Dịch giả: LÂM HOÀNG MẠNH - NGUYỄN HỌC
CHƯƠNG VIII
HANG PÁC PÓ

    
ước Trung Hoa mà Nguyễn Ái Quốc trở lại vào mùa thu năm 1938 khác xa thời kỳ ông ra đi cách đây gần năm năm, vì bây giờ trong chiến tranh. Cuộc xung đột khởi nguồn bắt đầu Sự Kiện Thẩm Dương năm 1931, khi binh sĩ quân đội Nhật Bản đột nhiên chiếm Mãn Châu Lý, lập ra quốc gia bù nhìn Mãn Châu Quốc. Trong thời gian năm năm, quân đội Nhật bành trướng vững chắc về phía nam, chiếm những vùng đất đai rộng lớn thuộc các tỉnh bao quanh cố đô Bắc Kinh đặt dưới quyền quân quản Nhật Bản. Lúc đầu, Tưởng Giới Thạch khước từ yêu cầu khẩn khoản của nhân dân Trung Hoa đòi ông chấm dứt những chiến dịch quân sự đánh chiếm khu vực do cộng sản kiểm soát phía nam sông Dương Tử - những chiến dịch này tiến hành đến cuối năm 1934 khiến lực lượng cộng sản buộc phải di chuyển trong cuộc Trường Chinh nổi tiếng tới vùng căn cứ mới tại Diên An, phía bắc Trung Hoa - và sau đó tìm được sự đồng tâm nhất trí của dân tộc chống lại sự xâm lăng của Nhật. Nhưng đầu năm 1937, sau khi Tưởng Giới Thạch bị một số sĩ quan của ngay chính quân đội của ông bắt cóc một cách kỳ lạ khi ông thăm Tây An, Tưởng bị thuyết phục phải ký thành lập một mặt trận thống nhất thứ hai với Đảng cộng sản Trung Quốc và hướng sự chú ý của nhân dân vào mối đe doạ từ Nhật. Vài tháng sau đó, cuộc chiến tranh công khai nổ ra sau một đụng độ vũ trang tại Lư Cầu Kiều (Marco Polo Bridge) phía nam Bắc Kinh.
Sự đe đoạ của Nhật Bản đưa nhân dân Trung Quốc vào tình thế cực kỳ nguy hiểm, nhưng nó mở ra dịp may cho Nguyễn Ái Quốc. Thứ nhất, việc thành lập mặt trận thống nhất giữa Chính phủ Quốc Dân Đảng và Đảng cộng sản Trung Quốc tạo cho ông tự do đi lại để liên lạc với những người cách mạng Việt Nam đang hoạt động ở Hoa Nam. Thứ hai, nó dẫn đến tăng bóng ma một cuộc chiến tranh lớn ở châu Á, sẽ nhanh chóng lan rộng xuống Đông Nam Á và đi tới kết liễu nửa thế kỷ cai trị của Pháp ở Đông Dương.
Rời Moscow bằng tàu hoả vào ngày đầu thu 1938, Nguyễn Ái Quốc đi về phía tây băng qua vùng thảo nguyên bao la Trung Á thuộc Liên Xô. Sau khi dừng ở Alma - Ata, thủ đô Kazakhstan, ông tiếp tục tới biên giới Trung Hoa, ở đây ông theo đoàn xe đi Tân Cương, qua Turkistan tới thành phố Lan Châu, điểm cuối cùng phía đông của Con đường Tơ lụa và giờ đây là trung tâm đường sắt nhộn nhịp, thủ phủ tỉnh Cam Túc. Tại Lan Châu ông được Ngô Tú Quyền đại diện Đảng cộng sản Trung Quốc đón tiếp, thu xếp để ông đến Tây An. Ngô Tú Quyền phụ trách văn phòng địa phương của Giải Phóng Quân Trung Quốc, Đảng cộng sản Trung Quốc dùng văn phòng này làm điểm liên lạc với khách đến từ Liên Xô. Như Ngô Tú Quyền hồi tưởng trong hồi ký: “Được cấp trên cho biết, tôi phải đón một nhân vật quan trọng người Á châu, nhưng không nói tên. Cấp trên ra lệnh phải chăm sóc ông ta hết sức chu đáo, lễ độ và tôi phải tháp tùng ông tới Diên An an toàn”.[1]
Sau hai ngày ở lại Tây An, ông phải chịu đợt ném bom đầu tiên của máy bay Nhật, Nguyễn Ái Quốc theo một nhóm du khách đi xe bò, xe ngựa trên quãng đường mòn hai trăm dặm lên phía bắc qua những dãy núi để tới Diên An. Do có nhiều binh sĩ Quốc Dân Đảng đóng dọc đường, Quốc phải cải trang là “người áp tải” những xe ngựa chở quần áo, giầy dép cho dân nghèo sống trên núi, vì thế ông phải đi bộ đoạn đường dài.
Như Nguyễn Ái Quốc hồi tưởng nhiều năm sau này, Diên An năm 1938 tràn ngập gần 200.000 chiến sĩ Giải Phóng Quân Trung Quốc, phần lớn sống trong những hang đào khoét khắp sườn đồi, tường trát đất màu vàng. Nhiều cán bộ ưu tú Đảng cộng sản Trung Quốc sống trong những hang, ấm về mùa đông và mát về mùa hè hơn chỗ ở thông thường trong vùng. Tuy nhiên, ông khó phân biệt nổi sĩ quan Trung Quốc và lính trơn, vì tất cả họ mặc quân phục, giầy vải màu xanh lá mạ thẫm đồng loạt giống nhau. Quốc ở trong khu Vườn Táo, một biệt thự bẩy buồng tương đối rộng rãi, sau này dành cho chủ tịch Đảng cộng sản Trung Quốc Mao Trạch Đông. Ở Diên An, ông gặp nhiều người Trung Quốc từng quen biết ở Moscow, nhưng không gặp Mao, mặc dù sau này Mao nhanh chóng trở thành người nắm quyền lực chính trong Đảng cộng sản Trung Quốc.[2]
Sau khoảng hai tuần lễ ở Diên An, Nguyễn Ái Quốc xuống miền nam Trung Hoa trên một đoàn xe năm chiếc ô tô chở đoàn tuỳ tùng cùng tướng Diệp Kiếm Anh, tư lệnh Giải Phóng Quân Trung Quốc. Nguy hiểm đến không phải từ phía Nhật, vTuy bác bỏ đề nghị của Giáp thành lập quân đội giải phóng nhân dân, Hồ Chí Minh đồng ý thành lập những đơn vị đầu tiên của quân đội tương lai đó. Ông nhấn mạnh “nếu không đủ mạnh, chúng ta sẽ bị tiêu diệt không kịp trở tay,” như Giáp hồi tưởng. Ngày hôm sau, Hồ đề xuất thành lập những đơn vị mới tạm thời mang tên “Đội Tuyên Truyền Giải Phóng Quân”, vì nhiệm vụ trước tiên là tuyên truyền chính trị cho quần chúng để chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa tương lai.
Võ Nguyên Giáp và Vũ Anh ở lại hơn một ngày tại Pác Bó để nghiên cứu tình hình, vạch kế hoạch cho những đội tuyên truyền vũ trang mới. Hồ khuyên: “Bí mật, luôn luôn bí mật. Địch nghĩ ta ở đằng tây thì ta đang ở đông. Đánh bất ngờ, rút ngay khi địch chưa kịp trở tay”. Khi trở lại căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai, Giáp bắt đầu thành lập đơn vị đầu tiên mới. Ba mươi tư chiến sĩ của đơn vị đầu tiên được cán bộ lãnh đạo lựa chọn kỹ càng và gồm một số chiến sĩ tốt nghiệp chương trình đào tạo ở Hoa Nam. Từ Pác Bó, Hồ Chí Minh gửi thư chúc mừng, thư viết trên mẩu giấy nhỏ giấu trong bao thuốc lá:
Đội tuyên truyền Việt Nam Giải Phóng Quân là người anh em thân thiết của toàn dân tộc. Tôi hy vọng nhiều đơn vị khác sẽ sớm ra đời. Dù bây giờ còn non trẻ nhưng tương lai rực rỡ đang chờ đón. Đây là hạt nhân của đoàn giải phóng quân trong tương lai, chiến đấu trên các chiến trường từ bắc xuống nam của đất nước Việt Nam.
Việc thành lập đơn vị đầu tiên của đội vũ trang tuyên truyền ngày 22-12-1944, lực lượng vũ trang cách mạng tương lai - Việt Nam Giải phóng Quân - bắt đầu thành hình. Đội vũ trang tuyên truyền đại diện cho những đơn vị quân đội thường trực mới non trẻ đầu tiên của phong trào. Nó sẽ cung cấp những lực lượng du kích được tổ chức và chỉ đạo tại cấp huyện, cũng như những đơn vị dân quân tự vệ được tuyển mộ tại địa phương dưới sự kiểm soát của Đảng. Đúng hai ngày sau, những đơn vị mới thành lập đã chiến thắng trong trận tấn công vào những đồn Pháp ở làng Phai Khắt và Nà Ngần khiến kẻ thù phải sửng sốt trước sức mạnh cuộc tấn công và địch hoàn toàn bị tiêu diệt. Những người chiến thắng không những tự hào về thắng lợi mà còn thu được một số vũ khí, trong khi 70 lính địch thương vong. Tin tức chiến thắng lan nhanh khắp Việt Bắc như đám cháy rừng.
Trở lại Pác Bó, Hồ Chí Minh tiếp tục thúc đẩy phong trào theo cách riêng. Tháng Mười, ông viết “Thư gửi đồng bào toàn quốc”, trong đó phân tích tình hình hiện tại và nói “cơ hội giải phóng nhân dân đang đến gần, chỉ trong vòng một năm hoặc một năm rưỡi. Thời cơ đang thuận lợi. Chúng ta cần phải nhanh chóng hành động!”[32]
Ngày 11-11-1944, một máy bay trinh sát Mỹ do trung uý Rudolph Shaw lái, bất ngờ trục trặc động cơ khi bay trên vùng núi dọc biên giới Trung - Việt. Shaw nhảy dù an toàn, chính quyền Pháp đóng gần đó theo dõi tai nạn này, điều động lính tuần tra tìm kiếm Shaw. Tuy nhiên, những đội viên một đơn vị Việt Minh tìm được Shaw, quyết định giải Shaw tới chỗ Hồ Chí Minh. Lực lượng Việt Minh dẫn viên phi công Mỹ vượt núi rừng tới Pác Bó, ban đêm đi, ban ngày nghỉ trong hang để tránh địch. Cuối cùng phải mất một tháng mới tới, với khoảng cách chỉ khoảng 75 cây số.
Trong toán hộ tống Shaw, không có ai biết tiếng Anh để nói chuyện với Shaw - theo lời kể của Shaw, ông nói “Việt Minh! Việt Minh!” Người Việt Nam đáp “America! Roosevelt!” Nhưng khi ông tới Pác Bó, Hồ Chí Minh đón tiếp nồng nàn bằng tiếng Anh: “Ngài có khoẻ không, ngài phi công! Ngài là người nước nào?” Theo lời kể, Shaw bị xúc động đến mức ôm chặt Hồ và nói “Khi tôi nghe tiếng nói của ông, tôi cảm thấy dường như tôi đang nghe tiếng nói của cha tôi ở Mỹ”.[33]
Đối với Hồ Chí Minh, việc viên phi công Mỹ bị bắn rơi là ngẫu nhiên. Ngay từ khi Hoa Kỳ bước vào chiến tranh tháng 12-1941, ông đã thấy sự ủng hộ của Hoa Kỳ cho phong trào như là một con bài có thể sử dụng trong cuộc đấu tranh chống lại đội quân chiếm đóng Nhật Bản và thực dân Pháp. Sau khi được thả khỏi nhà tù ở Liễu Châu mùa thu năm 1943, ông dùng nhiều thời gian đọc sách tại thư viện Văn phòng thông tin chiến tranh (OWI), ý thức được những tin tức Tổng thống Roosevelt không dính đến chủ nghĩa thực dân châu Âu và đang tìm cách trả lại những thuộc địa Đông Nam Á nền độc lập của họ sau khi kết thúc chiến tranh. Roosevelt rõ ràng có ý định chống lại vai trò của Pháp ở Đông Dương, có lần ông nhấn mạnh: “Pháp đã bòn rút Đông Dương suốt một trăm năm. Nhân dân Đông Dương có quyền được hưởng những gì đó tốt hơn thế”. Dù Hồ Chí Minh ý thức được Hoa Kỳ là xã hội tư bản, ông luôn bày tỏ sự ngưỡng mộ về lời cam kết của Hoa Kỳ đối với những nguyên tắc dân chủ và cảm thấy bản thân Roosevelt có thể dẫn dắt nước Mỹ theo đường lối kinh tế lớn lao và công bằng xã hội.[34]
Về phần mình, quan chức Hoa Kỳ tại Trung Hoa hiểu về Hồ Chí Minh trong một thời gian dài trước khi được thả khỏi tù. Mùa thu 1942, tin tức tuyên bố trên báo chí Trung Hoa, (rò rỉ do những nguồn tin gần gũi với Đảng cộng sản Đông Dương ở Trung Hoa), đã nói đến vụ bắt giam một người An Nam tên là “Hồ Chih-chi”, có quan hệ với “chính phủ lâm thời” thân Đồng Minh ở Đông Dương, được thành lập ở Liễu Châu với sự giúp đỡ của chính phủ Trung Hoa. Khi quan chức sứ quán Mỹ liên lạc với đại diện địa phương của phong trào Nước Pháp Tự do, vị đại diện người Pháp hạ thấp sự thật của câu chuyện và phủ nhận một chính phủ như thế tồn tại. Tuy vậy, đại sứ Mỹ Clarence Gauss đánh điện cho Bộ Ngoại Giao ngày 31-12-1942, báo cáo vụ bắt giam, chỉ thị nhân viên tòa sứ quán xem xét kỹ vấn đề. Tuy nhiên, do thiếu sự cộng tác của chính quyền Trung Hoa họ không thu được mấy kết quả. Tháng Sáu, Washington yêu cầu cập nhật tình hình, Đại sứ quán Mỹ báo cáo đơn giản mức độ chừng mực xác định phong trào kháng chiến ở Đông Dương không có tầm quan trọng đặc biệt.
Nhưng nếu Đại sứ quán Hoa Kỳ ở Trùng Khánh không muốn làm gì cả đối với một “người An Nam” không tên tuổi thì những quan chức Mỹ khác ở Trung Hoa có quan điểm khác. Mùa hè năm 1943, Chu Ân Lai, trưởng Văn phòng Liên lạc Đảng cộng sản Trung Quốc gặp Cơ quan Tình báo Chiến lược Hoa Kỳ (OSS) ở địa phương đề nghị giúp đỡ thả Hồ với lý do Hồ có thể giúp đỡ Đồng Minh. Những quan chức Văn phòng thông tin chiến tranh (OWI) - nơi Hồ Chí Minh từng đề nghị làm phiên dịch cho cơ quan này - thảo luận với những quan chức Đại sứ quán Hoa Kỳ, đã đồng ý đặt vấn đề với chính phủ Trung Hoa tìm cách thả và thu xếp để ông cộng tác.
Không rõ người Mỹ có đề xuất việc này không, và nếu có, liệu có tác động đến quyết định của Trương Phát Khuê thả tự do trong giới hạn cho Hồ Chí Minh, vẫn còn chưa có câu trả lời. Dù sao đi nữa, việc này chưa dẫn đến bất cứ sự thu xếp tức khắc để Hồ cộng tác với những quan chức Mỹ ở Hoa Nam. Tháng 11-1943, chi nhánh Việt Nam của Hội phản đế quốc tế, từ Tĩnh Tây, viết thư đề nghị Đại sứ quán Hoa Kỳ ở Trùng Khánh giúp đỡ trả hoàn toàn tự do cho “Hu Chih-ming” để tham gia hoạt động chống Nhật và, nếu cần thiết, giúp ông trở về Việt Nam.
