lạc giữa hai đảng mà còn để phục hồi Đảng cộng sản Đông Dương, đội tiên phong của cách mạng Việt Nam.[43]
    Dù vậy, mặc dù Hồ Chí Minh có lẽ chấp nhận đường lối mới với đôi chút miễn cưỡng, chắc chắn ông nhận ra sự ủng hộ đang tăng lên của Hoa Kỳ cho Pháp không thể tránh được, sự gần gũi với Moscow và Bắc Kinh sẽ giúp Việt Minh thắng lợi ở Đông Dương. Dù thế nào đi nữa, ông tự điều chỉnh trước hoàn cảnh mới và tìm cách tranh thủ nó. Trong thư gửi giới lãnh đạo Trung Quốc những năm sau này, Hồ quá lời tán dương ban lãnh đạo chính phủ Trung Quốc, đề xuất chính phủ và Đảng của ông sẽ theo mô hình Trung Quốc. Lúc này, tất nhiên, ông đã trở thành bậc thầy của nghệ thuật xu nịnh ân nhân của mình, ngụ ý rằng những lời khuyên và kinh nghiệm Trung Quốc đã đi vào trái tim của người Việt Nam. Thí dụ, không phải ngẫu nhiên mùa thu năm 1950, lần đầu tiên, ông bắt đầu ca tụng lợi ích của hợp tác hoá nông nghiệp cho sự thịnh vượng tương lai của nước Việt Nam độc lập.[44]
    Mùa xuân năm 1949, khi các nhà chiến lược của Đảng kết luận một trong những điều kiện tiên quyết then chốt cho tổng tấn công thắng lợi mở rộng vùng biên giới, do vậy tạo điều kiện cho lực lượng cách mạng dễ dàng tiếp nhận viện trợ vật chất từ Trung Quốc. Tướng Blaizot vô tình đã giúp tướng Giáp dễ dàng thực hiện nhiệm vụ này bằng cách kêu gọi rút quân Pháp khỏi nhiều vị trí dọc biên giới bắc Lạng Sơn, để tăng cường kiểm soát khu vực từ Lạng Sơn đến Vịnh Bắc Bộ. Tuy nhiên, mùa hè năm 1950, kế hoạch Blaizot vẫn không chính thức thực thi một loạt đồn bốt đơn độc của Pháp dọc biên giới nối chuỗi dọc Quốc lộ 4 từ ven biển Móng Cái tới huyện lỵ Cao Bằng.
    Pháp lập tức có lý do hối tiếc sự chậm trễ này. Tháng 4-1949, giới lãnh đạo đảng lần đầu tiên quyết định tập trung vào khu vực tây biên giới, nơi lực lượng Pháp không đáng kể. Tuy vậy, tháng 7-1950, Ban thường vụ Đảng quyết định chuyển trọng tâm sang khu vực phía đông biên giới, vì nó dễ xuống đồng bằng sông Hồng và có những đường quốc lộ dẫn tới Trung Hoa. Hồ nói với các đồng chí của ông lúc đó, đây là nơi “dễ giữ khi rút, dễ đánh khi tấn công”. Võ Nguyên Giáp được giao nhiệm vụ chỉ huy cuộc tấn công, tướng Trung Quốc Trần Canh được lệnh tới Việt Bắc giúp đỡ Việt Minh vạch kế hoạch chiến dịch. Khi Giáp thăm Hồ Chí Minh tại Tân Trào, Hồ ví tầm quan trọng thắng lợi. “Chiến dịch sắp tới là cực kỳ quan trọng. Chúng ta không được thua!” Hồ hứa sẽ đến biên giới quan sát chiến dịch với tư cách cá nhân. Tướng Trần Canh được mời đi cùng ông.[45]
    Giữa tháng 9, Việt Minh tung hàng loạt cuộc tấn công sắc bén vào đồn bốt Pháp khắp vùng biên giới. Đồn Đông Khê bị tám ngàn quân đội Việt Minh tấn công, tình báo Pháp cho biết Việt Minh có cả bazooka, súng cối, pháo không giật và lần đầu tiên lực lượng tập trung lên tới trung đoàn. Bị tấn công bất ngờ, quân Pháp rối loạn, tháo chạy bỏ lại hàng trăm xác rang 530, cuộc tấn công Điện Biên Phủ là do Cố vấn Trung Quốc gợi ý Võ Nguyên Giáp. Bắc Kinh vạch ra rằng thắng lợi Điện Biên Phủ có thể làm tăng ý nghĩa chính trị và quốc tế. Xem thêm bài của Hoàng Văn Thái đăng ở Tin tức Việt Nam (tháng 3-1984), trang 19-23, và Võ Nguyên Giáp, “Chiến tranh nhân dân” (NXB Praeger, New York, 1962), trang 148.
    [21] Về quan điểm Trung Quốc, xem François Joyaux, “Trung Quốc và giải quyết cuộc xung đột lần I ở Đông Dương: Geneve 1954” (Paris: Sorbonne, 1979), trang 68-71. Xem thêm Zhai Qiang, “Trung Quốc và hội nghị Geneva năm 1954”, “Trung Hoa Quý báo”, 129 (tháng 3-1992), trang 107.
    [22] Về kết luận tương tự, xem Qiang Zhai, “Cấy ghép mô hình Trung Quốc: Cố vấn quân sự Trung Quốc và chiến tranh Việt Nam lần I, 1950-1954”, (Tạp chí Lịch sử quân sự, tháng 10-1993), trang 708-709.
    [23] Thực tế, Hồ không khước từ ý nghĩ thương lượng hoà bình, mà đơn giản cho rằng cuộc thương lượng chỉ tiến hành trong hoàn cảnh thuận lợi nhất - xem Toàn Tập I, tập 6, trang 459. Về báo cáo của Hãng thông tấn Xô viết TASS, xem François Joyaux, “Trung Quốc và giải quyết cuộc xung đột lần I ở Đông Dương: Geneve 1954” (Paris: Sorbonne, 1979), trang 68; xem thêm Đại sứ quán Mỹ ở Sài gòn, báo cáo nhanh 208, ngày 11-10-1951, và đại sứ Mỹ ở Moscow Bohlen gửi Bộ ngoại giao, ngày 3-9-1953, cả hai có trong RG 59, NXB Đại học Hoa Kỳ. Về những người thăm dò hoà bình của Pháp, xem Jacques de Folin, “Đông Dương 1940-1954: Sự kết thúc của một giấc mơ” (Paris: NXB Perrin, 1993), trang 261.
    [24] Báo cáo này nằm tại Sài gòn Joint Weeka 49, ngày 7-12-1953, trong RG 59, NXB Đại học Mỹ. Cuộc phỏng vấn được tổng kết ở Đại sứ quán Mỹ (Stockholm, Thuỵ Điển) gửi Bộ ngoại giao, ngày 29-11-1953, trong RG 59, NXB Đại học Hoa Kỳ. Trong một xã luận đi cùng cuộc phỏng vấn, Expressen bày tỏ hoài nghi về sự chân thành của Hồ Chí Minh và vạch ra rằng bài báo này hình như là “được Moscow sáng tác”. Bản tiếng Việt, xem Toàn Tập I, tập 6, trang 494-96.
    [25] Toàn Tập I, tập 6, trang 430-442.
    [26] “Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác ngoại giao” (NXB Sự thật, 1990), trang 143.
    [27] Zhai Qiang, “Trung Quốc và Hội nghị Geneva”, trang 108; Nikita Khrushchev, “Hồi ký Khruschev” (Boston: Bantam, 1971), trang 532-34. Chen Jian, “Trung Quốc và chiến tranh Đông Dương lần I” trong Peter Lowe (ed)., “Cuộc chiến tranh Việt Nam” (NXB St. Martin’s, New York, 1998), trang 159. Theo nguồn của tác giả này, Việt Nam có lẽ đồng ý.
    [28] Stanley Karnow, “Việt Nam: Lịch sử” ( NXB Viking, New York, 1983), trang 191.
    [29] Bức thư của Hồ Chí Minh được trích trong “Chủ tịch Hồ Chí Minh”, trang 142, trích trong “Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam” (NXB Sự thật, 1984), trang 691; Về thông điệp của Chu Ân Lai, xem “Tạp chí Trung Hoa”, trang 99. Số liệu về viện trợ của Trung Quốc trích từ tài liệu đã dẫn. Theo Trung Quốc, từ 1950 đến 1954 Trung Quốc cung cấp cho Việt Minh 116.000 súng trường và 4.630 pháo, tương đương năm sư đoàn bộ binh, một sư đoàn công binh và pháo binh, một trung đoàn pháo phòng không, và một trung đoàn bảo vệ. Xem Han Huazhi, “Những hoạt động quân sự của Quân đội Trung Quốc hiện tại”, Tập I, trang 520-22.
    [30] Sự đả kích giữa Bắc Kinh và Hà Nội về sự xác đáng lời khuyên của Trung Quốc đối với hoàn cảnh chiến đấu đã thành thường xuyên kể từ khi kết thúc chiến tranh Việt Nam. Về những lời phàn nàn của Việt Nam, xem Georges Boudarel, “ Làm thế nào Giáp thua ở Điện Biên Phủ”, (Tạp chí Người quan sát mới, ngày 8-4-1983).
    [31] Jay Taylor, “Trung Quốc và Đông Nam Á” (NXB Praeger, New York, 1974), trang 13-14; Bernard Fall, “Địa ngục ở một nơi rất nhỏ” (Philadelphia: Lippincott, 1966), trang 7; Henri Navarre, “Đông Dương đau đớn” (Paris: NXB Plan, 1956), trang 181, và Võ Nguyên Giáp, “Chiến tranh nhân dân”, trang 179.
    [32] Theo tài liệu của Trung Quốc, 24-1, Uỷ ban quân sự Trung ương ở Bắc Kinh chỉ thị cố vấn Trung Quốc phải đề xuất chiến lược thận trọng và từ từ cho Việt Minh tại tại Điện Biên Phủ. Xem “Tạp chí Trung Hoa”, trang 98, và Qiang Zhai, “Cấy ghép mô hình Trung Quốc: Cố vấn quân sự Trung Quốc và chiến tranh Việt Nam lần I, 1950-1954”, (Tạp chí Lịch sử quân sự, tháng 10-1993), trang 709.
    [33] Sự do dự của Tổng thống Eisenhower ứng phó với tình hình ở Đông Dương là chủ đề đáng quan tâm của nhiều học giả. Tôi đã xử lý vấn đề này trong tài liệu của mình “Chính sách ngăn chặn của Mỹ và cuộc xung đột ở Đông Dương” (NXB Đại học Stanford, California, 1994), chương 5 và 6. Về bình luận của cá nhân Nixon, xem Jacques de Folin, “Đông Dương 1940-1954: Sự kết thúc của một giấc mơ” (Paris: NXB Perrin, 1993), trang 254, trích dẫn điện tín 2414 từ Đại sứ quán Pháp ở Washington, ngày 8-4-1954, Bộ ngoại giao Pháp.
    [34] Philippe Devillers và Jean Lacouture, “Kết thúc cuộc chiến: Đông Dương 1954” (Paris: NXB Seuil, 1960), trang 149; Võ Nguyên Giáp, “Chiến tranh nhân dân”, trang 153; “Tạp chí Trung Hoa”, trang 102-103. Những tù binh Pháp sống sót được thả sau khi ký Hiệp định Geneva vào tháng 7-1954.
    [35] Về những đoạn trích ngắn từ Ban bí thư Trung ương Đảng ngày 1-5-1954, xem “Chủ tịch Hồ Chí Minh”, trang 144.
    [36] Theo điện tín của Đại sứ quán Mỹ ở Sài gòn 2312, ngày 10-5-1954, trong RG 59, NXB Đại học Mỹ, tình báo Pháp ước tính rằng chín tiểu đoàn bộ binh Việt Minh - tương đương một sư đoàn - có thể di chuyển từ Điện Biên Phủ đến đồng bằng sông Hồng trong mười ngày. Toàn bộ lực lượng Việt Minh gồm 27 tiểu đoàn có thể kéo về đồng bằng trong thời gian 3 tuần. Ước tính có 16 tiểu đoàn Việt Minh trong vùng này. Những sĩ quan Pháp ít bi quan hơn. Tướng Rene Cogny, một trong số những Tư lệnh quân đội xuất sắc của Navarre tin chắc Việt Minh cân có thời gian để tổ chức lại và không tấn công đồng bằng sông Hồng ít nhất trước tháng 10, ông có thể giữ vùng này một thời gian nếu được tăng viện - xem Sài gòn 2363, ngày 12-5-1954, trong RG 59, NXB Đại học Mỹ. Việt Minh khẳng định sự đánh giá của Rene Cogny, thừa nhận rằng riêng vấn đề hậu cần không cho phép đánh thắng ở khu vực Hà Nội ít nhất trước năm 1955.
    [37] Chen Jian, “Trung Quốc và chiến tranh Đông Dương lần I”, trang 108. Nhiều năm sau này, Mao Trạch Đông thừa nhận với Hồ Chí Minh rằng chiến lược ngoại giao của Trung Quốc tại Geneva có lẽ là khiếm khuyết - xem Odd Arne Westad et al., “77 cuộc thảo luận giữa Trung Hoa và những nhà lãnh đạo nước ngoài trong chiến tranh Đông Dương, 1964-1977” (Washington, D.C.: Dự án Lịch sử chiến tranh lạnh quốc tế, Trung tâm Woodrow Wilson, 1998), trang 134.
    [38] Phân tích chi tiết cuộc họp, xem François Joyaux, “Trung Quốc và giải quyết cuộc xung đột lần I ở Đông Dương: Geneve 1954” (Paris: Sorbonne, 1979), trang 251-54. Trong điện tín từ London, Đại sứ quán Mỹ báo cáo rằng Chu Ân Lai nói với Nehru rằng Trung Quốc tán thành những chính phủ trung lập ở Lào và Campuchia, với điều kiện không để họ biến thành căn cứ cho những hoạt động thù địch chống Trung Quốc. Ông phát biểu thêm rằng Việt Minh sẽ đồng ý ngừng các chiến dịch quân sự quy mô rộng nếu Pháp cũng làm như vậy, và Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẽ phân chia lực lượng vào những khu vực tái biên chế riêng. Xem Đại sứ quán Mỹ ở London gửi Bộ ngoại giao, 32, ngày 2-7-1954, trong RG 59, NXB Đại học Hoa Kỳ.
    [39] Sau cuộc họp, Bộ chính trị Đảng Lao động Việt Nam chỉ thị Phạm Văn Đồng có thái độ mềm mỏng hơn. Xem Qiang Zhai, “Trung Quốc và cuộc chiến tranh Việt Nam, 1950-1975” (Chapel Hill: Đại học North Carolina Press, 2000), trang 60-62. Xem thêm François Joyaux, “Trung Quốc và giải quyết cuộc xung đột lần I ở Đông Dương: Geneve 1954” (Paris: Sorbonne, 1979), trang 262-64; Chen Jian, “Trung Quốc và chiến tranh Đông Dương lần I”, trang 109.
    [40] Việc Phạm Văn Đồng miễn cưỡng thoả hiệp, tầm quan trọng thắng lợi tại Điện Biên Phủ xem trong Qiang Zhai, “Trung Quốc và cuộc chiến tranh Việt Nam, 1950-1975” trang 61-62, và Chen Jian, “Trung Quốc và cuộc chiến tranh Việt Nam, 1950-1975”, trang 159-161, và Chen Jian, “Trung Quốc và chiến tranh Đông Dương lần I”, trang 109, trích dẫn Qu Xing, “Về tài ngoại giao của Chu Ân Lai”, trang 258, và Shi Zhe, “Cùng với những phi thường lịch sử”, trang 557. Xem thêm Zhai Qiang, “Trung Quốc và Hội nghị Geneva”, trang 111, trích dẫn Shi Zhe, “Hồi ức Hội nghị Geneva” trong Ran wu, tháng 1-1989, trang 43.
    [41] Vương Bỉnh Nam, “Hồi ức chín năm đàm phán Trung-Mỹ” (Bắc Kinh: NXB Shijie Zhishi, 1985), trang 13.
