Dịch giả: LÂM HOÀNG MẠNH - NGUYỄN HỌC
CHƯƠNG VII
SỐNG TRONG VÙNG HOANG DÃ

     iệc bắt Nguyễn Ái Quốc năm 1931 ở Hong Kong là một phần trong hàng loạt chiến dịch lớn của chính quyền thực dân vây bắt những nhà hoạt động cộng sản khắp Đông Á. Chiến dịch mở màn vào đầu tháng 6-1931, bằng việc bắt Serge Lefranc ở Singapore, điệp vụ Cộng sản Quốc tế, đang thực hiện chuyến đi Đông Nam Á thay mặt Ban Bí thư Liên đoàn Thương Mại Thái Bình Dương ở Thượng Hải. Ngày 5-6-1931, Lê Quang Đạt, đảng viên Đảng cộng sản Đông Dương, người được Quốc chỉ định làm liên lạc với Văn phòng Viễn Đông, bị bắt tại tô giới Pháp ở Thượng Hải. Sáng sớm hôm sau, Nguyễn Ái Quốc và đồng sự của ông Lý Sâm bị bắt ở Hong Kong. Vài ngày sau, Hilaire Noulens và vợ bị cảnh sát thành phố bắt tại một khu cư dân Quốc tế ở Thượng Hải. Noulens, danh tính của ông vẫn bí ẩn đối với nhà cầm quyền thực dân, tự nhận mình một công dân Bỉ, nhưng ngay sau đó người ta phát hiện ông có vài hộ chiếu mang tên khác nhau, quốc tịch khác nhau và lời khai của ông bị lãnh sự Bỉ ở Thượng Hải bác bỏ.
Dù không có chứng cớ Noulens làm điều gì sai trái trong bất cứ hành động tấn công ở khu cư dân quốc tế, nhưng các quan chức an ninh châu Âu tin vai trò bí mật của ông là đại diện Cộng sản Quốc tế ở Viễn Đông. Sau vài ngày tạm giam ở Thượng Hải, Noulens và vợ bị giao cho chính quyền Trung Hoa ở tỉnh Giang Tô, ông bị tống giam sau khi bị xử án ở thành phố Nam Kinh. Nhờ những cố gắng của Cứu Tế Đỏ (do Liên Xô tài trợ), cuối cùng Noulens và vợ được thả tự do và trở lại Moscow.[1]
Trong lúc ấy, Nguyễn Ái Quốc (tự nhận là nhà báo Trung Hoa Tống Văn Sơ) bị bắt mà không có trát của toà, đồng thời cảnh sát địa phương thu được những bằng chứng có thể khép ông vào những hoạt động lật đổ do Cộng sản Quốc tế xúi giục. Dù ông không vi phạm luật pháp ở Hong Kong, nhưng cảnh sát Anh không cho phép dùng lãnh địa Anh để xúi giục sự bất ổn ở những nước lân bang. Chính quyền địa phương tin chắc người bị bắt chính là Nguyễn Ái Quốc. Một số tìm cách trao ông cho nhà cầm quyền Pháp ở Đông Dương. Nhưng có một hiệp định Pháp - Anh không cho phép dẫn độ những người hoạt động chính trị, nên chỉ có thể ra trát trục xuất ông ra khỏi đất Hong Kong. Sau khi xác định Tống Văn Sơ chính là Nguyễn Ái Quốc, chính phủ Hong Kong đã quyết định sáu ngày sau khi bắt giữ ông, sẽ làm thủ tục điều tra theo pháp lý để ra lệnh trục xuất. Thời bấy giờ việc trục xuất thường được tiến hành trên một tàu thuỷ đặc biệt, chạy tới một cảng đặc biệt và diễn ra dưới sự canh gác của cai tù có vũ trang.[2]
Dù Nguyễn Ái Quốc không trình được hộ chiếu, nhưng nói ông có hộ chiếu mang tên Tống Văn Sơ, khẳng định không phải người Việt Nam mà là người Trung Quốc. Những trường hợp như thế này, thủ tục thông thường phải tiến hành điều tra để xác định danh tính thực và nơi sinh người bị bắt trước khi ra quyết định xử lý. Cuộc điều tra như thế tiến hành ngày 10-7-1931, nói bằng tiếng Anh, người tù phủ nhận là Nguyễn Ái Quốc, sinh quán Đông Hưng, thị trấn nhỏ ở tỉnh Quảng Đông gần biên giới Đông Dương. Ông tuyên bố đã từng tới Pháp, nhưng không đến nước Nga Xô viết, cũng chưa từng liên hệ với Cộng sản Quốc tế. Ông khẳng định là người theo chủ nghĩa quốc gia, không phải cộng sản. Ông phủ nhận sự quen biết với Serge Lefranc, nhưng thú nhận đã ký tên vào bưu thiếp được tìm thấy trong túi của Lefranc ở Singapore. Ông tranh cãi kịch liệt chống lại việc bị trục xuất về Đông Dương, yêu cầu dẫn độ về nước Anh.
Trước khi kết thúc phiên điều trần trục xuất, Nguyễn Ái Quốc bắt đầu nhận được sự giúp đỡ hợp pháp từ một cơ sở bất ngờ. Có nhiều giả thuyết đưa ra. Tại sao vị luật sư trẻ tuổi ở Hong Kong Frank Loseby lại dính vào vụ này? Có giả thuyết cho rằng, có một nhân viên trong văn phòng của Frank Loseby là người Việt Nam nhờ ông làm việc này. Trong hồi ký của mình, Hồ Chí Minh giải thích, ông và Loseby từng có một tình bạn không ai biết ở Hong Kong. Theo nguồn tin ở Hà Nội ngày nay, Loseby được Cứu Tế Đỏ Quốc tế và Hội phản đế (một tổ chức đóng ở Moscow chuyên trợ giúp cho những người cấp tiến xuất chúng bị bắt ở những nước tư bản) chính thức thuê làm luật sư bào chữa cho Nguyễn Ái Quốc.[3]
Loseby ngay lập tức tham gia vụ kiện. Bị từ chối khả năng một lệnh dẫn độ, chính phủ Pháp ở Đông Dương - đang theo dõi sát cuộc điều tra - thông qua tổng lãnh sự Pháp ở Hong Kong đề nghị thông báo khi nào và bằng cách nào Nguyễn Ái Quốc bị trục xuất khỏi thuộc địa Anh. Tuy nhiên, Loseby cảnh báo chính quyền Hong Kong rằng nếu áp dụng những thủ tục trục xuất thông thường, Nguyễn Ái Quốc và Lý Sâm - người phụ nữ trẻ bị bắt cùng với ông - bị đặt vào tình thế cực kỳ nguy hiểm, vì Pháp sẽ bắt ông tại điểm rời tầu và đưa về Đông Dương để xử án. Do vậy Loseby đề nghị cho phép Quốc và Lý Sâm được rời đi theo cách tự họ thu xếp và tới một nơi họ lựa chọn.
Thống đốc Hong Kong miễn cưỡng đồng ý. Ngày 24 tháng 7, Loseby gọi điện tới Văn phòng Thuộc địa ở London nói có thể Nguyễn Ái Quốc sẽ được trả tự do, với điều kiện ông phải rời Hong Kong trong vòng bẩy ngày. Thống đốc Hong Kong thú nhận việc trục xuất Quốc về Đông Dương, đơn thuần chỉ là nguỵ trang việc dẫn độ và đã “chống lại những nguyên tắc của nước Anh”.[4]
Đến lúc này, những thông cáo báo chí do Cộng sản Quốc tế tài trợ và những chi nhánh đăng tải việc bắt Nguyễn Ái Quốc để thu hút dư luận khắp thế giới. Jules Cambon, đại sứ Pháp ở London, bày tỏ mối quan tâm của chính phủ Pháp đối với sự kiện này, nói rõ, Quốc là “một kẻ nguy hiểm quốc tế” và không cho phép được trả tự do. Dù Paris không có lý lẽ hợp pháp yêu cầu dẫn độ Nguyễn Ái Quốc về Đông Dương, Cambon muốn nhà cầm quyền Anh biết quan điểm của Pháp về việc này. Cambon cũng lặp đi lặp lại đề nghị của Tổng lãnh sự Pháp ở Hong Kong, Nguyễn Ái Quốc sẽ bị trục xuất theo cách “tạo điều kiện dễ dàng cho nhiệm vụ của Toàn quyền Đông Dương”. Bộ ngoại giao Anh, muốn làm hài lòng Pháp về vấn đề liên kết trong việc chống những hoạt động lật đổ, đồng ý với yêu cầu của Tổng lãnh sự Pháp, đề xuất Quốc sẽ bị trục xuất về An Nam, như Paris yêu cầu.[5]
Đề xuất của Bộ ngoại giao Anh làm nổ ra làn sóng tranh luận tại Văn phòng Thuộc địa ở London qua việc trao Nguyễn Ái Quốc cho Pháp. Một số quan chức cảm thấy ông không phạm điều gì chống lại luật pháp Anh, lý do duy nhất trục xuất chỉ vì ông là người cộng sản. Điều này, theo lời một quan chức, chẳng khác gì “quàng thòng lọng Pháp vào cổ ông ta”. Nhưng người khác cho rằng phải trao cho người Pháp. Một quan chức thuộc địa ghi nhận vào tháng 8-1931:
Cá nhân tôi ủng hộ việc trả người đàn ông này về tổ quốc ông ta như Bộ ngoại giao Anh đã đề xuất. Ông là một trong những người kích động tai hại nhất đang bị nằm trong túi, sau khi bắt Lefranc ở Thượng Hải. Chỉ vì kém may mắn chúng ta không đủ chứng cớ bỏ tù ông ta tội hoạt động cách mạng ở Hong Kong.
Chỉ vì tinh thần thượng võ nên đã nghiêng về hướng cho phép người đàn ông này đi tới Nga thay vì trao ông ta vào tay kẻ thù, nhưng tôi nghĩ đây là một trường hợp cần tước bỏ bản tính cao thượng này. Tội ác của kẻ làm cách mạng ở An Nam là những việc làm ti tiện bẩn thỉu, bao gồm các kiểu giết người, thậm chí đốt phá công sở và tra tấn người tới chết. Với những tội ác kiểu này, cá nhân Nguyễn phải chịu trách nhiệm, dù những sự việc sảy ra ông chỉ đạo từ xa chứ bản thân không tự tay nhúng vào.
Ngoài ra, nếu được thả tự do, ông ta sẽ tiếp tục xúi giục gây tội ác, tôi hoàn toàn đồng ý với Bộ ngoại giao và chính phủ Pháp, đây là lợi ích chung của văn minh Đông phương mà các chính quyền thuộc địa nên sát cánh cùng nhau, giúp đỡ lẫn nhau để triệt bỏ những kiểu tội ác này, loại tội ác có tính lây lan cao.[6]
Do yêu cầu của Bộ ngoại giao Anh, Thống đốc Hong Kong ra lệnh mới trục xuất Quốc về thẳng Đông Dương. Để chặn trước khả năng này, Loseby tới Toà Thượng Thẩm Hong Kong yêu cầu lệnh đình quyền giam giữ để bắt buộc có phiên toà công khai. Ngày 14-8 -1931, Toà Thượng Thẩm triệu tập để nghe vụ án. Trong thời gian vụ kiện kéo dài vài tuần, Loseby chống lệnh trục xuất mới của chính phủ, tuyên bố việc điều tra trục xuất đã sai thủ tục, bởi việc hỏi bị cáo về bản chất chính trị mà điều đó không nằm trong phạm vi mục đích ban đầu của cuộc điều tra. Khi Chánh án Joseph Kemp cảnh báo chính quyền Hong Kong ông có quyền chống lại lệnh trục xuất, một lệnh mới lập tức được thảo ra theo những điều khoản khác nhau của Sắc lệnh trục xuất năm 1917. Toà Thượng Thẩm thông qua sự thay đổi, lưu ý rằng mặc dù lệnh trục xuất hậu quả của nó tương đương với việc dẫn độ có thể bị chê trách về lý do chính sách, nhưng nó không trái với luật pháp Anh. Đòi hỏi của Nguyễn Ái Quốc về lệnh đình quyền giam giữ đã bị từ chối ngay sau đó, ông một lần nữa là đối tượng trục xuất về Đông Dương. Lý Sâm được lệnh thả và được phép rời Hong Kong theo cách riêng của cô.[7]
Frank Loseby đã thấy trước phán quyết của Toà Thượng Thẩm, ông lập tức gửi yêu cầu khẩn cấp tới Hội đồng Cơ mật ở London với lý lẽ quyết định này lạm dụng quyền lực hành pháp. Tiếp nhận vụ án, Hội đồng Cơ mật cho Nguyễn Ái Quốc một cơ hội. Vì yêu cầu khẩn không được xem xét suốt vài tháng, ông được chuyển từ nhà tù Victoria tới bệnh viện đường Bowen. Loseby thông báo cho nhà cầm quyền rằng nếu lệnh trục xuất về Đông Dương theo điều khoản 6 Sắc lệnh trục xuất bị huỷ bỏ, Quốc đồng ý chủ động rời Hong Kong theo cách riêng. Ông yêu cầu cho phép tạm thời tới nước Anh.
Tuy không ốm nặng, nhưng Nguyễn Ái Quốc kiệt quệ và hốc hác. Trong hồi ký, ông phàn nàn ở Hong Kong bị giam trong ngục tối, bị hành hạ, thức ăn là gạo hẩm, cá ươn, một chút thịt bò. Đôi khi, ông cũng thoáng qua sự tuyệt vọng trong giây lát vì không được thả. Ông kể bắt rệp, chấy rận là thứ tiêu khiển duy nhất. Để giết thời gian ông cũng hát hoặc làm thơ và viết thư cho bạn bè trên những mẩu giấy ông tìm được trong tù.
Theo một số nguồn tin, tại bệnh viện đường Bowen ông cũng được ở phòng tương đối tiện nghi và được ngài thư ký thuộc địa và vợ (bạn thân của bà Loseby), cũng như một số người châu Âu khác tới thăm thường xuyên. Do thức ăn trong bệnh viện không đủ, Frank Loseby đặt thêm đồ ăn từ một nhà hàng địa phương. Nguyễn Ái Quốc dùng thời gian nhàn rỗi đọc sách, viết báo cáo, viết một cuốn sách bằng tiếng Anh về triết lý bản thân mình. Không may, vợ chồng Losebys đánh mất cuốn sách này trong Thế chiến II.
Như thường lệ, Nguyễn Ái Quốc không bỏ lỡ dịp may để tuyên truyền cách mạng. Khách người Anh thường thăm nhà tù hoặc bệnh viện chăm chú nhìn nhân vật Bolsevich “lạ lùng”. Nhân viên người Trung Quốc và bạn bè của họ thỉnh thoảng cũng dừng lại, nhưng họ lễ phép hơn. Như Quốc viết trong một cuốn tự truyện:
Một hôm, một hộ lý người Trung Quốc, người được phân công chăm sóc Bác (tác giả trong cuốn sách) bí mật hỏi ông: “Bác ơi, cộng sản là gì? Người cộng sản đã làm gì để bị bắt?” Cô hộ lý biết rằng những người cộng sản không phải là bọn buôn lậu, trộm cắp, hoặc giết người, nhưng cô không thể hiểu tại sao những người cộng sản bị bắt.
Bác đáp “Đơn giản thôi, những người cộng sản hy vọng làm nó để những hộ lý Trung Quốc không phải nhận lệnh từ những người Anh cai trị họ”. Cô hộ lý nhìn Bác với cặp mắt mở to và đáp, “Thực thế ư?”[8]
Trong thời gian bị giam, Nguyễn Ái Quốc được phép gửi và nhận thư. Vài tuần sau khi bị bắt, ông gửi một bức thư cho Lâm Đức Thụ, cựu hội viên Hội Thanh Niên Cách mạng - bị các đồng chí của ông mất lòng tin vì nghi làm gián điệp cho Pháp. Quốc giải thích đang bị tù ba tuần và rất xấu hổ. Ông đau xót nói “Tôi không có cha mẹ. Ai sẽ làm chứng cho sự vô tội của tôi?” Quốc khẩn khoản nhờ người đồng sự một thời làm mọi cách để ông được tự do và thề biết ơn suốt đời.