Philip D. Sprouse, cán bộ Đại sứ quán ghi nhận tên này là “một người bị bắt” năm trước. Nhưng Sprouse hình như đã bị thuyết phục bởi những đại diện “Nước Pháp Tự do” ở Trùng Khánh rằng cái gọi là “chính phủ lâm thời Đông Dương” thành lập ở Liễu Châu chỉ đơn giản là một mánh khoé của chính phủ Trung Hoa để thúc đẩy lợi ích của chính họ trong vùng này. Đại sứ Gauss chuyển lời yêu cầu tới Washington, bằng một bức thư chỉ rõ, do Pháp phủ nhận sự tồn tại một tổ chức như thế, nên ông “không trả lời” bức thư đó. Báo cáo của đại sứ Gauss được cất vào kho lưu trữ và bị lãng quên ở Washington.[35]
Mùa xuân năm 1944, miếng mồi giúp đỡ của Hoa Kỳ đã khêu gợi sự quan tâm của những đại diện Việt Minh đang sống ở nam Trung Hoa. Tháng 4-1944, đại diện Việt Minh ở Côn Minh gặp quan chức Pháp tại lãnh sự quán “Nước Pháp Tự do” để thu xếp một cuộc gặp nhằm thảo luận chính sách hậu chiến của Pháp ở Đông Dương, nhưng sau những tiếp xúc ban đầu, họ đã thất bại. Bị Pháp cự tuyệt, họ quay sang phía Mỹ, gặp những quan chức địa phương của Cơ quan Tình báo Chiến lược Hoa Kỳ và Văn phòng thông tin chiến tranh, tìm sự giúp đỡ bằng cách viết một bức thư gửi đại sứ Mỹ Gauss ở Trùng Khánh. Bức thư khẩn khoản yêu cầu Hoa Kỳ viện trợ cho cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam giành độc lập đồng thời đề nghị sát cánh với Đồng minh chiến đấu chống lại quân đội chiếm đóng Nhật ở Đông Dương. Ngày 18-8, sĩ quan Cơ quan Tình báo Chiến lược Hoa Kỳ gửi bức thư này tới tướng William Langdon, lãnh sự Mỹ tại Côn Minh, kèm lời bình, sẽ có “rắc rối đáng kể ở Đông Dương sau chiến tranh nếu không có một phương án mạnh mẽ của chính phủ tự trị có hiệu lực tại quốc gia này từ những ngày đầu”. Langdon đồng ý gặp nhóm này ngày 9-9. Ông hứa sẽ chuyển thư tới đại sứ Hoa Kỳ, bày tỏ sự ủng hộ của Mỹ đối với những khát vọng nhân dân Việt Nam, nhấn mạnh “người phát ngôn cao nhất của chính phủ Hoa Kỳ đã nhiều lần tuyên bố đảm bảo sự quan tâm của chính phủ Mỹ về an sinh chính trị và tiến bộ của những dân tộc bị áp bức ở phương Đông, nhân dân An Nam có thể tự tin về điều đó”. Nhưng Langdon thận trọng về mặt ngoại giao khi trả lời đòi hỏi sự thông cảm của Mỹ, nhấn mạnh “nhân dân An Nam là công dân thuộc Pháp, nước đang chiến đấu sát cánh với Hoa Kỳ… chống lại phe Trục. Sẽ không khôn ngoan… nếu Hoa Kỳ một mặt hy sinh sinh mạng, của cải cứu giúp Pháp thoát khỏi cảnh làm nô lệ Đức Quốc Xã và mặt kia lại làm xói mòn đế chế của Pháp”.
Phạm Việt Tú, thủ lĩnh phái đoàn Việt Nam, hứa với Langdon, Việt Minh không có ý định đánh Pháp mà chỉ đánh Nhật và đề nghị Mỹ giúp đỡ cho mục đích này. Nhưng ông hy vọng Mỹ sẽ ủng hộ quyền tự trị cho nhân dân Việt Nam sau khi kết thúc chiến tranh. Langdon không hứa, nhấn mạnh, Charles de Gaulle khi tới thăm Washington, D.C., vào tháng Bẩy, đã nói với báo chí, chính sách của Pháp là đưa những dân tộc thuộc địa Pháp tới chính phủ tự trị. Nếu người Việt Nam có phàn nàn gì chống lại người Pháp, họ nên trực tiếp gặp Pháp.[36]
Mưu mẹo của những đại diện Việt Nam ở Côn Minh tranh thủ sự ủng hộ của Mỹ vì thế một lần nữa bất thành. Quan chức Mỹ còn ít hiểu biết về những nhóm dân tộc chủ nghĩa Việt Nam hoạt động trong vùng, một số tỏ vẻ hoài nghi về tính hiệu quả do chủ nghĩa bè phái kinh niên luôn đi kèm hoạt động của họ. Dù nhân viên Cơ quan Tình báo Chiến lược Hoa Kỳ đệ trình một báo cáo thiện ý trong cuộc họp, Langdon và đại diện Văn phòng thông tin chiến tranh vẫn rất nghi ngờ. Đại diện Văn phòng thông tin chiến tranh nhấn mạnh, những nhóm dân tộc chủ nghĩa Việt Nam ở nam Trung Hoa tỏ ra có ít kinh nghiệm trong việc điều hành một chính phủ hiện đại (ông thừa nhận không phải lỗi của họ). Ngay cả Langdon còn phản đối, bằng cách gửi thông điệp tới Washington báo cáo, những nhóm Việt Nam ở nam Trung Hoa “không có tầm quan trọng thực tế” ở Đông Dương. Tháng 12-1944, một báo cáo của Cơ quan Tình báo Chiến lược Hoa Kỳ, trích nguồn tin của Pháp, nhấn mạnh, Hội Vì Độc Lập Đông Dương (Mặt trận Việt Minh) “thiếu sự ủng hộ của nhân dân” và “chỉ được mẽ ngoài to lớn gồm một số ít trí thức Đông Dương và những phần tử bất mãn khác ở thuộc địa”.[37]
Hồ Chí Minh không trực tiếp dính vào những sự kiện này, nhưng có lẽ cũng liên lạc với Phạm Việt Tú và các đồng sự của ông. Có thể ông đã đề xuất gặp những quan chức Mỹ ở Côn Minh. Nhiều tháng sau khi được thả khỏi tù hồi tháng 9-1943, Hồ thận trọng vun đắp tình bạn và sự tin tưởng với những sĩ quan Mỹ tại chi nhánh Văn phòng thông tin chiến tranh ở Liễu Châu. Tháng 8-1944, cơ quan này có lẽ tìm cách thu xếp cho Hồ Chí Minh tới San Francisco. Tổng Lãnh sự Hoa Kỳ ở Côn Minh đòi hỏi ý kiến chỉ dẫn từ Bộ Ngoại giao về yêu cầu của Văn phòng thông tin chiến tranh cấp visa cho Ho Ting-ching nào đó (được miêu tả là một người Trung Hoa sinh ở Đông Dương) tới Mỹ để thông báo tin tức ở Việt Nam. Philip Sprouse, bây giờ được chuyển về Washington, thụ lý vấn đề và viết một bản ghi nhớ về “Mr. Hồ”, miêu tả những hoạt động của ông. Sprouse phỏng đoán rằng “Mr. Hồ” cùng là một người đã được Quốc Dân Đảng ở Côn Minh thuê để tuyên truyền bằng tiếng Việt vào Đông Dương. Yêu cầu đó được Chi nhánh Viễn Đông Bộ Ngoại giao ủng hộ, nhưng lại bị những ngườia chỉếm được Thượng Hải đang vượt sông Dương Tử tiến đến Hán Khẩu, mà là từ chỗ khác. Dù mặt trận thống nhất giữa Đảng cộng sản Trung Quốc và Chính phủ Quốc Dân Đảng của Tưởng Giới Thạch đã trải qua hơn một năm, cuộc ngừng bắn cũng rất mong manh, dễ đổ vỡ và không phải luôn luôn được chính quyền Quốc Dân Đảng địa phương tuân thủ nghiêm ngặt. Để che giấu danh tính, Quốc lấy tên Hà Quang, một cái tên rất Trung Quốc, cải trang thành một cần vụ của một sĩ quan cao cấp đi cùng nhóm. Theo những tài liệu của cộng sản, những binh sĩ chính phủ (Tưởng Giới Thạch) liên tục quấy phá, tấn công chuyến đi của đoàn cho tới khi đến gần sát những đơn vị Giải Phóng Quân Trung Quốc đóng ở đó chúng mới rút lui.[3]
Đích đến của Nguyễn Ái Quốc là Quế Lâm, một thị trấn quê mùa, buồn tẻ nằm ở trung tâm tỉnh Quảng Tây nổi tiếng về những rừng đá bao quanh, nơi đem lại cảm hứng cho những hoạ sĩ vẽ tranh thủy mặc Trung Hoa cổ điển. Ông trú ở một dinh thự tại đại bản doanh Bát Lộ Quân Đảng cộng sản Trung Quốc ở làng Lưu Mã, nằm sát ngoại ô. Ông được phân công làm nhà báo kiêm cán bộ y tế cộng đồng tại Cơ Quan Cứu Tế Dân Tộc địa phương - một tổ chức quần chúng dưới quyền Mặt trận Thống Nhất Quốc - Cộng. Một trong những người Trung Quốc quen ông sau này nhớ lại:
Tôi làm việc với Hồ Chí Minh tại trụ sở Bát Lộ Quân ở Quế Lâm từ cuối năm 1938 tới mùa xuân và cả mùa hè năm 1939. Chúng tôi sống chung với nhau trong một ngôi nhà rộng phía tây làng Lưu Mã. Lúc đó, ông dùng tên Hà Quang, nghe giọng nói tôi nghĩ ông là người Quảng Đông. Cơ quan chúng tôi giống như một câu lạc bộ, nhưng chẳng phải là câu lạc bộ, vì nó thực hiện chức năng học chính trị và văn hoá… và cũng có nhiều cán bộ phụ trách về kinh tế, tài chính, y tế, báo chí… v.v…. Hồ Chí Minh có nhiệm vụ về trông coi vệ sinh nhưng cũng là một nhà báo, do vậy cũng lại là một trong những người lãnh đạo ở cơ quan chúng tôi. Tôi nhớ, trong công việc kiểm tra vệ sinh ông làm việc nghiêm túc, đưa ra tiêu chuẩn rất cao. Nếu điều kiện vệ sinh không tốt, ông phê bình thẳng thừng. Ông được phân công biên tập Tạp Chí Đời Sống của chúng tôi. Ông thiết kế bìa, viết tựa đề bài, tham gia viết báo cũng như làm thơ Đường luật bằng chữ Hán.
Người bạn ấy nói tiếp:
Khi Quốc ở Quế Lâm, ông để lại cho tôi một ấn tượng rất sâu sắc. Hàng ngày ông dậy sớm, quét sàn nhà… Sàn nhà rất bẩn, nên khi quét, bụi bay khắp nơi, Hà Quang phải đeo khẩu trang. Công việc thanh tra y tế và viết báo chiếm một phần ba đến một nửa thời gian của Hà Quang. Thời gian còn lại ông đọc sách hoặc đánh máy chữ với chiếc máy ông đem theo. Chiếc máy chữ của ông do nước ngoài sản xuất. Tôi có thể nói ông ta đánh máy rất thành thạo. Lúc bấy giờ tôi không biết ông là ai. Sau nay tôi mới biết ông quan hệ rất rộng, vì một lần tôi phê bình ông về một chuyện nhỏ trong cơ quan. Ngày ấy, chuyện phê và tự phê bình là một hình thức tu dưỡng đạo đức trong cơ quan. Nhưng ngày hôm sau, một cán bộ Đảng cộng sản Trung Quốc đến gặp và hỏi có phải tôi đã phê bình Hà Quang không. Tại sao - ông ta hỏi - anh lại dám phê bình bừa bãi mọi người như vậy? Vì thế tôi nhận ra Hà Quang không phải là người bình thường mà là người có thế lực.
Nguyễn Ái Quốc rất cẩn trọng việc kết giao với các đồng nghiệp. Khi đến câu lạc bộ Bát Lộ Quân ở Quế Lâm ông phát hiện ở đấy chỉ có những máy chữ gõ chữ Anh. Thật may mắn, một trong những đồng sự Trung Quốc của ông thường có công việc đi Hong Kong, Hải Phòng có thể mua máy chữ gõ chữ Pháp. Trong một chuyến đi, người đồng sự đã mua một chiếc máy chữ cho Quốc. Để trả ơn, Quốc đãi ông bạn của mình bữa tối tại nhà hàng địa phương, không những thế còn vung tay mua hai chai rượu vang để mời.1
Một số bài báo của Nguyễn Ái Quốc, viết bằng tiếng Pháp ký tên P. C. Line, gửi về Hà Nội, được in trong báo Tiếng Dân (Notre Voix) - một tờ báo Việt Nam xuất bản bằng tiếng Pháp. Phần lớn chủ đề liên quan tới tình hình chiến tranh ở Trung Hoa, các vụ tấn công quân đội Nhật Bản và ca ngợi tinh thần can đảm, bất khuất của nhân dân Trung Quốc chống xâm lược. Một mẩu tin, viết tháng tháng 12-1938, chế nhạo những cố gắng mà Tokyo đã “khai hoá văn minh” ở Trung Hoa, vạch rõ vụ thảm sát đẫm máu diễn ra ở thành phố Nam Kinh hồi đầu năm là tội ác điển hình man rợ của Nhật Bản. Một bài khác ca ngợi tinh thần hợp tác được xem là tấm gương trong mặt trận thống nhất Quốc - Cộng, đồng thời bài báo thứ ba vạch ra, mặc dù ưu thế công nghệ Nhật Bản đã thu được kết quả trong thời gian đầu, nhưng trang bị cơ giới của quân đội Nhật bây giờ đang bị sa lầy trên những con đường mòn ở Trung Hoa, vì thế càng gia tăng sự vô dụng. Ông nói, chính phủ Nhật Bản hứa sẽ chiến thắng trong vòng ba tháng, sau đà trước tuổi) đến Côn Minh sau khi cứu phi công Mỹ bị rơi, có lẽ đã liên lạc với một nhóm yêu nước, có khả năng hữu ích tiến hành những hoạt động tình báo ở Đông Dương. Charles Fenn sinh ở Ireland, cựu nhà báo, được cử tới Côn Minh do kiến thức cũng như sự hiểu biết về châu Á và biết tiếng Trung. Fenn hăm hở tìm nguồn mới cung cấp tin tức tình báo Đông Dương để thay thế nhóm GBT. Fenn đề nghị thu xếp một cuộc họp giữa ông với Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh lúc này dùng nhiều thời gian ở Cơ quan Thông tin Chiến tranh đọc mọi thứ trên đời từ tạp chí Thời Báo tới Bách khoa toàn thư Mỹ. Dù Fenn được báo trước Hồ có quan hệ với cộng sản, cuộc họp được thu xếp ngày 17-3. Như Fenn ghi lại trong nhật ký:
Hồ đi cùng một người trẻ hơn tên là Fam. Hồ không như tôi mong đợi. Thứ nhất ông không thực sự “già”: chùm râu bạc gợi đến tuổi tác, nhưng gương mặt ông hoạt bát, có đôi mắt sáng và hàm răng trắng bóng. Chúng tôi nói chuyện bằng tiếng Pháp. Hình như ông từng gặp Hall, Blass, và de Sibour (những sĩ quan của Cơ quan Tình báo Chiến lược ở Côn Minh), nhưng chẳng giải quyết được gì. Tôi hỏi ông ta cần gì ở họ. Ông nói - chỉ cần công nhận nhóm ông (Hội Việt Minh hoặc Hội Độc lập). Tôi nghe loáng thoáng Hội này là cộng sản và hỏi Hồ về điều đó. Hồ nói người Pháp gán tất cả những người An Nam nào muốn độc lập là cộng sản. Tôi nói với ông ta về công việc của tôi, hỏi liệu ông có vui lòng giúp đỡ chúng tôi không. Ông nói họ có thể làm được nhưng không có điện đài và người vận hành. Chúng tôi thảo luận dùng một điện đài, một máy phát điện và một điện báo viên. Hồ nói máy phát điện khá ồn - bọn Nhật luôn ở quanh đấy. Liệu chúng tôi có thể sử dụng kiểu máy chạy bằng pin, như người Trung Quốc đang dùng không? Tôi giải thích những máy đó khá yếu khi làm việc ở khoảng cách xa, đặc biệt khi pin yếu. Tôi hỏi ông muốn gì để trả ơn giúp đỡ chúng tôi. Ông nói cần vũ khí và thuốc chữa bệnh. Tôi nói với ông, vũ khí khó đấy, vì đụng đến người Pháp. Chúng tôi thảo luận vấn đề Pháp. Hồ khẳng định Hội Độc Lập chỉ chống Nhật. Tôi ấn tượng cách nói chuyện dứt khoát của ông, sự điềm tĩnh giống kẻ tu hành, trừ những chuyển động của những ngón tay màu nâu nhăn nheo. Fam ghi chép. Chúng tôi thoả thuận sẽ gặp nhau lần tới. Họ viết tên bằng chữ Hán, dịch ra chữ La Mã là Fam Fuc Pao và Ho Tchih Ming.