    [42] Về Hội nghị toàn thể lân thứ VI trong “Hồ Chí Minh: Tuyển tập” (NXB Ngoại văn, Hà Nội, 1977), trang 181-83. Mai Văn Bộ trong “Chúng tôi học làm ngoại giao với Bác Hồ” (NXB Trẻ, t.p HCM, 1998), trang 80 nhận xét, những yếu tố quốc tế can thiệp vào đã ngăn cản thắng lợi hoàn toàn tại Geneva.

    Xem Tiếp: CHƯƠNG XIV

    Truyện Hồ Chí Minh- Chân Dung Một Cuộc Đời ---~~~cungtacgia~~~--- !!!15272_2.htm!!!ở Đông Dương. Ngược lại, mặc dù các tổ chức được thiết lập tại Lào và Campuchia mang tên Đảng Nhân dân Cách mạng, kế hoạch thiết lập một liên minh chặt chẽ giữa ba nhóm đã được đưa ra ngay sau khi Đại hội II kết thúc. Theo một tài liệu chính thức của Đảng được đưa ra tại Đại hội sau này Pháp lấy được, Việt Nam không hề có ý định chấm dứt sự kiểm soát đối với phong trào cách mạng trên toàn Đông Dương. Tài liệu này tuyên bố “Đảng Việt Nam giữ quyền giám sát hoạt động của các đảng anh em ở Lào và Campuchia”, mặc dù các nguồn tin của Việt Nam sau này xác nhận, quan niệm về một liên bang Đông Dương (lần đầu tiên được đề cập tại Hội nghị Ma Cao năm 1935) đã được công khai từ bỏ tại Đại hội năm 1951, nhưng tài liệu tịch thu được này lại nói ngược lại. Mặc dù có ba đảng riêng biệt, “sau này, nếu điều kiện cho phép, ba đảng cách mạng ở Việt Nam, Lào, Campuchia sẽ có thể thống nhất lại để thành lập một đảng duy nhất: Đảng Liên bang Việt - Miên - Lào”.[7]
    Quyết định duy trì quan hệ chặt chẽ giữa ba nước, đoàn kết thống nhất trong Liên hiệp Pháp chứng tỏ giới lãnh đạo Đảng nhận thấy tầm quan trọng chiến lược của Đông Dương như một khối thống nhất. Trong một cuốn sách học của Đảng mà người Pháp thu được năm 1950, ba nước được miêu tả như một khối thống nhất từ quan điểm đến địa lý, kinh tế, chính trị và chiến lược. Tài liệu này nói rằng các phong trào cách mạng ở ba nước được định hướng giúp đỡ lẫn nhau trong mọi lĩnh vực để tiến hành cuộc đấu tranh chống đế quốc xâm lược và xây dựng “nền dân chủ mới” trong tương lai.[8]
    Dấu ấn của Hồ Chí Minh có thể được tìm thấy trong nhiều tài liệu được Đại hội thông qua. Các cộng sự của ông đã chiếu theo ý kiến kiên quyết của Hồ Chí Minh cần phải đặt mục tiêu phản đế lên trên phản phong ở Đông Dương và công nhận cần phải hiệu triệu những phần tử ôn hoà trong xã hội Việt Nam. Nhấn mạnh đến tầm quan trọng của cuộc cách mạng hai giai đoạn (dù có ngắn đến đâu) và sự cần thiết phải áp dụng ý thức hệ cách mạng vào điều kiện cụ thể ở mỗi nước, các đảng viên đã hưởng ứng khuynh hướng thực dụng, điều luôn là ý tưởng của ông từ những ngày đầu tiên của phong trào.
    Tuy nhiên, khó tránh khỏi kết luận Bắc Kinh cũng có ảnh hưởng chính đằng sau những quyết định tại Đại hội II. Bằng việc quyết định lập lại Đảng cộng sản như một “lực lượng đưa đường chỉ lối” hiện hữu thúc đẩy cách mạng Việt Nam, người Việt Nam đã đáp lại chỉ trích từ Trung Quốc và Liên Xô cuộc đấu tranh của họ từ trước đến giờ vẫn thiếu màu sắc Marxist cần thiết. Việc sử dụng thuật ngữ “nền dân chủ mới”, một sự bắt chước trực tiếp từ một mô hình mới được chính người Trung Quốc áp dụng, trong khi nhấn mạnh đến “sự lớn mạnh” của cách mạng từ giai đoạn một sang giai đoạn hai, họ nhấn mạnh đến những quan ngại từ phía Moscow và Bắc Kinh rằng Đảng cộng sản Đông Dương vẫn chưa chính thống trong các hoạt động của mình.
    Phản ứng của Hồ Chí Minh trước các quyết định tại Đại hội có lẽ lẫn lộn. Là một người có đầu óc thực tế, ông hiểu tầm quan trọng của việc xoa dịu Bắc Kinh để khuyến khích sự ủng hộ của Trung Quốc cho cách mạng Việt Nam và ít người sánh được với ông về khả năng quỵ luỵ trước Mao Chủ tịch và các cộng sự hãnh tiến của Mao. Nhưng chắc ông cũng lo lắng về hiểm hoạ của những ảnh hưởng thái quá của Trung Quốc và nhận thức được nhiều yếu tố trong mô hình Trung Quốc - cụ thể nâng cao vai trò của Đảng, sự nhấn mạnh ngày càng nhiều tới cải huấn tư tưởng, trừng phạt nặng nề giành cho những ai bị tình nghi là phản động - có thể sẽ không thành công trên mảnh đất nhiệt đới của xứ Đông Dương thuộc Pháp này. Những bản năng bao quát của ông chắc chắn đã phản kháng khi biết nhiều người yêu nước Việt Nam sẽ bị đẩy ra khỏi hàng ngũ của Mặt trận Việt Minh và rơi vào tay kẻ thù.
    Những lo lắng của ông Hồ không qua được mắt những quan sát viên thời đó và có nhiều lời đồn, mặc dù Hồ Chí Minh được khẳng định là Chủ tịch Đảng, cuộc họp đã đánh dấu một thất bại lớn của ông Hồ và ảnh hưởng của ông trong phong trào cách mạng Việt Nam. Theo các nguồn tin tình báo Pháp, một trong những kết quả của Đại hội thay thế ảnh hưởng của những người ôn hoà như Hồ Chí Minh bằng những thành phần hiếu chiến đứng đầu là Trường Chinh - người vừa được bầu lại vào vị trí Tổng Bí thư Đảng. Một nguồn tin báo chí tại Sài Gòn thậm chí đưa tin, ông Hồ đã bị tử hình theo lệnh của Võ Nguyên Giáp. Các nguồn thạo tin tại Hà Nội thừa nhận, Đại hội thể hiện thất bại của Hồ Chí Minh và thắng thế của những người như Trường Chinh - những người quyết tâm đi theo lời khuyên của Trung Quốc, áp dụng đường lối cứng rắn hơn đối với cách mạng Việt Nam. Một Uỷ ban Trung ương mới gồm 29 uỷ viên đã được bầu ra (thành phần chủ yếu những nhà cách mạng lão thành đã hoạt động tích cực trong Đảng từ trước Thế chiến II). Uỷ ban Trung ương lại bầu ra một Ban Chấp hành nữa (theo mô hình của Liên Xô, Bộ Chính Trị), gồm bảy đảng viên hàng đầu của Đảng và một uỷ viên dự khuyết. Bộ Chính trị sẽ điều khiển công việc của Đảng và chính phủ. Các thành viên chính của tổ chức này được mọi người coi là “tứ trụ” là Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp và Hồ Chí Minh. Tóm tắt tiểu sử đăng trên báo Nhân Dân của Đảng tháng 3-1951 mô tả Trường Chinh như kiến trúc sư, người lãnh đạo cách mạng Việt Nam trong khi Hồ Chí Minh là linh hồn của cuộc cách mạng.[9]
    Sau khi Giáp thất bại trong cuộc tấn công ở đồng bằng sông Hồng, cuộc xung đột dần lắng xuống, trở thành cuộc chiến cân bằng. Năm 1951, hầu hết các cố gắng của Việt Minh tập trung vào phía Bắc. Sau thất bại của cuộc tiến công của Nguyễn Bình mùa Hè năm 1950, các nhà chiến lược Việt Minh tạm gác cuộc đấu tranh ở Nam Bộ. Ông Bình tổ chức những cuộc tuần hành lớn ở Sài Gòn (còn gọi là “những ngày đỏ”) chống lại chiến tranh, những khó khăn kinh tế, xã hội do chiến tranh gây ra. Ông coi đó là một phần chiến lược của mình. Nhân dân, đặc biệt là công nhân và sinh viên, phải chịu cảnh lạm phát và quân dịch, đã tham gia vào các cuộc tuần hành nhưng nhiều người trung dung cảm thấy đường đột vì các cuộc tuần hành này có khả năng dẫn đến bạo lực và không ủng hộ phong trào. Nguyễn Văn Tâm, thủ tướng mới của Bảo Đại, trước là Tổng trưởng cảnh sát được mọi người gọi là “hùm xám Cai Lậy”; vì đã áp đặt mạnh mẽ những hoạt động nổi dậy ở miền Nam, phá vỡ bộ máy của Việt Minh tại Sài Gòn, đến tháng Tám, bộ máy Việt Minh hầu như đã chấm dứt hoạt động. Để chỉ đạo hoạt động cách mạng ở miền Nam, Đảng Lao động Việt Nam thành lập Trung ương Cục (tiếng Anh là COSVN), trực tiếp dưới sự kiểm soát của Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
    Chiến trường Nam Bộ hầu như không hoạt động, Giáp và cộng sự của ông chuyển cố gắng của mình sang Lào và Campuchia cũng như vùng núi Tây Bắc Bắc Bộ. Mục tiêu của Giáp giữ chặt lực lượng quân sự của Pháp, buộc Pháp phải dàn trải quân khắp Đông Dương. Điều này tạo điều kiện cho Việt Minh có thể chọn được điểm yếu của quân Pháp. Việt Minh có thể tấn công công khai lực lượng quân địch, rồi có thể giáng cho lực lượng này thất bại nhuc nhã.
    Tỉnh Hoà Bình là một thời cơ như vậy. Quân Pháp cho tỉnh lỵ Hoà Bình nằm ở ngoại vi đồng bằng sông Hồng, ngã ba trọng yếu nối tổng hành dinh của Việt Minh ở Việt Bắc với miền Trung và miền Nam, nguồn cung cấp tân binh và lương thực chính. Hồ Chí Minh đã nói với cộng sự: “Ruộng đất là chiến trường”. Các đơn vị Pháp chiếm thị xã tháng 11-1951, với sự đồng ý của cố vấn Trung Quốc, Việt Minh tấn công mạnh vào các vị trí của Pháp ở khu vực này. Chiến sự dồn dập - như nhà sử học Bernard Fall gọi là “cối xay thịt” - đã diễn ra sau đó. Quân Pháp đã bị buộc phải bỏ vị trí vào tháng 2-1952, rút quân về đồng bằng. Thời gian đó, tướng De Lattre về Pháp, chết vì ung thư vào tháng 1-1952. Đến thời điểm này, cách nhìn lạc quan trong các phần tử thân Pháp ở Đông Dương do tính năng động của ông De Lattre đem lại đã biến mất. Trận Hoà Bình được coi là thất bại lớn của Pháp. Sứ quán Hoa Kỳ ở Sài Gòn báo cáo những người quốc gia chủ nghĩa không cộng sản nản lòng và ngày càng tin rằng đến mùa hè Việt Minh sẽ chiếm Hà Nội.
    Theo lệnh của De Lattre, quân Pháp xây dựng một loạt đồn bốt hòng ngăn chặn Việt Minh xâm nhập đồng bằng, những phòng tuyến De Lattre cũng không hữu hiệu hơn phòng tuyến Maginot của Pháp trong Thế chiến II. Việt Minh bỏ qua các đồn bốt đó hoặc tấn công, đánh chiếm từng đồn một. Đến cuối năm 1952, các đơn vị Việt Minh đã có thể tự do di chuyển trong vùng quanh Hà Nội, tổ chức cách mạng đã được thành lập trong nửa số làng ở vùng đồng bằng. Chiến thắng Hoà Bình mở ra triển vọng lớn.
    Mùa Thu năm ấy, các nhà chiến lược Việt Minh mở mặt trận mới ở vùng Tây Bắc xa xôi. Quân Pháp đã chiếm giữ vùng rộng lớn núi cao và thung lũng nhỏ hiểm trở từ khi cuộc chiến bắt đầu. Vào mùa xuân năm 1952, theo gợi ý của các cố vấn Trung Quốc, các nhà chiến lược Việt Minh bắt đầu soạn thảo kế hoạch tấn công vào đồn bốt quân Pháp ở vùng này chuẩn bị cho một chiến dịch ở Trung và Bắc Lào. Làm như vậy, Việt Minh đã đánh lạc hướng lực lượng địch chú ý tới vùng đồng bằng, càng làm cho quân địch dễ bị tấn công hơn. Tháng 9-1952, Hồ Chí Minh bí mật đi Bắc Kinh tham khảo ý kiến về chiến dịch. Ông còn đi tiếp đến Liên Xô, tham dự Hội nghị lần thứ XIX Đảng cộng sản Liên Xô. Vào cuối tháng 9-1952, kế hoạch tấn công căn cứ của Pháp tại Nghĩa Lộ được thông qua. Ông Hồ về Việt Nam tháng 12-1952.
    Từ khi kết thúc Thế chiến II, lãnh đạo Đảng cộng sản Đông Dương ít có liên lạc với Đảng cộng sản Trung Quốc. Mùa xuân năm 1947, một đường liên lạc vô tuyến được thành lập nối với trụ sở Đảng cộng sản Trung Quốc ở Diên An, Chu Ân Lai và Hồ Chí Minh trao đổi tin tức giữa hai đảng và tìm cách giúp đỡ lẫn nhau. Mối liên lạc cũng diễn ra giữa những đơn vị Việt Minh và những phần tử Đảng cộng sản Trung Quốc rải rác hoạt động ở các tỉnh sát biên giới, đôi khi cả hai bên phối hợp chung chống lại Pháp. Theo nguồn tin từ phía Pháp, một lúc nào đó năm 1946 những người cộng sản dọc biên giới đã thành lập những đơn vị hỗn hợp Trung-Việt gọi là Trung đoàn Độc Lập tiến hành chiến tranh du kích chống Pháp tại vùng này. Nhóm này hoạt động chủ yếu ở vùng dân tộc thiểu số Nùng và Thổ ở cả hai bên biên giới. Tuy nhiên, lúc đầu, lãnh đạo Việt Minh chủ trương giữ mối quan hệ hạn chế để tránh gây phức tạp trong mối quan hệ của họ với những phần tử dân tộc chủ nghĩa địa phương.[18]
    Khi nội chiến Trung Hoa bắt đầu 1948, Quân đội giải phóng nhân dân Trung Quốc hoạt động mạnh hơn dọc biên giới và tăng cường hợp tác với những đơn vị Việt Minh. Việc cộng sản Trung Quốc tràn xuống nam Trung Hoa khiến Pháp bối rối, tháng 3, tướng Salan, thay thế tướng Valluy làm tư lệnh Quân đội viễn chinh Pháp, đề nghị hành động mạnh mẽ khôi phục kiểm soát của Pháp ở vùng biên giới trước thắng lợi của lực lượng Cộng sản Trung Hoa.
    Để thực hiện những chiến dịch mới đánh vào Việt Bắc, Salan đòi tăng quân. Salan đã không tiếc lời chỉ trích chính phủ thờ ơ. Ngay lập tức tháng 4-1948, lấy cớ Salan còn trẻ và thiếu kinh nghiệm quân sự, Paris đã cử tướng Blaizot sang thay. Khi tới Đông Dương, Blaizot đề xuất rút lui chiến thuật khỏi biên giới, củng cố quân Pháp ở châu thổ sông Hồng nhằm chuẩn bị cho một tấn công lớn vào Việt Bắc. Cao uỷ Léon Pignon (Bollaert cũng bị thay) đồng ý, nhưng không mấy tin vào kế hoạch tấn công quân sự của Blaizot.