Đề nghị của Nguyễn Ái Quốc thật viển vông. Vài tháng sau, Thụ báo cáo với viên sĩ quan Pháp mà Thụ ngầm liên lạc, Quốc đề nghị xin 1.000 đô-la Hong Kong để có thể đi tới châu Âu sau khi được thả. Khi Thụ hồi âm không có tiền giúp, Quốc yêu cầu Thụ thuyết phục vợ bán một đồ tư trang đồng thời đề nghị Thụ giúp tổ chức lại Đảng, nhưng Thụ trả lời không thể làm được, vì các đồng chí vẫn nghi ngờ ông. Dù Thụ khước từ và thực tế Nguyễn Ái Quốc phải biết Lâm Đức Thụ là kẻ phản bội, song ông vẫn liên lạc thư từ. Cuối tháng 11 -1931, ông viết cho Thụ rằng sức khoẻ của ông tồi tệ và thường ho ra máu. Ông đau xót nói rằng “nếu căn bệnh này tiếp tục, tôi sợ sẽ chết trong tù. Nhưng tôi tin ở mệnh Trời”. Ông khuyên Lâm Đức Thụ đừng thăm ông để tránh rắc rối với chính quyền.[9]
Thực vậy, đây có thể là thời gian cô đơn nhất của ông. Người tình của ông, Nguyễn Thị Minh Khai trẻ tuổi, hiện đang trong nhà tù Trung Hoa. Cha ông đã mất hai năm trước ở Nam Kỳ, trong cảnh nghèo túng. Quốc đã cố gắng giữ liên lạc qua thư từ với anh trai và chị gái. Ông Khiêm, anh trai ông, bị Pháp tống tù vì những hoạt động lật đổ năm 1914. Năm 1920, sau khi được thả, ông Khiêm bị cảnh sát Huế theo dõi, ở đó ông hành nghề bốc thuốc kiêm thầy địa lý, một công việc cho phép ông kín đáo thu xếp những hoạt động bí mật. Ông cũng nghèo khó, năm 1926 Quốc bí mật gửi một số tiền nhỏ qua sự giúp đỡ của Phan Bội Châu.
Nguyễn Thị Thanh, chị gái của Quốc, cũng gặp rắc rối với nhà cầm quyền. Bà bị bắt vì tàng trữ vũ khí năm 1918, được thả năm 1922 nhưng bị đặt dưới sự theo dõi. Bà sống ở Huế, giống như ông Khiêm - em trai, hành nghề bốc thuốc đồng thời bí mật tham gia chống Pháp. Khi cha bà mất năm 1929, bà về Kim Liên một thời gian ngắn để an ủi những người thân trong gia đình.[10]
Số phận Nguyễn Ái Quốc nằm trong tay Hội đồng Cơ mật ở London, quan chức Anh tiếp tục thảo luận vấn đề này. Quan điểm của Văn phòng Thuộc địa ủng hộ khuyến nghị của Thống đốc, ông sẽ được thả và được phép rời Hong Kong theo ý muốn của ông. Nhưng Bộ ngoại giao Anh vẫn tìm mọi cách vừa lòng Pháp, đề nghị nhà cầm quyền Hong Kong cứ giam Quốc cho tới khi Pháp thu thập được những chứng cứ buộc tội ông. Trong lúc chờ đợi, Văn phòng Thuộc địa đồng ý trì hoãn việc thả ông cho tới khi Hội đồng Cơ mật quyết định việc này.[11]
Ngày 22 tháng 12, Jacques Truelle, đại sứ mới của Pháp ở London, phúc đáp những yêu cầu của Anh về thông tin buộc tội Nguyễn Ái Quốc ở Đông Dương. Truelle nói với Văn phòng Thuộc địa, Bộ trưởng Bộ Thuộc địa ở Paris có bằng chứng mới nhất khẳng định những nghi ngờ của Pháp rằng Nguyễn Ái Quốc thực sự là đặc vụ của Cộng sản Quốc tế làm liên lạc với tất cả những đảng cộng sản ở Đông Nam Á. Ông nhấn mạnh, trong số những đảng này, có Đảng cộng sản Mã Lai, thuộc địa của Anh. Truelle giải thích, triều đình An Nam đã buộc tội Quốc là kẻ chủ mưu kích động nổi loạn xảy ra gần đây ở các tỉnh Trung Kỳ. Thoạt đầu, Toà án thành phố Vinh kết án tử hình Quốc, nhưng tháng 10-1929, Toà Thượng Thẩm ở Huế xem lại, bản án được giảm thành khổ sai chung thân. Tháng 2-1930, toà án quyết định Nguyễn Ái Quốc sẽ bị xử thêm một lần nữa sau khi bị nhà cầm quyền Pháp giữ. Truelle giải thích thêm, tại phiên toà mới này, Quốc sẽ bị buộc tội chủ trương và kích động nổi loạn chống lại chính phủ Nam triều, tội giết người, cướp phá và tuyên truyền học thuyết lật đổ chính phủ. Truelle tuyên bố, những lời buộc tội, dựa trên chứng cớ có trong một số tài liệu, có chữ ký của Quốc, hiện nằm trong tay nhà cầm quyền Pháp. Truelle quả quyết với London, những lời buộc tội đó chắc chắn sẽ được đưa ra sau khi Thống Sứ Pháp ở Trung Kỳ thông qua. Truelle trấn an đồng nghiệp Anh, nếu Nguyễn Ái Quốc bị buộc tội, thống sứ cam đoan sẽ không có bản án nặng.[12]
Cuối năm 1931, yêu cầu của Nguyễn Ái Quốc cuối cùng cũng tới Hội đồng Cơ mật ở London. Bào chữa cho ông là luật sư D. N. Pritt thuộc hãng luật gia Light & Fulton, còn đại diện cho chính phủ Hong Kong là nhà hoạt động chính trị xuất sắc Công Đảng Anh - Stafford Cripps. Theo luật sư của Quốc, Cripps nhanh chóng phát hiện những điều vớ vẩn trong vụ án gây ảnh hưởng uy tín chính phủ Hong Kong. Ông gặp Pritt với bản dự thảo giải quyết vấn đề bằng cách cho phép Nguyễn Ái Quốc rời Hong Kong “theo cách riêng của ông ta”. Nhưng cố vấn luật sư tại Văn phòng Thuộc địa trách cứ Cripps đã từ chối tranh cãi vụ án, cho ông có thiện cảm với những người làm chính trị bị kết án. Một số nhà văn thậm chí còn cho là Nguyễn Ái Quốc được thả sau khi đồng ý trở thành đặc vụ Anh.
Luật sư của Nguyễn Ái Quốc đồng ý chấp nhận đề nghị thoả hiệp. Chính phủ Anh chấp thuận yêu cầu của ông với Hội Đồng Cơ Mật, giúp ông đi đến nơi ông muốn. Nguyễn Ái Quốc bày tỏ sự mãn nguyện, chấp nhận quyết định. Do vậy cuộc dàn xếp giữa hai bên diễn ra vào buổi sáng hôm điều trần, ngày 27-6-1932. Vì thế vụ án chưa bao giờ được đem ra tranh cãi tại phiên toà công khai.[13]
Dù bây giờ ông có đủ tư cách không bị cảnh sát giam cầm, Nguyễn Ái Quốc vẫn lo sợ khả năng nhà cầm quyền Pháp cố tình bắt ông trên đường tới London. Do tàu thuỷ Liên Xô không cập cảng Hong Kong, Loseby đề nghị chính phủ thu xếp quy chế tạm thời cho ông sống tại Anh. Quan chức Anh ở Hong Kong thoạt đầu thông báo với ông, họ không phản đối sự thu xếp. Tuy nhiên, một vấn đề mới nảy sinh, khi kế hoạch ra đi của ông được đề cập với nhà cầm quyền Anh. Nguyễn Ái Quốc rất lo ngại đi trên một con tàu, qua kênh Suez, điệp viên Pháp có thể bắt ông tại Port Said (Ai Cập). Ông đề nghị cho phép tới châu Âu quá cảnh Australia và Nam Phi. Tuy nhiên, chẳng có nước nào vui lòng tiếp ông. Quan chức Hong Kong thông báo cho Loseby, không phản đối thu xếp quy chế tạm thời cho ông tại Anh trên đường tới Liên Xô. Hóa ra sau này mới biết do có sai sót về văn bản. Chính phủ Anh khởi thuỷ cho biết ông không được đến Anh, nhưng chữ “không” đã bị xoá một cách tình cờ từ bản thông báo.[14]
Buộc phải từ bỏ kế hoạch tới Anh, Nguyễn Ái Quốc tìm cách khác tới Moscow. Ông quyết định đi Singapore, lên một tàu thuỷ Liên Xô xuất phát từ đó đi Vladivostok. Tuy nhiên, lúc này nhà cầm quyền bực tức do chậm trễ tống khứ người khách gây phiền nhiễu của họ, những cuộc thương lượng về chuyến đi và nơi ở sắp tới của ông đã kéo dài vài tuần lễ, như lời một quan chức Anh nói với một quan chức mật thám Pháp: “Chẳng ai muốn ông ta”. Buổi chiều ngày 28-12-1932, ông rời bệnh viện, được trở lại sống tự do trên phố với lệnh phải ra khỏi thuộc địa Hong Kong trong vòng hai mươi mốt ngày.
Sau khi tá túc ngắn ngày ở nhà vợ chồng Losebys, Nguyễn Ái Quốc - cải trang ông đồ nho với bộ râu lún phún, thuê một buồng trọ tại Hội Thanh Niên Thiên Chúa Giáo của người Trung Quốc ở Cửu Long. Cố gắng làm giảm thiểu nguy hiểm do mật thám Pháp theo dõi, vợ chồng Losebys tung tin trên thế giới, Nguyễn Ái Quốc đã chết vì bị lao phổi trong bệnh viện. Cộng sản Quốc tế cũng góp một tay phao tin này. Tờ Daily Worker (Công nhân hàng ngày) xuất bản ở London đăng tin Quốc chết trong tù ngày 11-8-1932. Với sự giúp đỡ của bà Loseby, Quốc tìm đường lên tàu tới Singapore.
Nhưng những rắc rối vẫn chưa tha ông. Khi tới Singapore ngày 6-1-1933, ngay lập tức ông bị cơ quan nhập cư bắt và tống trở lại Hong Kong trên tàu Hà Sinh. Xuống tàu tại Hong Kong, người ta nhận ra ông và bắt giam ông với lý do nhập cảnh không có giấy tờ hợp lệ. Nhà cầm quyền quyết định bỏ qua lỗi vi phạm lệnh trục xuất - bất chấp sự phản đối của cảnh sát địa phương - lại thả ông ngày 22-1, với lệnh phải rời khỏi thuộc địa Hong Kong trong vòng ba ngày. Vợ chồng Loseby thu xếp một chỗ ở bí mật cho ông ở Tân lãnh địa, đồng thời tìm con đường khác đưa ông ra khỏi thuộc địa. Nguyễn Ái Quốc ra đi với một người tháp tùng, trên tàu thuỷ Trung Hoa dự kiến rời Hong Kong đi Hạ Môn ngày 25-1-1932. Để tránh con mắt tọc mạch của mật thám Pháp, Quốc được hộ tống vào ban đêm tới một bến tàu trong bộ áo choàng toàn thân. Từ đây một chiếc xuồng máy được chính phủ giấu sẵn chở ông tới eo biển Lý Ngư Môn, sát bến cảng, nơi chiếc tàu thuỷ đang chờ ông.[15]
Tầu tới Hạ Môn - cảng nhượng địa của nước ngoài ở tỉnh Phúc Kiến, còn gọi là cảng Amoy - vào sáng hôm sau. Nguyễn Ái Quốc và người tháp tùng xuống tầu, đi tới Hội Thanh Niên Thiên Chúa Giáo Trung Quốc ở thị trấn thuộc lãnh thổ Trung Hoa. Nghỉ Tết cùng bạn bè, ông ở lại vài tuần vì quá mệt mỏi. Sau khi nhận tiền từ một người Trung Hoa giàu có quen biết Loseby, cuối cùng ông tới Thượng Hải bằng tầu thuỷ. Thành phố công nghiệp và thương mại lớn này, từng dìễn ra hoạt động mạnh mẽ của phong trào lao động cánh tả, vừa bị Tưởng Giới Thạch ra tay đàn áp tháng 4-1927, quét sạch những phần tử cấp tiến trong “vụ thảm sát Thượng Hải”. Chỉ còn lại một số ít đảng viên Đảng cộng sản Trung Quốc, sống lẩn quất trong thành phố tránh lực lượng an ninh Tưởng Giới Thạch. Để tránh mật thám ở tô giới Pháp, Quốc sống ở một khách sạn sang trọng đồng thời cải trang là một thương gia giàu có. Vì tiền túi eo hẹp, ông ăn một mình, tự giặt quần áo trong phòng. Người ta khuyên Quốc nên thận trọng, vì mật thám tuy đã mất tăm hơi ông, nhưng hiện giờ nghe đồn ông đang ở nam Trung Hoa, Đông Dương, hoặc Xiêm. Khi ông ở Thượng Hải, cảnh sát tô giới Pháp tăng cường truy lùng và treo giải thưởng lớn bắt ông.[16]
Nguyễn Ái Quốc không tìm thấy trụ sở Đảng cộng sản Trung Quốc địa phương hoạt động dưới vỏ bọc để bắt liên lạc với các đồng chí Trung Quốc, giúp ông tiền bạc cho chuyến đi, nhưng ông gặp may khi phát hiện ra Paul Vaillant-Couturier, đồng sự thân thiết, người đỡ đầu ông từ những ngày đầu thành lập Đảng cộng sản Pháp, thành viên đoàn đại biểu những người chống chiến tranh của Quốc Hội Pháp đang ở thăm Thượng Hải. Từ trước, qua bạn bè trong Đảng cộng sản Trung Quốc, Quốc biết trong trường hợp khó khăn nhất, ông có thể liên lạc với họ qua bà Tống Khánh Linh, vợ goá Tôn Dật Tiên. Sau khi chồng qua đời, bà Tống Khánh Linh, lúc này sống trong một biệt thự lớn ở phố Molière thuộc tô giới Pháp của thành phố, đã có mối quan hệ bí mật thân thiết với Đảng cộng sản Trung Quốc.
Không còn sự lựa chọn nào khác, Nguyễn Ái Quốc quyết định dùng cách liên lạc này. Thuê một taxi, ông yêu cầu người lái xe chở tới phố Molière, ở đó ông bí mật bỏ bức thư không ký tên vào thùng thư của bà. Như ông thuật lại sau này, suýt nữa thành một tai hoạ:
Lúc lên taxi quay về, (Quốc) thấy cảnh sát Pháp đã bao vây đường phố xung quanh đang xét hỏi những người đi đường. Người lái taxi tỏ vẻ ngập ngừng. Bác kêu to “Cứ đi!” May mắn, do taxi thuộc hãng xe sang trọng, nó không bị cảnh sát ngăn lại kiểm tra. Một lần nữa, thoát trong đường tơ kẽ tóc!
