CẬU BÉ ĐÁNH TRỐNG NGƯỜI XÁCĐÊNHA

     ruyện đọc hàng tháng)
Ngày đầu tiên của trận Cutxtôtza nghĩa là ngày 21 tháng bảy năm 1848, có khoảng sáu mươi người lính thuộc một trung đoàn bộ binh được điều đến một gò cao để chiếm một ngôi nhà trơ trọi trên ấy. Bất ngờđại đội quân Áo bao vây. Quân Áo bắn rát đến nỗi những người bộ binh chỉ còn vựa đủ thì giờ rút vào nấp trong ngôi nhà, và vội vàng dựng chướng ngại vật chắn các cửa ra vào, để lại mấy người chết và bị thương ngoài đồng. Các cánh cửa đã đóng chặt, lính mới từ các cửa sổở trên gác và ở tầng dưới bắt đầu bắn vào đám quân đang bao vây. Bọn này tiến dần theo hình bán nguyệt, bắn trả dữ dội. Sáu mươi bộ binh Ý do hai sĩ quan sơ cấp và một đại úy chỉ huy; ông đại úy đã già, cao lớn, khô khan, tóc râu bạc hết. Cùng chiến đấu với họ có một người lính đánh trống người Xacđênha, một cậu bé mười bốn tuổi là cùng, nhưng trông chỉ bằng mười hai tuổi, nhỏ nhắn, nước da xanh, dôi mắt đen và sâu. Viên đại úy chỉ huy cuộc chống giữ từ một eăn phòng ở trên gác, ra những lệnh cương quyết như những phát súng; và trên khuôn mặt sắt không hề thấy một chút xúc động nào. Cậu bé đánh trống người hơi xanh, nhưng đôi chân khỏe, đã leo lên một cái bàn, nhìn qua cửa sổ, thấy sau làn khói những hàng lính Áo mặc áo trắng đang tiến lên từ từ trên các cánh đồng. Ngôi nhà ở trên đỉnh một cái dốc thẳng đứng, bên phía này chẳng có cửa sổ nào ngoài một cửa nho nhỏ trổ trên mái nhà. Vì vậy mà quân Áo chỉ nhằm bắn vào mặt trước và hai đầu nhà. Nhưng chúng bắn dữ dội ghê gớm, một trận mưa đạn làm thủng lỗ chỗ các bức tường và nát vụn ngói trên mái; bên trong nhà, dạn bắn vỡđồ đạc, các mái hiên bụng rắn, trần nhà, cửa ra vào, làm tung tóe lên những mảnh gỗ, những làn bụi thạch cao, những mảnh bát đĩa và những mảnh cửa kính. Chốc chốc lại một người lính đang bắn qua cửa sổ ngã quỵ xuống sàn; người ta phải kéo vào một góc nhà. Vài người lính khác đi lảo đảo từ buồng này sang buồng khác, bàn tay co quắp ấn chặt vào các vết thương của mình. Trong nhà bếp đã có một người chết, trán bị thủng toang hoác. Vòng vây của quân địch xiết chặt một cách trông thấy.
Viên đại úy từ trước vẫn không chút nao núng, thì bấy giờ cũng có một cử chỉ lo ngại, vội vã ra khỏi buồng, có một viên trung sĩđi theo. Ba phút sau, viên trung sĩ chạy đi gọi cậu bé đánh trống. Cậu theo viên trung sĩ chạy lên thang gác và cùng vào một cái gác xép trống không; viên đại úy ở đớ, đang viết bằng bút chì lên một tờ giấy để áp vào kính của cái cửa sổ nhỏ.
Dưới chân ông, có một sợi dây gàu múc nước. Viên đại úy gấp tờ giấy lại và nói, vừa nói vừa nhìn thẳng vào mắt cậu bé với cái nhìn lạnh lùng của ông đã từng làm cho tất cả quân lính đều phải run sợ: “Lính đánh trống!”