    Để hoà giải mâu thuẫn, Paris cử tướng Revers đi thị sát vào tháng 5-1949. Revers đả kích chiến lược hiện thời cả về mặt chính trị lẫn quân sự, không tin tưởng gì chính phủ tham nhũng của Bảo Đại, đề nghị đặt chức Cao uỷ nắm cả quân sự lẫn chính trị. Nhưng ông cũng khá bi quan về giải pháp quân sự, cho rằng cách tốt nhất để cải thiện tình hình là thương lượng. Revers gợi ý quân Pháp củng cố vùng Bắc Bộ cho đến khi thuyết phục được Hoa Kỳ đưa quân tham chiến trực tiếp. Về chính sách, biên giới cần phải được giữ, nhưng quân Pháp không đủ sức giữ nổi toàn bộ. Tạm thời, Revers khuyên nên phòng thủ biên giới đoạn từ Móng Cái đến Thất Khê. Các chỗ biên giới còn lại thì rút hết.
    Do quân Pháp suy yếu và những đơn vị Giải phóng quân Trung Quốc đầu tiên tiến sát biên giới, viễn cảnh Việt Nam bắt đầu cải thiện. Đầu năm 1949, du kích Việt Minh tấn công dọc vùng biên giới. Tình báo Pháp báo cáo những cuộc hành quân này đều có sự phối hợp với quân đội Trung Quốc phía bắc biên giới. Bản báo cáo khẳng định, cuối tháng 3, những đơn vị Giải phóng quân Trung Quốc chiếm thị trấn Móng Cái, sau đó rút lui về bên kia biên giới. Có tin vào tháng 4, Võ Nguyên Giáp đã ký một thoả thuận tạm thời với đại diện cộng sản Trung Quốc tại Tĩnh Tây kêu gọi cộng tác và liên kết quân đội hai nước ở vùng biên giới. Theo nguồn tin ngoại giao Hoa Kỳ, cũng tháng đó đài phát thanh Việt Minh tuyên bố, những đơn vị Giải phóng quân Trung Quốc đã tới vùng biên giới và đang có sự “giúp đỡ quan trọng” cho Việt Minh.[19]
    Mùa xuân năm 1949, quân đội Cộng sản Trung Quốc vượt sông Dương Tử tiếm vào nam Trung Hoa, chuẩn bị thành lập một chính quyền mới ở Bắc Kinh. Tưởng Giới Thạch chuẩn bị sơ tán chính phủ ông sang đảo Đài Loan. Lãnh đạo Việt Minh hy vọng một nước Trung Quốc anh em ở biên giới bắc Đông Dương sẽ tạo ra sự lạc quan về một cuộc tấn công chờ từ lâu nằm trong tầm tay. Tình báo Pháp báo cáo, có một cuộc họp lớn của giới lãnh đạo Việt Minh, có Hồ Chí Minh tham dự, tổ chức vào tháng 4 gần Vinh để đánh giá tình hình; Hồ tuyên bố, mặc dù Pháp tăng quân có tạo ra vấn đề, nhưng có thể tổng tấn công với sự giúp đỡ của Trung Quốc. Để chuẩn bị cho tình huống này, cuộc họp quyết định chuẩn bị mở một chiến tuyến dọc biên giới, tạo thuận lợi tiếp xúc với Giải phóng quân Trung Quốc.[20]
    Tất cả điều này, tất nhiên, là tin tức tốt cho Việt Minh. Nhưng Hồ Chí Minh rõ ràng ý thức được bất kỳ một dự dính líu của Việt Minh với cộng sản Trung Hoa có thể đầu độc mối quan hệ những người Việt Nam ôn hoà và tạo cớ để Hoa Kỳ nhúng tay vào cuộc chiến với Pháp. Tránh bị ngờ vực đó, ông thường xuyên phủ nhận chính phủ ông có liên hệ với chính quyền mới ở Trung Hoa. Tháng 3-1949, ông phủ nhận đã có một thoả thuận với Trung Quốc chỉ là “tin đồn của bọn thực dân”. Tháng sau, ông nói với một nhà báo Mỹ trong một cuộc phỏng vấn ở Việt Bắc, độc lập sẽ đến qua những nỗ lực của bản thân Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và gạ bỏ lời cáo buộc “cộng sản thống trị Việt Minh” coi đó là “trò tuyên truyền của Pháp”. Tháng 8-1949, ông thú nhận có một số tươmg đồng giữa “nền dân chủ mới” của Mao Trạch Đông và những chính sách của chính phủ ông, nhưng “Nền dân chủ mới Trung Quốc là của Trung Quốc, của chúng tôi là Việt Nam”.[21]
    Việc Pháp công nhận Quốc gia Liên hiệp của Bảo Đại là chính phủ hợp pháp duy nhất ở Việt Nam cũng gây thêm thách thức mới. Bởi vì việc này có thể làm Hoa Kỳ hết nghi ngờ những ý định của Pháp, đẩy Hoa Kỳ trực tiếp nhảy vào cuộc chiến tranh Pháp-Việt. Tháng 6-1949, trong một nỗ lực gây ảnh hưởng đến những sự kiện ở Paris, trả lời phỏng vấn của một nhà báo Indonesia, Hồ nói, Việt Minh muốn thương lượng vình công khai tương tự như các buổi “ôn nghèo kể khổ” ở Trung Quốc đã được tổ chức trong các làng xã giải phóng, khuyến khích người nghèo chỉ trích thái độ độc tài của các phần tử giàu có trong cộng đồng. Có những tin cho rằng trong một số trường hợp, do cố vấn Trung Quốc hối thúc, các nhà hoạt động Việt Minh đã hành quyết ngay những người bị buộc tội là phạm”tội phản dân”. Như tác giả Dương Vân Mai Elliott mô tả trong cuốn sách đầy hấp dẫn về những điều đã xẩy ra đối với gia đình bà trong cuộc xung đột. Cán bộ cải cách ruộng đất bắt giam những địa chủ bị buộc tội đàn áp dân nghèo. Và rồi:
    “Họ xử địa chủ tại phiên toà mở tại chỗ, được chuẩn bị cẩn thận để những phiên toà này thể hiện ý chí của nhân dân. Khoảng 10 nông dân nghèo từng chịu đau khổ nhất, căm thù địa chủ nhất được chọn và chuẩn bị sẵn từ trước để tố cáo địa chủ trước toà. Khi nông dân lần lượt tố cáo địa chủ ở toà, các nông dân nghèo khác sẽ hô to: “Đả đảo địa chủ” để tăng bầu không khí thù địch. Nếu là án tử hình, địa chủ sẽ bị hành hình ngay tại chỗ. Nếu là án tù, họ sẽ bị chuyển đi nơi khác. Tài sản của địa chủ phạm tội bao gồm đất đai, nhà cửa, trâu bò, công cụ bị trưng dụng và phân phối lại cho những nông dân thiếu thốn nhất”.[14]
    Các nhà lãnh đạo Đảng hy vọng những biện pháp như vậy sẽ làm nông dân nghèo nhất phấn khởi, khuyến khích họ tham gia kháng chiến. Ngày 4-6-1953, đài phát thanh của Việt Minh đã truyền đi một bức thư, theo đài là của một phụ nữ nông dân gửi cho Hồ Chí Minh:
    “Trong thời gian bị Pháp đô hộ, tôi và con tôi không có cơm ăn và cũng chẳng có áo mặc. Con của tôi phải đi ở đợ, tôi phải mót khoai, đào củ mài để sống qua ngày… Cuối năm 1952, nông dân bắt đầu đấu tranh chống địa chủ bất lương, tàn ác… Nhờ có Chủ tịch, chúng tôi mới có cuộc sống dễ chịu. Chúng tôi không bao giờ quên ơn này”.[15]
    Với các phần tử quá khích thì những biện pháp này chưa đủ vì số nông dân không có ruộng đất ở vùng giải phóng dù đã giảm nhưng vẫn ở mức 15% dân số. Tại Hội nghị nông nghiệp toàn quốc tháng 11, Trường Chinh đề xuất phải có chính sách cứng rắn hơn, đệ trình dự án luật cải cách ruộng đất mới cho phép tịch thu ruộng đất và tài sản của toàn bộ giai cấp địa chủ.
    Thái độ của Hồ Chí Minh với dự án luật này chưa bao giờ rõ ràng, mặc dù rất có thể ông đã có lý do chống lại chương trình cải cách ruộng đất tiến hành quá chặt chẽ đến mức phân hoá các phần tử trung dung. Tuy nhiên, nhu cầu về nhân lực của cách mạng cuối cùng đã thắng thế. Trong một diễn văn đọc trước Quốc Hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà vài tuần sau Hội nghị nông nghiệp toàn quốc, ông Hồ công nhận, các chính sách trước đó của chính phủ chú ý quá nhiều đến quan điểm của giai cấp địa chủ mà không chú ý đầy đủ đến mối quan tâm của nông dân. Tháng sau, luật cải cách ruộng đất mới quy định thực hiện việc giảm tô và trưng thu đất đai của toàn bộ giai cấp địa chủ. Địa chủ được xếp hạng tiến bộ về mặt chính trị sẽ được đền bù bằng công trái nhà nước, nhưng vẫn phải từ bỏ toàn bộ ruộng đất của mình ngoài phần cần thiết để sống. Địa chủ bị buộc tội cường hào ác bá sẽ bị trừng trị. Mục tiêu của luật mới này không những chỉ nhằm giành được sự ủng hộ của nông dân mà còn phá bỏ quyền lực của giai cấp địa chủ ở nông thôn. Tuy chương trình cải cách ruộng đất quy định tiến hành cải huấn cho địa chủ không bị buộc tội là phản dân, trên thực tế những quy định này không được các cán bộ đầy tham vọng cấp xã chú ý đến. Lần đầu tiên kể từ cuộc nổi dậy Nghệ Tĩnh năm 1930-1931, Đảng đã quyết định mở cuộc đấu tranh giai cấp ở nông thôn.[16]
    Tháng 1-1953, Dwight D. Eisenhower bước vào Nhà Trắng, trở thành tổng thống thứ ba mươi tư của Hoa Kỳ. Trong khi tranh cử, ông đưa ra cương Lĩnh “đẩy lùi cộng sản”, lãnh đạo Đảng Cộng hoà chỉ trích việc mất Trung Hoa và tình thế tiến thoái lưỡng nam ở Triều Tiên, coi đó là di sản của tổng thống Đảng Dân Chủ trước đó. Trong diễn văn Liên bang đầu tháng Hai, Eisenhower hầu như chẳng đề cập đến Đông Dương, chỉ nói cuộc chiến tranh Triều Tiên là “một phần của cuộc tấn công có tính toán trước của kẻ địch ở Đông Dương và Mã Lai. Một phần của tình hình chiến lược rõ ràng bao gồm Đài Loan và lực lượng Quốc dân Đảng đang chiếm giữ tại đó”.[17]
     Trong khi hội đàm với thủ tướng Pháp René Mayer tại Nhà Trắng cuối tháng 3-1953, tân tổng thống Mỹ cho biết, ông sẵn sàng tăng viện trợ cho quân Pháp với điều kiện, nếu quân Pháp chứng tỏ ý chí giải quyết vấn đề mạnh bạo hơn trong công cuộc tìm kiếm thắng lợi cuối cùng ở Đông Dương.
    Tuy nhiên, Pháp từ lâu đã từ bỏ ý định này. Ngay từ đầu tháng 12-1949, tướng Carpentier đã cảnh báo tổng thống Vincent Auriol, nhiều nhất Pháp cũng chỉ có thể đạt được một giải pháp chính trị. Việc quân Pháp rút khỏi vùng biên giới một năm sau đó thể hiện sự chấp nhận ngầm quan điểm bi quan của Carpentier. Việc cử tướng De Lattre de Tassigny chỉ huy quân Pháp ở Đông Dương cuối năm 1950 đã làm cho mọi người tin quân Pháp có thể thắng cộng sản, việc tướng Tassigny về nước, cử tướng Salan thay thế một năm sau đã làm cho các tướng lĩnh, các nhà chính trị Pháp chỉ còn thấy giải pháp chính trị mà thôi.
    Để nhận viện trợ của Hoa Kỳ nhằm cải thiện vị thế của mình trước khi có giải pháp thương lượng, quân Pháp cần phải chứng minh họ đã có cách giải quyết vấn đề mạnh hơn. Trách nhiệm thuyết phục Nhà trắng tăng viện trợ quân sự của Mỹ nay thuộc về chỉ huy mới của Pháp là tướng Henri Navarre. Là tổng tham mưu trưởng lực lượng NATO của Pháp tại châu Âu, Navarre hoàn toàn không phải là người Washington ưa để thay Salan vì ông có tiếng là thận trọng, thậm chí không quyết đoán. Sau khi được cử làm chỉ huy lực lượng viễn chinh Pháp, Navarre đã cố giảm bớt mối nghi ngờ bằng cách đưa ra một chiến lược đầy tham vọng “Kế hoạch Navarre”, giành thế chủ động trong chiến trận Đông Dương.
    Việc Mayer tỏ ra có vẻ có lập trường cứng rắn đối với Đông Dương lại có kết quả rất hạn chế ở Washington và Washington vẫn nghi ngờ ý định của Pháp. Đầu tháng 8-1953, một bài báo của tạp chí Đời Sống chỉ trích mạnh mẽ những nỗ lực của Pháp ở Đông Dương, khẳng định, Pháp“đã thua”. Tuy vậy, chính quyền mới ở Washington không có mấy lựa chọn nữa. Tham mưu trưởng Liên quân đồng ý với Kế hoạch Navarre. Tháng 9-1953, chính quyền Eisenhower ký hiệp ước mới tăng viện trợ của Hoa Kỳ cho lực lượng viễn chinh Pháp. Tuy vậy, Paris đánh giá tình hình không khả quan. René Pleven, Bộ trưởng Quốc Phòng Pháp, cảnh báo, kế hoạch Navarre không thực tế và tháng 7-1953 sứ quán Hoa Kỳ tại Paris cho biết chính phủ Pháp không chấp nhận đề nghị của tướng Navarre chuyển từ châu Âu sang thêm 12 tiểu đoàn. Sự ủng hộ của dân chúng đối với cuộc chiến tranh giảm sút nhanh chóng khi tin tức về hiệp định viện trợ được thông báo tại Paris ngày 29-9-1953, những người chỉ trích cuộc chiến tranh lại nói, máu của người Pháp đang được đổi lấy đô-la Mỹ.[18]
    Kế hoạch Navarre dự kiến sẽ phát huy tác dụng vào mùa Xuân và mùa Hè năm 1954. Trong thời gian này, quân Pháp sẽ thực hiện chính sách phòng ngự, đồng thời củng cố các vị trí ở đồng bằng sông Hồng và các khu vực trọng yếu khác ở Việt Nam. Một trong những khu vực trọng yếu này là ở vùng Tây Bắc xa xăm, khu vực bị các đơn vị Việt Minh chiếm giữ từ mùa Thu năm 1952 làm bàn đạp tấn công Lào. Tháng 11-1953 theo lệnh của Paris phải bảo vệ thủ đô Luang Prabang của Lào khỏi sự đe doạ của địch, Navarre quyết định chiếm giữ cứ điểm Điện Biên, một huyện lỵ nhỏ trong thung lũng vùng núi xa xăm gần biên giới với Lào, coi đó là cách làm gián đoạn liên kết giữa Trung và Bắc Lào của Việt Minh. Huyện lỵ này trước đây đã bị Việt Minh chiếm giữ trong chiến dịch Tây Bắc. Giờ đây, quân Pháp nhảy dù xuống chiếm lại.