Nhờ mưu mẹo, ông liên lạc được với Vaillant-Couturier, thu xếp gặp nhau tại công viên thành phố. Sau khi bất ngờ biết rằng, trái ngược với những tin tức báo cáo, người bạn cũ của mình vẫn còn sống, Vaillant-Couturier giúp Quốc tỉếp xúc với những đại diện bí mật Đảng cộng sản Trung Quốc, người có thể thu xếp chuyến đi trên tàu thuỷ của Liên Xô đến Vladivostok. Vì cảnh sát Pháp đang canh gác bến tàu rất chặt chẽ, Quốc lên tầu ăn vận như một thương gia Trung Quốc giàu sang.[17]
Từ Vladivostok đi tàu hoả qua vùng băng giá Siberia, Nguyễn Ái Quốc đến Moscow vào mùa xuân 1934. Kế hoạch năm năm phát triển kinh tế Xô viết được thông qua tại Đại hội Đảng năm 1928, cũng như chương trình tập thể hoá và công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa đang tiến hành khắp đất nước. Đối với khách vãng lai và những người chỉ quanh quẩn ở Moscow, Leningrad hoặc những thành phố lớn khác, tình hình tỏ ra có nhiều sự tiến bộ hơn so với thập niên trước. Những nhà báo tới thăm Liên Xô viết nhiều báo cáo sinh động, lạc quan. Kịch tác gia George Bernard Shaw miêu tả nó là một “thử nghiệm lớn của xã hội” sau chuyến thăm Liên Xô giữa thập niên 1930. Nguyễn Ái Quốc có vẻ đồng ý, theo hồi tưởng của ông, dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, Liên Xô đang chuyển mình từ một xã hội nông nghiệp lạc hậu sang một cường quốc công nghiệp tiến bộ.[18]
Tuy nhiên, đối với hàng triệu nhân dân Liên Xô, thực tế lại khác xa. Khi quyết định tập thể hoá nông nghiệp, đầu thập niên 1930 Stalin ra lệnh xóa bỏ nền kinh tế nông nghiệp tư nhân. Phú nông, người Nga gọi là “kulaks” - hoặc “fists”, do bản chất tham lam keo kiệt của họ - đã bị “xóa bỏ như xóa bỏ một giai cấp”. Những người chống lại tập thể hoá sẽ bị giết hoặc đày đi Siberia. Hàng ngàn người buộc phải làm việc như nô lệ để thực hiện những dự án xây dựng đại trà như đào kênh Karelian, nối vịnh Phần Lan với Bạch Hải và sau đó hoàn thành tàu thuỷ chạy vào năm 1933. Dù có nhiều hàng hoá xếp trên các kệ trong cửa hàng mậu dịch quốc doanh ở thành thị, chính quyền vẫn trưng thu ngũ cốc của nông dân để nuôi dân thành phố hoặc xuất khẩu mua máy móc. Do đó, khủng hoảng ở nông thôn phát sinh. Nạn đói bắt đầu ở Ukraine năm 1932. Sau hai năm, có từ 5 đến 7 triệu người chết đói.
Giữa thập niên 1930, sự chống đối những nỗ lực tàn bạo của Stalin biến nước Nga thành một cường quốc kinh tế xã hội chủ nghĩa đã lan rộng mạnh mẽ trong Đảng cộng sản Liên Xô. Tại Đại hội XVII Đảng cộng sản Liên Xô năm 1934, cuộc vận động thay thế Stalin bằng Sergey Kirov, bí thư thành ủy Leningrad tăng lên mạnh mẽ. Nhưng Stalin đã củng cố vững chắc quyền lực, đè bẹp đối thủ, dùng sức mạnh đàn áp những người bị nghi ngờ đã vạch kế hoạch chống ông. Leon Trotsky buộc phải lưu vong. Những lãnh tụ khác, như Lev Kamenev và Grigory Zinoviev - một thời đứng đầu Cộng sản Quốc tế - bị cô lập. Vào tháng 12, Stalin ra lệnh ám sát Kirov, mở hàng loạt phiên toà trong toàn quốc nhằm thanh trừng nhưng đồng chí Bolsevich kỳ cựu đã từng sát cánh với Vladimir Lenin tiến hành Cách mạng năm 1917. Năm 1935, chỉ riêng ở Leningrad, 100.000 người tình nghi “kẻ thù nhà nước” bị bắt.
Bề ngoài, sự căng thẳng trong Đảng cộng sản Liên Xô hình như không ảnh hưởng đến cá nhân Nguyễn Ái Quốc. Khi tới Moscow, ông được đón tiếp như một anh hùng của Ban Bí thư Văn phòng Viễn Đông, bây giờ dưới quyền lãnh đạo của Otto Kuusinen, người cộng sản Phần Lan. Sinh viên Việt Nam đang học tại Trường Stalin - đổi tên thành Viện Nghiên Cứu Những Vấn Đề Dân Tộc và Thuộc địa - nhận được tin Quốc chết “vì lao phổi” đã tổ chức lễ truy điệu ông cùng Trần Phú, Tổng bí thư Đảng cộng sản Đông Dương, chết trong nhà tù Pháp mùa thu năm 1931.
Nguyễn Ái Quốc ngay lập tức được bổ nhiệm phụ trách 144 sinh viên Việt Nam đang học tại Viện này, văn phòng nằm ở tầng 4 một ngôi nhà trên đường Moskovsky Bulvard. Ở đó ông tham gia giảng bài, viết báo, trông coi sinh viên. Nguyễn Khánh Toàn, một trong những sinh viên, nhớ lại:
Ông duy trì mối quan hệ cực kỳ thân thiết với nhóm sinh viên Việt Nam. Bình thường, buổi chiều ông đến, kể lại những kinh nghiệm cá nhân để nâng cao tinh thần cách mạng, đặc biệt vấn đề đoàn kết. Một số sinh viên trẻ tuổi, hay giận dỗi hoặc kiêu căng, thường cãi vã nhau về những chuyện vụn vặt. Bác Hồ thường là người đứng phân xử. Ông chỉ rõ cho mọi người thấy một số nguyên tắc chính nhằm chống lại thói hống hách, ích kỷ, tự coi mình là trung tâm, vô kỷ luật, vô chính phủ, cần tăng cường tính thống nhất và cần phải đặt lợi ích cách mạng lên trên hết. Ông thường khuyên chúng tôi: “Nếu anh không thể duy trì sự đoàn kết trong một nhóm nhỏ như thế này, làm sao anh có thể tính chuyện tập hợp quần chúng để chiến đấu chống bọn thực dân và cứu dân tộc một khi anh trở về nước?”[19]
Sống khép kín trong trường, Quốc không nhận thấy những thảm họa tàn khốc của hàng triệu nhân dân Liên Xô ở nông thôn. Sinh viên tại Viện được đối xử tốt hơn nhiều so với dân chúng. Họ được cung cấp quần áo, giầy dép, sống trong buồng tương đối rộng rãi trong ký túc xá, được ăn uống đầy đủ tại các nhà ăn tập thể miễn phí, ngoài ra còn được khám chữa bệnh, nghỉ hè miễn phí ở Crum và 140 rúp tiêu vặt mỗi tháng.
Dù vậy, Nguyễn Ái Quốc rất cần nghỉ ngơi. Những người quen tại Viện sau này nhớ lại, khi mới tới Moscow, trông ông hốc hác, còm nhom và ốm yếu, có lẽ do hậu quả nhiều tháng bị tù ở Hong Kong. Tháng 9-1934, ông tới Crum để chữa bệnh trong một viện điều dưỡng. Sau khi ở đó vài tuần lễ, ông trở lại Moscow vào Đại học Lenin, một trường dành cho những cán bộ cao cấp và ưu tú của các Đảng cộng sản anh em. Trường có hai khóa khác nhau, chương trình ba năm và chương trình sáu tháng. Ông vào khoá học sáu tháng với bí danh Lin - Linov theo tiếng Nga. Trong vài tháng sau đó, ông tham dự những buổi lên lớp, dạy những khoá về đạo đức, viết báo, đồng thời tiếp tục phân xử những vấn đề nảy sinh trong người Việt Nam tại những viện khác nhau ở Văn phòng Viễn Đông.
Thông tin về đời tư của ông rất ít ỏi trong những tháng đầu tiên ở Moscow. Lúc đầu, ông sống ở một phòng lớn với một nhóm cán bộ Trung Quốc, nhưng sau đó ông phàn nàn không hiểu họ. Người ta chuyển ông sang ở một phòng tập thể với các đồng chí nói tiếng Pháp. Dù vẫn còn yếu và xanh xao, ông vẫn tham gia hoạt động xã hội, dự triển lãm nghệ thuật, chương trình văn hoá và đều đặn đi thăm những nơi nổi tiếng của địa phương, trong đó có nông trang tập thể ở Ryazan. Theo một nhà viết tiểu sử Xô viết, ông tập thể dục hàng ngày để tăng cường sức lực cho thân hình mảnh dẻ, có quả tạ và một dụng cụ tập nở ngực trong phòng ở.[20]
Người ta thường nghĩ Nguyễn Ái Quốc biết cách xoay sở khôn khéo để tránh tác động cơn lốc thanh trừng của Stalin làm rung chuyển Liên Xô giữa thập niên 1930. Theo nhà văn Pháp, Jean Lacouture, Nguyễn Ái Quốc “cách xa những tranh chấp và những vụ thanh trừng xé nát Đảng cộng sản Liên Xô và Quốc tế Cộng sản”. Những người viết tiểu sử khác trước đây cũng đồng tình với nhận xét này.[21]
Tuy nhiên, mới đây người ta đưa ra những báo cáo, trong thời kỳ này Nguyễn Ái Quốc cũng bị nghi ngờ, thậm chí có thể bị lôi ra xét xử. Nguồn tin riêng ở Moscow cho biết, giữa thập niên 1930 khi sống ở Liên Xô, ông đã bị điều tra do ban chuyên án gồm toàn những người quen cũ và người đỡ đầu, Dmitri Manuilsky, Khang Sinh - chính khách xảo quyệt của Đảng cộng sản Trung Quốc - và Vera Vasilieva - người phụ trách Quốc tế Cộng sản. Không rõ có bị buộc tội hay không, mặc dù ai cũng biết ông có những ý kiến đi ngược đường lối chung đã được thông qua tại Đại hội VI Cộng sản Quốc tế năm 1928. Chính điều này có lẽ khiến ông bị Stalin nghi ngờ. Việc ông là một đồng sự gần gũi Mikhail Borodin - nạn nhân của những vụ án thanh trừng - có thể ảnh hưởng tới ông. Hơn nữa, việc ông bất ngờ được thả khỏi nhà tù ở Hong Kong tháng 12-1932 gây khuấy động sự nghi ngờ ở Moscow, nghi ông đã có thoả thuận ngầm với cảnh sát Anh để đổi lấy tự do.[22]
Có thể do sự ủng hộ của Manuilsky và Vasilieva, ông thoát khỏi sự cáo buộc. Vasilieva, người nhiều năm công tác liên lạc giữa sinh viên Việt Nam ở Moscow với Cộng sản Quốc tế, bảo vệ ông, lập luận, nếu có mắc sai lầm chẳng qua chỉ vì ông thiếu kinh nghiệm. Điều này giải thích được những phê phán khó hiểu của bà, trong một thư không đề ngày gửi giới lãnh đạo Đảng cộng sản Đông Dương ở nam Trung Hoa trong khi Quốc còn ở Moscow, bà viết “Những vấn đề Quốc bị dính líu, chúng tôi cảm thấy trong hai năm tới ông phải tự học tập và tu dưỡng một cách nghiêm túc, không nên giao cho làm bất cứ việc gì. Sau khi ông học xong, chúng tôi có kế hoạch riêng sử dụng ông ta”.[23]
Trong lúc Nguyễn Ái Quốc ở Moscow, những đồng chí của ông chưa bị bắt đang cố gắng khôi phục cơ sở Đảng ở Đông Dương. Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản công nhận Đảng cộng sản Đông Dương là một thành viên vào tháng 4-1931, cùng tháng với vị lãnh đạo cao cấp Trần Phú bị Pháp bắt ở Nam Kỳ. Suốt vài tháng sau đó, tổ chức Đảng trong tình trạng hoàn toàn bị xáo trộn. Để giảm bớt khó khăn, Cộng sản Quốc tế ở Moscow chỉ thị các Đảng cộng sản anh em làm những gì mà họ có thể làm được để dư luận biết những gì đã xảy ra, chẳng hạn như cuộc nổi dậy Nghệ - Tĩnh. Kêu gọi công nhân ở tất cả các nước biểu tình ủng hộ các đồng chí bị áp bức ở Đông Dương. Cụ thể hơn, hơn ba mươi sinh viên Việt Nam đang theo học chương trình đào tạo khác nhau ở Moscow được chỉ thị trở về Đông Dương bằng nhiều con đường để bổ xung lực lượng cho Ban Chấp hành Trung ương mới. Phần lớn (22 trong số 35 người, theo một nguồn tin quốc gia) bị bắt trên đường đi hoặc rơi vào tay Pháp. Trong những người trở về an toàn có Lê Hồng Phong, người được Nguyễn Ái Quốc bảo trợ từ Tâm Tâm Xã, theo học trường hàng không ở Leningrad và sau đó chuyển về Trường Stalin năm 1929. Phong rời Liên Xô mùa hè năm 1931, sau khi dừng ở Berlin và Paris, cuối cùng ông về tới Long Châu, một thị trấn nằm ở biên giới thuộc tỉnh Quảng Tây ở phía nam Trung Quốc vào tháng 4-1932. Lê Hồng Phong cùng với hai đồng sự Hà Huy Tập và Phùng Chí Kiên từ Trường Stalin ở Moscow, cuối cùng cũng đến được gần Nam Ninh. Mùa hè năm 1933 ba người này thành lập Ban Chấp Hành Hải ngoại mới. Theo chỉ thị của Cộng sản Quốc tế, tổ chức mới được thành lập là cơ quan liên lạc tạm thời giữa Văn phòng Viễn Đông ở Moscow với tổ chức Đảng trong nước.[24]
Trong lúc này, những cơ sở Đảng được thành lập ở ba miền cố gắng khôi phục tổ chức trong nước. Đến giữa thập niên 1930, dân số cả ba miền Việt Nam đã hơn 18 triệu, gồm trên 4 triệu ở Nam Kỳ, 5 triệu ở Trung Kỳ và 9 triệu ở Bắc Kỳ. Ở Nam Kỳ, nhiệm vụ khôi phục đảng đặt trên vai Trần Văn Giàu, một thanh niên nhiều tham vọng, tốt nghiệp Trường Stalin, từ Moscow trở lại Sài Gòn đầu năm 1933. Ông lập tức làm hồi sinh tổ chức Đảng khắp các tỉnh miền Nam. Tuân theo đường lối đương thời ở Liên Xô, các cán bộ được chỉ thị tập trung cố gắng vào công nhân khu vực thành thị. Tuy nhiên, cuộc Đại khủng hoảng kinh tế thế giới dẫn tới mức độ thất nghiệp cao trong nhà máy, vì thế rất ít công nhân đủ can đảm tham gia.[25]
Đảng lại thu được kết quả tương đối nhiều trong nông thôn, đáng chú ý nhất ở đồng bằng sông Cửu Long. Tại đây dân chúng rất căm uất những đòi hỏi vô lý của bọn địa chủ tham lam và những quan chức tham nhũng. Còn tại Sài Gòn một nhóm nhỏ trí thức cộng sản tận dụng cơ hội Pháp nới lỏng hoạt động chính trị ở thuộc địa. Tờ Tranh Đấu (La Lutte), báo của Đảng ra đời với sự giúp đỡ của những người Việt Nam từng du học ở Paris, theo đường lối Lev Trotsky. Giới lãnh đạo đảng tại Sài Gòn thậm chí còn thành công trong việc đưa ứng cử viên tranh cử vào những chức vụ của hội đồng thành phố. Giữa năm 1933, Xứ uỷ mới Nam Kỳ được hình thành gồm những tiểu ban Miền Đông và Miền Tây, xây dựng một trường nhỏ để huấn luyện cán bộ. Trần Văn Giàu, hăng hái điều khiển lực lượng đằng sau những hoạt động đó, bị Pháp bắt vào tháng Mười, nhưng được thả ngay do không đủ bằng chứng.