Người lính đánh trống đứng nghiêm, đặt tay lên mũ. “Cậu có can đảm không?” Đôi mắt cậu bé sáng lên như một tia chớp:
- Có, thưa đại úy, - cậu trả lời. Nhìn ra phía kia kìa, - viên đại úy vừa nói, vừa đẩy cậu ra phía cửa sổ mái nhà, - phía đồng bằng ấy, bên cạnh những ngôi nhà ở Vilaphờranea, nơi có lưỡi lê lấp lánh, có trung đoàn của chúng ta đóng ở đấy.
Cầm giấy này, lấy dây thừng này mà tụt xuống qua cửa sổ, lăn xuống dốc, băng qua các cánh đồng, chạy nhanh đến trung đoàn và trao giấy này cho viên sĩ quan nào gặp đầu tiên. Bỏ thắt lưng và túi đạn ra. Cậu bé đánh trống cởi thắt lưng và túi đạn bỏ lại, luồn mảnh giấy vào túi áo; viên trung sĩ ném sợi thừng qua cửa sổ và hai tay nắm lấy một đầu dây, trong khi viên đại úy giúp cậu bé chui ra cửa, lưng quay về phía cánh đồng.
- Nghe đây, lính đánh trống, - viên đại úy dặn, - vận mệnh phân đội chúng ta đều nhờ vào lòng can đảm và đôi chân của cậu đấy?
- Xin đại úy tin tôi, - cậu bé vừa trả lời, vừa đánh đu vào sợi thừng dòng ra ngoài cửa sổ.
- Gặp người lại mà tụt xuống, - viên đại úy lại dặn thêm, vừa nói vừa giúp viên trung sĩ giữđầu dây dòng cậu bé xuống.
- Đừng sợ gì hết.
- Chỉ mấy giây là cậu bé đánh trống đã chạm đất. Viên trung sĩ thu sợi dây lại và đi nơi khác. Viên đại úy cúi mình nhìn qua cửa sổ và thấy cậu bé đang chạy xuống dốc.
Ông đang hy vọng cậu bé đi thoát không ai thấy, thì năm sáu đám bụi mù từ đất tung lên trước mặt và sau lưng cậu cho ông ta biết là cậu đã bị quân Áo trông thấy. Từ trên đỉnh đồi chúng bắn vào cậu. Những dám bụi mùấy do đạn bắn tung đất lên. Cậu bé đánh trống cứ tiếp tục chạy nhanh như một con thỏ rừng. Thình lình cậu quỵ xuống “Chết rồi!” viên đại úy gầm lên và cắn vào nắm tay mình. Nhưng vừa dứt lời thì đã thấy cậu bé đứng dậy.
“À! chỉ ngã thôi?” ông ta nói một mình và thở phào. Cậu bé đánh trống lại tiếp tục chạy, nhưng chạy khập khiễng.
“Nó bị sái chân”, viên đại úy nghĩ như vậy. Vài đám bụi nhỏ tung lên đây đó, quanh cậu bé, nhưng mỗi lúc một cách xa. “Cậu thoát rồi đấy”. Viên đại úy kêu lên một tiếng thắng lợi, nhưng vẫn tiếp tục nhìn theo cậu, lòng hồi hộp vì thời gian chỉ còn tính từng phút một. Nếu cậu bé đánh trống không tới trung đoàn được trong thời gian ngắn nhất với mảnh giấy xin viện binh đến ngay, thì tất cả phân đội sẽ bị tiêu diệt, hoặc là ông sẽ phải cùng với họđể cho địch bắt lâm tù binh. Cậu bé chạy nhanh như một mũi tên, rồi chậm lại và khập khiễng, rồi lại chạy nữa, nhưng mỗi lúc một khó nhọc hơn, và chốc chốc lại loạng choạng mất thăng bằng và dừng lại. Có thể một mảnh đạn đã bắn trúng nó chăng? Viên đại úy tự bảo như vậy; rồi lại theo dõi từng cử chỉ của cậu, ông ta hổn hển vừa khích lệ cậu, nói với cậu làm như cậu có thể nghe được lời ông, đội mắt nẩy lửa cứ chằm chằm đo mãi khoảng cách giữa cậu bé liên lạc của ông ta với ánh lưỡi lê trông thấy giữa những cánh đồng hương mạch vàng óng dưới ánh mặt trời. Cũng trong lúc ấy viên đại úy nghe tiếng đạn rít và đập rào rào trong các buồng ở những tầng dưới, những mệnh lệnh dõng dạc, những tiếng thét điên dại của các sĩ quan và trưng sĩ, những tiếng rên rỉ của người bị thương, tiếng đồ đạc bịđập vỡ và màn trướng bị xé rách.
