- 17 -
Quằn quại thân giun

     hi thành phố Sài Gòn vang lên những câu hát “Như có bác Hồ trong ngày vui đại thắng” thì trên cả nước, nhất là ở miền Bắc đã có kẻ ôm mặt khóc ròng trong khi nhiều người khác lại mang niềm vui chất ngất.
Có ai đã từng ngồi xuống để phân tích những niềm vui, nỗi buồn hay tiếng khóc của con người vào thời điểm ấy không?
Đất nước đã hòa bình, chiến tranh đã chấm dứt, miền Nam đã được giải phóng rồi thì tại sao không cười vui mà lại khóc? Phải chăng nhiều người đã khóc vì trong cuộc sống vô vọng với muôn ngàn khổ đau, người ta đã hướng về miền Nam như một sự kỳ vọng vào tia sáng cuối cùng thì nay hỡi ơi miền Nam đã sụp đổ?
Còn những người vui có niềm vui chất ngất, có thật là họ đã nghĩ rằng kể từ nay, dân chúng miền Nam sẽ lại chung vai với mình cùng đi dưới bóng cờ vẻ vang của Đảng CS Việt Nam quang vinh, để tiến mạnh tiến mau tiến vững chắc lên Chủ Nghĩa Xã Hội? Hay người ta vui chất ngất là vì cái gánh nặng “Hạt lúa cắn đôi cho chủ trương chiếu cố miền Nam” vốn đè lên số phận thảm thương của họ qua đời sống tối tăm, rị mọ mà họ đã từng ê chề phải chịu đựng từ mấy chục năm qua, nay đã hoàn toàn được rũ bỏ?
Cứ ngồi tỉ mẩn với những câu hỏi như thế, cho dù là có người khóc hay người cười sau khi miền Nam được giải phóng, thì tôi đã cảm thấy một thực trạng chua xót lộ ra ở đằng sau tâm tư của biết bao con người vốn đã còng lưng khốn khổ vì sự hà khắc của chế độ. Khóc hay cười thì cũng chỉ vì cái chế độ đó mà thôi!
Tuy nhiên, nếu sự suy nghĩ của tôi là chủ quan, hạn hẹp thì có còn những lý do nào khác nữa không, trong các nụ cười, tiếng khóc sau khi miền Nam được giải phóng?
Tôi hy vọng sẽ có nhiều nhà viết sử quan tâm đến chuyện này để đưa ra câu trả lời cho những thắc mắc kể trên vốn không dễ gì lý giải, bởi trong cái thời u u minh minh, tranh tối tranh sáng ấy, đã có biết bao nhiêu tâm tư dằn vặt, bao nhiêu nỗi niềm chất chứa lâu ngày, nay có dịp bộc lộ khi miền Nam hoàn toàn sụp đổ.
Tôi bỗng nhớ đến hình ảnh ba anh bộ đội, một hôm kéo ùa vào nhà tôi khiến cho mọi người trong nhà đều ngơ ngác. Thì ra trong số ba anh ấy, một người tên là Toán đã có họ hàng rất gần với nhà tôi, nên khi anh có dịp vào tới Sài Gòn thì ở gia đình ở ngoài Bắc dặn dò là phải ghé vô thăm.
Cuộc trùng phùng dĩ nhiên là ồn ào, náo nhiệt. Không chỉ một mình Toán nói mà cả ba người đều thi nhau nói. Anh thì kể thành tích bộ đội chiến đấu anh dũng trong Trường Sơn, anh thì bầy tỏ sự chúc mừng miền Nam hết ách nô lệ Mỹ để từ nay sống đời sống ấm no, hạnh phúc dưới lá cờ vinh quang của Đảng CSVN. Còn Toán thì sau khi vắn tắt tin tức gia đình cũng hết lòng ca ngợi miền Bắc, nào giai cấp bóc lột đã bị xóa bỏ nên đời sống dân chúng đầy đủ bình yên, nào xã hội trong đó đã thể hiện tinh thần một người vì mọi người, mọi người vì một người. Tất cả khiến bọn chúng tôi cứ dỏng tai lên nghe, trong lòng tuy còn đôi chút nghi ngờ nhưng cũng thấy thán phục.