Những báo cáo gửi Bộ Thuộc địa ở Paris bày tỏ sự thất vọng của cơ quan an ninh địa phương bất lực ngăn chặn những hoạt động của Đảng cộng sản Đông Dương. Một báo cáo viết: “Mật thám coi như vô tác dụng trước sự hình thành và phát triển nhiều sự kiện đầy nguy hiểm. Họ duy nhất chỉ có thể đưa ra cảnh báo, không dám ra tay đàn áp trừ khi có lệnh của nhà cầm quyền”. Nhưng dù sao mật thám đã đạt được một thành công. Do cuộc nổi dậy Nghệ - Tĩnh bị đàn áp, Lê Hồng Sơn - một sát thủ khét tiếng của Đảng, thành viên sáng lập Tâm Tâm Xã - đã phải chạy trốn từ nước này sang nước khác để tránh bị Pháp bắt. Bị trục xuất khỏi Burma vào tháng 7-1931, Lê Hồng Sơn tới Xiêm, sau đó tới Thượng Hải bắt liên lạc với Đảng cộng sản Trung Quốc. Nhưng Lê Hồng Sơn bị cảnh sát Pháp ở tô giới bắt. Sau khi bị tra tấn dã man, ông được trao cho Triều đình Việt Nam ở Huế, tháng 2-1933 bị tử hình tại Vinh.[26]
Những thành tích nho nhỏ của Trần Văn Giàu tương phản với hoàn cảnh những nơi khác tại Đông Dương. Tại cả Trung Kỳ lẫn Bắc Kỳ, cán bộ đảng hoạt động khó khăn do cảnh sát theo dõi gắt gao và dân chúng thờ ơ. Ở Trung Kỳ, một số ít đảng viên từ Xiêm trở về đã cố gắng phục hồi những cơ sở tổ chức Đảng bị tan rã. Một số đảng viên mới là những cựu đảng viên Đảng cộng sản Đông Dương vừa được ra tù, (theo báo cáo của Pháp, chỉ riêng ở Vinh đã có hơn 2.000 người trong tù), nhưng giới lãnh đạo đảng lại nghi ngờ lòng trung thành của những cựu tù nhân này. Theo một báo cáo của Tỉnh uỷ Nghệ An, “trong một trăm đảng viên cũ, chỉ được một người trung thành với học thuyết của Đảng”. Giữa năm 1934, ở Trung Kỳ thành lập ba Ban Chấp hành miền, mỗi ban chấp hành phụ trách từ bốn đến bảy tỉnh. Ở Bắc Kỳ, hoạt động Đảng cộng sản Đông Dương hầu như không tồn tại cho đến tận 1934, khi những chi bộ đảng bắt đầu xuất hiện ở Việt Bắc, vùng rừng núi phía bắc đồng bằng sông Hồng. Sau đó, từ căn cứ cơ sở ở Trung Hoa, Lê Hồng Phong có điều kiện tái lập Ban Chấp hành Xứ uỷ Bắc Kỳ.
Trong lúc ấy, một nhóm Đảng viên ở Xiêm phụ trách giao liên ở cao nguyên Khorat - kế thừa hoạt động của Nguyễn Ái Quốc ở vùng này cuối thập niên 1920 - thành lập Ban Chấp hành Lâm Thời để chỉ đạo phong trào và lập một trường huấn luyện đào tạo những hội viên mới hoạt động ở Việt Nam. Sau đó, chính họ tạo ra mối liên lạc trực tiếp giữa hoạt động đảng ở Nam Kỳ và Trung Kỳ với thế giới. Nhiều ban chấp hành tương tự cũng được thành lập ở Lào và Campuchia.[27]
Giới lãnh đạo đảng đang phải khắc phục những hậu quả thảm khốc của cuộc nổi dậy Nghệ - Tĩnh đồng thời có nhiệm vụ quan trọng nhất tìm ra chiến lược mới. Giữa năm 1932, Lê Hồng Phong cùng các cán bộ ưu tú sống ở nam Trung Hoa đã dự thảo chương trình hành động mới của đảng, in li-tô (lithograph) lưu hành trong nội bộ đảng viên trung thành ở Đông Dương. Để giữ đúng tinh thần ở Moscow, giọng văn của tài liệu mang tính giáo phái và tả khuynh, chú trọng cách mạng chống phong kiến, đấu tranh chống đế quốc và nhấn mạnh sự nghi ngờ vai trò các đảng phái quốc gia dân tộc trong cách mạng Việt Nam.
Những quan điểm công khai trong tài liệu đó phản ánh đường lối của họ. Một bài báo trên tạp chí Bolsevich, cơ quan ngôn luận chính thức của Ban Chấp hành Hải ngoại mạnh mẽ phê bình thái độ tiểu tư sản, chẳng hạn như có ý kiến cho rằng cách mạng dân tộc phải xảy ra trước cách mạng xã hội chủ nghĩa. Tác giả bài báo là Hà Huy Tập, vừa tốt nghiệp Trường Stalin, cũng phê bình cán bộ đảng ở Đông Dương quá chú trọng việc động viên nông dân ở nông thôn và kêu gọi lôi kéo mạnh hơn công nhân vào phong trào. Hà Huy Tập buộc tội nông dân là “sở hữu cá thể tham lam, lập trường không rõ ràng, chuyển biến chậm từ quan điểm lý thuyết vào thực tế, mất đoàn kết và chưa đầy đủ phẩm chất để chỉ đạo phong trào cách mạng”.
Nhìn bề ngoài lời phê bình này có vẻ nhắm vào những cán bộ đảng nói chung ở Đông Dương, nhưng thực tế ban biên tập báo Bolsevich chủ yếu nhằm vào quan điểm, đường lối trước đây của Nguyễn Ái Quốc. Một bài bình luận đã lưu ý “một số đồng chí nào đó” ở Đông Dương đã lập luận, phú nông và tư bản về cơ bản cũng chống đế quốc, do vậy họ có thể trở thành một bộ phận của phong trào cách mạng. Bài báo thẳng thừng cho rằng quan điểm đó được Nguyễn Ái Quốc đề cập tại hội nghị thống nhất tháng 2-1930, nhưng đã bị giới lãnh đạo đảng mới cuối năm đó bác bỏ. Tờ tạp chí nhấn mạnh Đảng cộng sản Đông Dương là đảng của giai cấp vô sản, không phải đảng của tất cả giai cấp cần lao. Mặc dù “những người tiến bộ nhất của các giai cấp khác có thể được kết nạp vào tổ chức, nhưng phải đảm bảo người vô sản chiếm đa số”. Nói về vấn đề độc lập dân tộc, tạp chí viết:
Đảng cộng sản chỉ đạo đấu tranh giai cấp chứ không phải đấu tranh dân tộc… Vì Đảng cộng sản là đảng của giai cấp vô sản, đấu tranh là để duy trì đường lối chính trị của chủ nghĩa quốc tế. Đảng chiến đấu bảo vệ học thuyết, tuyên truyền trong nhân dân và ngăn chặn sự rập khuôn theo kiểu: ủng hộ việc khôi phục đất nước, khôi phục giòng máu con rồng cháu tiên”… v.v…. Chúng ta đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc Pháp, nhưng điều này không đơn giản là ủng hộ chủ nghĩa dân tộc.[28]
Một bài báo khác, do Hà Huy Tập viết, thậm chí còn nói trắng ra:
Chúng ta chịu ơn nhiều Nguyễn Ái Quốc, nhưng các đồng chí đừng quên di sản dân tộc chủ nghĩa của Nguyễn Ái Quốc và những chỉ thị sai lầm của ông về vấn đề nền tảng của phong trào cách mạng dân chủ tư sản ở Đông Dương, cũng như những lý thuyết cơ hội chủ nghĩa của ông vẫn còn đang ăn sâu vào ý thức những hội viên Hội và Tân Việt… Nguyễn Ái Quốc không hiểu đường lối cộng sản quốc tế, đã không hoà đồng ba tổ chức cộng sản Đông Dương từ đầu đến chân, không thực hiện thảo luận chiến thuật mà Cộng sản Quốc tế đã áp dụng để loại trừ những ước mơ cơ hội chủ nghĩa của những bộ phận đó. Cuốn sách nhỏ nhan đề “Cương lĩnh vắn tắt và Điều lệ vắn tắt” (tức Cương lĩnh chính trị đưa ra tháng 2-1930) và những quy chế của đảng thống nhất đã không đi theo đúng chỉ dẫn của Quốc tế Cộng sản.
Nguyễn Ái Quốc cũng bào chữa chiến thuật sai lầm và hợp tác với kẻ thù như “trung lập với giai cấp tư sản và phú nông”, “liên minh với bần nông và trung nông”…v.v… đây là những chính sách sai lầm từ tháng Một đến tháng Mười 1930 mà Đảng cộng sản Đông Dương theo đuổi, ở nhiều điểm, đi ngược với chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, cho dù là chính sách đó hăng hái chỉ đạo quần chúng trong đấu tranh cách mạng, giống như chính sách mà Xô viết Nghệ An theo đuổi, không phù hợp với đường lối của Đảng.[29]
Tháng Sáu 1934, Lê Hồng Phong và Hà Huy Tập triệu tập cuộc họp ở Macao - thuộc địa Bồ Đào Nha - để tham khảo ý kiến cán bộ lãnh đạo Đảng trong nước về chính sách sắp tới và chuẩn bị Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ nhất. Trong nghị quyết đưa ra cuối Hội nghị, cái gọi là những nhà cải cách dân tộc chủ nghĩa - gồm Bùi Quang Chiêu, nhà báo yêu nước Huỳnh Thúc Kháng (sau này là thành viên chính phủ Hồ Chí Minh ở Hà Nội) và nhà trí thức cấp tiến Nguyễn An Ninh - tất cả đều bị buộc tội là đồng lõa với chủ nghĩa đế quốc. Bản nghị quyết buộc tội những nhân vật này là đặc biệt nguy hiểm vì họ “khoác áo người bảo vệ quần chúng lao động, kẻ thù của chính phủ, là những người tuyên truyền cải cách hiến pháp, người ủng hộ liên minh Pháp - Việt và thống nhất các tầng lớp, với mục đích độc quyền đưa quần chúng đi trệch con đường cách mạng”. Bản nghị quyết kết luận, nhiệm vụ của tất cả đảng viên là phải loại bỏ ảnh hưởng của nhóm người này, gồm những phần tử Trotskits, những hội viên Hội Thanh Niên Cách mạng cũ và những người còn lại của Đảng Tân Việt.[30]
Khi tấn công khuynh hướng “dân tộc chủ nghĩa” trong nội bộ đảng và những cố gắng khôi phục hoạt động tích cực của đảng ở nông thôn, Ban Chấp Hành Hải Ngoại ra sức phản ánh đường lối tư tưởng đang thịnh hành ở Moscow. Trong khi Ban Chấp hành cố gắng đưa đảng viên trong nước đi đúng đường lối chỉ đạo chiến lược do Liên Xô đưa ra, thì bầu không khí ở Moscow bây giờ thay đổi. Tháng 10-1934, một bài báo viết dưới bút danh “Orgwald” in trong tờ Quốc tế Cộng sản, tờ báo chính thức của Cộng sản Quốc tế (bằng tiếng Pháp). Bài báo nhan đề”Entretien avec les camarades indochinois” (Cuộc phỏng vấn với các đồng chí Đông Dương) thoạt đầu đăng ở một tạp chí khác vào tháng 7-1933, tác giả phê bình giới lãnh đạo Đảng cộng sản Đông Dương về thái độ bè phái đối với mặt trận thống nhất. Orgwald vạch ra, điều này chống lại những người cải cách dân tộc chủ nghĩa, vì giới lãnh đạo của họ rõ ràng phản cách mạng và phải bị lột mặt nạ. Nhưng sẽ sai lầm khi kêu gọi lật đổ giai cấp tư sản, vì giai cấp tiểu tư sản và ngay cả một số người thuộc giai cấp tư sản dân tộc cũng sẵn lòng cộng tác với Đảng nếu Đảng dùng khẩu hiệu chống đế quốc.[31]
Không rõ giới lãnh đạo Đảng cộng sản Đông Dương có nhận được bản sao bài báo đó hay không. Dù sao đi nữa, họ cũng có lý do lúng túng về đường lối hiện tại, chẳng hạn trong một bài khác nhan đề “Bức thư gửi các đồng chí Đông Dương”, người ta cho rằng do một người lãnh đạo Đảng cộng sản Trung Quốc viết, đăng ngày 5-8-1934, cũng do tờ báo trên xuất bản. Sau khi dành hết phần lớn nội dung phê bình sự yếu kém của tổ chức Đảng, sự cần thiết tăng cường kỷ luật và làm việc với quần chúng, tác giả trở lại vấn đề mặt trận thống nhất và tầm quan trọng của nó trong việc đấu tranh cách mạng. Về việc khước từ bản chất của mặt trận, bức thư tỏ ra mơ hồ, khó hiểu. Giống chương trình hành động năm 1932, (chỉ những hành động đặc biệt) - nó phê bình mạnh mẽ “những người cải cách dân tộc chủ nghĩa”, ngay cả những người che dấu tính cách dưới những khẩu hiệu “tả khuynh”“dân tộc chủ nghĩa”. Bài báo khẳng định, những nhà cải cách đó cần phải bị phê phán không thương xót.[32]
Những quan điểm đó, được hàng ngũ lãnh đạo cao cấp ở Moscow chấp nhận chính thức, đã khiến người nhận bối rối, lúng túng. Bà Vera Vasilieva, chuyên viên về Việt Nam của Quốc tế Cộng sản, trong bức thư gửi các đồng chí Đảng cộng sản Đông Dương viết ngày 17-3-1935, khẳng định, bài báo của Orgwald và bức thư của Đảng cộng sản Trung Quốc thể hiện đường lối chính sách cơ bản, cùng với chương trình hành động của chính Đảng cộng sản Đông Dương năm 1932. Bức thư của bà Vasilieva chắc chắn được dùng làm đường lối chỉ đạo cho giới lãnh đạo đảng trong việc chuẩn bị Đại hội toàn quốc sắp tới.