    Trong khi tướng Navarre cố thực hiện giai đoạn đầu chiến lược của mình, các nhà chiến lược Việt Minh cũng vạch ra kế hoạch tác chiến cho chiến dịch năm 1953. Tại một cuộc họp Trung ương đầu năm, các nhà hoạch định chính sách của Đảng quyết định tránh đối đầu công khai với lực lượng thù địch trong tương lai gần, đồng thời tìm điểm yếu trong lá chắn của địch, đặc biệt là ở Lào, Campuchia và vùng Tây Bắc. Chiến lược này không thay đổi trong cả năm, ngay cả khi Navarre đã quyết định một cách rõ ràng, phải tập trung lực lượng ở đồng bằng sông Hồng để ngăn chặn mối đe doạ của Việt Minh đối với vùng phụ cận Hà Nội. Võ Nguyên Giáp đề xuất tiến hành chiến dịch lớn ở đồng bằng với mục tiêu cuối cùng đánh chiếm Hà Nội và Hải Phòng, nhưng cố vấn Trung Quốc lại muốn có chiến lược thận trọng hơn tập trung vào vùng núi Tây Bắc. Hồ Chí Minh ủng hộ ý kiến của các cố vấn Trung Quốc và Bộ Chính trị đã chấp thuận ý kiến này vào tháng 9-1953. Kế hoạch này dự kiến sẽ được khẳng định tại một cuộc họp của Quân uỷ Trung ương tháng 11-1953.[19]
    Tin quân Pháp chiếm đóng Điện Biên Phủ đến tổng hành dinh của Việt Minh trong lúc các nhà chỉ huy quân sự đang chuẩn bị trình Quân uỷ Trung ương kế hoạch tấn công Pháp ở Lai Châu, vị trí quân sự biệt lập cách Điện Biên Phủ 80 cây số về phía bắc. Theo các nhà lãnh đạo Việt Minh, nếu Việt Minh chiếm lại căn cứ này thì sẽ tác động tới tinh thần quân Pháp và chuẩn bị cho những bước tiếp theo trong những năm tới. Khu vực này cũng có những lợi thế chiến lược. Cách Hà Nội hơn 400 cây số, quân Pháp sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc hậu cần và tăng viện cho Điện Biên Phủ.
    Mặt khác, đánh Điện Biên Phủ sẽ là lần đầu tiên Việt Minh chủ động tấn công trực diện một căn cứ được lực lượng Pháp bảo vệ vững chắc. Tuy vậy, Điện Biên Phủ nằm ở thung lũng, gần biên giới với Trung Quốc và tổng hành dinh Việt Minh ở Việt Bắc cho phép Việt Minh dễ dàng chuyển khối lượng lớn vật dụng từ Trung Quốc. Sau khi tính toán kỹ lưỡng các khả năng, được cố vấn Trung Quốc và cấp trên ở Bắc Kinh khuyến khích, ngày 6-12-1953, lãnh đạo Đảng quyết định tập trung nỗ lực trong chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954. Trong năm đó, lãnh đạo Đảng bắt đầu bí mật chuyển ba sư đoàn chủ lực mới được thành lập ở vùng núi quanh Điện Biên Phủ trong khi các đơn vị khác tiến vào Bắc Lào để đánh lạc hướng, buộc quân Pháp phải dàn trải lực lượng của mình.[20]
    Tại sao các nhà lãnh đạo Trung Quốc lại đột nhiên quyết định kêu gọi khẩn thiết đồng minh Việt Minh tham gia vào cuộc đụng đầu lớn với quân Pháp? Nghĩ cho cùng quyết định tấn công Điện Biên Phủ sẽ buộc Trung Quốc phải tăng viện trợ cả về chất lẫn số lượng. Điểm mấu chốt dẫn đến thành công sẽ là khả năng pháo cao xạ của Việt Minh có thể làm yếu đi hoặc ngăn được quân Pháp tiếp viện và cung ứng cho khu vực này khi chiến sự leo thang. Mặc dù Bắc Kinh đã viện trợ cho Việt Minh trong cuộc chiến suốt ba năm, thấy được điểm lợi, vừa hoàn thành nghĩa vụ quốc tế của Trung Quốc, bảo vệ biên giới phía nam vừa chống lại sự kiểm soát của đế quốc, trong những tháng đó các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã bắt đầu suy nghĩ. Tháng 7-1953, ngừng bắn đã có hiệu lực ở bán đảo Triều Tiên. Trung Quốc đã trả giá cao cho hành động can thiệp của Quân Giải Phóng Nhân Dân và đã có dấu hiệu chứng tỏ các nhà lãnh đạo Trung Quốc quyết định tìm cách cải thiện quan hệ với phương Tây để giảm bớt nguy cơ xung đột trong tương lai, tạo điều kiện cho chính phủ chuyển những nguồn lực hiếm hoi cho kế hoạch 5 năm tới. Trong môi trường mới, cách nhìn nhận ngày tận thế của Mao Trạch Đông về chiến tranh với đế quốc tất yếu ở châu Á đã mất đi sức mạnh. Trong một cuộc phỏng vấn ngày 24-8-1953, Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Chu Ân Lai tuyên bố “các vấn đề khác” có thể được bàn đến tại Hội nghị;'>
    Lúc này, những quan chức Bắc Kinh nhận được bức thư của Việt Nam, cho biết một đoàn đại biểu những quan chức Việt Nam đã rời Việt Nam đi bộ tới Trung Quốc. Mặc dù Bắc Kinh được thông báo trưởng đoàn là Cục trưởng hậu cần thuộc Bộ tham mưu Trần Đăng Ninh, thực chất Hồ chính là người dẫn đầu đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Để tránh thu hút chú ý của lực lượng an ninh Pháp, mọi người trong đoàn của Hồ phải giữ bí mật; trên thực tế, chỉ hai thành viên trong toán biết được sự có mặt của ông. Sau khi rời căn cứ Việt Minh ở tỉnh Tuyên Quang ngày 20 tháng 12, toán đi bộ vượt biên giới. Hồ mặc bộ quần áo kiểu Tôn Dật Tiên bằng ka-ki quen thuộc, mang bí danh Ding. Ngày 16 tháng 1 năm 1950, đoàn đến Tĩnh Tây. Được một Giải phóng quân Trung Quốc hộ tống, họ tiếp tục tới Nam Ninh, tại đây đoàn gặp quan chức Trung Quốc và được thông báo, Cộng hoà nhân dân Trung Hoa vừa quyết định công nhận về mặt ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Tuyên bố này của Trung Quốc vào ngày 18 tháng 1, bốn ngày sau khi nguồn Việt Minh ở Bangkok tuyên bố Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là chính phủ hợp pháp duy nhất ở Việt Nam. Sau khi nghỉ ngơi, Hồ và các đồng chí của ông lên tầu hoả đến thành phố cảng Vũ Hán trên sông Dương Tử.[27]
    Vài ngày sau, đoàn đại biểu tới Bắc Kinh, tại đây Hồ gặp đồng chí cũ Hoàng Văn Hoan, người từ châu Âu tới quá muộn nên không dự Hội nghị Công đoàn thế giới tháng 11. Trung Quốc cố gắng giữ kín chuyến đi của phái đoàn Việt Nam, nhưng tình báo phương Tây vẫn biết. Tin này nhanh chóng xuất hiện trên trong giới thạo tin phương Tây. Lưu Thiếu Kỳ cử tướng Chu Đức đứng đầu phái đoàn hội đàm với Hồ Chí Minh, trong đó vấn đề quân sự chắc chắn sẽ đem ra bàn. Chu Đức là cánh tay phải của Mao, bây giờ phó chủ tịch nước kiêm Tư lệnh Giải phóng quân Trung Quốc. đồng thời Lưu Thiếu Kỳ thông báo cho Mao Trạch Đông ở Moscow về chuyến đi của Hồ. Mao điện trả lời, đề nghị Lưu Thiếu Kỳ chuyển lời chào nồng nhiệt của ông tới Hồ Chí Minh và chúc mừng Việt Nam Dân chủ Cộng hoà vào phe xã hội chủ nghĩa.
    Tại Bắc Kinh, Hồ sống ở Trung Nam Hải, trong khu biệt thự xa hoa trong phía Tây của Hoàng cung nơi Mao Trạch Đông sống. Một số nhân vật Bộ Chính trị Đảng cộng sản Trung Quốc cũng sống ở Trung Nam Hải. Lưu Thiếu Kỳ chính thức thông báo cho Hồ Chí Minh biết, Trung Quốc quyết định công nhận về mặt ngoại giao nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nhấn mạnh, giới lãnh đạo Trung Quốc cũng biết sẽ phải trả giá việc này trong quan hệ với Pháp. Tại bữa tiệc chiêu đãi đoàn, Lưu Thiếu Kỳ đề nghị đại sứ Liên Xô Roshin, Hồ Chí Minh muốn tới Moscow với tư cách cá nhân để hội đàm với Stalin và trình bày với Stalin tình hình hiện tại ở Đông Dương. Stalin chấp thuận bằng điện báo, Hồ và Trần Đăng Ninh cùng Chu Ân Lai rời Bắc Kinh lên đường tới Moscow ngày 3 tháng 2. Hoàng Văn Hoan ở lại Bắc Kinh lo chuẩn bị mở Đại sứ quán Việt Nam.[28]
    Sau khi Thế chiên II kết thúc, sự quan tâm của Liên Xô đến vận mệnh cách mạng Việt Nam xuống tới mức thấp nhất. Trong một bài phát biểu nổi tiếng tháng 9-1947, Andrey Zhdanov - nhân vật đứng sau Stalin - tuyên bố Liên Xô ủng hộ cuộc đấu tranh của các dân tộc thuộc địa bị áp bức chống lại bọn thực dân đế quốc, ngụ ý Liên Xô ủng hộ những lực lượng dân tộc chủ nghĩa tư sản chiến đấu giành độc lập ở những nước thuộc địa. Nhưng đầu năm 1948, chính sách Liên Xô thay đổi hẳn, tỏ ra cực đoan hơn, khi những Đảng cộng sản ở châu Á được chỉ thị phải huỷ bỏ liên minh tạm thời với những tổ chức dân tộc chủ nghĩa và tự giành chính quyền. Chính sách đó, có lẽ được truyền đạt tại hội nghị thanh niên thế giới họp ở Calcutta, thật là một thảm hoạ, tại Đông Ấn Độ (thuộc Hà Lan) cuộc nổi dậy của những người cộng sản bị đàn áp, các Đảng cộng sản bị gạt ra khỏi mặt trận thống nhất bởi những kẻ thù dân tộc chủ nghĩa trên toàn Đông Nam Á.
    Việc Moscow chống đối không khoan nhượng với những đảng tư sản dân tộc chủ nghĩa - quan điểm này khiến người ta nhớ lại chính sách đầu thập niên 1930 - đã phản ánh quan điểm của Stalin trước việc Quốc-Cộng mặt trận thống nhất trong thập niên 1920. Theo những người thân cận, Stalin từ lâu đã nghi ngờ quan điểm tư tưởng không chính thống của Hồ Chí Minh và càng nghi ngờ hơn khi Hồ tìm kiếm mối quan hệ với Hoa Kỳ ngay sau chiến tranh Thái Bình Dương. Stalin không hài lòng khi Đảng cộng sản Đông Dương chính thức tự giải tán tháng 11-1945. Hai năm sau, khi Moscow công nhận về mặt ngoại giao nước Cộng hoà Indonesia của Sukarno mà không công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, có lẽ nghi ngờ Việt Minh sẽ chiến thắng trong cuộc chiến chống Pháp.
    Trong những năm đầu xung đột Pháp-Việt, Việt Nam có lẽ không có liên lạc trực tiếp với Liên Xô, mặc dù đoàn đại biểu Đảng cộng sản Pháp tới Đông Dương năm 1949 có thể nhận lệnh Moscow đánh giá tình hình. Dù thế nào đi nữa, cuối tháng 8-1949 Hồ cũng gửi thư cho Stalin, cám ơn Liên Xô ủng hộ Đảng cộng sản Trung Quốc trong nội chiến và giúp đỡ Liên hiệp Công đoàn thế giới.[29]
    Stalin nghi Hồ và viễn cảnh Việt Minh thể hiện rõ ràng khi Hồ tới thăm Moscow. Theo Nikita Khrushchev, Stalin đối xử với Hồ với thái độ khinh miệt công khai trong chuyến thăm. Hai hoặc ba ngày sau khi Hồ tới, phía lãnh đạo Liên Xô họp với Stalin, theo lời Khrushchev, Stalin tỏ thái độ với Hồ một cách “khiêu khích và xúc phạm”. Khi Stalin và Mao Trạch Đông ký Hiệp ước Liên minh ngày 14-2-1950, Hồ Chí Minh tham dự lễ ký và đề nghị Stalin ký một Hiệp ước tương tự với Việt Nam. Stalin chối phắt, vì Hồ Moscow đi thăm bí mật. Khi Hồ đề nghị đưa ông lên trực thăng bay vòng Moscow và sau đó hạ cánh tại sân bay với nghi lễ thích hợp, Stalin đáp: “Ông đúng là người phương Đông! Người phương Đông các ông thật giàu trí tưởng tượng!” Hồ Chí Minh dùng mọi mưu mẹo quen thuộc của mình tranh thủ sự ủng hộ của vị chủ nhà thô lỗ. Cuối cuộc gặp, ông đề nghị Stalin ký vào tạp chí “Liên Xô kiến thiết”. Theo Khrushchev, Stalin phản ứng theo lối đa nghi vốn có, ký vào tạp chí, sau đó nói vệ sĩ riêng, ông lỡ ký và nói họ lấy về. Sau khi vệ sĩ đem lại, Stalin nói đùa với những người bạn: “Ông ta chắc vẫn đang đi tìm cuốn tạp chí, nhưng ông ta làm sao tìm được!”.[30]
    Dù vậy, Stalin cuối cùng cũng phải chấp nhận một số đòi hỏi của Hồ Chí Minh. Ngày 30-1-1950, Moscow chính thức tuyên bố công nhận về mặt ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, chính phủ hợp pháp duy nhất của Việt Nam. Nhưng sự nghi ngờ của Stalin về quan điểm tư tưởng không chính thống của Hồ Chí Minh vẫn không bớt đi. Nguồn tin Việt Nam vẫn còn kể câu chuyện (nhưng chắc chắn) rằng tại một cuộc gặp giữa hai người vào năm 1952, Stalin chỉ hai chiếc ghế và nói: “Đồng chí Hồ, một chiếc là dành cho người dân tộc chủ nghĩa, một cho người quốc tế chủ nghĩa, đồng chí sẽ ngồi ghế nào?”. Hồ đáp, “Thưa đồng chí Stalin, tôi sẽ ngồi cả hai ghế này”.[31]
    Tại sao Stalin quyết định công nhận về mặt ngoại giao nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, bất chấp sự dè chừng Đảng cộng sản Đông Dương và Hồ Chí Minh? Theo phía Trung Quốc, Stalin quan tâm đến cuộc hội đàm Mao Trạch Đông. Mao đến Moscow với mục đích phải ký được một Hiệp ước với Liên Xô đòi trả lại một số vùng đất Liên Xô chiếm của Trung Hoa theo Hội nghị thượng đỉnh Yalta tháng 2-1945. Stalin muốn giữ những vùng đất này vì lý do an ninh, nhưng Stalin sợ Trung Quốc trả đũa có thể làm việc trực tiếp với Hoa Kỳ. Do vậy, điều quan trọng với Stalin là phải bảo đảm chính sách đối ngoại Trung Quốc ở châu Á phải quá khích khiến Hoa Kỳ phải chống đối, do đó cản trở khả năng Bắc Kinh liên minh với Mỹ. Tại cuộc gặp ba bên ở Moscow, Stalin khuyến khích Mao cầm đầu cách mạng châu Á. Stalin hứa với Hồ Chí Minh, Liên Xô sẽ giúp Việt Nam tất cả những gì có thể, nhưng Trung Quốc phải có vai trò nổi bật trong đấu tranh trực tiếp. Stalin nói với Hồ “Chúng tôi quan tâm tới Việt Nam giống như chúng tôi quan tâm tới Trung Quốc, từ nay, ông có thể tin vào sự giúp đỡ của chúng tôi, đặc biệt trong kháng chiến, chúng tôi đủ vật tư hậu cần, và chúng tôi sẽ chở tới Việt Nam qua Trung Quốc. Nhưng do hoàn cảnh địa lý, Trung Quốc sẽ giúp Việt Nam là chính. Cái gì mà Trung Quốc thiếu, chúng tôi sẽ cung cấp”. Mao cam đoan với Hồ Chí Minh, “Bất cứ thứ gì mà Trung Quốc có và Việt Nam cần, chúng tôi sẽ cung cấp”.[32]
    Ngày 17 tháng 2, Hồ theo Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai đi tầu hoả qua Siberia trở về Bắc Kinh. Giống như Hồ Chí Minh, Mao đã có được một phần những gì ông muốn từ Moscow. Hiệp ước Trung-Xô ít nhiều đã loại bớt những yếu tố ô nhục trong Hiệp định Yalta và Moscow hứa viện trợ kinh tế. Những thứ kiếm được cũng khá nhọc nhằn. Sau này Mao kể cho cũng đồng chí của mình,“lấy được cái gì đó từ Stalin chẳng khác gì giằng miếng thịt ra khỏi miệng hổ”.