Fenn hội ý với những đồng nghiệp của ông tại Cơ quan Trợ giúp Không lực Mặt đất và tất cả họ đồng ý chuẩn bị đưa “già Hồ” (ông chính thức mang bí danh “Lucius”, nhưng người Mỹ thân mật gọi là “già Hồ”) trở lại Đông Dương cùng với nhân viên điện đài người Trung Quốc. Ba ngày sau họ gặp lại:
Cuộc gặp thứ hai với những người An Nam tiến hành ở quán café “Indo - China” trên đường Thanh Bộ. Hình như chủ quán là bạn của họ. Chúng tôi ngồi ở tầng lầu, uống cafe phin kiểu Pháp, đậm và khá ngon. Căn phòng không có người nhưng Hồ nói khách hàng có thể sẽ vào bất chợt. Chúng tôi thoả thuận dùng những thuật ngữ: người Trung Quốc gọi là “bạn”, người Mỹ “anh em”, người Pháp “trung gian”, người Nhật “chiếm cứ”, người An Nam “thổ dân”. Hồ lưu ý tới việc nhận hai người Trung Quốc rất khó khăn, vì một trong hai người là Trung Quốc gốc Mỹ dễ bị nhận diện. Nhóm của Hồ tỏ ra nghi ngờ người Trung Quốc này. Vì không có nhân viên điện đài người An Nam, phải cử nhân viên điện đài người Trung Quốc tất nhiên không tránh được. Nhưng thay vì lấy Frank Tan, ông chỉ nhận một người, sau đó chúng tôi sẽ thả dù một sĩ quan Mỹ xuống. Liệu chính tôi đi được chứ? Nếu đồng ý, tôi sẽ đi. Hồ bảo, nhóm ông sẽ nồng nhiệt đón tiếp tôi. Sau đó chúng tôi thảo luận vấn đề tiếp tế. Fam gợi ý “thuốc nổ mạnh” mà Hall đã từng nói với ông ta. Tôi cố gắng giải quyết mọi chuyện dần dần, nhưng chúng tôi thoả thuận, sẽ thả vũ khí nhẹ, thuốc chữa bệnh và thêm điện đài nữa. Nhân viên điện đài của chúng tôi có thể đào tạo một số người của Hồ sử dụng máy. Hồ cũng muốn gặp Chennault. Tôi đồng ý thu xếp việc này nếu ông đồng ý không đề nghị Chennault một thứ gì khác: tiếp tế hoặc lời hứa ủng hộ. Hồ đồng ý. Ông già lần này mặc quần vải kiểu Trung Hoa và áo cài cúc ở cổ, màu vàng nhạt chứ không phải màu xanh da trời. Đôi săng - đan da của ông thường thấy ở Đông Dương. Râu ông điểm bạc, nhưng lông mày nâu nhạt, xám ở đuôi mắt, tóc ông vẫn còn đen nhưng thưa, bắt đầu hói. Fam mặc âu phục, gò má cao, cằm bạnh. Cả hai người nói nhỏ, thỉnh thoảng cất lên tiếng cười. Chúng tôi cảm thấy hài lòng vui vẻ với nhau.[42]
Sau cuộc gặp mặt, Fenn kiểm tra với đồng nghiệp về Việt Minh, phát hiện mặc dù người Pháp gán cho họ cái nhãn cộng sản, nhưng người Trung Hoa chỉ đơn thuần coi họ là bọn người lắm mưu nhiều mẹo. Khi Fenn đề nghị tổng hành dinh ở Trùng Khánh lời khuyên, ông nhận được chỉ thị: “Hãy tạo một mạng lưới, bất chấp mọi chuyện”, nhưng cảnh báo những hoạt động tình báo không được dính líu vào hoạt động chính trị giữa Pháp và dân bản xứ.
Vài ngày sau, Fenn thu xếp để Hồ Chí Minh gặp tướng Claire Chennault tại đại bản doanh Không Lực số 14, nhưng cảnh báo Hồ một lần nữa không gợi ý một yêu cầu giúp đỡ chính thức. Hồ tới gặp, mặc bộ quân phục ka - ki cũ sờn, mặc dù Fenn để ý thấy ông đã thay một chiếc khuy bị khuyết ở cổ áo. Theo thói quen, Chennault ăn mặc chỉnh tề trong bộ quân phục đẹp, ngồi sau chiếc bàn lớn. Chennault bảnh bao, tự phụ về tướng mạo của mình. Chennault nổi tiếng với vai trò tư lệnh đoàn “Phi Hổ” gồm những phi công tình nguyện giúp đỡ quân đội Quốc Dân Đảng chống lại bọn xâm lược Nhật cuối thập niên 1930. Chennault cám ơn Hồ Chí Minh đã cứu trung uý Shaw. Theo Fenn, không có trao đổi về vấn đề chính trị. Hồ giữ lời hứa không yêu cầu giúp đỡ và - theo lời khuyên của Fenn, ông ca ngợi tinh thần trách nhiệm của Chennault với đoàn “Phi Hổ”, nhưng lúc cuối chuyến thăm ngắn ngủi, Hồ đề nghị Chennault tặng bức ảnh có chữ ký. Fenn nhớ lại:
Không có cái gì mà Chennault thích hơn là tặng ảnh mình. Vì thế ông ấn chuông và Doreen (thư ký của Chennault) bước vào. Lúc ấy có một cô gái khác mang tập ảnh cỡ 8x10. Chennault nói “Ông chọn đi”. Hồ lấy một tấm ảnh, đề nghị Chennault vui lòng ký tên vào bức hình. Doreen đưa chiếc bút Parker 51 và Chennault viết phía dưới bức ảnh “Bạn chân thành của ông, Claire L. Chennault”. Và tất cả chúng tôi ra về trong bầu không khí tươi mát của Côn Minh.[43]
Như thế, Hồ Chí Minh đã xây dựng mối quan hệ với những quan chức quân sự quan trọng ở Côn Minh. Nhưng ông vẫn còn muốn được Hoa Kỳ công nhận chính thức tính hợp pháp Mặt trận Việt Minh, đại diện hợp pháp của nhân dân Việt Nam, để nhận được nhiều hơn sự giúp đỡ cho phong trào. Khi ông chuẩn bị về nước, ông đề nghị Charles Fenn cho sáu khẩu súng tự động Colt.45 mới còn trong bọc giấy, những khẩu súng này Fenn nhận được từ những người bạn ở Cơ quan Tình báo Chiến lược Mỹ.
Cuối tháng 3-1945, Hồ Chí Minh cùng với một nhân viên điện đài mới bay trên một máy bay nhỏ của Mỹ tới thị trấn Bài Tây. Bài Tây cách thị trấn Tĩnh Tây tỉnh Quảng Tây chừng 110 km về phía bắc, tại đây có đại bản doanh mới Bộ chỉ huy Chiến khu 4 của Trương Phát Khuê kể từ khi Nhật chiếm Liễu Châu trong “cuộc tấn công số 1” ở Nam Trung Hoa tháng 11 năm 1944. Mục tiêu của Hồ tại Bài Tây là bắt liên lạc lại với những thành viên Đồng Minh Hội rèn nó thành một vũ khí hữu ích phục vụ cho Mặt trận Việt Minh. Sau khi Hồ rời Liễu Châu tháng 8-1944, Đồng Minh Hội gần như tan rã vì Trung Quốc không quan tâm và do vài thành viên không cộng sản cầm đầu trở về tỉnh Vân Nam. Với sự giúp đỡ của Lê Tống Sơn, đại diện Việt Minh, theo Bộ chỉ huy Chiến khu IV về Bài - Tây, Hồ cố gắng tái tổ chức Đồng Minh Hội bằng cách lập ra một “Uỷ ban hành động” mới do những người ủng hộ ông nắm quyền. Để làm giảm bớt nghi ngờ của những người lãnh đạo tổ chức dân tộc chủ nghĩa, ông cho họ xem bức hình có chữ ký của Chennault và tặng mỗi người một khẩu Colt tự động. Tuy nhiên, vài ngày sau, tướng Tiêu Văn, ngày càng không tin Việt Minh, đã giải tán “Uỷ ban hành động” của Hồ và bầu ra một ban chấp hành mới lẫn lộn cả những thành viên cộng sản và không cộng sản, kể cả Hồ Chí Minh. Hồ bây giờ rời Bài Tây đi Tĩnh Tây trên đường tới Pác Bó.[44]
Trong khi Hồ Chí Minh ở Bài Tây cố gắng hồi sinh Đồng Minh Hội, một sĩ quan tình báo Mỹ đến Côn Minh gia nhập một đơn vị thuộc Cơ quan Tình báo Chiến lược Hoa Kỳ. Đại uý Archimedes “Al” Patti đã phục vụ ở chiến trường châu Âu đến tận tháng 1-1944, sau đó ông thuyên chuyển về Washington, D.C., được bổ nhiệm về Tổ chuyên trách Đông Dương trực thuộc Cơ quan Tình báo Chiến lược Hoa Kỳ. Vẻ ngoài một người đàn ông phóng khoáng, tự tin, Patti có những hiểu biết sâu về lịch sử, không tin Pháp và các di sản hợp pháp ở các thuộc địa. Đọc những tài liệu lưu trữ ở Washington, D.C, trước hết ông ý thức được những hoạt động của Mặt trận Việt Minh và lãnh tụ bí ẩn của nó, Hồ Chí Minh. Tháng 4-1945, ông đến Côn Minh làm phó cho đại tá Paul Helliwell, cầm đầu Cơ quan Tình báo Chiến lược địa phương, chỉ đạo những hoạt động tình báo ở Đông Dương. Ông nhanh chóng nhận thấy chính sách của Mỹ đối với Đông Dương luôn thay đổi, quan chức Mỹ tại đây rất bối rối trước việc liệu có nên trợ giúp “Nước Pháp Tự do” hay không và trợ giúp bao nhiêu, quan chức Mỹ được quyền dính líu với những nhóm kháng chiến Việt Nam ở mức độ nào. Tại cuộc họp diễn ra ngay sau khi Patti tới, hoạt động phong trào Việt Minh được đem ra bàn, đại diện Cơ quan Trợ giúp Không lực kể rằng “ông già” Hồ Chí Minh đồng ý giúp đỡ cơ quan ông tổ chức một mạng lưới tình báo ở Đông Dương. Một người khác nói thêm, Hồ có chút hiểu biết công việc chiến tranh tâm lý với cơ quan tuyên truyền Trung Hoa khi cộng tác với Văn phòng Thông tin Chiến tranh.[45]
Với Patti, phong trào Hồ Chí Minh dường như là một cỗ xe tự nhiên cho hoạt động của ông ở Đông Dương. Bất cứ cố gắng nào của Cơ quan Tình báo Chiến lược Hoa Kỳ sử dụng tích cực Việt Minh có thể gặp phải những vấn đề với cả Trung Hoa và Pháp, Patti cảm thấy được che chở bởi những chỉ thị mới đây của Washington cho phép dùng bất cứ nguồn tình báo nào để thu thập tin tức hoạt động của Nhật Bản ở Đông Dương. Điều ông bây giờ cần là cơ hội gặp được Hồ Chí Minh, vừa rời Côn Minh về nước. Tình cờ, vài ngày sau khi tới Côn Minh, Patti tiếp vị khách Vương Minh Phương. Sau những chào hỏi ban đầu, Phương tự giới thiệu mình là thành viên Mặt trận Việt Minh do “tướng” Hồ Chí Minh lãnh đạo, tế nhị mời chào giúp đỡ sự nghiệp Đồng Minh đổi lấy giúp đỡ quân sự và công nhận mặt trận là tổ chức chính trị duy nhất đại diện cho lợi ích của nhân dân Việt Nam. Khi Patti hỏi có cách nào tìm tướng Hồ, Phương trả lời Patti có thể liên lạc với Tĩnh Tây, Hồ Chí Minh đang dừng chân tại đó trên đường trở về Đông Dương.
Patti thảo luận với đại tá Richard Heppner, cấp trên của ông, Trưởng đại diện Cơ quan Tình báo Chiến lược Hoa Kỳ ở Trùng Khánh. Trong thời bình, đại tá Richard Heppner là một luật sư giỏi giang, có những mối quan hệ với nhiều nhân vật cao cấp trong chính quyền Roosevelt. Heppner thoạt đầu lưỡng lự. Patrick Hurley, một chính trị gia cựu trào bang Oklahoma, người vừa thay thế Clarence Gauss, làm đại sứ Mỹ tại Trung Hoa, đã thành người ủng hộ Tưởng Giới Thạch và bị những sĩ quan Cơ Quan Tìmh Báo Chiến Lược ở Diên An làm bực mình trong việc dàn xếp hợp tác giữa Tưởng và phe cộng sản Trung Hoa. Hurley cũng cảnh báo Heppner, cả Pháp và Trung Hoa sẽ khó chịu khi phát hiện tình báo Mỹ tiếp xúc với Việt Minh, đặc biệt với Hồ Chí Minh, người mà tình báo Pháp đã xác định chính xác là Nguyễn Ái Quốc. Tuy nhiên, ngày 26 tháng 4, Heppner nhận được bức điện của tướng Albert C. Wedemeyer, tư lệnh lực lượng Mỹ tại chiến trường Trung Hoa, cho phép ông đưa điệp viên của Cơ quan Tình báo Chiến lược vào Đông Dương thu thập tin tức tình báo và tiến hành công tác phá hoại kho tàng Nhật trong vùng này. Heppner thông báo cho Patti, vấn đề tranh thủ Hồ Chí Minh vào nỗ lực Đồng Minh vẫn con bỏ ngỏ để xem xét, đồng thời cảnh báo Patti đừng xa lánh Pháp hoặc Trung Hoa.
Ngày hôm sau, Patti đến sân bay huyện Thiên Bảo, phía bắc Tĩnh Tây, sau khi hội ý với đại diện Cơ Quan Trợ Giúp Không Lực địa phương, ông đi đến Tĩnh Tây, tại đây ông gặp một liên lạc Việt Minh tại một nhà hàng địa phương và được đưa đến gặp Hồ Chí Minh tại một làng nhỏ cách tỉnh lỵ khoảng 10 cây số. Sau khi nhã nhặn giới thiệu với khách danh tính và quan điểm của mình, Hồ miêu tả tình hình Đông Dương và vạch ra phong trào của ông có thể giúp đỡ nhiều dịch vụ hữu ích cùng tin tức cho Đồng Minh nếu tổ chức của ông được cung cấp vũ khí hiện đại, đạn dược và phương tiện thông tin liên lạc. Tại thời điểm này, Hồ thừa nhận phong trào chỉ dựa vào một lượng nhỏ vũ khí cướp được từ kẻ thù. Patti không có bất cứ cam kết nào, nhưng hứa sẽ xem xét vấn đề. Theo ý kiến bản thân, Patti rất vui.[46]
Một tuần sau, Hồ Chí Minh trở lại Pác Bó sau chuyến đi vất vả qua những khu rừng dọc biên giới. Nhóm đi cùng ông toàn bộ 40 người, kể cả nhân viên điện đài Mỹ, Mac Shinn và Frank Tan, thành viên nhóm GBT bị thui chột. Được Fenn lựa chọn, cả hai người hy vọng, là người Mỹ gốc Á, họ bớt được những con mắt thu hút của gián điệp hơn là người Mỹ chính gốc. Từ Pác Bó, Mac Shinn bắt đầu báo cáo về Côn Minh và Cơ quan Tình Bao Chiến lược Hoa Kỳ bắt đầu thả đồ tiếp tế, bao gồm thuốc tây, một bộ điện đài và nhiều vũ khí xuống vùng hoang vu quanh Pác Bó. Đổi lại, Hồ và các đồng chí của ông cung cấp cho Mỹ những dịch vụ hữu ích, gồm tin thời tiết, cứu vài phi công Mỹ bị rơi ở bắc Đông Dương, đưa họ trở lại Trung Hoa. Cuối cùng, Hồ đã xây dựng được sự nối kết - tuy mỏng manh - với quân Đồng Minh.