Tại cuộc họp ở Macao tháng 6-1934, Ban Chấp hành Hải Ngoại thông qua kế hoạch tiến hành Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ Nhất ở Hong Kong vào tháng 1-1935. Tuy nhiên, theo nguồn tin của Pháp, Quốc tế Cộng sản đề nghị hoãn đến tháng 3 năm sau. Cuối mùa hè năm 1934, giới lãnh đạo đảng bắt đầu soạn thảo tài liệu để thảo luận tại Đại hội, họ dự kiến diễn ra ở Macao. Các chỉ thị được gửi tới toàn thể đảng viên đề cử đại biểu tới Macao trước ngày 15-3. Giới lãnh đạo đảng hy vọng Moscow sẽ cử đoàn đại biểu Cộng sản Quốc tế chính thức tới dự Đại hội. Đầu tháng 8-1934, đoàn đại biểu Đảng cộng sản Đông Dương gồm Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai (được thả khỏi nhà tù ở Quảng Đông, hoạt động dưới tên Vân), và Hoàng Văn Nọn (đảng viên tỉnh Cao Bằng) đến Moscow tham dự Đại hội Quốc tế Cộng sản VII, dự kiến diễn ra mùa hè 1935.[33]
Do Lê Hồng Phong đi Moscow, Hà Huy Tập bây giờ là cán bộ đảng cao cấp chuẩn bị Đại hội toàn quốc. Sinh ở tỉnh Nghệ An, Tập vào Đảng Tân Việt, sau đó chạy sang Hội Thanh Niên Cách mạng. Khi học ở Trường Stalin, ông ra sức trau dồi lý luận, lớn tiếng phê bình những khuyết điểm về mặt tư tưởng của Hội. Mật thám Pháp miêu tả ông là người tự kiêu, quỷ quyệt và “một kẻ cực đoan”. Chẳng mấy chốc Tập va chạm với các đồng chí trong quan hệ, họ đặt biệt danh “ông Lùn” vì chiều cao một mẩu. Nhưng quan hệ căng thẳng đặc biệt giữa Hà Huy Tập với Trần Văn Giàu. Tháng 9-1934, Giàu tới Macao, một phần để báo cáo tình hình Nam Kỳ và một phần tham dự công việc chuẩn bị Đại hội. Trần Văn Giàu coi thái độ nóng nảy của Tập là một kẻ hãnh tiến, còn Tập lại nghi ngờ thái độ kiêu căng, làm việc theo ý mình của Giàu. Cuối cùng, Tập bắt đầu lo ngại Trần Văn Giàu là gián điệp của Pháp, đã báo cáo những nghi ngờ trong bức thư gửi cho Moscow. Chỉ sau này, khi nhà cầm quyền Pháp lục soát nơi ở của Giàu, Hà Huy Tập mới thừa nhận sự nghi ngờ chẳng có căn cứ.[34]
Hoá ra mối nguy hiểm xuất phát từ chỗ khác. Một cán bộ Đảng làm nghề đầu bếp ở Macao, Nguyễn Văn Trâm, ăn cắp một số tiền lớn trong quỹ Đảng cộng sản Đông Dương và chạy sang Hong Kong. Vì Trâm được giao nhiệm vụ tìm địa điểm cho Đại hội ở Macao, giới lãnh đạo đảng buộc phải thay đổi nơi họp, sợ Trâm tiết lộ địa điểm cho gián điệp Pháp đang hoạt động mạnh tại thuộc địa Bồ Đào Nha. Hà Huy Tập cũng nghi ngờ người thứ hai, Nguyễn Hữu Cần, đã báo cáo cho Lãnh sự Pháp ở đó về những hoạt động của Đảng cộng sản Đông Dương. Để giảm thiểu thiệt hại, Tập ra chỉ thị tất cả những chi bộ đảng ở Đông Dương và Xiêm phải cực kỳ chú trọng tới an ninh và cử Trần Văn Giàu trở lại Nam Kỳ để tái tổ chức hệ thống Đảng cộng sản Đông Dương ở đó. Ông ra sức tung hoả mù với mật thám bằng cách tung tin giả cho Cần, phàn nàn Đảng đang gặp rất nhiều khó khăn nên không thể họp Đại hội toàn quốc như dự định.[35]
Đại hội đảng toàn quốc dự định khai mạc ngày 18-3-1935, nhưng do sợ lộ và cũng do một số đại biểu chậm trễ trên đường đi, tới phút chót nó được hoãn đến 27-3-1935. Tham dự đại hội, ngoài Hà Huy Tập, còn có Hoàng Đình Giong, Phùng Chí Kiên và mười đại biểu khác. Không có đại diện Cộng sản Quốc tế hoặc những đảng cộng sản khác tới dự.
Đại biểu tới Hội nghị Macao đại diện cho toàn thể tám trăm đảng viên hoạt động ở Đông Dương và Xiêm. Phần đông là người Kinh, một số ít như Hoàng Đình Giong và Hoàng Văn Nọn là người dân tộc thiểu số miền núi, hoặc Hoa Kiều. Đa số còn tương đối trẻ, trong số 12 hay 13 đại biểu, chỉ có vài phụ nữ. Nguyễn Thị Minh Khai, người tình của Quốc và trợ lý một thời của ông tại Văn Phòng Phương Nam ở Hong Kong cũng có mặt, người ta cho rằng trong giới lãnh đạo đảng không phân biệt giới tính.
Không có thống kê chính xác, song tỷ lệ đảng viên xuất thân từ công nhân hoặc nông dân đang tăng lên, mặc dù giới lãnh đạo chủ yếu là những người xuất thân từ thành phần Nho học, nhiều người đã từng học trong hệ thống giáo dục Pháp - Việt và giờ đây đang là những người cách mạng chuyên trách. Như chúng tôi trình bày, Nguyễn Ái Quốc luôn phàn nàn những đảng viên không được học hành thường gặp khó khăn trong việc tiếp thu tư tưởng phức tạp của học thuyết Marxist - Leninist, đôi khi chịu áp lực quá sức. Vội đánh giá chống lại việc xem thường đảng viên xuất thân từ nông thôn đặc biệt mạnh mẽ trong nội bộ giới lãnh đạo, những người thừa hưởng kiến thức học được ở Moscow cũng như thái độ theo lệ cổ của tầng lớp Nho học Việt Nam. Công nhân và nông dân tuy rất hữu dụng, nhưng cũng chỉ là phương tiện để họ dễ dàng thâm nhập vào nhà máy và nông thôn để tuyên truyền cho sự nghiệp.
Tuy làn gió thay đổi đã phát ra từ Moscow, những quyết định đưa ra tại Hội nghị Macao không thay đổi chiến lược hiện tại của đảng. Nghị quyết chính trị tái khẳng định sự đúng đắn của mặt trận thống nhất hạn hẹp lần đầu tiên được đưa vào chương trình hành động năm 1932, đã kêu gọi đảng viên thâm nhập vào những đảng phái cải cách dân tộc chủ nghĩa để ngấm ngầm phá hoại sự lãnh đạo của họ, lôi kéo những người ủng hộ về phía Đảng cộng sản Đông Dương. Những quy chế mới của Đảng được thông qua, cũng như những nghị quyết về công tác quần chúng. Hội nghị kết thúc, bầu ra Ban Chấp hành Trung ương gồm 9 người, do Hà Huy Tập làm Tổng bí thư. Ban Chấp hành mới được tái lập tại Sài Gòn, nơi Hà Huy Tập thường trú. Ban Chấp hành Hải ngoại của Lê Hồng Phong, được giữ lại làm liên lạc giữa Ban Chấp hành Trung ương với Cộng sản Quốc tế, sẽ chuyển về Thượng Hải.[36]
Hà Huy Tập tận dụng cơ hội gửi Moscow bản báo cáo kết quả Hội nghị, đã tung ra nhiều mũi tên nhắm vào Nguyễn Ái Quốc. Trong thư ngày 31-3-1935 gửi Văn phòng Viễn Đông, Hà Huy Tập lưu ý, đảng viên ở Đông Dương và Xiêm đang mở cuộc đấu tranh công khai chống lại tàn dư tư tưởng “cách mạng dân tộc” của Hội Thanh Niên Cách mạng và sáng lập viên Nguyễn Ái Quốc. Tập cảnh báo, tàn dư đó “rất mạnh, gây trở ngại rất nghiêm trọng cho sự phát triển của chủ nghĩa cộng sản”. Do vậy phải đấu tranh quyết liệt chống lại lý thuyết cơ hội chủ nghĩa của Quốc. Cả hai Đảng Cộng dản Đông Dương và Xiêm sẽ xuất bản những cuốn sách nhỏ chống lại những khuynh hướng đó. Hà Huy Tập dự kiến, Nguyễn Ái Quốc phải đứng lên tự phê bình, thừa nhận những sai lầm trong quá khứ.
Vài tuần sau, Tập quay lại tấn công, nhấn mạnh, một số đại biểu tại Hội nghị cho là Quốc ít ra cũng phải chịu trách nhiệm một phần về vụ bắt bớ hơn một trăm thành viên Đảng cộng sản Đông Dương và của Hội, vì Quốc biết rõ đồng sự Lâm Đức Thụ là gián điệp, nhưng cứ tiếp tục dùng Thụ. Tập buộc tội Quốc thiếu thận trọng khi yêu cầu mỗi học viên theo học Trường Huấn Luyện ở Quảng Đông phải nộp cho Quốc mỗi người một ảnh, kèm theo tên tuổi và địa chỉ người thân. Những tư liệu đó về sau rơi vào tay người Pháp. Tập buộc tội Nguyễn Ái Quốc “chưa bao giờ nhận trách nhiệm về mình” về những hành động đó. Tập kết luận, đảng viên và quần chúng biết rõ những tư tưởng của Quốc và những tư tưởng ấy phải bị phê bình thậm chí phải mạnh mẽ quyết liệt hơn.[37]
Nguyễn Ái Quốc chắc chắn đã đọc những báo cáo đó sau khi ông tới Moscow. Không biết ông nghĩ gì về những điều Tập phê bình hành động của ông, nhưng thái độ chung của ông thể hiện trong một bức thư viết tháng 1-1935 gửi Văn phòng Viễn Đông, phàn nàn, kiến thức lý luận của những học viên gốc Đông Nam Á đang học ở Moscow còn quá thấp. Nhiều người không hiểu cách mạng dân chủ tư sản, hoặc tại sao cách mạng ruộng đất và sự nghiệp chống chủ nghĩa đế quốc lại gắn kết với nhau. Dù Quốc công nhận những thiếu sót đó là có thật trong Đảng cộng sản Đông Dương vào thời kỳ năm 1930 và 1931, nhưng vấn đề gần đây trở thành nghiêm trọng hơn do sự bồng bột và thiếu kinh nghiệm của nhiều đảng viên. Không rõ có phải ông dùng đòn giáng trả vào người đồng sự trẻ tuổi Hà Huy Tập hay Trần Phú đã quá cố hay không. Dù thế nào đi nữa, ông đề nghị một cuốn sách tóm tắt sẽ được soạn ra sẽ soi sáng cho họ về vấn đề tư tưởng.[38]
Ngày 25-7-1935, Hội nghị VII Cộng sản Quốc tế khai mạc tại Nhà Liên hiệp Công đoàn ở Moscow. Trên tường treo chân dung lớn Marx, Engels, Lenin và Stalin, cũng như những biểu ngữ đỏ chữ Nga màu vàng tuyên bố thắng lợi sắp tới của cách mạng vô sản. Phiên toà xử án thanh trừng những người lãnh đạo Bolsevich như Lev Kamenev và Grigory Zinoviev, từng đứng đầu Quốc tế Cộng sản trong quá khứ và đương nhiệm khi Hội nghị được triệu tập. Cả hai người - Lev Kamenev và Grigory Zinoviev - sau này đều bị xử tử. Do tình thế căng thẳng của phiên toà, nên các đại biểu dự hội nghị sống chung trong khách sạn Lux, không được phép vào điện Kremlin.
Ba đại biểu Đảng cộng sản Đông Dương tham dự hội nghị: Lê Hồng Phong (với các tên Litvinov, Hai An, Chajan, hoặc Chayan), Nguyễn Thị Minh Khai (Vân, hoặc Phan Lan), và Hoàng Văn Nọn. Hai đại biểu khác từ Việt Nam nhưng không tới được. Cộng sản Quốc tế quyết định tất cả các đại biểu Việt Nam đều được phát biểu tại hội nghị. Trong bài phát biểu, Nguyễn Thị Minh Khai nói về sự bóc lột phụ nữ đang diễn ra ở khắp thuộc địa châu Á, nhấn mạnh vai trò phụ nữ trong cuộc cách mạng tương lai. Hoàng Văn Nọn nói về đấu tranh quần chúng. Là chủ tịch đoàn đại biểu Việt Nam, Lê Hồng Phong đọc bài phát biểu dài đề cập những thiếu sót trong quá khứ của Đảng cộng sản Đông Dương và nhiệm vụ hiện nay của Đảng. Trong số những khuyết điểm đó là có nhiều đảng viên tiếp tục biểu lộ hành động “thích lật đổ” và những tư tưởng rơi rớt từ những đảng phái “cách mạng dân tộc chủ nghĩa” ra đời trước kia như Việt Nam Quốc Dân Đảng, cũng như từ những nhóm cộng sản trước đây (ám chỉ Trần Văn Cung, Đảng cộng sản Đông Dương) và không trực tiếp gắn kết Đảng với quần chúng.[39]
Trong khi không có đại biểu Việt Nam nào phát biểu phản ánh đúng sự thật, mục đích chính Đại hội VII Quốc tế Cộng sản đề xuất chiến lược mới cho tất cả Đảng cộng sản trên thế giới, gần giống với những ý tưởng Quốc đã theo đuổi trong thời kỳ tồn tại Hội Thanh Niên Cách mạng hơn là những ý tưởng đưa ra tại Đại hội VI năm 1928. Lý do chủ yếu thay đổi chính sách do chính quyền Adolf Hitler và Đảng Quốc Xã (Nazi) ở Đức không ngừng gia tăng nguy hiểm với Liên Xô. Khi Hitler lên làm thủ tướng tháng 1-1933, Stalin tin chắc Hitler đại diện cho cánh cực đoan của tầng lớp tư bản ở Đức, vì thế phản ánh giai đoạn tột cùng nguy hại của chủ nghĩa đế quốc toàn cầu. Stalin tin uy thế của ông, do vậy sẽ chuyển quyền lực cho Đảng cộng sản Đức nhanh chóng. Tuy nhiên, đến năm 1935, Stalin đã tỉnh ngộ về ảo tưởng đó, giờ đây ông nhìn Đức Quốc Xã là sự đe dọa mạnh đối với sự tồn vong của Liên Xô.
Phản ánh tầm quan trọng mối đe doạ mới từ phương Tây, cũng như sự gia tăng nguy hiểm từ chính phủ quân phiệt chống cộng sản ở Nhật Bản mới trỗi dậy, năm 1935 Kreml quyết định từ bỏ đường lối cực tả được Đại hội VI năm 1928 tán thành, đưa ra một chiến lược mới hình thành mặt trận thống nhất lực lượng chống phát - xít trên toàn thế giới. Tại Hội nghị VII, đường lối mới được Georgi Dimitrov, người Bulgaria, tổng bí thư mới của Quốc tế Cộng sản soạn thảo cẩn thận. Chiến lược trước đây, kêu gọi cuộc cách mạng vô sản và thành lập “những chính phủ Xô viết” ở các nước thuộc địa, bị vứt bỏ. Nhiệm vụ mới động viên khối liên minh mở rộng với những lực lượng dân chủ và tiến bộ trên thế giới chống lại nguy cơ của chủ nghĩa phát - xít tàn bạo. Các đảng cộng sản được chỉ đạo phải liên kết với chính phủ tiến bộ hoặc những đảng dân tộc chủ nghĩa trên mặt trận phản đế mở rộng chống mối nguy hiểm chung từ Đức Quốc Xã và Nhật Bản.
Thấy được viễn cảnh này, những lời chỉ trích của Lê Hồng Phong về lật đổ, sự phiêu lưu, những tính cách có thể quy lỗi cho giới lãnh đạo tả khuynh hiện thời, Moscow đã thận trọng hoà giải trong một thông điệp đầy đủ gửi đến các đồng sự của Lê Hồng Phong ở Macao. Kết thúc phiên họp của Hội nghị, Đảng cộng sản Đông Dương được công nhận là thành viên trong Quốc tế Cộng sản, đồng thời bản thân Phong được bầu là uỷ viên chủ tịch đoàn của tổ chức.
Nguyễn Ái Quốc tham dự hội nghị như một quan sát viên của Ban Bí thư Văn phòng Viễn Đông, dưới tên Linov. Ông hiển nhiên không phát biểu tại hội nghị, nhưng chắc chắn có những hoạt động đằng sau hậu trường, trao đổi với những đại biểu, tham dự bữa tiệc do Maurice Thorez - chính khách mới nổi trong Đảng cộng sản Pháp - dự lễ Đảng cộng sản Đông Dương gia nhập Quốc tế Cộng sản. Sự chuyển hướng tuyên bố chiến lược toàn cầu tại Hội nghị làm Quốc phấn khởi, nó chính là một khẳng định hết sức cần thiết sự đúng đắn của ý tưởng mặt trận thống nhất mở rộng mà ông đã đưa vào Hội Thanh Niên Cách mạng ở Quảng Đông. Vai trò quan sát viên của ông tại Hội nghị không trái ngược với trách nhiệm là phát ngôn viên ưu tú của Quốc tế Cộng sản đối với công việc Đông Nam Á. Dù sao, ông cũng thấy khó chịu khi phải đứng ngoài rìa trong khi một số những học trò của ông trở thành người lãnh đạo Đảng cộng sản Đông Dương trong kỷ nguyên mới.[40]
Mối tình nửa kín nửa hở giữa Nguyễn Ái Quốc với người đồng sự trẻ Nguyễn Thị Minh Khai ngày càng xấu nay chấm dứt. Những bức thư và báo cáo riêng từ giới lãnh đạo Đảng cộng sản Đông Dương ở Macao gửi Văn phòng Viễn Đông trong những tháng dự hội nghị đã đề cập “vợ Quốc” (la femme de Quoc) có mặt trong số đại biểu tham dự hội nghị, có hàm ý hai người đã lấy nhau trước khi bị bắt ở Hong Kong năm 1931. Có thể, như suy xét của nhà viết tiểu sử Xô viết Yevgeny Kobelev, Minh Khai đã yêu Lê Hồng Phong đẹp trai gặp trên đường đi. Cũng có thể, cả Quốc và Minh Khai đã xa cách nhau trong bốn năm sau khi Minh Khai bị bắt ở Hong Kong. Những nguồn tin khác cho hay, sau khi tới Moscow, Nguyễn Ái Quốc đã có “người vợ hờ” do Cộng sản Quốc tế thu xếp. Lại có tin đồn ông có cô con gái với một phụ nữ ở Liên Xô.