    Tầu hoả về đến Bắc Kinh ngày 3-3-1950. Mao mở tiệc chiêu đãi Hồ Chí Minh tại Trung Nam Hải, có tất cả các quan chức lãnh đạo Trung Quốc tham dự. Trong các cuộc thương lượng chính thức, Cộng hoà nhân dân Trung Hoa đồng ý đảm bảo an ninh tại biên giới, cho phép Việt Nam lập lãnh sự quán tại thành phố Nam Ninh và Côn Minh ở Hoa Nam. Đổi lại, Hồ bổ nhiệm Hoàng Văn Hoan làm đại sứ Việt Nam đầu tiên tại Trung Hoa, chỉ thị Hoan chuyển trụ sở hải ngoại Đảng cộng sản Đông Dương từ Thái Lan (trụ sở này đóng tại đó từ khi bắt đầu chiến tranh Pháp-Việt), về Trung Quốc. Theo lời một kẻ đào tẩu, Hồ cũng đồng ý cung cấp chỉ dẫn cho những Đảng cộng sản anh em khắp khu vực này, ông quay lại vai trò một nhân viên Quốc tế Cộng sản đầu thập niên 1930. Ngày 11-3, Hồ và những đồng chí của ông rời Bắc Kinh lên đường về nước.
    Hồ Chí Minh chắc chắn hài lòng về kết quả chuyến đi. Ông đã giành được công nhận về mặt ngoại giao của hai nước xã hội chủ nghĩa lớn, lời hứa và viện trợ kinh tế, quân sự - tuy hạn chế - từ hai nước đàn anh. Việt Minh không còn chiến đấu đơn độc. Trong khi đó, Trung Quốc cũng kiếm lợi từ mối quan hệ mới được thiết lập với Việt Nam. Theo nguồn tin Trung Quốc, Mao Trạch Đông tin chiến tranh với Mỹ không thể tránh được, nó có thể nổ ra tại bất cứ điểm nào dọc biên giới Trung Hoa. Vì lý do đó, Mao cho rằng điều quan trọng với Trung Quốc là phải phòng thủ vững không những ở Triều Tiên, mà còn cả ở Đông Dương nữa.[33]
    Nếu Hồ Chí Minh, bằng nhậy cảm chính xác của mình trước bối cảnh quốc tế thay đổi, lo ngại mối quan hệ gần gũi giữa chính phủ ông và chính quyền mới ở Trung Hoa có thể chọc tức Hoa Kỳ đang đóng vai trò quan trọng cuộc chiến Đông Dương thì nỗi lo này của ông rất chính đáng. Trên thực tế, quyết định của Bắc Kinh giữa tháng 1-1950 công nhận về mặt ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, tiếp đó hai tuần sau, Liên Xô cũng làm như vậy, đã tác động manh đến Washington. Chính quyền Truman cảm thấy lo ngại trước những nỗ lực của Pháp lôi kéo những phần tử không cộng sản ở Việt Nam chống lại Mặt trận Việt Minh. Pháp chọn Bảo Đại đối trọng với Hồ Chí Minh, đại diện hợp pháp của dân tộc Việt Nam, gây nên không ít nghi ngờ trong giới quan chức Mỹ, những người này xem vị cựu hoàng thiếu tính cả quyết và không có được lòng dân để đảm đương trách nhiệm đứng đầu quốc gia độc lập ở Việt Nam.
    Việc ký Hiệp định Hiệp định Elysée tháng 3-1949, do vậy chỉ nhận được phản ứng lãnh đạm ở Washington. Dean Acheson, thay George C. Marshall làm ngoại trưởng đầu năm 1949, điện cho đại sứ Mỹ David Bruce ở Paris rằng theo ông, nếu Pháp không đảm bảo nhiều quyền tự trị thêm cho quốc gia Việt Nam non trẻ, họ sẽ không thành công. Giới báo chí loan tin Nhà Trắng đang chuẩn bị tiếp cận Hồ Chí Minh tham gia chính phủ liên hiệp với Bảo Đại. Những tin đồn khác đánh giá, hai đối thủ Việt Nam đang đi đêm với nhau. Hồ Chí Minh, tất nhiên, tận dụng cơ hội những tin đồn như thế để kẻ thù của ông bớt giận. Trong một cuộc phỏng vấn với nhà báo Mỹ Harold Isaacs, ông tuyên bố không phải cnếu không có sự hỗ trợ hoàn toàn của Trung Quốc. Đây không phải là lần đầu ông Hồ chấp nhận phải nhượng bộ để tiếp tục chiến đấu. Về phần mình, Moscow và Bắc Kinh hầu như chẳng cần sự đồng ý của Hà Nội để bảo vệ lợi ích an ninh quốc gia của mình. Tại một Hội nghị tổ chức đầu năm 1954 ở Berlin, đại biểu các nước lớn thoả thuận, một hội nghị quốc tế khác sẽ được tổ chức tại Geneva tháng 4 để thảo luận các vấn đề liên quan đến hoà bình thế giới. Tuy chính quyền Eisenhower khó chịu, Đông Dương và tình hình ở Triều Tiên đều nằm trong đề mục thảo luận. Tháng 3-1953, một phái đoàn Việt Nam đến Bắc Kinh tham khảo ý kiến các quan chức Trung Quốc và xây dựng một chiến lược chung tại Geneva. Ít lâu sau, một phái đoàn Việt Nam do Hồ Chí Minh dẫn đầu đi Bắc Kinh và Moscow để hoạch định chiến lược đàm phán chung với các nhà lãnh đạo Trung Quốc và Liên Xô. Dựa trên kinh nghiệm đàm phán với Mỹ nhằm chấm dứt xung đột ở Triều Tiên, Trung Quốc và Liên Xô khuyên Việt Nam phải “thực tế” tại Hội nghị Geneva.[27]
    Hai ngày sau khi Hội nghị Geneva được công bố triệu tập, nguồn tin tình báo Pháp cho hay đơn vị Việt Minh ở Thượng Lào đã chuyển quân theo hướng đông về Điện Biên Phủ. Mặc dù hoạt động của Việt Minh còn được tiến hành ở nhiều nơi khác như Bắc Bộ, Tây Nguyên, Lào và hành lang Hà Nội - Hải Phòng vào đầu tháng Ba, tài liệu do Pháp bắt được cho thấy, Việt Minh đang chuẩn bị tấn công lớn ở vùng Tây Bắc. Cuộc tấn công này sẽ phối hợp với cuộc đàm phán sắp tới tại Geneva. Có thêm những dấu hiệu chứng tỏ viện trợ quân sự của Trung Quốc cho Việt Minh đã tăng nhiều, làm tăng thêm khả năng Việt Minh thắng trận.
    Lần này, nguồn tin tình báo của Pháp đã đúng. Bắt đầu từ tháng 12-1953, các đơn vị Việt Minh đã dần tập trung ở vùng núi bao quanh căn cứ của Pháp tại Điện Biên Phủ, trong khi hàng ngàn dân công được huy động để chuyển đạn dược và pháo cao xạ từ biên giới Trung Quốc đến khu vực này. Một người tham gia chiến dịch đã kể lại cho nhà báo Mỹ:
    “Chúng tôi phải vượt núi, băng rừng, ban đêm hành quân còn ban ngày ngủ để tránh bom của kẻ thù. Có lúc chung tôi ngủ hầm, có lúc chúng tôi ngủ ngay cạnh đường. Mỗi chúng tôi đeo súng, đạn và ba - lô. Chúng tôi có chăn, màn và một bộ quần áo. Mỗi người đều có đủ gạo ăn một tuần và được nhận thêm tại các trạm dọc đường. Chúng tôi ăn rau và măng lấy trong rừng, thỉnh thoảng dân làng lại cho chúng tôi thịt. Tôi đã tham gia Việt Minh chín năm rồi nên quen như vậy”.[28]
    Để mang lại điều thuận lợi cần thiết trên chiến trường nhằm đạt được một giải pháp hoà bình tại bàn hội nghị, trong vài tháng liền Trung Quốc tăng viện trợ quân sự. Theo một nguồn tin của Trung Quốc, hơn 200 xe tải, 10.000 thùng dầu, hơn 100 pháo, 60.000 đạn cao xạ, 3.000 súng và khoảng 1.700 tấn gạo đã được chuyển cho quân đội Việt Nam đang bao vây Điện Biên Phủ. Để khuyến khích cố vấn Trung Quốc ở Việt Nam cố đạt được thắng lợi quân sự, Chu Ân Lai gửi thông điệp sau: “Nhằm giành thắng lợi trong lĩnh vực ngoại giao, chúng ta có thể cần phải tính đến việc giành thắng lợi mạnh ở Việt Nam trước khi đình chiến ở Triều Tiên”. Hồ Chí Minh hiểu rõ điều này. Trong một bức thư gửi ông Giáp tháng 12-1953, ông viết: “Chiến dịch này rất quan trọng, không chỉ về mặt quân sự mà còn về mặt chính trị, không chỉ vì lý do trong nước mà còn vì lý do quốc tế nữa. Do vậy, toàn thể nhân dân, toàn thể lực lượng vũ trang và toàn thể Đảng ta phải đoàn kết để thực hiện việc này”.[29]
    Với ông Hồ và các cộng sự, vấn đề không còn liệu có tấn công cứ điểm quân Pháp hay không mà làm thế nào tấn công được. Ông Võ Nguyên Giáp vốn thận trọng ủng hộ kế hoạch làm suy yếu quân địch, sử dụng pháo binh bắn phá sân bay nhỏ ở thung lũng Điện Biên Phủ, cắt đường tiếp tế của quân Pháp. Quân Việt Minh sau đó có thể dần dần vô hiệu hoá hoả lực của quân Pháp, chiếm từng cứ điểm bên ngoài căn cứ. Theo các nguồn tin Việt Nam, tướng Vi Quốc Thanh, cố vấn cao cấp của Trung Quốc, ủng hộ cách giải quyết khác, tiến hành cuộc tấn công thần tốc dựa trên chiến thuật “biển người” đã được các đơn vị giải phóng sử dụng rất có hiệu quả chống lại quân của Liên Hợp Quốc tại Triều Tiên.[30]
    Cuộc tấn công đầu tiên của Việt Minh vào Điện Biên Phủ bắt đầu vào giữa tháng 1-1954. Việt Minh tập trung 33 tiểu đoàn chính quy bao gồm 50.000 quân ở vùng núi quanh cứ điểm. Số quân này đối chọi với kẻ địch gồm 16.000 quân. Ngoài lực lượng chính quy, Việt Minh có hơn 55.000 quân hỗ trợ và khoảng 100.000 dân công. Nhiều dân công là phụ nữ ở các tỉnh miền trung đã phải đi qua khu vực địch chiếm đóng ở đồng bằng sông Hồng để đến được khu tập kết dọc biên giới Trung Quốc. “Đội quân tóc dài” mang vác pháo và phương tiện chiến tranh khác đi hàng trăm dặm đường địa hình khó khăn đến khu vực căn cứ. Mỗi dân công chuyển trung bình 15 cân hàng qua 16 cây số đường rừng mỗi đêm. Tuy hầu hết hàng cung cấp là xăng dầu và đạn dược, nhưng cũng còn có những khẩu pháo lớn của Liên Xô được chuyển từng bộ phận từ biên giới Trung Quốc ở Lạng Sơn, cách hơn 400 cây số.[31]
    Trong giai đoạn đầu, những người tấn công đã theo lời khuyên của Trung Quốc sử dụng chiến thuật “biển người”, nhưng tổn thất nặng nề đến mức cuối tháng 1-1954, Bộ Tư lệnh Việt Nam (theo yêu cầu khẩn thiết của Bắc Kinh) đánh giá lại tình hình và quyết định chuyển sang cách đánh thận trọng hơn. Trong vài tuần sau đó, quân Việt Minh đào mấy trăm cây số giao thông hào tiến vào hệ thống phòng thủ bên ngoài của Pháp mà không bị hoả lực của Pháp khống chế. Đồng thời quân Việt Minh cũng đào một loạt giao thông hào quanh cứ điểm đã bao vây. Pháo được dân công chuyển từ biên giới Trung Quốc từng phần đến, lắp ráp lại tại chỗ, đặt bên trong đường hầm. Pháo có thể cơ động nhanh giữa các địa điểm khác nhau, ngăn không cho quân Pháp từ cứ điểm phát hiện chính xác điểm bắn.[32]
    Lúc đầu, hàng tiếp tế và quân tiếp cận đến bằng đường không, nhưng rồi sân bay bên ngoài căn cứ không thể sử dụng được nữa vì bị pháo bắn phá rất ác liệt. Máy bay hạ cánh để dỡ đồ tiếp tế hầu như bị pháo của Việt Minh từ các vùng núi bao quanh cứ điểm bắn phá. Ít lâu sau, phi công Pháp buộc phải bay vội qua thung lũng, thả dù tiếp tế và tiếp viện. Cuối cùng hoả lực của Việt Minh mạnh đến mức quân tiếp viện nhảy dù xuống thường chết trước khi xuống được đến đất.
    Tình hình càng nguy hiểm, quân Pháp càng khẩn thiết cầu cứu viện trợ của Hoa Kỳ. Vào giữa tháng 3-1954, Paris cử tướng Paul Ely đến Washington yêu cầu Mỹ tiến hành không kích để giảm căng thẳng cho cứ điểm của Pháp và bảo vệ cho cứ điểm này khỏi nguy cơ sụp đổ. Đề nghị này được đô đốc Arthur Radfor, Chủ tịch Tham mưu trưởng liên quân và Phó tổng thống Nixon ủng hộ. Trong một cuộc nói chuyện với đại sứ Pháp Henri Bonnet ngày 28 tháng 4, Nixon tuyên bố “hoàn toàn nhất trí với quan điểm của đô đốc Arthur Radfor và ủng hộ máy bay Mỹ can thiệp ồ ạt để cứu Điện Biên Phủ”. Nhưng tổng thống Eisenhower, do ý nguyện tham gia cuộc chiến trên bộ ở châu Á của ông đã giảm vì kết cục không dứt khoát hành động can thiệp tại bán đảo Triều Tiên, lại chần chừ không muốn đưa quân vào Đông Dương nếu không bảo đảm cuộc chiến đấu sẽ được thực hiện trên cơ sở đa phương, với điều kiện Pháp phải hứa sẽ trao quyền độc lập hoàn toàn cho ba nước Đông Dương. Trong chuyến đi London, Paris, Ngoại trưởng Mỹ Dullet phát hiện, cả Anh lẫn Pháp đều không đồng ý với điều kiện của Mỹ. Eisenhower sau đó đã không chấp nhận yêu cầu của Pháp cung cấp yểm trợ bằng máy bay tuy vẫn thăm dò khả năng Mỹ can thiệp. Eisenhower cũng chần chừ không muốn có một giải pháp thoả đáng trên bàn hội nghị hoà bình.[33]
    Đầu tháng 5-1954, Việt Minh thâm nhập vào tuyến phòng thủ bên ngoài của cứ điểm Điện Biên Phủ, bắt đầu nã pháo vào các cứ điểm bên trong. Theo nguồn tin của Trung Quốc, cuối cùng lòng tin của các nhà hoạch định kế hoạch chiến tranh của Việt Minh bị nao núng vì tổn thất quá lớn và mối đe doạ can thiệp của Hoa Kỳ. Với sự cổ vũ mạnh mẽ của Bắc Kinh, Việt Minh cuối cùng quyết định tấn công toàn bộ cứ điểm giành thắng lợi. Cuộc tấn công diễn ra ngày 6-5-1954. Võ Nguyên Giáp đã miêu tả một cách ngắn gọn: “bộ đội ta tấn công từ mọi phía, chiếm sở chỉ huy của địch và bắt sống toàn bộ Bộ tham mưu”. Quân Pháp thất bại hoàn toàn. Hơn 1.500 quân lính Pháp bị chết, 4.000 bị thương, số còn lại bị bắt làm tù binh hay mất tích. Khoảng 70 quân Pháp trốn thoát trở về phòng tuyến của mình. Tổn thất của Việt Minh lớn hơn nhiều, 25.000 bị thương vong, trong đó có 10.000 chết.[34]
    Ngày 8-5-1954, một ngày sau khi quân Pháp đầu hàng tại Điện Biên Phủ, đàm phán hoà bình để giải quyết cuộc xung đột Đông Dương bắt đầu như đã định tại Geneva. Tham dự hội nghị có đoàn đại biểu của Pháp, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Anh, Liên Xô, Trung Quốc và Mỹ cũng như đại diện chính phủ Bảo Đại, đại diện của chính phủ hoàng gia Campuchia và Lào, bấy giờ gọi là nước liên hiệp. Các nhà lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, thể hiện cảnh báo trước đây của Hồ Chí Minh, thắng lợi sẽ không dễ dàng, đến Hội nghị với thái độ thận trọng. Tuy nhiên họ cảm thấy đây là cơ hội sẽ có những bước tiến quan trọng trong cuộc đấu tranh thống nhất đất nước.[35]
    Tại phiên khai mạc Hội nghị, phái đoàn Pháp nêu điều kiện cho một giải pháp, kêu gọi cả hai bên tập kết quân dưới sự giám sát của Uỷ ban Kiểm soát quốc tế. Ông Phạm Văn Đồng, đứng đầu đoàn đàm phán của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (cũng như tại Hội nghị Fontainebleau năm 1946) chấp nhận đề nghị của Pháp cần có ngừng bắn trước khi có giải pháp về các vấn đề chính trị, nhưng trong tất cả các lĩnh vực khác, điều kiện (do Bộ Chính trị soạn thảo) của ông khác hẳn với đề nghị của Pháp. Ông đòi quốc tế công nhận chủ quyền và độc lập hoàn toàn của ba nước Đông Dương, rút hết quân đội nước ngoài, tổ chức tuyển cử tự do dưới sự giám sát của chính quyền địa phương. Ngoài ra, ông còn yêu cầu đại diện của phong trào cách mạng Lào và Campuchia (Pathet Lào và Khmer Đỏ) được dự Hội nghị với tư cách đại diện của nhân dân hai nước này. Ông Đồng đã đồng ý xem xét khả năng gia nhập Liên hiệp Pháp dựa trên cơ sở tự nguyện, công nhận quyền lợi kinh tế, văn hoá của Pháp tại ba nước Đông Dương.