Nhưng chỉ ngay sau đó, vào cái lúc mà hai anh bộ đội kia đi vào khu nhà sau để làm công việc vệ sinh cá nhân, thì cậu Toán, người em họ con chú con bác của chúng tôi đã tụt lại phía sau, nắm chặt lấy bàn tay của nhà tôi và ghé vào tai chúng tôi mà gằn giọng:
- Anh chị đừng tin chúng nó. Giả dối bề ngoài hết cả đấy.
Câu nói ngắn gọn ấy thật như một gáo nước lạnh tạt lên mặt chúng tôi. Không tạt sao được khi chỉ mới đó lúc trước, cả ba người đều nói năng trơn tru, hùng hồn với những lời lẽ đầy nhiệt huyết. Vậy mà chỉ sau ít phút nó đã hóa ra là “giả dối, bề ngoài hết cả đấy”.
Nếu lời của Toán nói ra là sự thật thì chúng tôi đã phải trải qua một sự choáng ngợp đến hai lần. Trước tiên là sự thực đời sống ở miền Bắc lần đầu tiên đã được phơi bầy từ chính một con người đến từ miền Bắc. Hai là sự nói năng hăng hái, hùng hồn của những con người trẻ tuổi thuộc hàng ngũ bộ đội vốn là một tập thể chỉ biết chiến đấu hào hùng mà ai lại có thể ngờ là cũng chất chứa nhiều cung cách ăn nói điêu ngoa, giẫm đạp lên sự thật. Tôi tự hỏi những người trẻ tuổi này, ngay cho đến cái chết ngoài chiến trường cũng khó khiến lùi bước, thế thì họ đã phải mang một nỗi khiếp sợ kinh hoàng và ghê gớm thế nào để đến nỗi họ phải uốn cong ba tấc lưỡi của mình một cách thản nhiên và thành thạo đến thế? Ý nghĩ này đã khiến cho tôi bỗng rùng mình ớn lạnh khi nhìn về tương lai của dân chúng miền Nam trong những ngày sắp tới.
Tuy đã quá ngạc nhiên về câu nói bỏ nhỏ của Toán, nhưng đồng thời tôi lại thấy như vừa được cậu em tặng cho một món quà quý giá không dễ gì có được vào thời điểm ấy. Đó là một lời nói trung thực chỉ có thể phát xuất từ một tình cảm quý mến chân thành. Tôi đã nhìn thấy ánh mắt chợt long lên của cậu ta khi cậu nói. Tôi cũng đã cảm thấy được những nỗi niềm uất nghẹn của cậu ta khi cậu chỉ phát ra được mấy lời ngắn gọn nhưng chất chứa biết bao nhiêu điều dồn nén trong lòng.
Cho nên, lời nói ấy của cậu tuy rất khẽ chỉ đủ cho hai người nghe nhưng nó không khác gì một lời cảnh báo vang lên như một tiếng sét nổ trước tất cả những gì đang ồn ào diễn ra ở chung quanh chúng tôi: Những buổi mít tinh, những cuộc diễn hành, những bài ca cách mạng lạc quan, hùng hồn, những khuôn mặt rạng rỡ trong ánh mắt tươi cười của đủ mọi loại tuổi tác cũng như mọi thành phần xuất hiện nhan nhản trên đài truyền hình, cùng những bài báo hết lời xưng tụng đường lối cách mạng đang trong tiến trình đánh gục cái cũ để xây dựng cái mới…v…v…
Cho đến tận ngày nay, lời của Toán vẫn còn vang vang trong tâm tưởng của tôi:
“Anh chị đừng tin chúng nó. Giả dối bề ngoài hết cả đấy.”