Bất kể việc này đúng sai đến đâu, một thời gian ngắn sau khi kết thúc Hội nghị VII, Lê Hồng Phong và Nguyễn Thị Minh Khai chính thức làm lễ cưới tại phòng đăng ký kết hôn ở một quận ở Moscow. Sau khi cưới, Phong tới Trung Hoa để báo cáo kết quả hội nghị cho giới lãnh đạo đảng. Minh Khai ở lại Moscow vài tháng, cuối cùng sang Pháp trên đường tới Hong Kong cùng với đồng sự Hoàng Văn Nọn vào mùa hè năm 1936. Để đánh lừa nghi ngờ của mật thám Pháp, hai người đóng giả là một cặp vợ chồng Trung Quốc giàu có đi nghỉ mát. Từ Hong Kong, Minh Khai đi tàu thuỷ tới Thượng Hải gặp Lê Hồng Phong, cùng chồng về Sài Gòn, ở đây bà trở thành uỷ viên Xứ uỷ Nam Kỳ. Trong quá trình công tác, bà và chồng sát cánh nhau tới khi trở thành những kẻ “tử vì đạo” đầu tiên của cách mạng Việt Nam.[41]
Mối quan hệ giữa Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Thị Minh Khai là một trong những bí ẩn nhất trong đời tư của ông. Những năm về sau, ông chưa bao giờ kể chuyện này cho bất cứ đồng sự nào. Các nguồn tin chính thức ở Hà Nội thẳng thừng bác bỏ về cuộc hôn nhân đã từng xảy ra giữa hai người. Có nhiều tài liệu nội bộ cung cấp những bằng chứng khá vững cho sự trái ngược này, có thể hai người chưa qua lễ cưới chính thức, nhưng đã sống với nhau như một cặp vợ chồng. Phải chăng việc mất vai trò lãnh đạo đảng và vợ của ông rơi vào tay Lê Hồng Phong là sự “nhục nhã bị nhân đôi”, như quan sát viên nhận xét, lại là chuyện khác. Trong sự nghiệp lâu dài, Quốc luôn thể hiện sự ưa thích những công việc ngẫu nhiên chừng nào chúng không cản trở mục tiêu chính trị và ông có thể xem mối quan hệ này là tạm thời từ lúc đầu.
Trước khi lên đường về Trung Hoa, Minh Khai và Hoàng Văn Nọn gặp Nguyễn Ái Quốc để lấy bức thư gửi cho Lê Hồng Phong ở Thượng Hải. Lúc này, những quyết định đưa ra tại Đại hội VII Quốc tế Cộng sản bắt đầu mang lại kết quả, khi Chính phủ Mặt trận Bình Dân thành lập ở Paris vào tháng 7-1936 do Léon Blum, Đảng Xã hội làm thủ tướng. Dù không chính thức là một phần trong liên minh lãnh đạo, nhưng Đảng cộng sản Pháp ủng hộ chính phủ mới, hứa chống chủ nghĩa phát - xít, ủng hộ Liên Xô, hủy bỏ những đạo luật ở Pháp hạn chế tự do ngôn luận và lập hội. Đảng cộng sản Pháp cũng kêu gọi hình thành ủy ban điều tra để xem xét tình hình các thuộc địa và đề nghị cải cách. Hoàn cảnh ở Đông Dương có được dịp may hứa hẹn để khôi phục Đảng cộng sản Đông Dương. Theo một nhà viết tiểu sử Xô viết, Quốc đưa ra một số lời khuyên cụ thể với các đồng chí Đảng cộng sản Đông Dương:
Mặt trận Bình Dân thắng lợi ở Pháp là một dịp may hiếm hoi, chúng ta đừng bỏ lỡ cơ hội, hãy tận dụng dịp may này. Việc chính bây giờ là xiết chặt sự thống nhất toàn đảng, đặc biệt giữa những chi bộ trong nước và hải ngoại. Riêng ở Sài Gòn, đề nghị hãy nói với Lê Hồng Phong ba điều sau:
1. Mặt trận Bình Dân thắng lợi ở Pháp chắc chắn mang lại những thay đổi tích cực tình hình ở Đông Dương. Vì lý do này Ban Chấp Hành Trung ương Hải Ngoại nên trở về nước ngay và nắm lấy chỉ đạo phong trào yêu nước. Chỉ nên để lại một nhóm nhỏ ở nước ngoài để duy trì liên lạc với thế giới.
2. Bọn Trotskist đã lộ rõ tính cách phản động ở mọi nơi, cũng như ở Việt Nam. Đảng cần phải tách hoàn toàn khỏi họ, không thoả hiệp.
3. Phải cố gắng nỗ lực để hình thành một mặt trận dân chủ chống chiến tranh và chống phát - xít. Nó phải bao gồm tất cả các lực lượng yêu nước, tất cả những ai muốn chiến đấu cứu nước. Nhưng không bao giờ được quên khi tiến hành liên minh phải đặt lợi ích sống còn của Đảng và giai cấp công nhân trên hết.[42]
Nhấn mạnh tầm quan trọng của chiến lược mặt trận thống nhất mở rộng, được phát ra tại Đại hội Quốc tế Cộng sản VII, Nguyễn Ái Quốc đang thể hiện chắc chắn sự thuyết phục của chính mình, bằng việc cảnh báo đồng chí cần thiết phải duy trì nghiêm ngặt sự kiểm soát của Đảng đối với phong trào cách mạng, ông đi theo những thực tiễn đã đưa ra trong thời gian hoạt động của Hội. Nhưng việc ông vạch ra Trotsky là kẻ phản bội, phản bội lợi ích học thuyết Marxist - Leninist, có lẽ ông nói theo ý muốn của Quốc tế Cộng sản, đặc biệt của Joseph Stalin, người đã vài năm tiến hành chiến đấu khốc liệt chống lại ảnh hưởng Trotsky và phe cánh trong nội bộ phong trào Cộng sản Quốc tế. Dù Quốc đồng ý với Stalin cho rằng việc Trotsky nhấn mạnh “cách mạng không ngừng” do những phần tử vô sản đơn độc lãnh đạo chống lại kẻ thù khắp thế giới là không thực tế, ông phải cảm thấy, nói một cách công bằng, những người ủng hộ Trotsky ở Đông Dương có nhiều điểm chung với Đảng cộng sản Đông Dương hơn là với kẻ thù của họ. Nếu có quyền, Nguyễn Ái Quốc sẽ kết nạp những phần tử Việt Nam theo Trotsky vào giới lãnh đạo Đảng cộng sản Đông Dương.
Trong khi các đồng chí của ông trở về châu Á, Nguyễn Ái Quốc ở lại Moscow. Nhưng ông làm việc không ngừng. Trong cuộc phỏng vấn tháng 9-1935, ông kể với nhà báo Liên Xô Ilya Ehrenburg, ông chỉ có một ước nguyện, trở về tổ quốc càng sớm càng tốt. Có lúc, tình hình đang có nhiều hứa hẹn, ông đề nghị cho phép trở lại Việt Nam một thời gian ngắn sau khi kết thúc Hội nghị VII, nhưng yêu cầu này bị từ chối với lý do tình hình Đông Dương còn rất phức tạp. Mùa hè năm 1936 ông đệ trình yêu cầu lần thứ hai cho phép về nước qua ngả Berlin và Pháp. Nếu kế hoạch này không được, ông hứa đi tới Thượng Hải lập đường dây liên lạc với Văn Phòng Quốc tế Cộng sản ở đó, sau đó tìm đường trở về tổ quốc. Phòng nhân sự Quốc tế Cộng sản mời ông tới điền tờ khai cuộc hành trình, những rốt cuộc kế hoạch này cũng bị huỷ bỏ do bùng nổ Nội chiến Tây Ban Nha, sự kiện có ảnh hưởng mạnh mẽ tới Pháp.
Trong khi chờ hồi âm, mùa thu năm 1936 Nguyễn Ái Quốc theo học tại Viện Nghiên cứu dân tộc và những vấn đề thuộc địa (Trường Stalin trước đây), ông chuyển phòng trọ tại Đại học Lenin tới buồng đơn nhỏ hẹp trên đường Bolshaya Bronnaya. Chương trình học gồm những bài giảng về triết học, lịch sử và tiếng Nga. Nhưng ông cũng được Văn Phòng Đông Dương thuộc Văn phòng Viễn Đông giao việc nghiên cứu tình cảnh dân nghèo và dịch ra tiếng Việt tác phẩm “Tuyên Ngôn Cộng sản” của Marx và tác phẩm “Chủ nghĩa tả khuynh: Sự hỗn loạn phôi thai” của Lenin. Vì thế, ông là một trong hai sinh viên không đăng ký đi nghỉ hè do nhà trường tổ chức. Trong thời kỳ học tập năm 1937-1938, ông học thêm những khoá học khác tại Viện, đồng thời cũng làm việc tại Văn phòng Viễn Đông. Dưới sự giúp đỡ của giảng viên, ông cũng chuẩn bị xong tài liệu để viết một đề tài nghiên cứu “Cách mạng ruộng đất ở Đông Nam Á”.[43]
Sau hai thập niên hoạt động cách mạng, Nguyễn Ái Quốc không hài lòng vị thế hiện tại của mình. Đối với một người hoạt động ít quan tâm đến lý thuyết, mất nhiều tháng dịch những tác phẩm của những lãnh tụ cộng sản hoặc đến lớp nghe giảng những vấn đề lý thuyết trừu tượng khó hiểu quả là chuyện khó khăn. Tháng 6-1938, gần ba năm sau khi kết thúc Hội nghị VII, ông viết cho một cán bộ ở Quốc tế Cộng sản trong tâm trạng chán nản. Bảy năm trôi qua từ khi bị bắt, bây giờ là năm thứ tám ông bị vô hiệu hoá. Quốc đề nghị giúp ông thay đổi tình hình đáng buồn của ông.
“Xin hãy cử tôi đi đến một nơi nào đó, hoặc giữ tôi ở đây nhưng hãy phân công một công việc gì ấy mà đồng chí cho là hữu ích. Nhưng xin đồng chí đừng bỏ tôi một thời gian quá dài không được hoạt động mà phải đứng bên rìa Đảng”.
Để giải quyết trường hợp của mình, ông đề nghị có một cuộc phỏng vấn với cán bộ có trách nhiệm của Quốc tế Cộng sản. Được sự giúp đỡ của Vera Vasilieva, người có thiện cảm, yêu cầu của ông cuối cùng được giải quyết, ông được lệnh về Trung Hoa bằng tàu hoả qua vùng Trung Á. Ngày 29-9-1938, ông rời trường. Ngày hôm sau, phòng nhân sự tại Viện ghi nhận, học viên mang số 19, tên là Lin, đã rời trường.[44]
Tại sao Nguyễn Ái Quốc cuối cùng được thả khỏi nơi ông chịu đau khổ sau nhiều năm bị vô hiệu hoá? Nếu không mở được kho lưu trữ tài liệu ở Nga, vấn đề này còn là một đề tài chứa nhiều bí ẩn, vì những tin tức về cuộc sống của ông ở Moscow trong thời gian giữa thập niên 1930 rất ít. Có lẽ ông bị theo dõi do những tin đồn kéo dài ông đã đồng ý nhận làm điệp viên Anh như là cái giá được thả khỏi nhà tù Hong Kong. Cũng có thể Quốc bị Stalin ghét, vì ông tiếp cận học thuyết không chính thống một cách say mê. Nếu đúng như vậy, sự chuyển hoá tình hình thế giới và chiến lược mới của Quốc tế Cộng sản giờ đây đã đền đáp lại nhà cách mạng kỳ cựu hữu ích hơn trong việc thực hiện chính sách Xô viết ở Đông Á. Dù những chỉ thị riêng cho ông chưa được biết, nhưng ông mong đợi cung cấp cho Moscow những tin tức về tình hình biến đổi nhanh chóng ở Trung Hoa.
Dưới áp lực mạnh của lực lượng quân đội Tưởng Giới Thạch, tháng 10-1934 Đảng cộng sản Trung Quốc buộc phải bỏ căn cứ địa của họ ở phía nam sông Dương Tử (Hoàng Hà), bắt đầu cuộc Trường Chinh tới Diên An về phía bắc Trung Quốc. Nguyễn Ái Quốc có thể nhìn thấy trách nhiệm mới của mình, báo cáo cho Moscow về những hoạt động của đồng chí Trung Quốc. Đây là một nhiệm vụ quan trọng, nhưng nó đứng hàng thứ hai so với nhiệm vụ giúp đồng bào của ông tiến hành giai đoạn tỉếp của cách mạng Việt Nam.