    Paris không còn khả năng mặc cả được gì. Các nguồn tin tình báo Pháp công khai dự đoán Hà Nội có thể thất thủ nếu Việt Minh tấn công mạnh. Washington cũng có quan điểm bi quan như vậy. Tại một buổi thông báo tình hình của Hội nghị an ninh quốc gia ngày 8-5-1954, giám đốc CIA Allen Dullet dự kiến, với 5.000 chiếc xe tải, quân Việt Minh có thể di chuyển dễ dàng từ Điện Biên Phủ đến đồng bằng Bắc Bộ trong vòng từ hai đến ba tuần. Mặc dù lực lượng vũ trang của Pháp ở đồng bằng là 200.000 quân so với 76.000 quân chủ lực của Việt Minh, hầu hết quân Pháp tinh thần suy sụp và nằm bẹp trong đồn xung quanh toàn là dân cư thù địch hoặc không ủng hộ. Còn quân đội quốc gia Việt Nam do chính phủ Bảo Đại thành lập sau khi ký Hiệp ước Elysée, như tướng Navarre gọi họ là “lũ ô hợp”.[36]
    Tuy nhiên, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà gặp khó khăn nghiêm trọng tại Hội nghị. Mặc dù đại diện Việt Minh đã gặp đại diện của Trung Quốc và Liên Xô trước Hội nghị để soạn thảo chiến lược đàm phán chung, điều rõ ràng cả Moscow và Bắc Kinh đều không muốn ủng hộ Việt Minh tiếp tục cuộc chiến, họ cũng chẳng sẵn sàng đáp ứng hoàn toàn mọi yêu cầu của Việt Minh. Cả hai đều chú ý đến lợi ích an ninh của chính họ tại Geneva và đều mong tránh phải đụng đầu với Hoa Kỳ. Sau khi các cuộc tranh cãi ban đầu lắng đi, rõ ràng cả Ngoại trưởng Liên Xô, ông Vycheslav Molotov lẫn trưởng phái đoàn Trung Quốc tại hội nghị, ông Chu Ân Lai đều mong có thoả hiệp dựa trên việc chia cắt Việt Nam thành hai khu vực tập kết. Một do Việt Minh chiếm giữ, một do chính phủ Bảo Đại và những người ủng hộ chính phủ này chiếm giữ. Hơn nữa, sau thời gian đầu ủng hộ quan điểm của Việt Minh về Campuchia và Lào, Ngoại trưởng Chu Ân Lai nói rõ với Phạm Văn Đồng, Trung Quốc không ủng hộ yêu cầu của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đòi Pathet Lào và Khmer Đỏ tham gia Hội nghị như là đại diện chân chính của nhân dân Lào và Campuchia. Chu Ân Lai còn cảnh báo vấn đề này sẽ gây nguy cơ đối với quá trình đạt đến giải pháp và dẫn đến can thiệp trực tiếp của Mỹ vào cuộc chiến. Ông tin, tốt hơn là chấp nhận trung lập hoá hai quốc gia này với chính phủ hoàng gia hiện hành. Để khuyến khích Việt Nam Dân chủ Cộng hoà chấp nhận, ông Chu Ân Lai đồng ý kiên quyết lập trường phải cho lực lượng Pathet Lào có một khu vực tập kết sau khi xung đột kết thúc. Rõ ràng Phạm Văn Đồng đã phải đồng ý một cách miễn cưỡng.[37]
    Nhiều năm sau các nguồn chính thức của Việt Nam lại cho cách Chu Ân Lai cư xử tại Hội nghị Geneva là do Trung Quốc muốn kéo Lào và Campuchia vào khu vực ảnh hưởng của mình. Mặc dù hầu như không có bằng chứng gì chứng tỏ điều này là đúng, rất có thể Bắc Kinh đã coi hai nước này có tầm quan trọng thiết yếu đối với an ninh của mình ở khu vực, do vậy không muốn có một Liên bang Đông Dương. Tuy nhiên, tại thời điểm đó, lý do chính ngăn không cho đàm phán hoà bình sụp đổ loại bỏ khả năng Mỹ thiết lập căn cứ ở hai nước. Chắc chắn vì những lý do này mà ông Chu Ân Lai đã khẩn thiết kêu gọi ông Đồng chấp nhận thoả hiệp, một quan điểm mà phái đoàn Liên Xô ủng hộ mạnh mẽ.
    Giải quyết xong vấn đề Lào và Campuchia, Hội nghị tạm nghỉ. Trong khi đó đoàn đại biểu Pháp và Việt Nam Dân chủ Cộng hoà bắt đầu chú ý đến chi tiết của giải pháp ở Việt Nam. Trong hội đàm riêng về quân sự với Pháp, đại biểu Việt Minh nói rõ, họ muốn có một khu vực lãnh thổ liền kề nhau làm khu vực tập kết quân và những người theo họ bao gồm đồng bằng sông Hồng, kể cả Hà Nội và Hải Phòng. (Một nhà đàm phán cao cấp của Việt Minh nói: “Chúng tôi phải được Hà Nội, chúng tôi phải có đường thoát”). Quân Pháp không muốn mất Hà Nội, nhưng lại nói một cách gián tiếp, họ muốn được rảnh tay ở phía nam, ít nhất là một khu vực riêng ở phía bắc để chuyển quân và dân ra khỏi vùng đồng bằng sông Hồng.
    Do vậy, cuộc tranh luận tập trung vào đường phân chia hai khu vực tập kết và việc thực hiện những thảo thuận chung. Lúc đầu, ông Phạm Văn Đồng đòi đường phân chia phải ở vĩ tuyến 13 trong khi Pháp muốn đường này ở ngay phía nam đồng bằng sông Hồng ở miền Bắc. Để giám sát Hiệp định, đại biểu của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà muốn trong nước giám sát nhưng Pháp (với sự hỗ trợ của Mỹ) yêu cầu phải thành lập Uỷ ban Giám sát Quốc tế dưới sự bảo trợ của Liên Hợp Quốc.
    Trong khi hai phái đoàn Pháp và Việt Nam tranh cãi về chi tiết, Chu Ân Lai về Bắc Kinh tham khảo ý kiến của Mao Trạch Đông và các nhà lãnh đạo chính phủ khác. Trên đường về, dừng chân tại Ấn Độ, ông yêu cầu Thủ tướng Jawaharlal Nehru ủng hộ lập trường của Trung Quốc tại bàn Hội nghị. Để giảm bớt lo lắng của Nehru về khả năng toàn bộ Đông Dương sẽ sớm rơi vào tay cộng sản (và do vậy sẽ rơi vào sự kiểm soát của Trung Quốc), Chu Ân Lai hứa, toàn bộ quân Việt Minh sẽ rút khỏi Lào, Campuchia và hai nước này sẽ có chính phủ độc lập do họ tự chọn. Về tình hình Việt Nam, ông bảo đảm với các nhà lãnh đạo Ấn Độ, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẽ tôn trọng bất kỳ thoả thuận nào chia cắt Việt Nam thành hai miền, ông tuyên bố thêm, chủ nghĩa xã hội “không phải để xuất khẩu”. Trong một thông báo đưa ra sau một loạt các cuộc gặp gỡ, hai nhà lãnh đạo đã khẳng định ủng hộ khái niệm năm nguyên tắc chung sống hoà bình và coi năm nguyên tắc này là cơ sở thích hợp cho quan hệ quốc tế ở châu Á và thế giới.[38]
    Dừng chân ngắn ở Rangoon, Chu Ân Lai thảo luận với Thủ tướng Miến Điện, ông U Nu. Sau đó ông Chu Ân Lai về Bắc Kinh, đi thẳng đến Liễu Châu, nơi đã từng là đại bản doanh của Trương Phát Khuê ở nam Trung Quốc. Ở Liễu Châu, ông gặp Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp. Cuộc gặp này không được mấy ai chú ý. Một tuyên bố báo chí sau đó của Tân Hoa Xã chỉ nói rằng “Thủ tướng Chu Ân Lai và Chủ tich Hồ Chí Minh đã trao đổi toàn bộ ý kiến về Hội nghị Geneva, vấn đề khôi phục hoà bình ở Đông Dương và các vấn đề có liên quan”. Tuy nhiên, một nguồn tin Trung Quốc gần đây cho biết, ông Chu đã thuyết phục được ông Hồ thấy sự cần thiết phải có một giải pháp thoả hiệp ở Geneva để tránh can thiệp trực tiếp của Mỹ vào cuộc chiến. Hai vị lãnh tụ đã thoả thuận chấp nhận vĩ tuyến 16 làm đường phân giới giữa hai khu tập kết. Hai vị lãnh tụ cũng thoả thuận chấp nhận việc thành lập chính phủ không cộng sản ở Lào và Campuchia, với điều kiện Pathet Lào cũng có một khu vực tập kết nhỏ. Ông Hồ cũng đồng ý đưa ra tuyên bố chung, ba nước Đông Dương sẽ tuân thủ năm nguyên tắc cùng chung sống hoà bình. Để đổi lại, Chu Ân Lai hứa Trung Quốc sẽ tiếp tục ủng hộ, viện trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Trong những hiệp định viện trợ ký tại Bắc Kinh ngày 7-7-1954, Trung Quốc cam kết tăng thêm viện trợ thương mại và kinh tế. Những nguồn tin chính thức ở Việt Nam chỉ đưa tin cụt lủn về kết quả cuộc gặp. Báo Nhân Dân của Đảng ghi nhận một cách không rõ ràng “việc khôi phục hoà bình ở Đông Dương không thể chỉ do một bên quyết định”.[39]
    Sau những cuộc tham khảo ý kiến ngắn ở Bắc Kinh, Chu Ân Lai trở lại Geneva trong khi các đại biểu đang giải quyết nốt những vẫn đề tồn đọng, hiệp định đã được ký kết ngày 21-7-1954. Một Uỷ ban Quốc tế sẽ giám sát Hiệp định. Uỷ ban này bao gồm Ấn Độ, Canada và Ba Lan. Một tuyên bố chính trị không mang tính ràng buộc kêu gọi chính quyền ở hai khu vực tập kết tiến hành hiệp thương và tổ chức tổng tuyển cử thống nhất đất nước hai năm sau. Điểm khó khăn cuối cùng là thảo thuận thiết lập đường phân giới giữa hai khu vực tập kết tại vĩ tuyến 17. Khi Phạm Văn Đồng có vẻ chần chừ không chấp nhận nhượng bộ, ông Chu lập luận, cho phép Thủ tướng Pháp, ông Pierre Mendes France, giữ thể diện của mình là giá nhỏ phải trả cho việc quân Pháp rút. Ông Chu còn hứa “Khi quân Pháp rút hoàn toàn, toàn bộ Việt Nam là của các bạn”.[40]
    Tuy nhiên, theo quan điểm của Hồ Chí Minh và các cộng sự thì có những tiến triển bất lợi ngay sau khi Hội nghị kết thúc. Chính quyền Eisenhower đã lo ngại theo dõi đàm phán tại Geneva và quyết định không chấp nhận các điều kiện của Hiệp định trừ khi ít nhất một phần của Việt Nam vẫn an toàn. Vì điều khoản về thống nhất hoàn toàn đất nước thông qua tuyển cử tổ chức năm 1956 mở ra khả năng cộng sản thắng lợi hoàn toàn, Washington bắn tin sẽ không đồng tình với tuyên bố chính trị và sẽ không cam kết ủng hộ Hiệp định Geneva. Phái đoàn của Bảo Đại cũng làm như vậy, không chịu chấp thuận tuyên bố chính trị, lập luận, quyết định chia cắt đất nước là của chính quyền thực dân chứ không phải là nguyện vọng của nhân dân. Một vài ngày sau khi hội nghị kết thúc, Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ Dullet thông báo tại một cuộc họp báo, Mỹ sẽ gây dựng sự phát triển của một nhà nước không cộng sản ở Nam Việt Nam, Lào và Campuchia. Tuyên bố này tuyệt nhiên không hề là dấu hiệu tốt lành cho cuộc Tổng tuyển cử trong tương lai.
    Nhiều quan sát viên tại hội nghị đã nhận thấy thái độ cay cú của phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trước việc Trung Quốc và Liên Xô phản bội lợi ích của mình. Nhớ lại điều này, Vương Bỉnh Nam, một nhà ngoại giao Trung Quốc sau này nói, một số đại biểu “hy vọng sẽ thống nhất Việt Nam được ngay”.[41]
    Thái độ cay cú này rõ ràng không chỉ là thái độ của đoàn đại biểu Việt Nam mà còn thể hiện ở trong nước Việt Nam. Tình hình này rõ ràng nghiêm trọng đến mức Hồ Chí Minh cũng bắt đầu chú ý. Trong báo cáo chính trị cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng vài ngày trước khi Hiệp định Geneva được ký kết, ông Hồ viết:
    “Một số người quá say sưa với thắng lợi liên tục của chúng ta, muốn tiếp tục chiến đấu đến cùng với bất kỳ giá nào. Họ chỉ thấy cây mà không thấy rừng. Tập trung vào việc quân Pháp rút, họ không thấy âm mưu của chúng. Họ thấy Pháp nhưng không thấy Mỹ. Họ thiên về hành động quân sự và coi nhẹ ngoại giao. Họ không biết chúng ta đang đấu tranh tại các hội nghị quốc tế cũng như tại chiến trường để đạt được mục tiêu”.