Sau này, khi mọi sự giao thông đã dễ dàng, chúng tôi mới được biết thêm vài chi tiết về đời sống của Toán ở miền Bắc.
Gia đình Toán tuy sống tại Hà Nội, nhưng gốc gác thì lại là ở Nam Định.
Khi xẩy ra vụ Cải Cách Ruộng Đất năm 1956, bố mẹ Toán đã bị gọi về quê trình diện do bị truy ra là thuộc thành phần gốc gác có ruộng đất. Vào thời kỳ đó, du kích và các thành viên cốt cán cải cách ruộng đất còn vác súng vào cả thành phố để lùng bắt địa chủ và con cái địa chủ nữa. Có ba loại địa chủ bị lùng bắt là Địa chủ gian ác, Địa chủ thường, và Địa chủ có ủng hộ kháng chiến. Thành phần địa chủ gian ác sẽ bị đội Cải Cách bắt và quản thúc ngay lập tức.
Thoạt tiên gia đình Toán chỉ bị liệt vào loại “địa chủ thông thường” thôi, nhưng rồi số lượng “địa chủ gian ác” trong vùng quá ít, không đủ chỉ tiêu, nên họ bị “kích thành phần” lên thành hàng “Địa chủ gian ác”.
Thế là gia đình Toán tan nát trong đau thương. Bố bị đấu tố đến chết. Mẹ con Toán thì bị đuổi ra khỏi xóm làng, không hộ khẩu, không một mảnh tem phiếu, tất cả đều sống vất vưởng bên lề xã hội, hàng ngày lang thang, luồn lách trong ruộng đồng hay bìa rừng để mò cua, bắt ốc hay kiếm củi để đổi lấy khoai, sắn đắp đổi qua ngày.
Lúc Toán trưởng thành thì miền Bắc đã nạo vét hết thanh niên, thiếu nữ vào bộ đội hay Thanh niên Xung phong. Gia đình Toán được đặc ân cấp hộ khẩu nếu Toán tình nguyện gia nhập bộ đội để vào Nam chiến đấu. Toán chấp nhận hy sinh mạng sống của mình để đánh đổi lấy cái hộ khẩu cho gia đình, vì có hộ khẩu là có tem phiếu mua gạo, mua muối, mua đường..v..v... tức là được phép ngồi vào cái mâm cơm chung èo uột mà Đảng và Nhà Nước bầy ra cho toàn xã hội.
Sau này nhớ lại, lúc Toán nắm lấy tay chúng tôi để nói lời chân thật hay lúc từ biệt để trở về quân ngũ, chúng tôi đều nhận thấy rằng da bàn tay của Toán dầy và cứng như một thứ mai rùa. Đấy chính là hậu quả của những năm Toán phải triền miên lao động vào rừng đốn củi nuôi gia đình khi bị nhà Nước hất ra khỏi hàng ngũ các công dân hợp pháp vì lý do gốc gác, lý lịch.
Tưởng cũng nên nhắc thêm rằng, theo thống kê chính thức của nhà nước trong dịp “sửa sai” sau này, thì đã có 172.008 người bị quy vào thành phần địa chủ và phú nông, trong đó có tới 123.266 người bị quy sai, tức hơn 70% bị kết án oan ức. Lại cũng theo báo cáo của Bộ chính trị Đảng Cộng Sản Việt Nam vào tháng 10 năm 1956 thì tổng số đảng viên bị đấu tố trong cuộc Cải cách Ruộng đất lên tới 84.000 người. Số lượng này chưa kể đến thân nhân, gia đình của họ, cũng đã bị cô lập và đối xử phân biệt.
Một cơ chế Đảng và Nhà Nước đã mắc phải tội lỗi tầy trời khiến gây ra biết bao nhiêu thảm cảnh và tiêu diệt biết bao sinh mạng con người như thế, mà vẫn còn đứng vững cho đến ngày nay thì là tại những nguyên do nào?