Chú thích:
[1] Cứu tế đỏ quốc tế, một tổ chức được thành lập để hỗ trợ phần tử hoạt động cách mạng trên toàn thế giới. Theo Frederick S. Litten, cảnh sát tìm được địa chỉ gửi điện tín của Noulens trong tài liệu của Lefranc. Sau khi điều tra, các nhà chức trách Thượng Hải phát hiện Noulens hoạt động trên một số địa chỉ, nhưng cuối cùng họ nghi ngờ địa điểm chính văn phòng của ông ở Toà nhà Central Arcade trên đường Nam Kinh, trong trung tâm thương mại Thượng Hải. Tại đây họ tìm thấy rất nhiều tài liệu liên quan đến hoạt động của ông - một đặc vụ của Quốc tế Cộng sản. Xem Litten, “Vụ án Noulens Affair” (Trung Hoa quý báo, số 138, tháng 6-1994), trang 494. Hilaire Noulens đôi khi được xác định chính là Paul Ruegge, nhưng Babette Gross, vợ của người cộng sản Đức Willi Munzenberg, cho rằng Ruegges, cặp vợ chồng Thụy Sĩ liên quan đến vấn đề cấp tiến, thực sự sống ở Moscow vào thời điểm đó. Theo thông tin của học giả Anh Dennis Duncanson, chính quyền Liên Xô lúc đó thường bớt làm căng trong việc mời các đại biểu nước ngoài và sao lại hộ chiếu hoặc mượn hộ chiếu của họ để các đặc vụ ra nước ngoài hoạt động. Xem Babette Gross, Willi Munzenberg (Stuttgart: n.p., 1967), trang 235, trích trong Dennis Duncanson, “Hồ Chí Minh ở Hong Kong, 1931-1932” (Trung Hoa quý báo, số 57, tháng 1 và 3-1974), fn 25. Bây giờ người ta tin rằng Noulens là người Ukraina có tên Luft hoặc Jakov Rudnik. Xem Litten, “Vụ án Noulens”, và Frederick Wakeman, Jr., “Cảnh sát Thượng Hải, 1921-1937” (Nhà in Đại học California, Berkeley, 1995), trang 149-150. Theo Wakeman, Noulens và vợ chắc chắn bị thanh lọc trong chiến dịch thanh trừng của Stalin cuối thập niên 1930. Tờ “Bưu điện Hoa Nam buổi sáng”, ngày 4-7-1931, đăng tuyên bố của lãnh sự Bỉ bác bỏ Noulens và vợ (bà Van der Cruysen) là công dân Bỉ - xem SPCE, hộp 365, CAOM
[2] Điện tín của chính phủ số 124, ngày 1-7-1931, số 142, ngày 24-7-1931, cả hai có trong CO 129/535/3. Nguồn tin khả dĩ duy nhất được đăng tải về Nguyễn Ái Quốc bắt giữ là của Duncanson trong “Hồ Chí Minh ở Hong Kong”
[3] Duncanson, “Hồ Chí Minh ở Hong Kong”, trang 92. T. Lan, “Vừa đi đường, vừa kể chuyện” (NXB Sự thật, 1976), trang 41. Sau này, Hồ Chí Minh giải thích khi Hồ Tùng Mậu nghe tin ông bị bắt, đã nói cho Loseby, người rõ ràng có mối quan hệ với những phần tử Cộng sản hoạt động trong các thuộc địa
[4] Duncanson, “Hồ Chí Minh ở Hong Kong”, trang 91-94
[5] Thư của Howard Smith, Văn phòng đối ngoại gửi Phó Văn phòng Thuộc địa, ngày 28-7-1931, trong CO 129/539/2, PRO. Xem thêm Duncanson, “Hồ Chí Minh ở Hong Kong”, trang 93
[6] Ghi chú của Calder, ngày 14 và 17-8-1931, và Ransom, ngày 4-8-1931, trong hồ sơ “Bắt giam Nguyễn Ái Quốc”, CO 129/535/3, PRO
[7] “Tuần báo Hong Kong” ngày 28-8-1931. Nguyễn Ái Quốc được đền bù 7.500 đô-la Hong Kong vì thiệt hại do trái luật trong vụ điều tra trục xuất. Xem Duncanson, “Hồ Chí Minh ở Hong Kong”, trang 93-95. Người phụ nữ trẻ, người mà tình báo Pháp xác nhận đó là Lý Ưng Thuận, được trả tự do vào ngày 20-8 từ nhà tù Victoria. Tháng 9-1931, cô đến Nam Kinh, ở lại nhà Hồ Học Lãm, bố chồng, sĩ quan trong quân đội Quốc Dân Đảng nhưng có quan hệ gắn bó với Đông Dương Cộng sản đảng (xem chương 8). Nhà Lãm ở Hàng Châu, nơi mà Phan Bội Châu đã ở trước khi bị Pháp bắt. Điện báo của Tổng nha Mật thám Hà nội gửi Văn phòng Nhượng địa Pháp ở Thượng Hải, 26-9-1931, có trong SPCE, hộp 368, CAOM. Trước khi ra đi, cô gặp Nguyễn Ái Quốc trong tù theo yêu cầu của ông và nói với Quốc cô sẽ đến Thượng Hải theo chỉ thị của ông. Xem báo cáo của Pinot, thư số 624, ngày 8-9-1931, Ghi chú ngoài lề trong báo cáo 9-9-1931, có chữ ký của S.G. Neron, tài liệu đã dẫn
[8] T. Lan, “Vừa đi đường, vừa kể chuyện”, trang 49. Bản dịch theo nghĩa đen lời nhận xét của Hồ cho cô y tá: “để nhân viên cổ áo màu xanh (y tá Trung Quốc) sẽ không phải nhận lệnh từ cấp trên từ cổ áo màu đỏ (y tá trưởng Anh)” Với những ý kiến khác về việc thời kỳ đã qua, xem Trần Dân Tiên, “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch”. NXB Ngoại văn Hà Nội, 1958, trang 37-38, vào báo cáo của Pinot có trong Envoi số 624, ngày 8-9-1931, trong hồ sơ có nhãn “Đặc vụ Rapports, năm 1931”, trong SPCE, hộp 369, CAOM. Xem thêm thư Lý Ưng Thuận gửi Lâm Đức Thụ, Envoi số 633, 24-10-1931, tài liệu đã dẫn
[9] Thư gửi Phác Chân (Lâm Đức Thụ), ngày 6-6-1931, thư gửi Lâm Đức Thụ, trong Envoi số 640, 30-11-1931, trong SPCE, hộp 367, CAOM. Nguồn tin của Pháp cho rằng Quốc đã được sự hỗ trợ thường xuyên của các yếu nhân Cộng sản của Trung quốc tại Hong Kong để tìm cách đưa đi. (xem thư Neron gửi ông Perdue, 15-9-1931, trong SPCE, hộp 368, CAOM), nhưng họ dường như không thể tiếp cận để cứu trợ
[10] Để biết thêm thông tin về gia đình Nguyễn Ái Quốc, xem “Những mẩu chuyện về thời niên thiếu của Bác Hồ”, trang 101-111. Theo nguồn tin này, quan chức triều đình đã có ý định đốt phá làng Kim Liên sau cuộc nổi dậy Nghệ Tĩnh, nhưng vấp phải sự phản đối mạnh mẽ do Nguyễn Thị Thanh cầm đầu khiến họ phải từ bỏ ý định. Có báo cáo trái ngược về các hoạt động của Tăng Tuyết Minh, người vợ đầu tiên của Quốc, trong thời gian này. Lê Quang Đạt (Lesquendieu), cộng sự của Quốc ở Thượng Hải, khai với Pháp khi bị tra khảo rằng Quốc nói với ông, cô không đến tìm chồng ở Hong Kong mùa đông năm 1929-1930. Tuy vậy, Lâm Đức Thụ nói với Noel, thực sự cô đã đến Hong Kong để gặp Quốc và nói thêm, sau khi bị bắt, cô ấy có hỏi Loseby về chồng. Xem báo cáo Noel, Envoi số 660, 23-5-1932, trong SPCE, hộp 369, CAOM, hồ sơ nhãn “Sứ mệnh của Laurent”, tài liệu đã dẫn; hồ sơ có nhãn “Giam giữ”, trong SPCE, hộp 365, CAOM; báo cáo Hà Nội, 28-10-1931, trong SPCE, hộp 367, CAOM. Về bản báo cáo Quốc gửi năm mươi đô la Trung Quốc cho Khiêm (anh trai của ông), tháng 1-1926, xem Cảnh sát An Nam Đông Dương (Sogny) Giám đốc chính trị tại Sở mật thám, Giải mật số 45, Huế, ngày 1-9-1926, trong hồ sơ có nhãn “Nguyễn Ái Quốc 1926-1927”, SPCE, hộp 368, CAOM. Về cái chết của cha ông, xem Phụ lục chuyển giao, số 777/SG 02-6-1930, trong hồ sơ nhãn “Thư tín 1927-1930”, tài liệu đã dẫn. Bà Nguyễn Thị Thanh được chính quyền cho phép đến thăm cha bị trọng bệnh và đưa thi hài ông về quê Kim Liên, xem “Những mẩu chuyện về thời niên thiếu của Bác Hồ”, trang 105
[11] Thư Burton gửi Bushe, ngày 6-10-1931. Thư của Cowell, ngày 30-12-1931; Howard Smith (Văn phòng Ngoại giao) gửi Shuckburgh (Văn phòng Thuộc địa), 15-10-1931; tất cả trong CO. Thống đốc Hong Kong hoàn toàn không muốn giam giữ Nguyễn Ái Quốc một cách vô thời hạn và tin nếu Hội đồng Cơ mật tài phán chống lại chính phủ sẽ đặt ông một vị trí khó xử. Xem thư của Cowell, 31-12-1931, CO, PRO
[12] Thư của Jacques Truelle, ngày 22-12-1931, trong CO, PRO
[13] Hồi ký của D.N. Pritt, trong Bảo tàng Hồ Chí Minh ở Hà Nội. Lời khiếu nại Stafford Cripps ngả theo khuynh hướng chính trị của ông, xem Duncanson, “Hồ Chí Minh ở Hong Kong”, trang 98. Cripps sau này trở thành một chính trị gia nổi bật của Công Đảng và là đại sứ Anh tại Liên Xô. Việc buộc tội Quốc đồng ý trở thành đặc vụ Anh, có trong cuốn “Từ thực dân đến cộng sản” của Hoàng Văn Chí (NXB Praeger, New York, 1964), trang 50. Tác giả có thể đã nhặt những tin đồn từ Pháp và tin là có thật. Xem “Bản báo cáo thanh tra về sự phát triển chung của cộng sản ở Đông Dương, bắt đầu từ năm 1950”, trong hồ sơ: CAEO/2b, VI. Việt minh, I, Thông tin chung, Lịch sử Không lực (Paris)
[14] Bộ trưởng Ngoại giao (124) gửi Thống đốc Hong Kong, ngày 8-10-1932, Hong Kong gửi Cunliffe-Lister, ngày 27-10-1932, Thống đốc Hong Kong gửi Sir P. Cunliffe-Lister, đề ngày 31-1-1933, CO
[15] Quyết định thả Nguyễn Ái Quốc vì lý do chính trị, làm một số quan chức cảnh sát Anh tại Hong Kong và Singapore nổi giận, họ cho việc ấy sẽ làm họ khó khăn hơn duy trì an ninh công cộng trong khu vực. Xem Chú giải về Nguyễn Ái Quốc, Tessier đã ký, 12-2-1933, trong hồ sơ nhãn “Hong Kong”, và ghi chú viết tay có chữ ký Ballereau, bản sao của Lãnh sự quán tại Singapore “Ballereau”, trong Toàn quyền Đông Dương, số 16, 14-3-1933, hồ sơ nhãn “Singapore”, SPCE, hộp 369, CAOM. Trong một bài báo đăng tải trên tờ New York Times ngày 14-9, xem thêm Ducanson, “Hồ Chí Minh ở Hong Kong”, trang 99
[16] Tại sao Nguyễn Ái Quốc rời tàu SS Anbui ở Hạ Môn không rõ ràng, nhưng có thể để tránh khả năng bị bắt lại khi đến Thượng Hải. Trong thực tế, lãnh sự Pháp ở Hong Kong thiết lập quan hệ tốt với cảnh sát Anh, từ cuối tháng 1 đã thông báo cho chính quyền Pháp ở Thượng Hải biết ngày khởi hành của Quốc từ Hong Kong. Điều đó có lẽ lý do tại sao cảnh sát Pháp ở Thượng Hải biết ông có thể ẩn nấp trong thành phố. Xem Lãnh sự Pháp Hong Kong Gougal, số 8, 22-1-1933, trong hồ sơ có nhãn “Dự án trao đổi” và Giám đốc Sở mật thám (Marty) lãnh sự Pháp ở Thượng Hải, số 979, 10-1-1933, hồ sơ có nhãn “thư tín năm 1932”, SPCE, hộp 369, CAOM. Theo các nguồn tin Việt Nam, Quốc chưa rời cho đến tận tháng Bảy. Xem “Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử”, II, trang 42. Xem thêm T. Lan, trang 43. Trong hồi ký, cộng sự của Quốc là Nguyễn Lương Bằng cho biết, Quốc ở Hạ Môn trong sáu tháng
[17] Về trích dẫn, xem T. Lan, “Vừa đi đường, vừa kể chuyện”,t rang 51. Theo nguồn tin này, Quốc trao tờ ghi chép cho người gác cửa. Với các bản khác, xem Charles Fourniou và Léo Figueres, “Hồ Chí Minh: Người đồng chí của chúng tôi”, (NXB Xã hội, Paris, 1970), trang 115-116, và bài báo của Nguyễn Lương Bằng “Chủ tịch Hồ Chí Minh của chúng tôi” (NXB Ngoại văn, Hà Nội, 1967), trang 102. Kobelev, “Hồ Chí Minh”, trang 110, nói rằng ông sống như một người Trung Quốc giàu có đi nghỉ dưỡng ở Thượng Hải
[18] T. Lan, “Vừa đi đường, vừa kể chuyện”, trang 55-56
[19] Nguyễn Khánh Toàn, “Liên Xô với Bác Hồ”, trong “Những kỷ niệm về Bác Hồ”, trang 145; trong Thông báo về Lễ tang, trang 143. Xem thêm Kobelev, “Hồ Chí Minh”, trang 114
[20] Kobelev, “Hồ Chí Minh”, trang 115. Theo Anatoly Sokolov, Quốc theo học tại Đại học Lenin tháng 10-1934. Để biết thông tin về hoàn cảnh của ông ở Moscow, xem Sokolov “Quốc tế Cộng sản và Việt Nam” (Moscow: Iv Ran, 1998), trang 85-86. Thời gian Nguyễn Ái Quốc ở Moscow rất khó xác định. Nguyễn Khánh Toàn cho biết ông đã nhìn thấy Quốc ở đó vào đầu năm 1933, điều này gần như chắc chắn sai lầm. Một cuốn hồi ký tóm tắt do Nguyễn Ái Quốc viết, ông đến Moscow vào tháng 7 năm 1934, sau đó đã dành nhiều tháng ở Crum (Krym), ghi tên vào Trường Lenin vào cuối năm ấy. Các tài liệu khác về ngày đến của ông, tuy nhiên cũng không chính xác, vì có rất nhiều nguồn tin về nó. Xem “Lý lịch tự thuật” của ông ngày 17-4-1938, trong Kho lưu trữ Quốc tế Cộng sản, hộp 495, thư mục 201, hồ sơ 132
[21] Jean Lacouture, “Hồ Chí Minh: Tiểu sử một chính trị gia”, trang 69
[22] Tôi cảm ơn ông Đỗ Quang Hưng của Viện Lịch sử ở Hà Nội đã cung cấp cho tôi với suy đoán về dấu ấn của Quốc. Bà Sophie Quinn-Judge cũng đã nghe báo cáo tại Moscow về dấu vết với nhiều lý do khác nhau - xem bài “Hồ Chí Minh: Triển vọng mới từ các hồ sơ Quốc tế Cộng sản” của bà trong “Diễn đàn Việt Nam”, số 14 (1994), trang 73. Sokolov ít nói về đề tài này, ngoại trừ Quốc ở Moscow vào giữa những năm 1930, và Quốc đã gặp Dmitri Manuilsky và Vera Vasilieva
[23] Sophie Quinn-Judge, “Hồ Chí Minh: Triển vọng mới từ các hồ sơ Quốc tế Cộng sản”, trích dẫn Moscow, hộp 495, thư mục 154, hồ sơ 586. Xem thêm Anatoly Sokolov, “Quốc tế Cộng sản và Việt Nam”, trang 87. Gần đây, có chuyện lạ lưu hành tại Moscow, đó là Vera Vasilieva buộc tội Hồ Chí Minh phản quốc khi ông bỏ rơi cô sau khi hai người quan hệ năm 1920. Theo tài liệu này, được cho là bí mật trong kho lưu trữ Kremlin, Hồ được minh oan qua nhiều nỗ lực của Georgi Dimitrov trong Quốc tế Cộng sản