Lúc này, thắng lợi của Đồng Minh trên chiến trường Thái Bình Dương chỉ còn là vấn đề thời gian. Quân đội Mỹ đang tiến sát những hòn đảo Nhật Bản, những cuộc không kích bằng máy bay ném bom B-29 phá hoại tan tành những thành phố lớn của Nhật Bản. Đồng Minh cũng đang hình thành kế hoạch can thiệp vào Đông Dương, phối hợp với lực lượng Quốc Dân Đảng Trung Hoa đang di chuyển về phía nam. Quan điểm này được Nhà Trắng ủng hộ mạnh mẽ.
Tại Đông Dương, tình hình tiến triển quá nhanh chóng. Thời tiết không thuận lợi một số vùng rộng lớn trong nước dẫn tới mất mùa đáng kể trong vụ thu hoạch lúa thu năm 1944, dẫn đến các đầu nậu đầu cơ và tích trữ thóc gạo. Chính quyền chiếm đóng Nhật Bản lại làm vấn đề thêm tồi tệ hơn khi họ chở gạo về Nhật và bắt nông dân ở Bắc Việt Nam nhổ lúa trồng cây có dầu, lạc, bông và đay. Giờ đây khi nạn đói hoành hành, bọn Nhật không chịu mở kho thóc quốc gia cứu trợ hoặc tăng việc chở gạo từ đồng bằng Cửu Long mầu mỡ tới những khu vực đang bị đói kém ở Trung Bộ và Bắc Kỳ. Chính quyền Jean Decoux tỏ ra thờ ơ và vô trách nhiệm nên chẳng giúp đỡ được bao nhiêu.
Mùa đông năm ấy, chính quyền từ chối cắt giảm thuế, tăng hạn mức gạo bắt buộc mỗi nông dân phải bán cho chính phủ. Dù nông dân đã chuyển sang trồng những cây lương thực, như khoai lang hoặc sắn, nhưng nguồn lương thực cạn nhanh chóng. Khi giá cả toàn bộ nhu yếu phẩm bắt đầu tăng chóng mặt, nạn đói cũng bắt đầu đe doạ khu vực thành thị. Đến giữa mùa đông, hàng ngàn người chịu cảnh đói, số người chết đói tăng lên nhanh chóng. Nông dân phải chống đói bằng cách ăn rễ cây, cỏ dại, thậm chí cả vỏ cây, đồng thời dân thành thị phải bán những thứ đồ quý giá trong gia đình để mua gạo và rau với giá cả cao vót do lạm phát. Xác người chết bắt đầu xuất hiện dọc quốc lộ, những nông dân đói đi lang thang ăn xin hoặc tụ tập gần những kho thóc được quân đội Nhật canh giữ nghiêm ngặt.
Dù bi kịch này tác động đến nhân dân Việt Nam như thế nào đi nữa thì cuộc khủng hoảng là một cơ hội trời cho đối với Việt Minh. Họ lập luận, bây giờ do mâu thuẫn, nên chính quyền Pháp hoặc Nhật không đếm xỉa gì đến lợi ích của nhân dân Việt Nam. Giữa mùa đông năm ấy, cán bộ Việt Minh xúi giục nông dân phá các kho thóc ở khắp các tỉnh Bắc Kỳ, Trung Kỳ, chiếm kho thóc chia cho những người bị đói. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, điều đó cũng quá muộn, con số người chết đói lên tới hàng trăm ngàn. Xác người chết nằm la liệt ven đường ở nông thôn, trong khi những người thân còn lại trong gia đình chỉ còn da bọc xương.[47]
Mùa đông này, Pháp cố gắng quét sạch những căn cứ du kích Việt Minh ở vùng núi phía bắc đồng bằng sông Hồng. Sau những chiến thắng ban đầu trong trận Phai Khắt và Nà Ngần, những đơn vị tuyên truyền vũ trang của Võ Nguyên Giáp bây giờ hành quân về phía bắc tới biên giới Hoa - Việt, chiếm những làng bản của người thiểu số dọc đường. Khi người Pháp đưa lực lượng tuần tra tới, quân nổi dậy rút về căn cứ Hoàng Hoa Thám giữa Cao Bằng và Bắc Cạn, ở đó Võ Nguyên Giáp, Vũ Anh, Phạm Văn Đồng trong Ban Chấp hành liên tỉnh, vạch kế hoạch hành quân về phía nam để giải phóng Hà Nội và đồng bằng sông Hồng khỏi tay quân đội chiếm đóng Nhật Bản.
Ngày 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp, chấm dứt nửa thế kỷ thống trị của Pháp tại Việt Nam. Nhật huỷ bỏ chính quyền thuộc địa, thay thế nó bằng chính quyền bù nhìn triều đình do hoàng đế Bảo Đại đứng đầu dưới sự thống trị vững chắc của họ. Việc làm của Nhật ngẫu nhiên đã mở ra toàn bộ khu vực bắc đồng bằng sông Hồng trước cuộc nổi dậy cách mạng. Tổng bí thư Trường Chinh đã lường trước nước cờ, tổ chức cuộc họp một ngày trước đó với một số uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương ở làng Đình Bảng, cách đông bắc Hà Nội 25 cây số, thảo luận tình hình. Trong khi đảo chính đang diễn ra, Ban Chấp hành Trung ương chỉ thị ra lệnh chuẩn bị cao độ cho một cuộc tổng khởi nghĩa sắp tới. Bản chỉ thị tuyên bố, có một số yếu tố thuận lợi để khởi nghĩa thành công, bao gồm khủng hoảng chính trị do đảo chính, nạn đói tăng mạnh và khả năng Đồng Minh can thiệp, rồi kết luận đấu tranh vũ trang bây giờ sẽ được coi là ưu tiên cao nhất. Do vậy, bản chỉ thị kêu gọi mở rộng căn cứ du kích, mở rộng cơ sở chính trị Mặt trận Việt Minh, tập hợp những lực lượng vũ trang cách mạng khác nhau vào Việt Nam Giải Phóng Quân.
Tuy thế, Trường Chinh vẫn thận trọng cho rằng Đảng phải chờ đợi cho tới khi nào điều kiện trong nước và thế giới chín muồi, vì bản thân lực lượng cách mạng vẫn còn chưa được chuẩn bị đầy đủ để tiến hành khởi nghĩa thành công. Chỉ khi nào những yếu tố đó chín muồi, những người ủng hộ ông sẽ được chuẩn bị hành động. Ban Chấp hành Trung ương giả định Đồng Minh sẽ can thiệp. Lực lượng của đảng được lệnh tấn công hậu cứ địch, tiến hành tổng khởi nghĩa ngay khi ló sáu tháng. Nhưng ông chỉ rõ, cuộc chiến tranh tiếp tục không ngừng.[4]
Tờ Tiếng Dân được xuất bản công khai dưới sự chỉ đạo và lãnh đạo Đảng cộng sản Đông Dương ở Hà Nội. Sự xuất hiện của nó chính là một trong những kết quả của sự chuyển hướng chính sách thuộc địa của Pháp xảy ra sau khi Mặt trận Bình Dân ra đời năm 1936. Với tham gia của các đảng phái cánh tả vào chính phủ mới ở Paris, tù chính trị sớm được thả khỏi trại giam ở Đông Dương. Các đảng phái chính trị của mọi xu hướng được phép tham gia những hoạt động hữu hạn có tổ chức.
Sự chuyển hướng chính sách ở Paris, cùng với sự thay đổi chiến lược ở Moscow tại Đại hội Quốc tế Cộng sản VII, khiến giới lãnh đạo Đảng cộng sản Đông Dương ngạc nhiên. Tại Hội nghị Macao tháng 3-1935, Hà Huy Tập và các đồng chí của ông đã chấp nhận đường lối tả khuynh được thông qua tại Đại hội VI năm 1928, với niềm tin vững chắc chiến lược đó sẽ tiếp tục.
Từ Moscow về nước vào mùa xuân 1936, Lê Hồng Phong lập tức triệu tập cuộc họp Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Đông Dương ở Thượng Hải để thảo luận kết quả của Hội nghị VII. Ông giải thích ý nghĩa sự chuyển hướng chính sách mới đây ở Moscow, dự kiến từng bước đưa Đảng cộng sản Đông Dương đi đúng đường lối chiến lược mới. Do sức ép của ông, Ban Chấp Hành tán thành việc lập Mặt trận Thống Nhất Dân Chủ Đông Dương mới chống lại chủ nghĩa phát - xít toàn cầu và chế độ thực dân Pháp. Nghị quyết không đả động gì tới sự tiếp xúc với những đảng phái chính trị cạnh tranh, nhưng sau hội nghị, Ban Chấp hành Trung ương gửi một bức thư ngỏ tới toàn thể đảng viên để giải thích chính sách mới. Bức thư cũng được gửi tới Việt Nam Quốc Dân Đảng và những đảng dân tộc chủ nghĩa khác đề xuất hợp tác với mục đích chung, giành độc lập dân tộc và đem lại cải cách xã hội.[5]
Dù chỉ là nguồn tin nội bộ cho rằng Ban Chấp hành Trung ương đã nhất trí tán thành đường lối mới của Moscow, nhưng chắc chắn đó là viên thuốc đắng khó nuốt cho một số người chủ trương cứng rắn và giáo điều như Hà Huy Tập. Trong nội bộ Đảng đã xuất hiện sự chống đối, trước hết từ các đảng viên nhiều năm ngồi tù, có nhiều kinh nghiệm riêng cay đắng với chế độ thực dân Pháp.
Dù thế nào đi nữa, giới lãnh đạo đảng cũng thông qua chiến lược mới và sau khi hội nghị kết thúc, Ban Chấp hành Trung ương chuyển về Đông Dương, một đại bản doanh mới ở làng Hóc Môn, bắc ngoại ô Sài Gòn. Lê Hồng Phong đại diện Cộng sản Quốc tế của Đảng cộng sản Đông Dương, trở về cùng họ. Hai năm sau, Đảng chuyển dần ra công khai đồng thời tăng số đảng viên trong tất cả những tầng lớp tiến bộ xã hội Việt Nam. “Hội Ái Hữu”, đại diện cho những lợi ích của các nhóm khác nhau như nông dân, công nhân, thanh niên và phụ nữ được thành lập ở những thành thị, thôn xã, nhà máy, trường học là mảnh đất đào tạo và trung tâm tuyển mộ những người ủng hộ, cũng là vỏ bọc cho những hoạt động của Đảng cộng sản Đông Dương. Những tờ báo của Đảng, do các cán bộ trẻ đầy hứa hẹn như Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh, Trần Huy Liệu đảm nhận, được thành lập trong tất cả những thành phố lớn để trình bày đường lối ôn hoà mới trong một cố gắng tìm kiếm sự ủng hộ của tầng lớp trung lưu yêu nước.
Ở mặt nào đó, chiến lược đã thành công. Trong suốt thời gian hai năm tiếp theo, số lượng đảng viên tăng vài lần, tỷ lệ phần trăm những người ủng hộ thuộc giai cấp công nhân và nông dân tăng vọt. Nhưng chính phủ thuộc địa chỉ có một sự khoan dung giới hạn đối với những hoạt động dân tộc chủ nghĩa, khi những tờ báo của Đảng cộng sản Đông Dương lớn tiếng phê bình những chính sách hiện hành, nhà cầm quyền trở mặt. Một số nhà phê bình xuất sắc, gồm nhà dân tộc cấp tiến Nguyễn An Ninh và ngay cả Lê Hồng Phong, bị bắt và giam giữ một thời gian ngắn rồi được thả.
Chính sách thuộc địa thay đổi thất thường, khuấy lên sự căng thẳng trong nội bộ Đảng về vấn đề hoạt động công khai hay bí mật, trở thành chủ đề chính tại cuộc họp Ban Chấp hành Trung ương diễn ra tại làng Hóc Môn năm 1937 và 1938. Tại cuộc họp tháng 3-1938, vấn đề này đem ra bàn trước tiên. Tổng bí thư Hà Huy Tập, nhà phê bình xuất sắc nhất của chiến lược Mặt trận Bình Dân mới, còn Lê Hồng Phong là người biện hộ mạnh mẽ tiếng nhất, tranh cãi ủng hộ chính sách cộng tác với tất cả những đảng dân tộc chủ nghĩa tiến bộ. Đứng giữa là Nguyễn Văn Cừ, đảng viên trẻ từ đồng bằng sông Hồng, người muốn duy trì thế cân bằng giữa công khai và bí mật, cộng tác với những tổ chức tiến bộ khác đồng thời tiếp tục chống lại những người theo chủ nghĩa hợp hiến. Cuối cùng, quan điểm của Cừ thắng. Hà Huy Tập, do tính đối đầu và đa nghi khiến phần đông các đồng chí của ông không hài lòng, bị thay thế bằng Nguyễn Văn Cừ, Tổng bí thư mới.[6]
Nguyễn Ái Quốc theo sát những thng. Hồ bây giờ chú tâm tới kế hoạch tổng khởi nghĩa, triệu tập hội nghị cán bộ đảng đầu tháng Sáu thảo luận tình hình. Sau khi nghe báo cáo về kết quả hội nghị Hiệp Hoà, ra lệnh thành lập một vùng giải phóng mới gồm bẩy tỉnh ở Việt Bắc (Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên và một số khu vực của tỉnh liền kề), Hồ Chí Minh nhấn mạnh, lực lượng quân sự trong từng tỉnh hành động theo những tên riêng rẽ quá rắc rối, nên tất cả đơn vị quân đội khắp vùng giải phóng phải được tập trung lại dưới tên mới “Việt Nam Giải Phóng Quân”. Bản thân vùng giải phóng cũng có hơn một triệu dân, dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành lâm thời. Nghị quyết đưa ra sau khi kết thúc hội nghị kêu gọi bầu cử ở tất cả các cấp để hình thành bộ máy hành chính dựa trên những nguyên tắc dân chủ, kêu gọi cải cách xã hội và kinh tế, chia lại ruộng đất, giảm thuế, thúc đẩy học hành. Hồ hy vọng triệu tập hội nghị cán bộ toàn quốc trong tương lai gần để thực hiện những chỉ thị của hội nghị, nhưng chẳng mấy chốc ông nhận ra, trong hoàn cảnh này một hội nghị như thế là không thực tế, vì thế đã quyết định Giáp - sau cuộc hội ý với Hồ Chí Minh - sẽ điều phối công việc từ đại bản doanh tại Tân Trào.[54]
Trong suốt thời gian hai tháng tiếp theo, Hồ Chí Minh và các đồng chí vất vả theo sát bước tình hình biến chuyển nhanh chóng. Bây giờ có những dấu hiệu tăng lên cho thấy lực lượng Đồng Minh bỏ qua Đông Dương, tấn công trực tiếp các đảo Nhật Bản. Chiến tranh có thể sắp kết thúc. Để chiếm được sự ủng hộ dân chúng địa phương, những mệnh lệnh đưa ra thực hiện tịch thu ruộng đất của bọn địa chủ phản cách mạng trong vùng giải phóng và chia ruộng công cho người nghèo. Bãi bỏ lao động khổ sai, thành lập những Uỷ ban nhân dân cách mạng tại làng xóm thông qua bầu cử dựa trên phổ thông đầu phiếu. Hồ cố gắng bao quát toàn bộ hoạt động, giao liên xuất phát hàng ngày mang thông điệp của ông hoặc của Võ Nguyên Giáp đến những đơn vị cách mạng khắp khu vực.
Một trong những nhiệm vụ cần lưu ý, phải đảm bảo thông tin liên lạc dễ dàng hơn với những người Mỹ đỡ đầu Hồ Chí Minh ở nam Trung Hoa. Trong một thông điệp gửi Côn Minh, Hồ đề xuất sử dụng một ngàn du kích được huấn luyện đang đóng gần Chợ Chu để chống lại Nhật. Một số sĩ quan Mỹ ở Côn Minh và Trùng Khánh lo ngại những hậu quả chính trị có thể xảy ra do mối quan hệ chính thức của Mỹ với Việt Minh. Sau đó mọi việc trở nên rõ ràng khi những đơn vị quân Pháp dưới sự chỉ huy của tướng Gabriel Sabbatier, chạy sang nam Trung Hoa sau đảo chính tháng 3-1945 là vô dụng. Patti lôi kéo sự đồng ý của cấp trên, đại tá Helliwell, theo đuổi vấn đề đến cùng. Để tạo thuận lợi cho việc chuyên chở người và quân trang, Patti điện cho Hồ Chí Minh, đề nghị ông cho làm một sân bay nhỏ có thể dùng để đưa người và trang thiết bị tới căn cứ địa Việt Minh tại Tân Trào. Hồ sống ở một chỗ gần đó thuận tiện cho việc xây dựng một đường băng cất hạ cánh nhỏ. Ngày tháng 30-6, ông điện cho Patti, chấp nhận một toán người Mỹ và yêu cầu cho biết thời gian họ tới. Tuy nhiên, ông cảnh báo trước rằng không người Pháp nào được tham gia hoạt động. Trong khi đó, Cơ quan trợ giúp không lực mặt đất thả dù trung uý Dan Phelan xuống Tân Trào gây dựng mạng lưới tạo thuận lợi việc cứu phi công Đồng Minh bị rơi đồng thời cũng là đại diện Mỹ cho tới khi toán quân nhân Cơ quan Tình báo Chiến lược Mỹ tới.