Dĩ nhiên đại thể thì vẫn là guồng máy cai trị đã sử dụng bạo lực để trấn áp mọi mầm mống chống đối.
Nhưng bạo lực không thể tồn tại đơn thuần nếu không có dàn đồng ca của đám văn nghệ sĩ cam tâm vận dụng tối đa chữ nghĩa để nịnh hót, bợ đỡ, hay vo tròn bóp méo, thậm chí cả bịa đặt sự kiện một cách táng tận lương tâm để vừa trấn áp dư luận, vừa dìm quần chúng vào cái bể triền miên u-tối, trong đó kiến thức của người dân không bao giờ với được ra ngoài cái vòng kiềm tỏa mà đám cầm quyền đã hoạch định sẵn.
Và cái bầu không khí ô nhiễm ấy lại đã được nuôi dưỡng từ thế hệ này qua thế hệ khác, khởi đi từ chính sách ngu dân bằng cách tiêm nhiễm những điều gian dối vào đầu óc trẻ thơ trong ngành giáo dục. Bài hát sau đây rất thịnh hành cho tới hiện nay trong các trường mẫu giáo, chẳng là sự tuyên truyền những điều gian dối thì còn là thứ gì khác nữa:
Đêm qua em mơ gặp Bác Hồ
Râu bác dài tóc Bác bạc phơ
Em âu yếm hôn đôi má bác
Vui bên bác là em múa hát
Hát bài Hồ Chí Minh muôn năm
Múa bài Hồ Chí Minh muôn năm
Từ năm 1945, chính tuổi thơ của tôi cũng đã từng nghêu ngao những bài hát có nội dung nhồi nhét tương tự

*

Cho nên, khi đầu óc các nhà lãnh đạo trung ương chỉ loay hoay với những tấm tem phiếu, những chế độ phân chia cao thấp trong quyền lợi được hưởng thụ và những mô hình kinh tế rị mọ kiểu Tổ hợp hay Hợp tác xã..v..v.. thì toàn dân vẫn còn đắm chìm trong khốn đốn.
Trong tình cảnh ấy, các giáo viên trước còn giữ kẽ không dám làm điều gì đi ra ngoài tác phong mô phạm cố hữu của mình, nhưng khi cái túng thiếu đã tới gõ cửa từng nhà rồi thì chẳng còn lý do gì để mà phải gìn giữ nữa.
Ở góc đường Trương Minh Ký và Huỳnh văn Bảnh, kế bên đường rầy xe lửa số 6 tôi đã thấy một đồng nghiệp dựng xe bên lề đường, ngồi đón khách cần đi xe ôm. Tôi tiến lại gần anh bạn, mỉm một nụ cười cay đắng rồi cất tiếng hỏi:
- Có khi nào gặp học trò không?
Anh bạn nhún vai:
- Học trò thì không nhưng phụ huynh học trò thì có.
- Ui da! Cái đó còn gay hơn.
- Ăn nhằm gì. Bố mẹ học trò cũng khốn đốn như ai. Biết nhau quá đi rồi.
Tôi cãi:
- Nhưng biết nhau kiểu này thì ai còn dám tin vào ông thầy. Sức lực đổ mẹ nó hết vào cái xe ôm rồi, còn dạy dỗ gì nữa.
Anh bạn cười hề hề:
- Thì ai bảo cứ đi học. Học cho lắm, mai mốt nó coi lý lịch, xếp thành phần, có giỏi cách mấy thì cũng đến văng ra đường mà lái xe ôm thôi!
Lời nhận xét hữu lý của anh bạn khiến tôi không cãi thêm được gì. Đã thế, anh còn ghim vào trong đầu óc của tôi một câu hỏi đầy nghịch lý: “Học trò đi học cho lắm, đến khi bị đuổi văng ra đường vì lý lịch, mà như thế thì những ông thầy như chúng tôi tại sao còn đến lớp làm gì?”