[24] Việc Lê Hồng Phong đến Trung Quốc được báo cáo trong “Ghi chú Định kỳ”, quý II năm 1935, tập hồ sơ 35, trong SLOTFOM, Series III, hộp 54, CAOM. Xem Nguyễn Văn Khoan và Triệu Hiền, “Lê Hồng Phong tìm bắt liên lạc với Đảng” trong “Xưa Nay”, tháng 9-1997, trang 9-11, Phạm Xanh, “Sự nỗ lực của Quốc tế Cộng sản trong việc khôi phục phong trào cách mạng Việt Nam” (Tạp chí Lịch sử Đảng, Hà Nội), số 25, 1989, trang 31. Về Ban Chấp hành hải ngoại, xem “Ghi chú Định kỳ” tháng 10 và 12-1932, SLOTFOM, Series III, hộp 52, CAOM
[25] Bài báo của Trần Văn Giàu trong Tạp chí Cộng sản lưu ý hoạt động cách mạng trong công nhân gặp nhiều khó khăn hơn trong nông dân ở Nam Kỳ, một phần vì rất khó thâm nhập vào nhà máy. Xem “Ghi chú Định kỳ”, quý I năm 1934, phụ lục 9, SLOTFOM, Series III, hộp 52, CAOM
[26] Về Lê Hồng Sơn, xem “Ghi chú Định kỳ”, quý I năm 1933, SLOTFOM, Series III, hộp 52, CAOM. Xem thêm “thẩm vấn Hồng Sơn”, 24-10-1932, trong SPCE, hộp 367, CAOM. Bản báo cáo của Pháp về các hoạt động của Đông Dương Cộng sản Đảng (ICP) trong giai đoạn này, xem “Ghi chú Định kỳ”, quý II năm 1933, trong SLOTFOM, Series III, hộp 52, CAOM. Sự thất vọng cảnh sát lấy từ “Ghi chú Định kỳ”, báo cáo quý III năm 1933, tài liệu đã dẫn
[27] “Ghi chú Định kỳ”, quý II năm 1933, trong SLOTFOM, Series III, phụ lục 9, hộp 52, CAOM. Về cuộc thảo luận, xem William J. Duiker, “Quốc tế Cộng sản và Cộng sản Việt Nam” (Athens, Đại học Ohio, Trung tâm nghiên cứu quốc tế, 1975), trang 28. Đối với hoạt động tại Bắc Kỳ, xem “Ghi chú Định kỳ”, quý II năm 1934, trong SLOTFOM, Series III, phụ lục 9, hộp 52, CAOM. Theo nguồn tin này, một Ban chấp hành khu vực lâm thời được thành lập tại Hà Nội khoảng đầu năm 1934. Tuy nhiên, cũng vào ngày ấy các nhà lãnh đạo tổ chức và nhiều mạng lưới của họ đã bị Pháp bắt giữ. Nguồn tin này cũng đề cập đến một Ban Chấp hành khu vực lâm thời được thành lập ở Vinh. Tài liệu tham khảo về những người được thả khỏi nhà tù SLOTFOM, Series III, “Ghi chú Định kỳ”, quý III năm 1934, phụ lục 9, hộp 52, CAOM
[28] Tất cả những trích dẫn lấy từ Bolsevich, “Ghi chú Định kỳ”, số 34, quý IV-1934, phụ lục 9, SLOTFOM, Series III, hộp 52, CAOM. Về thông tin hoạch định chương trình hành động, xem Nguyễn Văn Khoan và Triệu Hiền, “Lê Hồng Phong”. Bản tiếng Việt của chương trình có trong Văn kiện Đảng (1930-1945), tập 1 tập 1 (NXB Ban nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương, 1977), trang 292-324; Về cuộc thảo luận, xem Pierre Rousset, Chủ nghĩa Cộng sản và Chủ nghĩa dân tộc Việt nam (NXB Galilee, Paris, 1978), trang 125-126. Các nhà sử học Việt Nam hiện nay đồng ý rằng chương trình quá tả là cần thiết trong thời kỳ đó. Xem Trần Huy Liệu, “Lịch sử tám mươi năm chống Pháp” (NXB Tạp chí Văn Sử Địa, Hà Nội, 1958). I.N. Ognetov nói, cuộc họp ECCI tháng 3-1932 đã gọi Đông Dương Cộng sản Đảng chiến đấu với ý tưởng của giai cấp tiểu tư sản, đồng thời cũng bị chỉ trích là “tả khuynh” và “phiêu lưu”, như hiện tượng thích nổi dậy một cách quá non nớt. Theo Ognetov, đó là kết quả của ảnh hưởng tiểu tư sản quá mạnh trong Đảng mà chương trình hành động đã ban hành - xem “Quốc tế Cộng sản và phong trào cách mạng ở Việt nam”, trong “Quốc tế Cộng sản và phương Đông” (Moscow: np, 1969), trang 435-437
[29] Xem Daniel Hemery, “Cách mạng Việt Nam và sức mạnh chủ nghĩa thực dân ở Đông Dương” (Paris, 1975), trang 53-54. Trích dẫn từ Bolsevich, số 5, tháng 12-1934, trong “Ghi chú Định kỳ”, quý I năm 1935, phụ lục trong SLOTFOM, Series III, hộp 54, CAOM. Hà Huy Tập viết dưới bút danh Hồng Thế Công “Màu đỏ sẽ dẫn đến Chủ nghĩa cộng sản”. Sau nhiều năm, tôi phỏng vấn Hà Huy Giáp (em trai Hà Huy Tập) tại Hà Nội. Ông thừa nhận đó là mong muốn kết hợp chống đế quốc và phong kiến, nhiệm vụ của Nguyễn Ái Quốc là chính xác, hơn là tập trung hoàn toàn chống phong kiến, như anh trai của đã muốn
[30] Lời giải thích có trong “Ghi chú Định kỳ”, quý II năm 1935, phụ lục 1, trang 6, SLOTFOM, Series HI, hộp 54, CAOM. Ngay Nguyễn An Ninh cũng có trong danh sách những người theo chủ nghĩa cải lương là điều đáng ngạc nhiên, kể từ khi ông bắt đầu hợp tác với các nhà lãnh đạo Đảng cộng sản Đông Dương ở Sài Gòn. Theo một báo cáo của cơ quan an ninh Pháp, đến dự hội nghị này còn có Nguyễn Văn Dật, Trần Văn Chấn và Nguyễn Văn Thân - xem “Ghi chú Định kỳ”, quý II năm 1935, SLOTFOM, Series III, thùng 54, CAOM
[31] Xem Orgwald ghi chú trong SLOTFOM, Series III, hộp 54, CAOM. Đã từ lâu bất đồng về danh tính của tác giả. Charles B. McLane, tác giả cuốn “Chiến lược của Liên Xô tại Đông Nam Á” (NXB Đại học Princeton, N.J., 1966), cho rằng Nguyễn Ái Quốc là tác giả, điều này chắc chắn sai lầm, vì Quốc không đến Moscow cho mãi đến đầu năm 1934 (trang 163-64). Mật thám tin tác giả là Dmitri Manuilsky - một quan chức Quốc tế Cộng sản (người Ukraina), người có nhiều năm đóng vai trò cố vấn cho Đảng cộng sản Đông Dương. Sophie Quinn-Judge, dựa trên tài liệu cơ bản có trong kho lưu trữ Moscow, đưa ra ý kiến tương tự. Nhà sử học Việt nam, Đỗ Quang Hưng, người đã nhiều năm nghiên cứu trong kho lưu trữ ở Moscow, tin có Orgwald thật, một thành viên của phái George Dimitrov ở Moscow (phỏng vấn Đỗ Quang Hưng, 15-12-1990). Cuộc thảo luận gần đây về vấn đề này, xem Anatoly Sokolov, “Các bút danh của Hồ Chí Minh trong quá trình nghiên cứu tiểu sử chính trị gia” trong “Truyền thống Việt Nam: Tuyển tập các bài viết” (Moscow: Trung tâm Việt Nam, 1993), trang 216-217, fn 39. Sokolov cho rằng một người đã sử dụng nhiều tên. Tôi thiên về vấn đề này nên chấp nhận quan điểm của Pháp rằng Orgwald chính là Manuilsky
[32] Nguyên văn được công bố trong Quốc tế Cộng sản ngày 5-8-1934, sau đó được Tạp chí “Du Kích” của những phần tử Trotskit, số 48 (tháng 6-tháng 8-1969). Bản tiếng Pháp trong “Ghi chú Định kỳ”, quý III, 1934, phụ lục, hồ sơ 32, SLOTFOM, Series III, hộp 52, CAOM. Trích dẫn lấy từ Pierre Rousset, Đảng Cộng sản Việt nam (NXB François Maspero, Paris, 1975), trang 69-70. Danh tính tác giả của bức thư là cả vấn đề của cuộc tranh luận. Rousset suy đoán, có thể một quan chức Liên Xô trong Quốc tế Cộng sản viết. Sophie Quinn-Judge cho có thể là Khang Sinh hoặc Vương Minh, cả hai đều là đại diện Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc tại Moscow, có tư tưởng bè phái trong quan điểm về những cuộc cách mạng châu Á
[33] “Ghi chú Định kỳ”, quý II năm 1935, (tháng ba), trang 21, 58, hồ sơ 35, SLOTFOM, Series III, hộp 54, CAOM. Đại hội Đảng cộng sản Đông Dương dự kiến diễn ra trong căn hộ ba phòng của Hà Huy Tập tại Macao, các đại biểu Quốc tế Cộng sản chỉ có 1 chiếc giường để nghỉ (tài liệu đã dẫn, trang 62). Xem thêm Nguyễn Văn Khoan và Triệu Hiền, “Lê Hồng Phong”, trang 10
[34] Về việc Pháp bao chuyến đi của Trần Văn Giàu, xem “Ghi chú Định kỳ”, quý II năm 1935 (tháng Ba), hồ sơ 35, SLOTFOM, Series III, hộp 54, CAOM. Sự nghi ngờ về Hà Huy Tập được báo cáo trong bức thư gửi Quốc tế Cộng sản. Vera Vasilieva trong thư đề ngày 17-3-1931, trong trường hợp nghi ngờ Tập không trung thành, sẽ ngay lập loại bỏ ông trong tất cả các vị trí trách nhiệm của Đảng, thay đổi vị trí trụ sở chính, sau đó tìm cách xác minh sự nghi ngờ. Việc Tập đến muộn sau Giàu đã được xác minh, có trong báo cáo gửi Moscow 4-4-1935, tài liệu trong hộp 495, thư mục 154, hồ sơ 586, trong kho lưu trữ Quốc tế Cộng sản. Trong lá thư đó, Tập nói, “hai giờ trước khi ông Giàu đến dự Đại hội Đảng, tám xe ô tô của mật thám đợi ngay ngoài cửa nơi cư trú”. Rất khó giải thích thông tin này với các thông tin khác mà Giàu rời Macao vào giữa tháng Ba, vài ngày trước khi Đại hội, ông không bị bắt ở Sài Gòn cho đến mãi tháng 5. Có thể anh bị bắt tại Macao trên đường tới dự Đại hội dự kiến ngày 18-3
[35] Khiếu nại của Hà Huy Tập có trong bức thư của ông gửi Moscow ngày 4-4 và ngày 20-4-1935, hộp 495, thư mục 154, hồ sơ 586, trong kho lưu trữ Quốc tế Cộng sản. Cũng có trong SLOTFOM, Series III, hộp 52, CAOM, hồ sơ trong Đại hội lần thứ 7 của Quốc tế Cộng sản, trong SLOTFOM, Series III, hộp 113, CAOM. Nguyễn Hữu Cần nói với cộng sự, ông đã đến lãnh sự quán để đánh lừa người Pháp về kế hoạch của Đại hội. Tập không chấp nhận lời giải thích này, báo cáo của Pháp chỉ ra rằng mật thám cũng không tin - xem “Ghi chú Định kỳ”, quý II năm 1935, trang 62-65, hồ sơ 35, SLOTFOM, Series III, hộp 52, CAOM. Theo các nguồn tin Đảng cộng sản Đông Dương, đầu bếp Nguyễn Văn Trâm đã hãm hiếp đồng nghiệp nữ của Đảng trước chuyến bay. Cô này về sau đã chết vì thương tích
[36] Tài liệu từ Đại hội chỉ ra rằng Ban chấp hành Hải ngoại được chấp nhận ngang hàng với Ban Chấp hành Trung ương, gồm từ năm đến bẩy thành viên và Ủy ban Thường vụ có ba thành viên. Xem “Ghi chú Định kỳ”, quý IV năm 1935, hồ sơ 37, SLOTFOM, Series II, hộp 54, CAOM. Về lý do hoãn Đại hội Macao, xem thư Hà Huy Tập của Ban Chấp hành Hải ngọai gửi Quốc tế Cộng sản ngày 31-3-1935, trong kho lưu trữ Quốc tế Cộng sản tại Bảo tàng Hồ Chí Minh, Hà Nội
[37] Lá thư đề ngày 20-4-1935 gửi Moscow, trong kho lưu trữ Quốc tế Cộng sản, hộp 495, thư mục 154, hồ sơ 586. Trong các báo cáo lời lẽ mạnh mẽ mà Tập gửi Moscow xuất phát từ sự lo sợ gần như bệnh lý của ông “Những người kích động”. Mức độ nghi ngờ của Tập về Nguyễn Ái Quốc thể hiện khi ông yêu cầu xem thư gửi ngày 31-3, về các tài liệu dịch của Đại hội để các quan chức Quốc tế Cộng sản sử dụng ở Moscow, Quốc hoàn toàn chịu trách nhiệm sai lầm chính trị do “dịch sai”
[38] Thư của Quốc ngày 16-1-1935, có trong Bảo tàng Hồ Chí Minh ở Hà Nội bằng bản tiếng Pháp. Bản tiếng Việt có trong Toàn Tập I, tập 3, trang 55-59
[39] Bài phát biểu của Lê Hồng Phong, cũng như của các đại biểu khác của Việt Nam, bản dịch tiếng Việt có trong Văn kiện Đảng (1930-1945), tập 2, trang 7-41. Một số nhà văn, cũng như mật thám đã nhầm lẫn cho rằng diễn giả là Nguyễn Ái Quốc. Bây giờ rõ ràng do “Chạy án”- hành động tham nhũng của Hải An - mà thực tế là do Lê Hồng Phong. Xem Rousset, Đảng Cộng sản, trang 70, “Ghi chú Định kỳ” quý IV năm 1935, hồ sơ 37, SLOTFOM, Series II, hộp 52, CAOM
[40] Bản điều tra xác nhận Quốc tham gia Đại hội lần thứ VII, có trong Bảo tàng Hồ Chí Minh ở Hà Nội. Tái bản trong “Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử”, Tập II, trang 51-52. Bữa tiệc được đề cập trong tài liệu đã dẫn, trang 50
[41] Ngày tháng Minh Khai trở về châu Á trở thành vấn đề bất đồng. Sophie Quinn-Judge đưa ngày khởi hành từ Moscow của Nguyễn thị Minh Khai vào tháng 2-1937. Theo Tôn Quang Phiệt, Minh Khai quay trở lại vào năm 1936 - xem “Một vài ý kiến bổ sung về lịch sử của hai đồng chí Trần Phú và Nguyễn Thị Minh Khai”, trong Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, 139 (tháng 7 và 8-1971). Về đám cưới, xem Kobelev, “Hồ Chí Minh”, trang 116, 118. Có giả thiết rằng cô xác định mình là vợ của Quốc trong Đại hội Quốc tế Cộng sản để đánh lạc hướng sự nghi ngờ danh tính của cô, nhưng lập luận này không thuyết phục. Con gái của Vera Vasilieva nhớ lại rằng, Nguyễn Ái Quốc thỉnh thoảng đến thăm căn hộ của mẹ cô với một người phụ nữ trẻ tên là Phan Lan - xem Quinn-Judge, “Hồ Chí Minh”, trang 76. Báo cáo của “vợ tạm” của Quốc và con của Quốc tại Liên Xô, xem Hoàng Văn Chí, “Từ chủ nghĩa thực dân đến chủ nghĩa cộng sản”, trang 51; Bảo Đại, “Con rồng An Nam” (NXB Plon, Paris, 1980), trang 134; “Phân tích tin tức Trung Hoa” ngày 12-12-1969. Các nguồn tin ở Moscow ngày nay thêm nhiều tin đồn
[42] Kobelev, “Hồ Chí Minh”, trang 118-19. Vai trò Quốc tại Đại hội, xem Tử Hữu, “Đi họp Quốc tế Cộng sản” (NXB Dân tộc, Việt Bắc, 1964), Hồng Hà, “Bác Hồ trên đất nước Lenin” (NXB Thanh Niên, Hà Nội, 1980), trang 313-315
[43] “Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử”, Tập II, trang 56-59; xem thêm Anatoly Sokolov, “Quốc tế Cộng sản và Việt Nam”, trang 85-89
[44] Lá thư đề ngày 6-6-1938, trích trong Anatoly A. Sokolov, “Quốc tế Cộng sản và Việt Nam”, trang 89-90. Theo Sokolov, người viết có lẽ là Manuilsky. Xem thêm “Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử”, Tập II, trang 56-59