Ngày 16-7-1945, thiếu tá Allison Thomas, chỉ huy toán “Con Nai” được Cơ Quan Chiến lược Hoa Kỳ cho phép liên hệ với Việt Minh, đã nhảy dù theo từng nhón nhỏ vào Tân Trào với nhiệm vụ đánh giá tình hình và giúp đỡ Việt Minh tiến hành những hoạt động chống Nhật. Hai quân nhân của nhóm Con Nai mắc dù trên ngọn cây được đưa xuống đất và cả toán được 200 du kích trang bị các loại vũ khí khác nhau tịch thu của địch, nồng nhiệt đón chào. Thomas cảm động:
Tôi được hộ tống đến gặp ông Hoè, một trong những người chỉ huy cao cấp của Việt Minh. Ông nói tiếng Anh tuyệt vời nhưng thân thể ông trông ốm yếu vì ông vừa đi bộ từ Tĩnh Tây trở về. Ông chân thành tiếp chúng tôi. Họ đưa chúng tôi tới đại bản doanh dành cho chúng tôi. Đại bản doanh là những lán hầm làm bằng tre bương, sàn bằng bương vầu cách mặt đất hơn một mét, mái lợp lá cọ. Chúng tôi ăn bữa tối có bia (vừa tịch thu được), cơm, măng và thịt bò nướng. Họ vừa mới giết một con bò để đón chúng tôi.
Tuy thế, không phải tất cả thành viên toán Con Nai được đón tiếp nồng nhiệt,. Một trong hai quân nhân được cứu từ trên ngọn cây là trung uý Pháp Montfort. Khi Thomas gặp Hồ sáng hôm sau, ngày 17-7-1945, Hồ nói là nếu những người gác biết Montfort là người Pháp, họ đã bắn. Ông nhấn mạnh “Tôi ưa người Pháp, nhưng nhưng không thích binh sĩ Pháp”. Ông nói, dù có mười triệu người Mỹ cũng sẽ được đón tiếp, nhưng người Pháp thì không. Montfort và hai công dân Pháp khác được lệnh phải dời khỏi trại. Cuối cùng họ theo những người tị nạn tới Trung Hoa. Để những người khách Mỹ thoải mái, Hồ chỉ thị một thủ lĩnh địa phương làm món gà quay mà người Mỹ ưa chuộng và cử người kiếm champagne và rượu Dubonnet cho bữa tiệc đón tiếp.[55]
Hồ Chí Minh ở cạnh lán người Mỹ. Một ngày sau khi người Mỹ tới, Hồ đề nghị Thomas thông báo nhà cầm quyền Mỹ, “Việt Minh sẵn lòng đàm phán với sĩ quan Pháp cao cấp nào đấy (tướng Sebotier, chẳng hạn) và người Pháp sẽ đưa ra vấn đề gì”. Ở Côn Minh, Patti chuyển thư này cho thiếu tá Jean Sainteny, người đứng đầu phái bộ quân sự “Nước Pháp Tự do” với mới tới để chuẩn bị tái lập quyền cai trị của Pháp ở Đông Dương sau chiến tranh. Vài ngày sau, Hồ có nguyện vọng nói chuyện với một đại diện Pháp, tại Đông Dương hoặc tại Trung Hoa và chuyển lời đề nghị những cải cách trong tương lai sau khi kết thúc chiến tranh. Trong số những điểm được đưa ra có bầu cử nghị viện phổ thông đầu phiếu, trả lại nguồn tài nguyên thiên nhiên cho nhân dân Việt Nam, cấm bán thuốc phiện, Pháp phải cam kết mọi quyền tự do trong Hiến Chương Liên hiệp Quốc phải được đảm bảo đối với nhân dân Đông Dương và nhân dân Việt Nam phải được được độc lập sau năm năm hoặc không quá mười năm.[56]
Phía Pháp không trả lời ngay. Nhưng Hồ Chí Minh bắt đầu gây ấn tượng với những khách Mỹ. Thomas ấn tượng về chất lượng lực lượng vũ trang Việt Minh. Được Côn Minh chấp thuận, toán của ông bắt đầu huấn luyện những đơn vị quân đội địa phương cách sử dụng vũ khí Mỹ (súng trường M-1, tiểu liên carbin, bazooka) và chiến thuật du kích. Họ lựa chọn một trăm người lính tốt nhất tham gia chương trình đào tạo ở một làng cách Tân Trào chừng bốn cây số. Henry Prunier, một thành viên toán Con Nai, hồi tưởng, họ là những người tiếp thu nhanh.
Hồ Chí Minh cũng tìm cách giảm bớt sự nghi ngờ của những người khách Mỹ về xu hướng tư tưởng của phong trào. Như Thomas nhấn mạnh trong một báo cáo gửi Côn Minh: “Hãy quên con ma cộng sản đi. Việt Minh không phải là cộng sản. Họ đứng dậy giành tự do và cải cách sự thống trị tàn ác của Pháp”. Bản thân trung uý Phelan thuộc Cơ quan Trợ giúp Không lực Mặt đất, lúc đầu miễn cưỡng tham gia hoạt động vì cảm thấy Hồ Chí Minh có khuynh hướng cộng sản, nhưng chẳng mấy chốc Hồ đã đánh tan sự nghi ngờ của viên sĩ quan Mỹ trẻ tuổi. Có lần nói với Phelan, phần mở đầu bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Mỹ, Hồ sẽ dự định đưa vào Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Việt Nam. Phelan báo cáo “Nhưng thực tế ông ta biết việc đó hơn tôi”. Trong bức điện gửi từ Pác Bó cho Côn Minh, Phelan miêu tả Việt Minh “không phải là những người chống Pháp đơn thuần, mà họ là những người hoàn toàn chân thật và đáng ủng hộ”. Phelan có lẽ chưa hề thay đổi ý nghĩ. Nhiều năm sau này, khi nói chuyện với nhà báo Robert Shaplen miêu tả Hồ là “một người quá dịu dáng. Nếu tôi phải chọn lựa phẩm chất tốt nhất của ông già nhỏ thó đang ngồi trong rừng, đó là bản tính hiền lành của ông”.[57]
Những gian khổ trong chuyến đi dài ngày từ Trung Quốc về bắt đầu làm cơ thể ông vốn yếu ớt càng bị suy yếu. Dù ông mới chỉ 54 tuổi, nhưng ông mắc phải bệnh lao trong thời gian nhiều tháng bị giam ở Trung Hoa, nhiều người quan sát nhấn mạnh, trông ông rất ốm yếu sau khi được thả. Đáng lẽ ông gục ngã vì bệnh tật một lần nữa trên đường từ Tĩnh Tây trở về Đông Dương, nhưng ông cố gắng vượt qua. Võ Nguyên Giáp kể lại câu chuyện:
Sự căng thẳng và gian khổ đã ảnh hưởng đến sức khoẻ bác. Bác bị ốm. Suốt vài ngày liền, cho dù sốt và mệt, ông vẫn lao vào làm việc. Hàng ngày phải đến báo cáo, tôi lo ngại sức khoẻ của bác. Bác luôn luôn đáp lại: “Sẽ qua thôi. Cứ đến và cập nhật tin tức với tôi”. Nhưng rõ ràng thấy bác đang yếu đi và gày đi trông thấy. Một hôm, tôi thấy bác trong trạng thái hoảng loạn, mê sảng do sốt. Chúng tôi lúc đó không có thuốc, chỉ có mấy viên aspirin và ký ninh. Bác uống thuốc nhưng chẳng suy giảm. Nói chung, trừ lúc nghỉ ngơi, bác chưa bao giờ nằm. Thế mà bấy giờ bác nằm trên võng mê sảng nhiều giờ. Trong số những người thường xuyên làm việc bên cạnh bác, lúc này chỉ còn mình tôi tại Tân Trào. Bác mệt đến mức một đêm tôi đề nghị sẽ ở cùng với bác, năn nỉ rằng tôi không bận, bác mở mắt và khẽ gật đầu đồng ý.
Chiếc lán nhỏ bé của chúng tôi bên sườn đồi chìm trong đêm đen của rừng sâu. Mỗi lần Bác Hồ chợt tỉnh, bác lại bàn tình hình hiện tại: “Hoàn cảnh bây giờ thuận lợi cho chúng ta. Chúng ta cần phải giành được độc lập bằng mọi giá. Chúng ta phải sẵn sàng hy sinh, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn”.
Trong đầu bác luôn luôn chỉ duy nhất một điều khiến bác bận tâm: “Trong chiến tranh du kích, phong trào phát triển, cần phải tận dụng cơ hội thúc đẩy nó đi xa hơn, mở rộng và xây dựng căn cứ địa vững chắc, chuẩn bị cho thời khắc bùng nổ”. Lúc đó, tôi không tin đó là lời bác trăng trối với tôi, nhưng sau này suy nghĩ lại, tôi tự nhủ, ông cảm thấy quá yếu nên nói với tôi những lời cuối cùng. Về đêm ông đôi lúc tỉnh táo và lo âu. Vào một buổi sáng, tôi khẩn cấp thông báo cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng về sức khỏe bác. Sau đó tôi hỏi dân làng xem có ai biết cây thuốc rừng nào chữa được bệnh không. Họ cho tôi biết một người đàn ông… biết cách làm thuốc chữa bệnh sốt. Tôi cử một liên lạc viên lập tức tới gặp ông ta. Người đàn ông này, dân tộc Tày, bắt mạch, đốt một rễ cây mà ông vừa nhổ trong rừng, tán nhỏ cho vào bát cháo, đưa cho bệnh nhân. Điều kỳ diệu xảy ra. Thuốc có hiệu lực. Hồ Chí Minh hết mê sảng. Ngày hôm sau cơn sốt cũng bớt đi, bác uống thuốc này hai ba lần một ngày. Sức khoẻ ông dần tốt lên. Sau khi cơn sốt dứt hẳn, bác dậy được và trở lại công việc hàng ngày của mình.[58]
Nhưng tài liệu của Mỹ lại kể khác hẳn. Một nhân viên thuộc Cơ quan Tình báo Chiến lược Mỹ nhảy dù xuống vùng giải phóng, là một y tá, ông nhanh chóng chuẩn đoán Hồ Chí Minh mắc bệnh sốt rét và kiết lỵ, tiêm cho ông thuốc ký ninh và uống sulfamit. Không rõ có phải cách điều trị này cứu ông hay không. Thomas sau này bình luận mặc dù Hồ còn yếu, song “không tin Hồ sẽ chết nếu không có sự giúp đỡ của chúng tôi”.[59]
Một nhiệm vụ chính của những người lãnh đạo tại Tân Trào là đáp ứng chỉ thị mới đây của Ban Chấp hành Trung ương triệu tập càng sớm càng tốt Hội nghị toàn thể Đảng và Hội nghị Đại biểu Việt Minh toàn quốc. Do lực lượng Đồng Minh nhanh chóng tiến sát những đảo Nhật Bản, Hồ thúc giục các đồng chí của ông thu xếp không chậm trễ triệu tập hai hội nghị trên. Tuy nhiên, không thể tổ chức hội nghị vào tháng 7, vì các đại biểu không thể đến đúng thời gian, hội nghị phải hoãn đễn giữa tháng 8-1945.
Đầu tháng 8-1945, Hồ trở nên nôn nóng hơn bây giờ hết. Nghe đài nói bom nguyên tử thả xuống Hiroshima ngày 6-8, ông chỉ thị cho tất cả của tổ chức Việt Minh trong nước cử đại biểu đến Tân Trào càng sớm càng tốt. Bốn ngày sau, ông gặp Trường Chinh và những uỷ viên khác của Ban Chấp Hành Trung ương, từ Hà Nội tới. Một số đại biểu cảm thấy Đảng không cần phải triệu tập hội nghị đại biểu và đơn giản chỉ nên cướp chính quyền theo cách riêng, nhưng cuối cùng đa số theo quan điểm của Hồ. Về thời gian hội nghị, có một số khó khăn đưa ra, Hồ phản bác: “Chúng ta phải tổ chức hội nghị ngay tức thì và không được để lỡ. Chúng ta phải đấu tranh để làm việc đó tức thời. Tình hình đang biến đổi rất nhanh chóng. Chúng ta đừng để lỡ dịp may này”. Cuối cùng Hội nghị đại biểu nhân dân toàn quốc dự kiến họp ngày 16-8-1945. Ban Chấp hành Trung ương Đảng sẽ tổ chức hội nghị toàn thể trước ba ngày.[60]
Suốt mấy ngày sau, dù còn yếu sau khi ốm dậy, Hồ Chí Minh tiếp tục theo dõi sát tình hình thế giới bên chiếc radio của Thomas. Việc thành lập Liên Hợp Quốc ở San Francisco, Liên Xô tuyên chiến với Nhật Bản và quả bom nguyên tử thứ hai ném xuống Nagasaki tất cả đưa đến chiến thắng nhanh chóng, rõ ràng chiến tranh sắp kết thúc. Sau một thoáng ngần ngừ (có thể do ốm), Hồ đồng ý gặp đại diện phong trào “Nước Pháp Tự do” ở Côn Minh. Đầu tháng 8-1945, Hồ tới đường băng chờ máy bay đón ông, nhưng máy bay từ Trung Quốc sang không hạ cánh do thời tiết xấu. Khi tin tức về Hiroshima tới, Hồ huỷ bỏ kế hoạch, quyết định ở lại Tân Trào. Ngày 12-8-1945, giới lãnh đạo đảng đã quyết định trực tiếp phát động tổng khởi nghĩa trên toàn quốc - dù vài đại biểu vẫn chưa tới - tổ chức đại hội Đảng ngay ngày hôm sau, sau này các nhà sử học Việt Nam gọi là Hội nghị IX.
Hội nghị Đảng họp tại một căn nhà nhỏ ở làng Tân Trào. Tham dự có 13 đại biểu, gồm Tổng bí thư Trường Chinh, Nguyễn Lương Bằng (đại biểu Bắc Kỳ), Nguyễn Chí Thanh (đại biểu Trung Kỳ), Hà Huy Giáp, em trai Hà Huy Tập, (đại biểu Nam Kỳ), Võ Nguyên Giáp, Hoàng Văn Hoan (đại biểu Việt Bắc) và thêm nữa là đại biểu từ Thái Lan và Lào, cũng như bản thân Hồ Chí Minh.
Do ốm, Hồ Chí Minh không dự buổi khai mạc, nhưng ông có mặt tại những phiên họp chính Hội nghị IX. Ông phát biểu tổng quát về tình hình quốc tế, nhấn mạnh quân đội Nhật Bản sắp đầu hàng khắp châu Á, tiên đoán quân đội Đồng Minh chẳng mấy chốc vào Đông Dương. Ông thú nhận, sự hiện diện quân đội chiếm đóng nước ngoài, chẳng hạn Anh, Pháp, Quốc Dân Đảng, sẽ là một yếu tố làm tình hình thêm phức tạp, nhưng Đảng không có sự lựa chọn trừ khi tiếp xúc với họ. Với quan điểm đó, điều quan trọng phải ở thế mạnh để bàn với họ bằng cách cướp chính quyền, giành độc lập từ nhà cầm quyền Nhật Bản đang đầu hàng. Ngay sau khi Tokyo tuyên bố đầu hàng, ông thúc Đảng phát động tổng khởi nghĩa cướp chính quyền trên toàn quốc.[61]
Đề nghị của Hồ Chí Minh nổ ra cuộc tranh luận mạnh mẽ. Một số người, (có cả Trường Chinh), ngần ngại với ý kiến phát động cuộc khởi nghĩa sớm, viện cớ lực lượng vũ trang cách mạng còn yếu ớt. Họ lập luận, dù Việt Nam Giải Phóng Quân đã phát triển từ con số 500 vào tháng 3-1945 lên đến 5.000 người vào giữa tháng 8-1945, nhưng nó vẫn chưa tương ứng với quân đội Nhật ở Đông Dương, ít hơn lực lượng chiếm đóng Đồng Minh. Trong trường hợp đó, tốt hơn hết Đảng yêu cầu độc lập thông qua thương lượng với chính quyền Đồng Minh hoặc Pháp. Nhưng Hồ Chí Minh kiên quyết, nếu Đảng hy vọng đương đầu với Đồng Minh trên thế mạnh, sẽ không có còn cách nào khác trừ việc cướp chính quyền vào tay mình. Ông tuyên bố, quyền lực không phải là cái gì xa xôi, vì chúng ta có quần chúng ủng hộ trên toàn quốc. Nếu củng cố uy thế cách mạng, sau đó việc sống còn là phải giải phóng nhiều khu vực trước khi quân đội nước ngoài kéo tới và chuẩn bị một cuộc chiến đấu lâu dài, đồng thời khai thác những mâu thuẫn nội bộ Đồng Minh để giành lợi thế.