Phải chăng chúng tôi còn tỉnh táo để biết lợi dụng chuyện dạy dỗ học trò làm nơi ẩn náu và kiếm ăn?
Hay là chúng tôi đã trở thành ngu ngơ như một lũ cừu ngoan ngoãn đang bị chế độ lùa đi từng đàn, bắt vào hàng ngũ chỉnh tề như mọi thành phần khác trong xã hội.
Thật chưa bao giờ mà chính tôi đã phải tự cật vấn lương tâm của mình bằng những câu hỏi như thế.
Mà anh bạn đồng nghiệp ngoài giờ ở trường còn đi lái xe ôm không phải là một trường hợp duy nhất, hay hãn hữu gì. Trong hàng ngũ giáo viên, tôi đã được nghe xì xào bàn tán chuyện thầy này, thầy kia ngoài giờ đứng lớp đã ra lề đường sửa xe, bơm bút bi, ép plastic giấy tờ, tài liệu, chạy xe ôm, thậm chí còn lảng vảng ở cổng các bệnh viện để xin bán máu của mình nữa.
Rồi vào cái thời ngăn sông cấm chợ, mọi thứ đồ tiêu dùng đều khan hiếm nên giá cả trong thị trường chợ đen, buôn lậu cứ lên vù vù. Đấy cũng là một cánh cửa mở ra cho nhiều người cố vượt qua đủ thứ hàng rào ngăn cản, nào du kích, nào dân phòng, nào công an hay nhân viên thuế vụ nhan nhản giăng mắc khắp mọi nơi, để liều mạng mang vào đô thành vài yến gạo, vài chục trứng hay dăm cân thịt bán kiếm lời.
Trong số những người liều mạng này, tôi biết có cả một vài cô giáo thuộc trường này, hoặc trường kia. Nhìn thấy họ, mặt mũi đen thui vì nắng cháy, tóc tai bù sù xơ xác, nụ cười nhí nhảnh đã tắt lịm trên môi, cặp mắt dịu dàng, hiền hậu nay đã trở nên láo liên, dáo dác, tôi bỗng thấy xót thương cho thân phận của những người mẹ, người vợ, người em, người chị đã phải dấn thân vào nơi lầm than cát bụi để thay thế cho cương vị của những người chồng người cha còn đang giam mình đâu đó trong các trại cải tạo.
Để kết thúc cho chương sách bi thảm này, tôi thấy không gì hay hơn là trích đăng lại bài thơ dưới đây được thi sĩ Song Hồ (1933-2009) sáng tác ở Sài Gòn vào năm 1981, đúng thời kỳ nhà nước đang ngăn sông cấm chợ. Bài thơ đánh dấu một thời kỳ bi thương của đất nước, tuy đã qua đi nhưng nó không thể bị quên lãng trên những trang lịch sử của dân tộc.

HỠI EM NHỎ CÔ ĐƠN

Hỡi em nhỏ cô đơn!
Đang lang thang ngoài phố.
Em ơi đi đâu đó?
Cho ta hỏi đôi lời:
- Cha đâu? - Bị cải tạo!
- Mẹ đâu? - Buôn chợ trời!
- Anh đâu? - Ở Cam Bốt!
- Chị đâu? - Vượt biên rồi!
- Ông đâu? - Đấu tố chết!
- Bà đâu? - Buồn qua đời!
- Cô đâu? - Kinh tế mới!
- Bác đâu? - Tự tử rồi!
Thôi! thôi! Không hỏi nữa!
Tim ta quá bồi hồi
Sao em còn nhỏ tuổi
Đã biết nhiều chuyện đời
Sao mảnh đất nhỏ bé
Xẩy nhiều chuyện rụng rời….
SONG HỒ
(1981)