    Hồ Chí Minh tranh luận với những người “muốn có kết quả nhanh, không biết rằng cuộc đấu tranh giành hoà bình là khó khăn và phức tạp”. Điều họ không thấy, ba nước đã có những bước tiến lớn trong cuộc đấu tranh giành độc lập cho các nước Đông Dương. Tuy nhiên, bây giờ cần có một chiến lược, vì Mỹ kiên quyết phá hoại khả năng hoà bình, can thiệp và biện hộ cho xung đột ở Đông Dương. Do hoàn cảnh mới, khẩu hiệu hiệu cũ “Kháng chiến đến cùng” phải được thay thế bằng khẩu hiệu “Hoà bình, đoàn kết, độc lập, dân chủ”. Một chính sách như vậy góp phần cô lập Mỹ (nay trở thành kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân Đông Dương) trên trường quốc tế và đánh bại âm mưu thâm độc của chúng.
    Hồ Chí Minh công nhận, cái giá phải trả cho hoà bình là sự chia cắt đất nước. Ông nhất mực cho rằng việc thiết lập khu vực tập kết không có nghĩa là đất nước bị chia cắt vĩnh viễn mà chỉ là tạm thời:
    Do việc hoạch định và trao đổi vùng, một số vùng tự do trước đây sẽ bị địch tạm chiếm, nhân dân sẽ không bằng lòng, một số người sẽ chán nản và dễ bị địch lừa bịp. Chúng ta phải làm cho đồng bào hiểu rõ những thử thách họ sẽ trải qua là vì lợi ích toàn đất nước, vì lợi ích lâu dài và sẽ là một sự nghiệp vinh quang mà cả nước đều biết ơn.
    Hồ Chí Minh hứa, với sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và sự ủng hộ của nhân dân trên thế giới, độc lập hoàn toàn và đoàn kết dân tộc chắc chắn sẽ đạt được.[42]
    Kêu gọi các cộng sự trong Đảng chấp nhận một giải pháp thông qua đàm phán về thực chất không phải là chiến thắng hoàn toàn, Hồ Chí Minh chắc chắn đã nghe theo lời khuyên của Chu Ân Lai. Ông Chu Ân Lai đã khẩn thiết kêu gọi ông Hồ chấp nhận một giải pháp như vậy trong cuộc gặp gỡ ở Liễu Châu trước đó vài ngày. Tuy vậy, thái độ sẵn sàng chấp nhận hoà bình trong nhân nhượng trên đường đến thắng lợi cuối cùng làm chúng ta nhớ lại cách giải quyết vấn đề của ông trong những dịp trước đó, đặc biệt là vào cuối chiến tranh Thái Bình Dương. Hồ Chí Minh nhận thấy, độc lập dân tộc và thống nhất đất nước không thể đạt được một cách riêng rẽ, nhưng phải đạt được trong bối cảnh những thay đổi phức tạp diễn ra trên trường quốc tế.
    Chú thích:
    [1] Ngô Văn Chiêu, “Nhật ký của một chiến sĩ Việt Minh” (Paris: NXB Seuil, 1957). Trang 154.
    [2] Hà Nội 366 gửi Ngoại trưởng, ngày 23-1-1951, RG 59, NXB Đại học Hoa Kỳ.
    [3] Chen Jian, “Trung Quốc và chiến tranh Đông Dương lần I”, “Trung Hoa quý báo” (tháng 3-1993), trang 95; Yves Gras, “Lịch sử chiến tranh Đông Dương” (NXB de Noel, Paris, 1992), trang 383-84; “Tổ cố vấn quân sự Trung Quốc ở Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp” (NXB Giải phóng quân, Bắc Kinh, 1990), trang 30-31. Về Hội nghị các lãnh đạo Đảng vào tháng 4, xem “Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử”, tập 5” trang 43-46. Theo Sài gòn 1580 gửi Ngoại trưởng, ngày 10-3-1951, RG 59, NXB Đại học Hoa Kỳ, báo địa phương báo cáo, Võ Nguyên Giáp đã tự sát. Về phản ứng của cố vấn Trung Quốc, xem Qiang Zhai, “Cấy ghép mô hình Trung Quốc: Cố vấn quân sự Trung Quốc và chiếặc Mỹ giúp Pháp hoặc xuất hiện chính phủ bảo thủ hơn ở Paris. Trong khi đó, ông cảnh báo các đảng viên, sự giúp đỡ của Trung Quốc cũng không bảo đảm Việt Minh thành công và khuyên Đảng cần phải chủ yếu dựa vào sức mình để dẫn đến thắng lợi.[38]
    Cuộc tranh cãi trong Đảng tại hội nghị phản ánh những phân tích lâu dài tình hình do Bộ trưởng quốc phòng Võ Nguyên Giáp phát biểu. Giáp cho rằng Pháp vẫn chiếm những ưu thế quân sự khắp Đông Dương, nhưng ông tin vào sức mạnh tinh thần, sự lãnh đạo chiến lược của lực lượng cách mạng, phối hợp với tình hình quốc tế thuận lợi (ý nói công nhận về mặt ngoại giao và Liên Xô và Trung Quốc giúp đỡ quân sự), tất cả sẽ góp phần cho một thắng lợi quyết định. Giáp giải thích tấn công không phải chỉ trong một chiến dịch đơn lẻ, mà phải gồm một chuỗi những cuộc tấn công trên nhiều điểm khác nhau ở Đông Dương, đẩy cán cân nghiêng dần sang phía Việt Nam.[39]
    Trong vòng vài tháng sau đó, Trung Quốc bắt đầu cung cấp vũ khí cho Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Tổ cố vấn quân sự Trung Quốc do tướng Vi Quốc Thanh tới căn cứ địa Việt Bắc huấn luyện cán bộ, dạy về chiến lược và chiến thuật. Trước khi rời Bắc Kinh, nhóm cố vấn này được giới lãnh đạo Trung Quốc cho biết nhiệm vụ của họ ở Việt Nam mang “ý nghĩa toàn cầu”. Lưu Thiếu Kỳ dặn, nếu kẻ thù không bị quét sạch khỏi Đông Dương, bọn đế quốc vẫn còn ở đó Trung Quốc sẽ gặp khó khăn hơn và phức tạp hơn.
    Những đơn vị chủ lực Việt Nam đến Vân Nam vào tháng 4-1950 để huấn luyện. Trang bị quân sự phần nhiều là vũ khí tịch thu của Nhật hoặc Mỹ sản xuất được chở đến bằng đường bộ hoặc từ cảng Du Lâm (nam đảo Hải Nam). Theo thoả thuận hai bên, quân đội Trung Quốc không tham chiến trừ khi Việt Minh bị đe doạ tiêu diệt. Theo yêu cầu của Bắc Kinh, mọi thoả thuận được giữ bí mật tránh làm xấu thêm quan hệ của Trung Quốc với Pháp. Sự cẩn thận này vô ích vì Pháp hoàn toàn biết rõ chuyến đi của Hồ Chí Minh và tầm quan trọng của nó.[40]
    Cuối mùa xuân, những trường huấn luyện cho quân đội Việt Minh được thiết lập tại một số nơi ở Hoa Nam. Phần lớn chương trình kéo dài ba tháng và được các cán bộ Tập đoàn Giải phóng quân Trung Quốc số 2 giảng dạy. Tháng 9-1950, khoảng mười hai ngàn quân Việt Nam được trang bị và huấn luyện ở Hoa Nam; khi trở về nước, nhiều người đã hoà vào Sư đoàn 308 mới thành lập. Hai trường cán bộ chính trị mở ra tại Nam Ninh và Khai Viễn tỉnh Vân Nam với khoá học sáu tháng. Các cố vấn giỏi của Trung Quốc như La Quý Ba, Vi Quốc Thanh đều đặn tham dự các cuộc họp quan trọng với ban lãnh đạo Đảng Việt Nam.[41]
    Mối quan hệ với Trung Quốc có tầm quan trọng lớn lao cho tương lai cách mạng Việt Nam. Tuy Việt Minh bây giờ có hơn 160.000 quân (ít hơn của Pháp chút ít), nhưng trang bị vẫn nghèo nàn, hoàn toàn thiếu khả năng hậu cần và pháo binh. Lần đầu tiên trong lịch sử ngắn ngủi của mình, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà bây giờ có được sự giúp đỡ to lớn của nước láng giềng hùng mạnh. Những lời hứa cung cấp vũ khí, cố vấn và những quân nhu khác tạo cơ sở chuyển hướng chiến lược chiến tranh sang giai đoạn ba - tấn công phòng ngự.
    Giới lãnh đạo Việt Nam không giấu tầm quan trọng của mối quan hệ mới Trong một cuộc phỏng vấn của nhà báo Mỹ Andrew Roth tháng 8-1950, Hồ Chí Minh không còn trầm lặng như trước đây, nhấn mạnh phong trào giải phóng Việt Nam đã thay đổi chiến thuật và bây giờ đang áp dụng mô hình Trung Quốc. Ông nhấn mạnh khắp Việt Bắc đang có một chiến dịch học tập kinh nghiệm Đảng cộng sản Trung Quốc trong cuộc chiến đấu chống Nhật và Tưởng Giới Thạch; các tài liệu được đưa vào Việt Nam và phát cho các cán bộ và binh sĩ vùng. Các khoá học được tổ chức thường xuyên khuyến khích những học viên tiếp thu mô hình Trung Quốc và áp dụng vào thực tế ở Đông Dương.
    Những tuyên bố công khai của Việt Minh vô tình phù hợp bất ngờ mô hình Trung Quốc một phần là giả dối, bởi vì, như chúng ta đã thấy, giới lãnh đạo đảng đã nhiều năm học hỏi rút ra bài học hữu ích từ cách mạng Trung Quốc. Một trong những tuyên bố chính thức đầu tiên của Hồ Chí Minh sau khi kháng chiến bùng nổ 12-1946 nói, lãnh đạo Việt Minh sẽ đi theo mô hình chiến tranh nhân dân của Mao trong cuộc chiến đấu giành thắng lợi. Một năm trước đó, Trường Chinh viết cuốn sách nhỏ nhan đề “Kháng chiến trường kỳ nhất định thắng lợi”, trong đó cũng trích những bài viết của Mao Trạch Đông về chiến tranh du kích trong hai thập niên trước. Có lẽ Chinh viết cuốn sách đó với sự chấp thuận của toàn thể ban lãnh đạo đảng, bí danh cách mạng ông chọn (“Trường Chinh”) rõ ràng chứng tỏ ông ngưỡng mộ cách mạng Trung Quốc. Tuy nhiên, Chinh cẩn thận vạch ra một số yếu tố mô hình Trung Quốc không áp dụng được cho Việt Nam. Do Việt Nam là nước nhỏ và hoàn toàn dưới sự thống trị thuộc địa, Việt Minh không thể hy vọng xây dựng một căn cứ địa giải phóng rộng lớn tương tự như căn cứ địa Diên An ở bắc Trung Hoa trong thời kỳ chống Nhật. Có thể Trung Quốc không để ý tới tầm quan trọng những sáng kiến ngoại giao, những hoạt động này chỉ có vai trò hạn chế trong cuộc chiến đấu giành quyền lực ở Trung Hoa. Dù vậy, lãnh đạo Việt Minh cảm thấy mô hình Trung Quốc có giá trị lớn trong cuộc kháng chiến chống Pháp và bây giờ chấp nhận nhóm cố vấn của Trung Quốc để giúp họ hiệu quả hơn.
    Nhưng chẳng mấy chốc, ảnh hưởng của Trung Quốc không những bị giới hạn trung quân sự, mà còn lan sang những chính sách đối nội và tổ chức Đảng. Ngay sau khi đến Việt Bắc cuối tháng 2, La Quý Ba trong đoàn cố vấn dân sự giúp Việt Nam chỉnh Đảng và chính phủ theo đường lối Trung Quốc. Từ Hội nghị lần thứ tám họp tại Pác Bó vào tháng 5-1941, giới lãnh đạo đảng đặt ưu tiên trước hết cho sự nghiệp giải phóng dân tộc chống lại đế quốc hơn là đấu tranh chống thế lực phong kiến trong nước, do vậy quay lại mô hình Lenin mà Hồ Chí Minh du nhập vào châu Á ở thập niên 1920. Theo kế hoạch này, cách mạng Việt Nam chia thành hai giai đoạn, giai đoạn đầu tiên hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc, giai đoạn thứ hai thực hiện chuyển biến sang chủ nghĩa xã hội. Trong giai đoạn đầu tiên, vai trò trọng tâm của Đảng cộng sản Đông Dương trong cách mạng Việt Nam nổi bật ở chỗ lôi kéo những phần tử ôn hoà trong nước, tránh sự can thiệp của thế lực phản động ngoài nước điều này thể hiện trong chính sách Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 và trong thời kỳ ba năm đầu kháng chiến chống Pháp.
    Bây giờ, với thắng lợi của Trung Quốc và triển vọng đánh bại Pháp tăng cao, giới lãnh đạo đảng chuyển sang chiến lược mới dựa trên mô hình Trung Quốc, trong đó sự lãnh đạo của đảng đối với phong trào là công khai, đồng thời giai đoạn đầu tiên giải phóng dân tộc sẽ tiếp tục không cần chia ra thành giai đoạn hai cách mạng xã hội chủ nghĩa. Tiến trình này thể hiện tại Hội nghị toàn quốc lần thứ III cuối tháng 1- 1950, khi ban lãnh đạo đảng quyết định nhấn mạnh vấn đề giai cấp trong mặt trận thống nhất và chuẩn bị đưa Đảng cộng sản ra công khai. Những hành động đó sẽ thúc đẩy Việt Nam Dân chủ Cộng hoà vào gần hơn với phe xã hội chủ nghĩa, gồm Trung Quốc và những nước “dân chủ nhân dân” ở Đông Âu; nhưng điều này lại làm phức tạp cho những nỗ lực đạt được thương lượng và ngăn Mỹ nhảy vào chiến tranh bên phe Pháp. Vài tháng sau, giới lãnh đạo đảng mở một chiến dịch lớn để những người ủng hộ họ thấm nhuần tư tưởng, hành động đảng cộng sản Trung Hoa và vị lãnh tụ Mao Trạch Đông của họ.[42]
    Vai trò của Hồ trong việc chuẩn y thay đổi đường lối này đến đâu là một câu hỏi lớn. Quan điểm của Hồ là công thức cách mạng hai giai đoạn tiệm tiến từ giữa thập niên 1920 và chắc chắn quan điểm này được đưa vào Hội nghị lần thứ tám năm 1941. Chính sách mới không những chống lại khả năng của ông tranh thủ tình hình quốc tế theo hướng thuận lợi cho ông mà ở mức độ nào đó còn trói buộc ông vào sự giám sát của Trung Quốc mà ông từng chống lại được trong quá khứ.
    Ngoài ra, có một điều lạ, Hội nghị Đảng toàn quốc lần thứ III họp khi Hồ vắng mặt. Có thể ở đây có sự nghi ngờ - cả trong nội bộ phong trào cộng sản quốc tế và trong những đồng sự của ông - về lòng trung thành của ông vào những nguyên tắc Marxist-Leninist chính thống được Moscow và Bắc Kinh phổ biến vào cuối thập niên 1940. Mùa đông năm 1949-1950, có nhiều tin đồn - phần nhiều dựa trên những nhận xét của một kẻ đào ngũ - Trường Chinh sẽ thay thế Hồ Chí Minh làm lãnh tụ phong trào cộng sản Việt Nam theo lệnh Stalin, hoặc thậm chí còn có tin ông chính thức bị coi là “kẻ dị giáo” vì ông từ chối đi theo đường lối Moscow. Khi Léo Figuères của Đảng cộng sản Pháp tới thăm Việt Bắc tháng 3-1950, có tin đồn ông này được cử đến không những để khôi phục liên lạc giữa hai đảng mà còn để phục hồi Đảng cộng sản Đông Dương, đội tiên phong của cách mạng Việt Nam.[43]
    Dù vậy, mặc dù Hồ Chí Minh có lẽ chấp nhận đường lối mới với đôi chút miễn cưỡng, chắc chắn ông nhận ra sự ủng hộ đang tăng lên của Hoa Kỳ cho Pháp không thể tránh được, sự gần gũi với Moscow và Bắc Kinh sẽ giúp Việt Minh thắng lợi ở Đông Dương. Dù thế nào đi nữa, ông tự điều chỉnh trước hoàn cảnh mới và tìm cách tranh thủ nó. Trong thư gửi giới lãnh đạo Trung Quốc những năm sau này, Hồ quá lời tán dương ban lãnh đạo chính phủ Trung Quốc, đề xuất chính phủ và Đảng của ông sẽ theo mô hình Trung Quốc. Lúc này, tất nhiên, ông đã trở thành bậc thầy của nghệ thuật xu nịnh ân nhân của mình, ngụ ý rằng những lời khuyên và kinh nghiệm Trung Quốc đã đi vào trái tim của người Việt Nam. Thí dụ, không phải ngẫu nhiên mùa thu năm 1950, lần đầu tiên, ông bắt đầu ca tụng lợi ích của hợp tác hoá nông nghiệp cho sự thịnh vượng tương lai của nước Việt Nam độc lập.[44]
    Mùa xuân năm 1949, khi các nhà chiến lược của Đảng kết luận một trong những điều kiện tiên quyết then chốt cho tổng tấn công thắng lợi mở rộng vùng biên giới, do vậy tạo điều kiện cho lực lượng cách mạng dễ dàng tiếp nhận viện trợ vật chất từ Trung Quốc. Tướng Blaizot vô tình đã giúp tướng Giáp dễ dàng thực hiện nhiệm vụ này bằng cách kêu gọi rút quân Pháp khỏi nhiều vị trí dọc biên giới bắc Lạng Sơn, để tăng cường kiểm soát khu vực từ Lạng Sơn đến Vịnh Bắc Bộ. Tuy nhiên, mùa hè năm 1950, kế hoạch Blaizot vẫn không chính thức thực thi một loạt đồn bốt đơn độc của Pháp dọc biên giới nối chuỗi dọc Quốc lộ 4 từ ven biển Móng Cái tới huyện lỵ Cao Bằng.