Nhưng cuối cùng, Hồ Chí Minh làm theo cách của ông. Hội nghị kêu gọi phát động tổng khởi nghĩa cướp chính quyền trên toàn quốc, bầu ra Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc do Trường Chinh chỉ đạo lực lượng vũ trang của Đảng. Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc lập tức ra mệnh lệnh cho toàn thể quân đội:
Hỡi binh lính và đồng bào toàn quốc. Giờ tổng khởi nghĩa đã điểm. Cơ hội hiếm có đã đem tới toàn thể quân đội chúng ta và toàn thể nhân dân Việt Nam để phát động cuộc chiến đấu giành độc lập dân tộc. Chúng ta cần phải hành động mau lẹ bằng hết sức mình nhưng cực kỳ thận trọng. Tổ quốc đòi hỏi tất cả chúng ta sự hy sinh lớn lao. Thắng lợi hoàn toàn nằm trong tay chúng ta![62]
Ngày 16-8-1945, ngay sau tin Nhật đầu hàng bay khắp Đông Dương, ban lãnh đạo Mặt trận Việt Minh (bấy giờ gọi là Tổng Bộ Việt Minh) triệu tập Hội nghị Quốc Dân ở Tân Trào. Sáu mươi đại biểu từ khắp các miền đất nước và hải ngoại tham dự, một số phải đi bộ hàng tuần lễ để đến đó. Những đại biểu mang gạo và thịt làm quà. Một đại biểu người Tày thậm chí còn dắt theo một con trâu. Hội nghị diễn ra ở gian cuối một ngôi đình làng ba gian, trên bờ một con suối nhỏ. Chân dung Lenin, Mao Trạch Đông và tướng Claire Chennault được treo trên tường. Phòng giữa có một ban thờ và xếp đầy vũ khí tịch thu của Nhật. Phòng cuối bên kia là một thư viện sách báo cách mạng, tạm thời dùng làm phòng ăn cho các đại biểu. Sau khi Trường Chinh khai mạc, Hồ Chí Minh phát biểu. Thật kinh ngạc, một số đại biểu tham dự biết danh tính thật của ông, vì ban tổ chức Hội nghị chỉ đơn giản giới thiệu ông là Hồ Chí Minh, một lão thành cách mạng. Nhưng một số khác không rõ danh tính ông bắt đầu xì xào “ông Ké Tân Trào”, tên thân mật tại Hội nghị, thực sự là Nguyễn Ái Quốc.[63]
Hồ Chí Minh nhắc lại nhiều thông điệp mà ông đưa ra tại Hội nghị IX ít ngày trước đó về tình hình chung ở Đông Dương và thế giới. Ông lặp đi lặp lại tầm quan trọng việc nhanh chóng cướp chính quyền để đón lực lượng Đồng Minh trên thế mạnh. Bọn Nhật phải bị đánh bại hoàn toàn bằng mọi cách nếu có thể. Nhưng ông cảnh báo trước các đại biểu, Pháp có thể quay lại can thiệp mạnh vào Việt Nam với sự ủng hộ của lực lượng Đồng Minh, ông nói thêm, nếu điều đó xảy ra, cần phải tiến hành thương lượng với Pháp bằng một thoả hiệp dẫn tới độc lập hoàn toàn trong vòng năm năm.
Sau khi Hồ Chí Minh kết thúc bài phát biểu, các đại biểu thông qua một danh sách “mười chính sách lớn” do ban lãnh đạo Việt Minh soạn thảo và kêu gọi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà độc lập trên cơ sở của tự do dân chủ với những chính sách mềm dẻo để đạt được công bằng xã hội và kinh tế. Uỷ ban giải phóng dân tộc, gồm năm người do Hồ Chí Minh làm chủ tịch, được bầu để lãnh đạo tổng khởi nghĩa và chính phủ lâm thời. Sau khi thông qua lá cờ đỏ sao vàng làm quốc kỳ và bài quốc ca, hội nghị kết thúc. Sáng hôm sau, Hồ đưa các đại biểu dự lễ tuyên thệ bển ngoài ngôi đình trên bờ suối gần đó. Cùng ngày, “Lời kêu gọi Tổng Khởi nghĩa” được phát ra:
Hỡi đồng bào yêu quý!
Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta.
Nhiều dân tộc bị áp bức trên thế giới đang ganh nhau tiến bước giành quyền độc lập. Chúng ta không thể chậm trễ.
Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên!
Lời kêu gọi này được ký với tên Nguyễn Ái Quốc, đó của là lần cuối cùng ông ký với tên này.[64]
Chú thích:
[1] Quang Trung, “Đốm lửa chiến khu”, trong “Pác Bó quê tôi” (NXB Quân đội Nhân dân, 1967), trang 69-78, trích trong “Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử”, Tập II, trang 130. Vũ Anh, “Từ Côn Minh đến Pác Bó”, trong “Những kỷ niệm về Hồ Chí Minh”, trang 129-31
[2] Cuốn sách nhỏ này trong Toàn Tập I, tập 3, trang 163-209
[3] Toàn Tập I, tập 3,. Xem thêm Võ Nguyên Giáp, “Hồ Chí Minh: Cha đẻ Quân đội cách mạng Việt Nam”, trong “Những kỷ niệm về Bác Hồ”, trang 188-89. Trong dịp Tết, Nguyễn Ái Quốc thường cho mừng tuổi dân làng một ít tiền, sau đó đề nghị dùng số tiền trên để mua báo. Một số bài báo ký tên Hồ Chí Minh. Xem Stein Tonnesson, “Cách mạng Việt Nam năm 1945: Roosevelt, Hồ Chí Minh, và De Gaulle trong chiến tranh thế giới” (NXB Sage, London, 1991), trang 34
[4] Toàn Tập I, tập 3, trang 214-24. Ban đầu được viết vào khoảng năm 1941, cuốn sách nhỏ xuất bản năm 1942. Về “Chiến tranh thế giới và nhiệm vụ chúng ta”, xem tài liệu đã dẫn, trang 160-61. Xem thêm Vũ Anh, “Từ Côn Minh đến Pác Bó”, trang 167
[5] Vũ Anh, “Từ Côn Minh đến Pác Bó”, trang 169
[6] Võ Nguyên Giáp, “Hồ Chí Minh: Cha đẻ Quân đội cách mạng Việt Nam”, trang 192. Trích dẫn về cách mạng, xem tài liệu đã dẫn, trang 195, và Bằng Giang, “Bác Hồ ở Việt Bắc, trích trong “Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử”, Tập II, trang 147
[7] Lê Quảng Ba, “Bác về thăm lại Pác Bó, Uống nước nhớ nguồn (NXB Quân đội Nhân dân, 1973), trang 153, trích trong “Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử”, Tập II, trang 157. Xem thêm Võ Nguyên Giáp, “Một mảnh đất tự do”, trong “Bác Hồ về nước” (NXB Cao Bằng, 1986), trang 78, trích trong “Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử”, Tập II, trang 153. Về Phùng Chí Kiên, xem “Hồ Chí Minh: Cha đẻ Quân đội cách mạng Việt Nam”, trang 193. Về chỉ thị của Hồ Chí Minh để thực hiện cuộc hành quân về phía nam và những di chuyển liên quan đến đông và tây, xem “Những sự kiện lịch sử Đảng, tập 1 (NXB Sự thật, 1976), trang 552-553
[8] Báo cáo của Tướng Trương Phát Khuê, ngày 23-1-1944, trích trong Hoàng Tranh, “Hồ Chí Minh và Trung Quốc”, trang 82-83. Theo báo cáo này, Hồ bị bắt ở làng Jiezhang, huyện lỵ Thiên Bảo. Xem Trương Phát Khuê, “Câu chuyện truyền khẩu”, Thư viện Đại học Columbia, New York. Tin tức thêm về chuyến đi của Hồ có trong “Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử”, Tập II, trang 161-65, và Trần Dân Tiên, “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch”. NXB Ngoại văn Hà Nội, 1958, trang 47
[9] Trong hồi ký của mình, Hoàng Văn Hoan nói Hồ có ý muốn diện kiến Tưởng Giới Thạch và Tống Khánh Linh - xem Hoàng Văn Hoan “Giọt nước trong biển cả” (NXB Ngoại văn, Bắc Kinh), 1988), trang 193. Tuy nhiên, Christiane Pasquel Rageau cho rằng mục đích thực của Hồ là tiếp xúc với các đồng chí của mình trong Đảng cộng sản Trung Quốc - xem Christiane Pasquel Rageau “Hồ Chí Minh” (NXB Universitaires, Paris:, 1970), trang 103. Vũ Anh, “Từ Côn Minh đến Pác Bó”, trang 168. Một lý do để nhấn mạnh quan điểm ông có ý định liên hệ với Tưởng Giới Thạch, tất nhiên, là để nhấn mạnh mong muốn của ông thiết lập mối quan hệ tốt với Trùng Khánh. Bình luận về vấn đề này là chính của Hồ Chí Minh trong Trần Dân Tiên, “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch”. NXB Ngoại văn Hà Nội, 1958, trang 47
[10] Trên đường từ huyện lỵ Thiên Bảo đến Tĩnh Tây dưới sự áp giải của toán lính Quốc Dân Đảng, Hồ tình cờ gặp em gái bà Tô Vị Đan, trên đường trở về nhà để báo cáo tin tức cho gia đình - xem cuộc phỏng vấn Vương Tây Nghĩa, ngày 24-6-1981, trong Hoàng Tranh, “Hồ Chí Minh và Trung Quốc”, trang 83-84
[11] Bản dịch của tác giả từ cuốn “Nhật ký trong tù” có trong Toàn Tập I, tập 3, trang 242-371. Hồ gặp may khi một người canh tù quen biết gia đình bà Tô Vị Đan và cố gắng làm cho mọi việc dễ dàng hơn cho ông - xem cuộc phỏng vấn Vương Tây Nghĩa, trong Hoàng Tranh, “Hồ Chí Minh và Trung Quốc”, trang 83-84
[12] Sự phức tạp của trường hợp của Hồ Chí Minh được chỉ ra trong một báo cáo từ trụ sở Trương Phát Khuê của ngày 23-1-1944. Như tài liệu này mô tả, các trường hợp đã được gửi từ chính quyền địa phương Nhai Trường đến văn phòng huyện Thiên Bảo, và từ đó gửi cho chính quyền tỉnh Quế Lâm, sau đó chuyển tiếp đến văn phòng ủy viên đặc biệt thành phố này. Cơ quan này chuyển nó lên chi nhánh địa phương của Hội đồng Quân sự Quốc gia, bởi thế nó được chuyển tiếp đến Bộ chỉ huy Chiến khu 4 của Trương Phát Khuê ở Liễu Châu. Trương Phát Khuê, “Câu chuyện truyền khẩu”, trang 684. Xem thêm Tưởng Vĩnh Kinh, “Hồ Chí Minh ở Trung Quốc” (NXB Truyện ký Văn học Đài Bắc, 1972), trang 148, và Hoàng Tranh, “Hồ Chí Minh và Trung Quốc”, trang 84. “Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử”, Tập II, trang 180, cho thấy Hồ đến Quế Lâm đầu tháng Giêng - có thể đây là một sai sót. Xem báo cáo Trương Phát Khuê gửi Vũ Thế Cường, ngày 27-12-1942, trích trong Tưởng Vĩnh Kinh, “Hồ Chí Minh ở Trung Quốc”, trang 146
[13] Tưởng Vĩnh Kinh, “Hồ Chí Minh ở Trung Quốc” (NXB Truyện ký Văn học Đài Bắc, 1972), trang 147-149. Hồ mang tên Hồ Chí Minh ở Trung Quốc trong bức điện ngày 9-11. Xem Hoàng Văn Hoan, “Giọt nước trong biển cả”, trang 193-197; Xem “Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác ngoại giao” (NXB Sự thật, 1990), trang 28; Nhóm Cao Bằng bao gồm trong cuốn sách có tựa đề “Độc lập Đặc san” trong thông điệp của họ gửi đến các cơ quan thông tấn, cuốn sách nói rằng “đại diện Hồ là một nhà lãnh đạo vĩ đại của cách mạng Việt Nam và là một đại diện của Liên đoàn chống xâm lược”
[14] Người cán bộ này là Đặng Văn Cáp. Xem Võ Nguyên Giáp, “Hồ Chí Minh: Cha đẻ Quân đội cách mạng Việt Nam” trong “Những kỷ niệm về Bác Hồ”, trang 196-197. Vũ Anh kể lại hơi khác: sau khi nghe tin về cái chết của Hồ Chí Minh, lãnh đạo Đảng cử một sứ giả thứ hai để xác nhận tin tức, người này trở về báo cáo rằng Hồ vẫn còn sống - sự hiểu lầm là do Cáp hiểu sai “bạn đồng hành của tù nhân đã chết” thành “tù nhân đã chết”
[15] Về phòng ở của ông, xem cuộc phỏng vấn với Peng De, trong Hoàng Tranh, “Hồ Chí Minh và Trung Quốc”, trang 93. Về giao tiếp của ông với những đồng sự, xem Vũ Anh, “Từ Côn Minh đến Pác Bó”, trang 168-69. Trong một lần ông nói đơn giản, “tiếp tục làm việc, tôi thấy ổn” - xem Tưởng Vĩnh Kinh, “Hồ Chí Minh ở Trung Quốc” (NXB Truyện ký Văn học Đài Bắc, 1972), Hu Chih-ming, trang 147
[16] Trương Phát Khuê, “Câu chuyện truyền khẩu”, trang 685; Hoàng Văn Hoan, “Giọt nước trong biển cả”, trang 198. Tưởng Vĩnh Kinh, “Hồ Chí Minh ở Trung Quốc”, trang 150) cho rằng Trùng Khánh không phải là ngay lập tức biết rằng ông thực sự là nhà cách mạng kỳ cựu Nguyễn Ái Quốc
[17] Hoàng Tranh, “Hồ Chí Minh và Trung Quốc”, trang 95. Thông tin về Phùng Ngọc Tường là từ Feng Hongda và Xu Huaxin, “Tướng Phùng Ngọc Tường - Linh hồn của Trung Quốc”, được xuất bản bởi Nhà xuất bản Tài liệu tham khảo lịch sử, 1981, trích trong tài liệu đã dẫn, trang 94. Tưởng Vĩnh Kinh không tham khảo vai trò của Phùng Ngọc Tường và nói rằng Tưởng Giới Thạch quan tâm đến trường hợp này do tướng Hầu Chí Minh yêu cầu - xem Tưởng Vĩnh Kinh, “Hồ Chí Minh ở Trung Quốc” (NXB Truyện ký Văn học Đài Bắc, 1972), trang 150. Trong cuốn hồi ký chưa xuất bản, cựu nhân viên Cơ quan công tác chiến lược (OSS) Charles Fenn nhớ lại cuộc đàm luận với một lãnh tụ Quốc Dân Đảng Chen Lifu gợi ý tướng Trương Phát Khuê nên hợp tác với Hồ, Tưởng Giới Thạch đã bác bỏ ý kiến này. Tưởng nhấn mạnh: Hồ là “người chào hàng tốt, nhưng không có gì để bán”. Xem Charles Fenn, “Chạy thử đến ngày tận số”, trang 87 (bản thảo do Charles Fenn cung cấp)
[18] Trương Phát Khuê kể rằng ông đơn thuần thông báo cho chính phủ Trung ương về quyết định của mình, và họ tán thành. Ông nhận xét thêm “Hồ Chí Minh là người rất tốt, nói chuyện thận trọng đồng thời vuốt ve bộ râu của mình. Ông ta có vẻ rất ‘sâu sắc’. Ông có đầu lạnh và làm việc chăm chỉ”. Chắc chắn Hồ nói tiếng Trung Quốc tạm được. Xem Trương Phát Khuê “Câu chuyện truyền khẩu”, trang 68
[19] Tưởng Vĩnh Kinh, “Hồ Chí Minh ở Trung Quốc” (NXB Truyện ký Văn học Đài Bắc, 1972), trang 151; bản dự thảo lịch sử được tặng cho chuyến đi thăm của phái đoàn Bắc Việt Nam đến Liễu Châu, tháng 7-1964, trích trong Hoàng Tranh, “Hồ Chí Minh và Trung Quốc”, trang 95-96
[20] Một cách chơi chữ tài tình theo kiểu Trung Hoa. Tên của Hầu Chí Minh và Hồ Chí Minh, cả hai cùng mang một nghĩa: ý chí để soi sáng. Trong khi đó, từ “cách mạng” theo tiếng Trung Hoa là tổ hợp của những ký tự khác nhau với cùng cách phát âm. Bằng cách thay đổi khéo léo những ký tự, Hồ đã gạt được mũi nhọn. Để tham khảo, xem “Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử”, Tập II, trang 193, chú thích 1
[21] Hoàng Tranh, “Hồ Chí Minh và Trung Quốc”, trang 101-102, trích dẫn hai bản thảo: “Hồi ức của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với Cách mạng Việt Nam ở Trung Quốc”, ngày 11-4-1979, và Ye Ruiting, “Phác hoạ hoạt động của Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội ở Liễu Châu vào cuối cuộc kháng chiến”, ngày 23-8-1980
[22] Hồ Chí Minh, “Báo cáo của Phân hội Việt Nam thuộc Đại hội Quốc tế chống xâm lược”, tháng 3-1944. (Báo cáo này chưa được xuất bản, thuộc sở hữu của tôi)
[23] Hoàng Văn Hoan, “Giọt nước trong biển cả”, trang 200. Trong những năm qua, một số học giả phương Tây cho rằng hội nghị đã lập ra một chính phủ lâm thời cho một nước cộng hòa Việt Nam trong tương lai, nhưng điều này dường như không phải. Vấn đề đã được thảo luận giữa các thành viên của Đồng Minh Hội, nhưng bị từ chối vì nhiều lý do. Để tham khảo, xem Tưởng Vĩnh Kinh, “Hồ Chí Minh ở Trung Quốc” (NXB Truyện ký Văn học Đài Bắc, 1972), trang 167-168 (đặc biệt lưu ý trang 95). Theo Tưởng Giới Thạch (trang 169), sau hội nghị một số “người cộng sản Việt Nam” hình như thúc ép thành lập một chính phủ, nhưng bị Trùng Khánh bác bỏ, một phần do lo ngại Đồng minh phản đối. Tôi không có bằng chứng rằng Hồ Chí Minh dính dáng trong dự thảo đó. Lời phát biểu của Hồ tại hội nghị được nhận xét ngắn trong Hoàng Tranh, “Hồ Chí Minh và Trung Quốc”, trang 103
[24] Hoàng Văn Hoan, “Giọt nước trong biển cả”, trang 201-2; Trương Phát Khuê, “Câu chuyện truyền khẩu”, trang 691-692
[25] Trương Phát Khuê, “Câu chuyện truyền khẩu”, trang 692. Xem thêm Lưu San, “Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Hoa Nam”, Văn Hối Báo (Hong Kong), ngày 9 7, 1953
[26] Hoàng Tranh, “Hồ Chí Minh và Trung Quốc”, trang 106. Hoàng Văn Hoan, “Giọt nước trong biển cả”, trang 202. King Chen nói rằng chỉ có mười sáu người đi cùng Hồ từ Liễu Châu - Xem King Chen, “Việt Nam và Trung Quốc, 1938-1954” (NXB Đại học Princeton, N.J., 1969), trang 85. Nếu như vậy, thêm hai thành viên của nhóm trở lại Việt Nam có thể Vũ Anh và Võ Nguyên Giáp gặp Hồ gần Tĩnh Tây và gia nhập cùng Hồ trên đường tới Pác Bó.