“Cố lên, can đảm lên, - viênđại úy vừa nói vừa nhìn theo eậu bé đánh trống,chạy dấn lên, con?... Ồ, nó đứng lại rồi! Bỏ mẹ!... không nó lại chạy”.
Một sĩ quan ehạy đến, vẻ mặt lo âu, nói với viên đại úy rằng quân dịch vẫn không ngừng bắn, nhưng lại giương lên một lá cờ trắng, lệnh cho chúng ta ra hàng. “Đừng trả lời chúng nó” viên đại úy nói, mắt không rời khỏi cậu bé khi đó đã ra tới ngoài cánh đồng; nhưng giờ cậu không ehạy nữa, chỉ cố sức lê mình đi thôi.
“Kìa, đi đi chứ, chạy đi chứ! - viên đại úy nói, hai hàm răng nghiến chặt và đôi bàn tay nắm chặt, - chết cũng được nếu cần, nhưng phải đến nơi, phải đến nơi?” Đúng lúc ấy viên đại úy thét lên một lời nguyền rủa dữ dội: “À, thằng hèn nhát! Nó ngồi xuống rồi!” Quả thật, cậu bé mà ông ta vẫn thấy cáiđầu nhấp nhô trên các ngọn lúa, bỗng biến đâu mất, như bị ngã xuống. Một lát sau cái đầu cậu bé lại hiện ra, rồi lại mất hút sau những hàng giậu; viên đại úy không nhìn thấy cậu bé đánh trống nữa. Ông ta lao xuống thang gác; đạn bắn như điên cuồng, các buồng đều ngổn ngang những người bị thương; vài người lăn mình vật vã trên sàn nhà, quằn quại trong cơn đau đớn, bám vào đồ đạc một cách tuyệt vọng. Màn thảm, sàn nhà đẫm những máu; những xác chết nằm sóng sượt giữa các ngưỡng cửa; viên trung úy bị một viên đạn bắn gẫy cánh tay phải; bụi và khói báo trùm cả cái cảnh buồn thảm này.
“Can đảm lên! - Viên đại úy hô to, - giữ vững vị trí! Viện binh sẽ đến, can đảm thêm chút nữa!”
Quân Áo lại đến gần thêm; qua làn khói người ta trông thấy những bộ mặt biến dạng của chúng, giữa những loạt súng, người ta nghe tiếng thét man rợ của chúng, tiếng chúng chửi rủa những người bị vây, ra lệnh cho họđầu hàng, đe dọa giết chết họ. Vài người lính khiếp sợ, rút khỏi các cửa sổ; các viên trưng sĩđẩy họ trở lại đằng trước. Nhưng hỏa lực của bọn bao vây tăng lên gấp bội, vẻ thất vọng hiện lên trên tất cả các khuôn mặt, chẳng còn cách nào chống cự được nữa. Một lúc nào đấy tiếng súng của quân Áo thưa đi, và một giọng chói tai thét lên, lúc đầu bằng tiếng Đức, sau bằng tiếng Ý: “Hàng đi!”
Không! Viên đại úy thét lên từ một cửa sổ.