    Pháp lập tức có lý do hối tiếc sự chậm trễ này. Tháng 4-1949, giới lãnh đạo đảng lần đầu tiên quyết định tập trung vào khu vực tây biên giới, nơi lực lượng Pháp không đáng kể. Tuy vậy, tháng 7-1950, Ban thường vụ Đảng quyết định chuyển trọng tâm sang khu vực phía đông biên giới, vì nó dễ xuống đồng bằng sông Hồng và có những đường quốc lộ dẫn tới Trung Hoa. Hồ nói với các đồng chí của ông lúc đó, đây là nơi “dễ giữ khi rút, dễ đánh khi tấn công”. Võ Nguyên Giáp được giao nhiệm vụ chỉ huy cuộc tấn công, tướng Trung Quốc Trần Canh được lệnh tới Việt Bắc giúp đỡ Việt Minh vạch kế hoạch chiến dịch. Khi Giáp thăm Hồ Chí Minh tại Tân Trào, Hồ ví tầm quan trọng thắng lợi. “Chiến dịch sắp tới là cực kỳ quan trọng. Chúng ta không được thua!” Hồ hứa sẽ đến biên giới quan sát chiến dịch với tư cách cá nhân. Tướng Trần Canh được mời đi cùng ông.[45]
    Giữa tháng 9, Việt Minh tung hàng loạt cuộc tấn công sắc bén vào đồn bốt Pháp khắp vùng biên giới. Đồn Đông Khê bị tám ngàn quân đội Việt Minh tấn công, tình báo Pháp cho biết Việt Minh có cả bazooka, súng cối, pháo không giật và lần đầu tiên lực lượng tập trung lên tới trung đoàn. Bị tấn công bất ngờ, quân Pháp rối loạn, tháo chạy bỏ lại hàng trăm xác rang 530, cuộc tấn công Điện Biên Phủ là do Cố vấn Trung Quốc gợi ý Võ Nguyên Giáp. Bắc Kinh vạch ra rằng thắng lợi Điện Biên Phủ có thể làm tăng ý nghĩa chính trị và quốc tế. Xem thêm bài của Hoàng Văn Thái đăng ở Tin tức Việt Nam (tháng 3-1984), trang 19-23, và Võ Nguyên Giáp, “Chiến tranh nhân dân” (NXB Praeger, New York, 1962), trang 148.
    [21] Về quan điểm Trung Quốc, xem François Joyaux, “Trung Quốc và giải quyết cuộc xung đột lần I ở Đông Dương: Geneve 1954” (Paris: Sorbonne, 1979), trang 68-71. Xem thêm Zhai Qiang, “Trung Quốc và hội nghị Geneva năm 1954”, “Trung Hoa Quý báo”, 129 (tháng 3-1992), trang 107.
    [22] Về kết luận tương tự, xem Qiang Zhai, “Cấy ghép mô hình Trung Quốc: Cố vấn quân sự Trung Quốc và chiến tranh Việt Nam lần I, 1950-1954”, (Tạp chí Lịch sử quân sự, tháng 10-1993), trang 708-709.
    [23] Thực tế, Hồ không khước từ ý nghĩ thương lượng hoà bình, mà đơn giản cho rằng cuộc thương lượng chỉ tiến hành trong hoàn cảnh thuận lợi nhất - xem Toàn Tập I, tập 6, trang 459. Về báo cáo của Hãng thông tấn Xô viết TASS, xem François Joyaux, “Trung Quốc và giải quyết cuộc xung đột lần I ở Đông Dương: Geneve 1954” (Paris: Sorbonne, 1979), trang 68; xem thêm Đại sứ quán Mỹ ở Sài gòn, báo cáo nhanh 208, ngày 11-10-1951, và đại sứ Mỹ ở Moscow Bohlen gửi Bộ ngoại giao, ngày 3-9-1953, cả hai có trong RG 59, NXB Đại học Hoa Kỳ. Về những người thăm dò hoà bình của Pháp, xem Jacques de Folin, “Đông Dương 1940-1954: Sự kết thúc của một giấc mơ” (Paris: NXB Perrin, 1993), trang 261.
    [24] Báo cáo này nằm tại Sài gòn Joint Weeka 49, ngày 7-12-1953, trong RG 59, NXB Đại học Mỹ. Cuộc phỏng vấn được tổng kết ở Đại sứ quán Mỹ (Stockholm, Thuỵ Điển) gửi Bộ ngoại giao, ngày 29-11-1953, trong RG 59, NXB Đại học Hoa Kỳ. Trong một xã luận đi cùng cuộc phỏng vấn, Expressen bày tỏ hoài nghi về sự chân thành của Hồ Chí Minh và vạch ra rằng bài báo này hình như là “được Moscow sáng tác”. Bản tiếng Việt, xem Toàn Tập I, tập 6, trang 494-96.
    [25] Toàn Tập I, tập 6, trang 430-442.
    [26] “Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác ngoại giao” (NXB Sự thật, 1990), trang 143.
    [27] Zhai Qiang, “Trung Quốc và Hội nghị Geneva”, trang 108; Nikita Khrushchev, “Hồi ký Khruschev” (Boston: Bantam, 1971), trang 532-34. Chen Jian, “Trung Quốc và chiến tranh Đông Dương lần I” trong Peter Lowe (ed)., “Cuộc chiến tranh Việt Nam” (NXB St. Martin’s, New York, 1998), trang 159. Theo nguồn của tác giả này, Việt Nam có lẽ đồng ý.
    [28] Stanley Karnow, “Việt Nam: Lịch sử” ( NXB Viking, New York, 1983), trang 191.
    [29] Bức thư của Hồ Chí Minh được trích trong “Chủ tịch Hồ Chí Minh”, trang 142, trích trong “Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam” (NXB Sự thật, 1984), trang 691; Về thông điệp của Chu Ân Lai, xem “Tạp chí Trung Hoa”, trang 99. Số liệu về viện trợ của Trung Quốc trích từ tài liệu đã dẫn. Theo Trung Quốc, từ 1950 đến 1954 Trung Quốc cung cấp cho Việt Minh 116.000 súng trường và 4.630 pháo, tương đương năm sư đoàn bộ binh, một sư đoàn công binh và pháo binh, một trung đoàn pháo phòng không, và một trung đoàn bảo vệ. Xem Han Huazhi, “Những hoạt động quân sự của Quân đội Trung Quốc hiện tại”, Tập I, trang 520-22.
    [30] Sự đả kích giữa Bắc Kinh và Hà Nội về sự xác đáng lời khuyên của Trung Quốc đối với hoàn cảnh chiến đấu đã thành thường xuyên kể từ khi kết thúc chiến tranh Việt Nam. Về những lời phàn nàn của Việt Nam, xem Georges Boudarel, “ Làm thế nào Giáp thua ở Điện Biên Phủ”, (Tạp chí Người quan sát mới, ngày 8-4-1983).
    [31] Jay Taylor, “Trung Quốc và Đông Nam Á” (NXB Praeger, New York, 1974), trang 13-14; Bernard Fall, “Địa ngục ở một nơi rất nhỏ” (Philadelphia: Lippincott, 1966), trang 7; Henri Navarre, “Đông Dương đau đớn” (Paris: NXB Plan, 1956), trang 181, và Võ Nguyên Giáp, “Chiến tranh nhân dân”, trang 179.
    [32] Theo tài liệu của Trung Quốc, 24-1, Uỷ ban quân sự Trung ương ở Bắc Kinh chỉ thị cố vấn Trung Quốc phải đề xuất chiến lược thận trọng và từ từ cho Việt Minh tại tại Điện Biên Phủ. Xem “Tạp chí Trung Hoa”, trang 98, và Qiang Zhai, “Cấy ghép mô hình Trung Quốc: Cố vấn quân sự Trung Quốc và chiến tranh Việt Nam lần I, 1950-1954”, (Tạp chí Lịch sử quân sự, tháng 10-1993), trang 709.
    [33] Sự do dự của Tổng thống Eisenhower ứng phó với tình hình ở Đông Dương là chủ đề đáng quan tâm của nhiều học giả. Tôi đã xử lý vấn đề này trong tài liệu của mình “Chính sách ngăn chặn của Mỹ và cuộc xung đột ở Đông Dương” (NXB Đại học Stanford, California, 1994), chương 5 và 6. Về bình luận của cá nhân Nixon, xem Jacques de Folin, “Đông Dương 1940-1954: Sự kết thúc của một giấc mơ” (Paris: NXB Perrin, 1993), trang 254, trích dẫn điện tín 2414 từ Đại sứ quán Pháp ở Washington, ngày 8-4-1954, Bộ ngoại giao Pháp.
    [34] Philippe Devillers và Jean Lacouture, “Kết thúc cuộc chiến: Đông Dương 1954” (Paris: NXB Seuil, 1960), trang 149; Võ Nguyên Giáp, “Chiến tranh nhân dân”, trang 153; “Tạp chí Trung Hoa”, trang 102-103. Những tù binh Pháp sống sót được thả sau khi ký Hiệp định Geneva vào tháng 7-1954.
    [35] Về những đoạn trích ngắn từ Ban bí thư Trung ương Đảng ngày 1-5-1954, xem “Chủ tịch Hồ Chí Minh”, trang 144.
    [36] Theo điện tín của Đại sứ quán Mỹ ở Sài gòn 2312, ngày 10-5-1954, trong RG 59, NXB Đại học Mỹ, tình báo Pháp ước tính rằng chín tiểu đoàn bộ binh Việt Minh - tương đương một sư đoàn - có thể di chuyển từ Điện Biên Phủ đến đồng bằng sông Hồng trong mười ngày. Toàn bộ lực lượng Việt Minh gồm 27 tiểu đoàn có thể kéo về đồng bằng trong thời gian 3 tuần. Ước tính có 16 tiểu đoàn Việt Minh trong vùng này. Những sĩ quan Pháp ít bi quan hơn. Tướng Rene Cogny, một trong số những Tư lệnh quân đội xuất sắc của Navarre tin chắc Việt Minh cân có thời gian để tổ chức lại và không tấn công đồng bằng sông Hồng ít nhất trước tháng 10, ông có thể giữ vùng này một thời gian nếu được tăng viện - xem Sài gòn 2363, ngày 12-5-1954, trong RG 59, NXB Đại học Mỹ. Việt Minh khẳng định sự đánh giá của Rene Cogny, thừa nhận rằng riêng vấn đề hậu cần không cho phép đánh thắng ở khu vực Hà Nội ít nhất trước năm 1955.
    [37] Chen Jian, “Trung Quốc và chiến tranh Đông Dương lần I”, trang 108. Nhiều năm sau này, Mao Trạch Đông thừa nhận với Hồ Chí Minh rằng chiến lược ngoại giao của Trung Quốc tại Geneva có lẽ là khiếm khuyết - xem Odd Arne Westad et al., “77 cuộc thảo luận giữa Trung Hoa và những nhà lãnh đạo nước ngoài trong chiến tranh Đông Dương, 1964-1977” (Washington, D.C.: Dự án Lịch sử chiến tranh lạnh quốc tế, Trung tâm Woodrow Wilson, 1998), trang 134.
    [38] Phân tích chi tiết cuộc họp, xem François Joyaux, “Trung Quốc và giải quyết cuộc xung đột lần I ở Đông Dương: Geneve 1954” (Paris: Sorbonne, 1979), trang 251-54. Trong điện tín từ London, Đại sứ quán Mỹ báo cáo rằng Chu Ân Lai nói với Nehru rằng Trung Quốc tán thành những chính phủ trung lập ở Lào và Campuchia, với điều kiện không để họ biến thành căn cứ cho những hoạt động thù địch chống Trung Quốc. Ông phát biểu thêm rằng Việt Minh sẽ đồng ý ngừng các chiến dịch quân sự quy mô rộng nếu Pháp cũng làm như vậy, và Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẽ phân chia lực lượng vào những khu vực tái biên chế riêng. Xem Đại sứ quán Mỹ ở London gửi Bộ ngoại giao, 32, ngày 2-7-1954, trong RG 59, NXB Đại học Hoa Kỳ.
    [39] Sau cuộc họp, Bộ chính trị Đảng Lao động Việt Nam chỉ thị Phạm Văn Đồng có thái độ mềm mỏng hơn. Xem Qiang Zhai, “Trung Quốc và cuộc chiến tranh Việt Nam, 1950-1975” (Chapel Hill: Đại học North Carolina Press, 2000), trang 60-62. Xem thêm François Joyaux, “Trung Quốc và giải quyết cuộc xung đột lần I ở Đông Dương: Geneve 1954” (Paris: Sorbonne, 1979), trang 262-64; Chen Jian, “Trung Quốc và chiến tranh Đông Dương lần I”, trang 109.
    [40] Việc Phạm Văn Đồng miễn cưỡng thoả hiệp, tầm quan trọng thắng lợi tại Điện Biên Phủ xem trong Qiang Zhai, “Trung Quốc và cuộc chiến tranh Việt Nam, 1950-1975” trang 61-62, và Chen Jian, “Trung Quốc và cuộc chiến tranh Việt Nam, 1950-1975”, trang 159-161, và Chen Jian, “Trung Quốc và chiến tranh Đông Dương lần I”, trang 109, trích dẫn Qu Xing, “Về tài ngoại giao của Chu Ân Lai”, trang 258, và Shi Zhe, “Cùng với những phi thường lịch sử”, trang 557. Xem thêm Zhai Qiang, “Trung Quốc và Hội nghị Geneva”, trang 111, trích dẫn Shi Zhe, “Hồi ức Hội nghị Geneva” trong Ran wu, tháng 1-1989, trang 43.
    [41] Vương Bỉnh Nam, “Hồi ức chín năm đàm phán Trung-Mỹ” (Bắc Kinh: NXB Shijie Zhishi, 1985), trang 13.
    [42] Về Hội nghị toàn thể lân thứ VI trong “Hồ Chí Minh: Tuyển tập” (NXB Ngoại văn, Hà Nội, 1977), trang 181-83. Mai Văn Bộ trong “Chúng tôi học làm ngoại giao với Bác Hồ” (NXB Trẻ, t.p HCM, 1998), trang 80 nhận xét, những yếu tố quốc tế can thiệp vào đã ngăn cản thắng lợi hoàn toàn tại Geneva.
    --!!tach_noi_dung!!--

    Nhân Ảnh xuất bản 2014
    Bìa: Tạ Quốc Quang
    Trình bày: Lê Hân Nguồn: VNthuquan.net - Thư viện Online
    Được bạn: Thanh Vân đưa lên
    vào ngày: 18 tháng 11 năm 2014

    --!!tach_noi_dung!!--
    CHƯƠNG XII
    --!!tach_noi_dung!!--
    CHƯƠNG XIV
    --!!tach_noi_dung!!--