[27] Bản thông cáo có trong Văn kiện Đảng (1930-1945), tập 3 (NXB Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương, 1977), trang 289-299. Bản tóm tắt, xem “Lịch sử Cách mạng tháng Tám” (NXB Ngoại văn, Hà Nội, 1972), trang 37-38. Xem thêm Hoàng Tùng, “Đồng chí Trường Chinh” (NXB Sự thật, 1991), trang 123-124
[28] Nghị quyết hội nghị có trong Văn kiện Đảng (1930-1945), trang 313-362
[29] Võ Nguyên Giáp, “Hồ Chí Minh: Cha đẻ Quân đội cách mạng Việt Nam” trong “Những kỷ niệm về Bác Hồ”, trang 198-199; Philippe Devillers, “Lịch sử Việt Nam, 1940-1952” (NXB du Seuil. Paris, 1952), trang 107-108; Tưởng Vĩnh Kinh, “Hồ Chí Minh ở Trung Quốc” (NXB Truyện ký Văn học Đài Bắc, 1972), trang 184-185
[30] Trần Văn Giàu, Giai cấp công nhân Việt Nam (1939-1945), tập 3 (NXB Sự thật, 1963), trang 143-171
[31] Võ Nguyên Giáp, “Hồ Chí Minh: Cha đẻ Quân đội cách mạng Việt Nam” trong “Những kỷ niệm về Bác H chiến lược. Ông trở lại Côn Minh bằng xe khách, tới đây vào cuối tháng 7.[16]
Dù những điều kiện đang chín muồi cho khởi đầu một giai đoạn mới của cách mạng Việt Nam, một số quyết định quan trọng phải được thực hiện. Thứ nhất, quyết định thành lập trụ sở hải ngoại cho Đảng vì nó chuẩn bị cho cuộc tổng khởi nghĩa. Nguyễn Ái Quốc đã điều động các đồng chí của ông tới phía nam tỉnh Vân Nam, giáp giới Bắc Kỳ, nhưng cuối cùng ông quyết định, những điều kiện ở đó chưa thuận lợi do Đảng vì thiếu sự ủng hộ của quần chúng ở hai tỉnh Hà Giang và Lào Cai dọc biên giới. Hơn nữa, cả hai tỉnh này có nhiều núi non hiểm trở khó đi lại và khá xa đồng bằng sông Hồng. Theo ông, chỗ tốt nhất là khu vực dọc biên giới phía nam tỉnh Quảng Tây. Phần đông nhân dân có thiện cảm với đảng ở cả hai phía biên giới, đồng thời những quan chức Trung Hoa những huyện biên giới có thể sẽ thiện ý cộng tác với những người lãnh đạo Đảng cộng sản Đông Dương để huấn luyện những đơn vị vũ trang chống chính quyền Pháp ở Đông Dương.
Sau khi từ Trùng Khánh về Côn Minh, Quốc nhận được bức thư của Hồ Học Lãm, một sĩ quan Quốc Dân Đảng, người có thiện cảm và ủng hộ cách mạng Việt Nam từ cuối thập niên 1920, khi Phan Bội Châu trú ở nhà ông tại Hàng Châu. Lãm cho Quốc biết Trương Bội Công, tướng Quốc Dân Đảng, gốc dân tộc thiểu số Việt nam, vừa được cấp trên chỉ thị tổ chức những người Việt Nam yêu nước ở khu vực biên giới phía bắc tỉnh Cao Bằng để chuẩn bị cho những chiến dịch ở Đông Dương. Vì tướng Công khét tiếng chống Cộng, Lãm khuyên Quốc cử một số đồng chí của mình vào vùng này để bảo vệ quyền lợi của Đảng.
Sở dĩ Trung Quốc đột nhiên quan tâm đến Đông Dương thuộc Pháp do quân đội Nhật xuất hiện tại vùng này. Đầu năm 1940, những hoạt động quân sự của Nhật Bản bắt đầu lan rộng xuống phía nam sông Dương Tử tiến đến xung quanh Quảng Đông, cũng như đảo Hải Nam và quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa ở Biển Đông. Cuối mùa xuân, Tokyo bắt đầu gây áp lực mạnh đối với chính quyền thực dân Pháp để cấm việc vận chuyển vũ khí và tiếp liệu cho lực lượng Quốc Dân Đảng từ sông Hồng vào nam Trung Hoa. Toàn quyền Đông Dương Georges Catroux tỏ ý chống lại áp lực này, nhưng do không có sự ủng hộ của chính phủ Paris, ông quay sang phía Mỹ, đề nghị Mỹ cho máy bay chiến đấu từ Philippines sang. Tuy nhiên, tổng thống Franklin Roosevelt đã từ chối lời thỉnh cầu, viện cớ máy bay chiến đấu Mỹ trong khu vực cần có để bảo vệ quyền lợi dân tộc Mỹ. Vì vậy Catroux phải chấp nhận những đòi hỏi ngang ngược của Nhật Bản đóng cửa biên giới, một hành động khiến ông bị chính phủ bù nhìn Pháp ở Vichy cách chức vào tháng Bẩy.
Đô đốc Jean Decoux, thay thế Catroux, ngay lập tức gặp phải một loạt những yêu cầu mới của Nhật Bản đòi sử dụng những sân bay và cho phép đồn trú vài ngàn quân đội Nhật ở Bắc Kỳ. Decoux miễn cưỡng đồng ý. Nhưng ngày 22 tháng 9, thậm chí trước khi đặt chân tới, các đơn vị quân đội Nhật Bản khu vực dọc biên giới Trung Hoa đã doạ dẫm Catroux bằng một cuộc tấn công vào những đồn bốt Pháp dọc biên giới Lạng Sơn. Sát cánh với họ là những lực lượng dân tộc chủ nghĩa Việt Nam thuộc Quang Phục Hội, một tổ chức thân Nhật mới được hình thành dưới sự lãnh đạo Kỳ Ngoại Hầu Cường Để lưu vong đang sống ở Tokyo, đồng sự cũ của Phan Bội Châu.
Cuộc tấn công của Nhật Bản ở biên giới khiến những đảng viên Đảng cộng sản Đông Dương sống trong vùng phải cảnh giác. Trong thập niên 1930, Đảng đã thận trọng xây dựng một cơ sở nhỏ được sự ủng hộ của nhân dân vùng núi quanh Lạng Sơn. Phần đông nhân dân trong vùng thuộc sắc tộc thiểu số Tày, Nùng và Thổ. Đa số làm nông nghiệp qua nhiều thế kỷ và ít quan hệ với người Việt ở đồng bằng, hoặc với chính quyền thực dân Pháp tại những thị xã và thành phố lớn. Các chi bộ đảng đầu tiên được thành lập gần thị trấn Cao Bằng vào mùa xuân 1930, trong những năm sau một số ít cán bộ dân tộc ít người được đưa vào những vị trí quan trọng của Đảng cộng sản Đông Dương. Tại hội nghị Macao tháng 3-1935, Hoàng Đình Giong, dân tộc Tày, được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương và Hoàng Văn Thụ, dân tộc Thổ, người ra lệnh Võ Nguyên Giáp tới Trung Hoa, vài năm sau cũng trúng cử ban chấp hành. Những cố gắng trong công tác tổ chức tạo thuận lợi do cương lĩnh chính trị của Đảng, theo đường lối Leninist - hứa đem lại quyền tự quyết vận mệnh cho tất cả dân tộc thiểu số trong cuộc cách mạng Việt Nam tương lai. Trong khi đưa ra những lời cường điệu họ tin tưởng đã chuyển khối quần chúng sang thân cộng sản, Đảng có một cơ sở vững mạnh nằm trong những người thiện cảm trong vùng.[17]
Mùa thu năm 1940, những cố gắng đó bắt đầu đem lại kết quả. Ngày 27 tháng 9, khi tin Nhật can thiệp lan ra khắp khu vực, cán bộ đảng nhân thời cơ quân đội Pháp hoang mang, đã ra lệnh cho nhân dân thiểu số địa phương tấn công những làng ở huyện Bắc Sơn, phía tây Lạng Sơn. Thoạt đầu, lực lượng nổi dậy nhân lúc địch hoang mang, chiếm một số làng và thu được vũ khí từ các kho súng. Nhưng sau khi chính quyền thực dân thoả thuận ngừng bắn với Nhật, lực lượng Pháp quay lại phản công, bình định khu vực. Cuối tháng Mười, lực lượng nổi dậy tan rã thành những nhóm du kích nhỏ chạy vào rừng, trong khi số còn lại chạy qua biên giới Trung Hoa hy vọng được huấn luyện và nhận vũ khí từ Trương Bội Công.
Nguyễn Ái Quốc đến Quế Lâm đầu tháng Mười, khi khởi nghĩa Bắc Sơn - cách gọi sau này - đang tiếp diễn. Ông sống trong một túp lều ở nông thôn và phát hiện khi vắng mặt, các đồng chí của ông đã gặp Lý Tế Thâm, tham mưu trưởng chiến trường tây - nam của Quốc Dân Đảng ở thành phố, chính viên tư lệnh Quốc Dân Đảng này từng đàn áp cuộc nổi dậy của cộng sản ở Quảng Châu mùa xuân 1927. Tuy nhiên, tướng Lý lịch thiệp đề nghị những vị khách đưa ra kế hoạch giúp đỡ của địa phương phục vụ cho cuộc can thiệp sắp tới của Đồng Minh vào Đông Dương. Nghe những tin tức từ các cộng sự, Quốc cảnh giác. Ông cảnh báo, chúng ta chỉ có hai đồng minh thật sự, Hồng Quân ở Liên Xô và Giải Phóng Quân Trung Quốc. Dù Tưởng Giới Thạch bây giờ đang chiến đấu chống Nhật, chính phủ ông ta về cơ bản là phản cách mạng. Nếu Đảng cộng sản Đông Dương bị họ lừa bịp “sẽ rất nguy hiểm”.[18]
Lời cảnh báo của Nguyễn Ái Quốc đúng như thực tế xảy ra. Tình hình ở Quế Lâm trở nên hiểm nghèo, chính quyền Tưởng lại bắt đầu tấn công phe cộng sản. Với quyết định phải thành lập căn cứ hoạt động sát biên giới, Quốc cử Hoàng Văn Hoan và Võ Nguyên Giáp đến Liễu Châu đánh giá tình hình, chuẩn bị cở sở tại đó. Tới Liễu Châu, họ liên lạc với Trương Bội Công, người có ý đồ lôi kéo hai người với mục đích riêng, nhưng Giáp cảnh giác. Ngay sau đó, Nguyễn Ái Quốc bí mật tới Liễu Châu, thay đổi tên, khuyên các cộng sự trở về Quế Lâm để xây dựng cơ sở hoạt động tạm thời.