Thế là tiếng súng lại nổi dậy dữ dội, từ cả hai phía. Lại những người lính nữa ngã xuống. Một số cửa sổ đã không còn người chống giữ. Giờ phút bị tiêu diệt đang tới trước mắt. Viênđại úy giọng rít lên, gầm trong kẽ răng: “Họ không đến, không đến!” và đi đi lại lại, dữ dội, bàn tay giần giật nắm chặt chuôi kiếm, quyết chết không hàng, thì bỗng một viên trung sĩ từ trên gác xép chạy xuống, thét ầm lên:
“Họđến, họđến?” Họđến? Viên đại úy đáp lại trong một tiếng kêu vui mừng. Tức thì, tất cả mọi người: quân lính, thương binh, trung sĩ, sĩ quan lao ùa đến các cửa sổ; và cuộc chiến đấu lại tiếp tục kịch liệt hơn.
Một lát sau, người ta thấy phía quân địch như có ngập ngừng, rồi bắt đầu rối loạn. Tức khắc viên đại úy tập hợp vài người trong một phòng ở tầng dưới để tung ra đánh giáp lá cà bằng lưỡi lê. Rồi ông ta chạy lên gác. Vừa đến nơi đã nghe tiếng súng nổ-gấp, kèm theo những tiếng hô “xung phong” dữ dội, và từ các cửa sổ, người ta trông thấy qua khói mù những chóp mũ hai sừng của lính pháo ky Ý một đại đội lao tới như bay và những lưỡi gươm sang loáng bổ xuống đầu, xuống vai, xuống lưng quân địch như chớp giật, sấm đổ. Thế là đội xung kích lao ra cửa, lưỡi lê chĩa thẳng ra phía trước.Quân địch lao đao, tan tác và chạy trốn: trận địa bị quét quang, ngôi nhà được giải phóng. Lát sau hai tiểu đoàn bộ binh Ý với hai khẩu đại bác đến chiếm đóng quảđồi. Viên đại úy và những người lính không bị thương còn lại nhập vào trung đoàn của họ và tiếp tục chiến đấu. Ông ta bị thương nhẹở bàn tay trái do một viên đạn lạc trong đợt xung kích sau cùng. Ngày hôm ấy kết thúc bằng chiến thắng của quân. Nhưng hôm sau, trận đánh lại tiếp tục, quân ta bị đánh tan dù kháng cự rất anh dũng, vì quân Áo đông hơn nhiều, và sáng 23 phải buồn rầu lên đường rút về sông Minsiô. Viên đại úy tuy bị thương, vẫn đi bộ với những người lính của mình, phờ phạc và im lặng; đến xế chiều thì tới Gôitô, trên bờ sông Minsiô; đến đấy ông liền tìm viên trung úy của mình bị gẫy một cánh tay và đã được đưa về trạm quân y. Viên trung úy phải đến Gôitô trước ông đại úy và người ta chỉ cho ông này một ngôi nhà thờ. Một bệnh viện đã được lập vội ở đấy, chứa đầy thương binh, nằm trên những giường và đệm xếp thành hai dãý. Hai y sĩ và mấy y tá chạy đi chạy lại, mệt hết hơi. Những tiếng kêu cố nén lại, những tiếng rên buột ra từ miệng những người đau đớn. Vừa vào, ông đại úy dừng lại, đưa mắt tìm viên trung úy của mình, thì nghe một tiếng yếu ớt gọi mình ngay bên cạnh.
“Đại úy!”
Ông ta quay lại. Đó là cậu bé đánh trống. Cậu nằm trên một chiếc giường dã chiến, một bức màn cũ kẻ ô đỏ và trắng đắp đến ngực, hai cánh tay đuổi ra ngoài, mặt tái xanh, dài hẳn ra, nhưng đôi mắt thì vẫn sáng như hai viên kim cương đen nhánh.
- Cậu ở đây à? - ông đại úy ngạc nhiên hỏi – Hoan hô! Cậu đã làm tròn nhiệm vụ?
- Cháu đã cố gắng hết sức, - cậu bé trả lời.