Trong lúc ấy, Quốc đưa ra một số ý kiến quan trọng để thành lập mặt trận thống nhất mới phù hợp với tình hình mới. Mặt trận đó phải chịu sự chỉ đạo và đường lối của Đảng cộng sản Đông Dương, nhưng vai trò của Đảng phải được ngụy trang kín đáo, làm giảm nỗi lo sợ của những người ngoài đảng trong và ngoài nước có khuynh hướng chính trị khác nhau của mặt trận. Quốc dự kiến thành lập một tổ chức rộng rãi thống nhất tất cả những lực lượng yêu nước cùng chiến đấu đánh đuổi chính quyền thực dân Pháp. Nguyễn Ái Quốc đưa ra ba tên để lựa chọn cho tổ chức mới, Việt Nam Giải Phóng Đồng Minh, Việt Nam Phản đế Đồng Minh, hoặc Việt Nam Độc Lập Đồng Minh, nhưng ông tỏ ra ưa thích tên Việt Nam Độc lập Đồng Minh. Mấy năm trước, một tổ chức cũng mang tên đó do Hồ Học Lãm sáng lập, đóng góp một thời gian ngắn như một cỗ xe cho sự hợp tác giữa những người Việt Nam dân tộc chủ nghĩa và cộng sản đang sống ở khu vực thành phố Nam Kinh. Giờ đây hy vọng nó có thể phụng sự một mục đích tương tự trong việc hồi sinh này.[19]
Sau khi thảo luận, mọi người đồng ý chấp nhận đề xuất của Nguyễn Ái Quốc tên nhóm mới, gọi tắt Mặt trận Việt Minh. Để thu hút những người ôn hoà, Hồ Học Lãm, đang sống ở Quế Lâm, được mời làm Chủ tịch tổ chức, đồng thời Phạm Văn Đồng (tên giả Lâm Bá Kiệt) làm phó chủ tịch. Che đậy dưới vỏ bọc mới, nhóm này gặp tướng Lý Tế Thâm một lần nữa để tìm kiếm sự ủng hộ trong việc huy động Việt kiều ở nam Trung Hoa cho những hoạt động quân sự sắp tới ở Đông Dương. Dù một số thuộc cấp của ông nghi ngờ mục đích chính trị của tổ chức, song Lý Tế Thâm chấp thuận, mặt trận mới được chính thức công nhận. Tuy vậy Lý Tế Thâm cũng cảnh cáo những vị khách, không cho phép những người cộng sản chiếm vai trò chủ đạo trong tổ chức này.[20]
Trong lúc Nguyễn Ái Quốc và các đồng sự ở Quế Lâm cố gắng hết sức để người cầm đầu quân đội Quốc Dân Đảng Trung Hoa ủng hộ những hoạt động sắp tới ở Đông Dương, kẻ thù của họ Trương Bội Công, cũng tích cực lôi kéo quần chúng dọc biên giới. Sau khi biết tin bốn mươi chiến sĩ kháng chiến Việt Nam đã vượt biên giới vào tỉnh Quảng Tây để thoát khỏi bị Pháp bắt, Công rời Liễu Châu đến Tĩnh Tây, một thị trấn nhỏ cách Cao Bằng ba mươi dặm về phía bắc theo đường núi, với toan tính lôi kéo họ.
Lúc này Ban Chấp hành Trung ương, trụ sở đặt tại Sài Gòn, hầu như đã hoàn toàn rồi loạn. Tất cả uỷ viên Ban Chấp Hành đã vào tù, trừ Phan Đăng Lưu, đồng thời mối liên kết giữa Xứ uỷ Trung Kỳ và Bắc Kỳ đã bị phá vỡ.
Thiếu liên lạc với những khu vực khác và với ban lãnh đạo hải ngoại ở nam Trung Hoa, Xứ uỷ Nam Kỳ phải hoạt động độc lập theo cách riêng. Trần Văn Giàu, xứ uỷ viên, ra tù tháng 5-1940, nhưng sau năm ngày lại bị bắt. Trước đó từng có cuộc thảo luận phát động cuộc tổng khởi nghĩa ở Nam Kỳ để lợi dụng sự bất mãn đang tăng lên của nhân dân địa phương. Điều kiện sản xuất nông nghiệp ở đây không xấu như những vùng khác trong cả nước, nhưng thuế cao và có hơn 30 phần trăm nhân dân có thiện cảm với những người cộng sản. Mùa xuân năm ấy, tình hình căng thẳng tăng lên khi chính phủ thuộc địa bắt đầu bắt lính người Việt đưa vào phục vụ các đơn vị đóng ở châu Âu, hoặc đưa sang Campuchia, chuẩn bị chiến tranh với chính quyền Xiêm, do Bangkok đòi lại lãnh thổ bị Pháp chiếm năm 1907. Hoạt động của Đảng khai thác sự bất mãn trong hàng ngũ binh sĩ, bằng cách tung ra những khẩu hiệu “không chết thay cho bọn thực dân (Pháp kiều ở Đông Dương) ở Campuchia”. Phát động những cuộc biểu tình quần chúng nổ ra tại những huyện lỵ đồng bằng Cửu Long. Đối với nhiều nông dân nghèo ở Nam Kỳ, việc bắt lính không chỉ đe đoạ chết chóc hoặc thương tật trên chiến trường, còn làm gia đình họ khó khăn hơn về kinh tế.
Tháng Bẩy, Xứ ủy Nam Kỳ, dưới sự lãnh đạo của bí thư Tạ Uyên, thông qua kế hoạch nửa vời, không dứt khoát chuẩn bị cho cuộc nổi dậy được Hội nghị VI thông qua tháng 11-1939 (phiên họp toàn thể lần thứ VI kể từ Đại hội toàn thể thứ Nhất của Đảng vào tháng 3-1935). Tuy vậy, trước hết, giới lãnh đạo khởi nghĩa cử Phan Đăng Lưu ra miền Bắc gặp Xứ uỷ Bắc Kỳ xin tư vấn. Trong ba tháng đó, hàng ngàn binh lính Việt Nam bạo động tại Sài Gòn và những thành phố khác trong vùng này để phản đối kế hoạch đưa họ đến biên giới Xiêm. Tạ Uyên vội vã phát lệnh nổi dậy cuối tháng Mười Một, bất chấp Phan Đăng Lưu chưa trở lại trong sứ mệnh tới Bắc Kỳ.
Thực ra, Phan Đăng Lưu đã tới Hà Nội, gặp Xứ uỷ Bắc Kỳ ngay trong lúc họ đang họp đánh giá tình hình chung tại trụ sở ở ngoài Hà Nội trong bối cảnh khởi nghĩa Bắc Sơn bị thất bại. Ban lãnh đạo Xứ uỷ Bắc Kỳ gồm Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt và Hoàng Văn Thụ, phản đối kế hoạch của Tạ Uyên, viện lẽ, tình hình cả nước chưa chín muồi để cuộc khởi nghĩa thành công. Đồng thời đưa ra lời khuyên, phải tăng cường chuẩn bị từng bước cho những cuộc nổi dậy địa phương ở nơi tình hình thuận lợi. Cử Hoàng Văn Thụ trợ giúp những nhóm kháng chiến tại Bắc Sơn, tái tổ chức thành những đơn vị du kích trong rừng núi gần biên giới. Cuối cùng, để lấp chỗ trống cho Xứ uỷ Nam Kỳ bị Pháp bắt, Ban Chấp Hành Xứ uỷ Bắc Kỳ tự thân chuyển thành Ban Chấp Hành Trung ương lâm thời, do Trường Chinh tạm thời làm tổng bí thư.[21]
Trước khi kết thúc, Ban Chấp hành chỉ thị Phan Đăng Lưu trở về Nam Kỳ, yêu cầu hoãn cuộc nổi dậy. Phan Đăng Lưu đến Sài Gòn ngày 23-11, bị cảnh sát Pháp bắt ngay tại sân ga. Dù thế nào đi nữa, ông về muộn, cuộc nổi dậy đã nổ ra một ngày trước đó ở vùng nông thôn phía tây - nam Sài Gòn, vài huyện từ tỉnh Mỹ Tho tới tỉnh Đồng Tháp Mười đã bị lực lượng nổi dậy chiếm giữ một thời gian ngắn. Những vụ bạo động hưởng ứng cũng nổ ra tại Sài Gòn, nhưng nhà cầm quyền đã biết trước nên dễ dàng đè bẹp cuộc nổi dậy. Thời gian đó, cuộc khởi nghĩa bị dìm trong bể máu sau bốn ngày phản công của Pháp, với hơn một trăm người bị giết và hàng ngàn người bị bắt và bỏ tù. Tại Sài Gòn, hàng trăm đảng viên cộng sản bị vây bắt, trong đó có Nguyễn Thị Minh Khai, vợ cũ của Nguyễn Ái Quốc. Cảnh sát tìm thấy trong nhà bà một số tài liệu để buộc tội. Tháng 3-1941, Nguyễn Thị Minh Khai, Nguyễn Văn Cừ và Hà Huy Tập bị Toà án quân sự Sài Gòn kết án tử hình. Tất cả bị hành quyết ngay sau đó. Tạ Uyên hình như chết trong cuộc nổi dậy. Trước khi chết, Nguyễn Thị Minh Khai có cuộc gặp mặt ngắn ngủi với chồng là Lê Hồng Phong, bị tù từ tháng 6-1939. Ông chết do tra tấn dã man hoặc vì bị nhốt trong “chuồng cọp” ở nhà tù Côn Đảo vào tháng 9-1942.[22]
Ở Quế Lâm, Nguyễn Ái Quốc vẫn theo dõi những hoạt động lôi kéo của Trương Bội Công ở Tĩnh Tây qua những bức thư của một người có thiện cảm với cộng sản nằm trong hàng ngũ Trương Bội Công. Cuối cùng, Quốc ra lệnh Võ Nguyên Giáp và Vũ Anh tới vùng biên giới để đánh giá tình hình, đưa ra những lựa chọn sao cho có lợi cho Đảng. Tới nơi, họ thuyết phục tướng Trương Bội Công mời Hồ Học Lãm, chủ tịch Việt Nam Độc Lập Hội mới thành lập, tới Tĩnh Tây để trợ giúp công việc tuyển mộ. Quốc biết tin sự đàn áp cuộc nổi dậy ở Nam Kỳ, dự đoán tác động đó tới bộ máy Đảng ở miền Nam có thể rất lớn. Khi lời mời Hồ Học Lãm của Trương Bội Công tới trụ sở Quốc ở Quế Lâm, ông nhấn mạnh với các đồng chí của mình: “Tình hình thế giới và trong nước đang có lợi cho chúng ta, nhưng giờ phút khởi nghĩa vẫn còn chưa tới. Tuy nhiên, vì tình hình sẵn sàng bùng nổ, cần phải nhanh chóng tìm chỗ rút lui cho những người yêu nước ẩn náu để bảo vệ phong trào”.[23]
Sự thật tình hình thế giới biến chuyển quá nhanh, với những hậu quả khó lường. Đức Quốc Xã củng cố việc chiếm đóng Pháp và Hà Lan, bây giờ đang cố gắng san phẳng nước Anh bằng không lực. Dù Hiệp ước Xô-Đức ký tháng 8-1939 vẫn style='height:10px;'>
[55] Allison Thomas, trong Uỷ ban đối ngoại Thượng Viện Mỹ, “Mỹ và Việt Nam, 1944-1947”, Quốc hội 92, tiểu ban 2, Staff Study 2, ngày 3-4-1972, trang 285-287. Trong báo cáo của Thomas ngày 17-9-1945, ông miêu tả trại nơi họ tới: “Trại nằm ở sườn đồi tre hẻm Kim Lũng, cách làng Kim Lũng chừng 1 ki-lô-mét. Kim Lũng cách Tuyên Quang về phía đông 27 km, cách tây bắc Thái Nguyên 47 km” (tài liệu đã dẫn trang 257). Xem thêm nhận xét của Henry Prunier, thành viên của đội tại Hội nghị Việt Minh-OSS, ngày 23-9-1997. Việc bếp núc của Hồ được Kim Hiền kể trong tài liệu đã dẫn, ngày 22-9-1997
[56] Archimedes Patti, “Tại sao Việt Nam?”, trang 127-29. Về việc Pháp có biết danh tính Hồ Chí Minh và định hướng chính trị Mặt trận Việt Minh, xem Alain Ruscio, “Những người cộng sản Pháp và chiến tranh Đông Dương, 1944-1934, trang 54-61. Một số quan chức Pháp ngờ rằng Hồ là Nguyễn Ái Quốc, nhưng những người khác khẳng định ông đã chết trong nhà tù Hong Kong đầu thập niên 1930. Trên thực tế, mật thám bấy giờ cũng biết Hồ sống sót sau khi bị giam ở Hong Kong và chủ trì cuộc họp tại Pác Bó năm 1941. Xem Sở Mật thám Bắc Kỳ và Thống sứ Bắc Kỳ, 11914-S, ngày 6-6-1941, trong hồ sơ nhãn “1106 Nguyễn Ái Quốc”, SPCE, hộp 369, CAOM. Nguyễn Khánh Toàn - Một đảng viên lão thành Đảng cộng sản Đông Dương - thông báo cho Ruscio, không có ai ở Trùng Khánh vào thời kỳ cuối chiến tranh Thái Bình Dương biết Hồ. Về quan điểm khác nhau, xem Marr, “Việt Nam 1945”, trang 337.
[57] Trích dẫn trong Robert Shaplen, “Cuộc cách mạng đã mất”, (NXB Harper & Row, New York, 1966), trang 29. Xem thêm Charles Fenn “Giới thiệu tiểu sử Hồ Chí Minh” (NXB Scribner, New York, 1973), trang 81. Báo cáo của Thomas trong Uỷ ban đối ngoại Thượng Viện Mỹ, “Mỹ và Việt Nam, 1944-1947”, Quốc hội 92, Tiêu ban 2, Staff Study 2, ngày 3-4-1972, trang 245. Phelan dường như ít ấn tượng với một số những đồng sự của Hồ Chí Minh “chỉ biết chạy xung quanh, nhiệt thành hô lớn 'độc lập', nhưng bảy lăm phần trăm số người này chẳng hiểu nổi ý nghĩa của từ này” (tài liệu đã dẫn, trang 207).
[58] Võ Nguyên Giáp, “Hồ Chí Minh: Cha đẻ Quân đội cách mạng Việt Nam”, trang 210-211
[59] Marr, “Việt Nam năm 1945”, trích từ William Broyles Jr, “Những anh em cầm vũ khí: Hành trình từ chiến tranh đến hòa bình” (New York: np, 1986), trang 104. Xem Richard Harris Smith, “Cơ quan công tác chiến lược: Những chuyện bí mật của Cục tình báo Trung ương Mỹ đầu tiên” (Nhà in Đại học California, Berkeley, 1972), trang 332. Paul Hoagland - nhân viên y tế, người khám bệnh cho Hồ - sau này cho biết chính ông chữa chạy, cứu sống Hồ, và nguồn Việt Nam ngày nay thừa nhận sự thật này - xem The Washington Post, ngày 13-12-1969, nhận xét của Triệu Đức Quang tại Hội nghị Việt Minh - OSS ngày 22-9-1997.
[60] Nguyễn Lương Bằng, “Gặp Bác ở Tân Trào” trong “Tân Trào, 1943-1983” (NXB Hà Tuyên, 1985), trang 52, trích trong “Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử”, Tập II, trang 258. Xem thêm Trần Trọng Trung, “92 ngày đêm: Bác Hồ ở Tân Trào” (Tạp chí Lịch sử Quân sự, tháng 4-1995).
[61] Hoàng Văn Hoan, “Giọt nước trong biển cả”, trang 213.
[62] “Lịch sử một cuộc cách mạng”, trang 119-120. Một phiên bản khác hơi dài hơn trong Văn kiện Đảng (1930-1943), tập 3, trang 410-11. Một trong những mưu kế của Hồ để giành sự ủng hộ của các nhà lãnh đạo Đảng có lẽ là đưa ra vấn đề Đồng minh ủng hộ. Theo Archimedes Patti (Tại sao Việt Nam?, trang 551), Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc gồm Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Trần Đăng Ninh, Lê Thanh Nghị và Chu Văn Tấn. Về cuộc tranh luận chiến lược tại cuộc họp, xem Nguyễn Lương Bằng, “Tôi gặp Bác Hồ” trong “Chủ tịch Hồ Chí Minh của chúng ta” (NXB Ngoại văn, Hà Nội, 1967), trang 97-99. Xem “Tường trình kháng chiến Việt Nam” (1923-1943) (NXB François Maspero, Paris, 1966), trang 19-22
[63] Trần Trọng Trung, “92 ngày đêm”, trang 15-17. Nguyễn Lương Bằng, “Tôi gặp Bác Hồ”, trong “Những kỷ niệm về Bác Hồ”, trang 76. Có đôi chút hơi khác bài báo “Chủ tịch của chúng ta” trong chú thích trước đây. Về những người tham gia hội nghị, xem Trần Huy Liệu, “Đi dự Tân Trào”, trong Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 17 (tháng 8-1960). Henry Prunier nhớ lại những người Mỹ có mặt tại phòng họp trên đường tới Thái Nguyên, chú ý những bức chân dung trên tường phòng họp. Trong số này có chân dung tướng Claire Chennault, nhưng không có chân dung Hồ (Prunier nhận xét tại Hội nghị Việt Minh-OSS ngày 23-9-1997). Xem thêm Archimedes Patti, “Tại sao Việt Nam?”, trang 134.
[64] Lời yêu cầu hoàn chỉnh có trong Văn kiện Đảng (1930-1945), tập 3, trang 404-405. Về buổi lễ, xem Nguyễn Lương Bằng, “Tôi gặp Bác Hồ”, trang 77.