- Cậu bị thương à? - ông đại úy hỏi tiếp, vừa đưa mắt tìm viên trung úy của mình ở các giường gần đây.
- Cậu bé đánh trống, tự hào vì bị thương lần đầu, đã có can đảm nói chuyện với ông đại úy, là một việc mà không bị thương thì cậu không bao giờ dám làm, cậu nói: “Làm thế nào được? Cháu đã cố gắng chạy nhanh hết sức, nhưng quân Áo vẫn trông thấy. Cháu có thể tới nơi sớm hơn hai mươi phút nếu không bị trúng đạn; may mà cháu tìmđược ngay một sĩ quan tham mưu và trao giấy cho ông ta. Nhưng vất vả lắm, vì phải cố chạy sau khi đã nhận được sự “vuết ve” của quân Áo. Cháu khát nước muốn chết, cháu sợ không đến nơi được, cháu khóc như điên vì nghĩ rằng cứ chậm mỗi phút là một người nào đấy của chúng ta ở trên đồi sẽ phải đi đứt. Nhưng thế là đủ, cháuđã cố làm hết sức mình. Cháu rất vui lòng. Xin phép đại úy, kia, đại úy đang chảy máu kìa”.
Thật vậy, từ lòng bàn tay ông đại úy băng không kỹ, những giọt máu đỏ tươi chảy xuống theo các ngón tay. “Đại úy có muốn cháu băng lại cho không?” Ông đại úy chìa bàn tay trái ra và dang tay phải ra giúp cậu bé cởi cái nút băng; nhưng cậu vừa mới cất đầu dậy khỏi gối thì đã tái mét và phải nằm vật xuống lại.
“Thôi được, thôi được, - ông đại úy vừa nhìn cậu vừa rụt bàn tay mà cậu muốn giữ lại, - hãy nghĩ đến việc của cậu hơn là việc của người khác, vì những vết thương nhỏ có thể thành ra nặng đấy”.
- Cậu bé lắc đầu.
- Còn cậu, - ông đại úy vừa nói vừa nhìn cậu chăm chú, chắc cậu cũng bị mất nhiều máu lắm mới đến nỗi yếu như vậy?
- Vâng, m ất nhiều máu, - cậu vừa trả lời vừa mỉm cười, - và không những mất máu mà còn mất cái khác nữa, đại úy xem đây! Và nhanh tay cậu giở cái khăn ra.
Ông đại úy kinh hoàng, lùi lại một bước.
Cậu bé đánh trống chỉ còn có một chân. Chân trái đã bị cắt cụt quá đầu gối; khúc chân còn lại băng bằng những mảnh vải đẫm máu. Vừa lúc ấy một y sĩ quân đi qua, mặc sơ mi, người thấp và béo.
- Ồđại úy ạ - viên quân y nói nhanh và chỉ cậu bé bị thương, - đây là một trường hợp thương tâm: một cái chân có thể chữa khỏi như bỡn, nếu không bắt buộc phải cố sức một cách điên cuồng; vì cố chạy mà chân viêm tấy lên do nhiễm trùng, nên phải cắt ngay lập tức. Ồ! Nhưng thật là một eậu bé dũng cảm, xin bảo đảm như vậy. Cậu không hề khóc, không hề kêu một tiếng... Trong khi giải phẫu cho cậu, tôi rất kiêu hãnh vì cậu là một đứa con của nước Ý... Lạy Chúa, thật là dòng giống anh hùng”.
Rồi viên quân y chạy đi nơi khác, lúc nào cũng vội vàng.
Ông đại úy nhưđôi lông mày rậm và bạc lại, nhìn cậu bé đánh trống không chớp mắt, và đắp chăn lại cho cậu. Rồi bất giác, mắt vẫn nhìn cậu chằm chằm, ông từ từđưa tay lên chiếc kẹp và bỏ mũ ra chào cậu bé thương binh.
“Đại úy! Cậu bé ngạc nhiên kêu lên, - đại úy làm gì vậy? “Đại úy chào cháu sao?...”
Thế là người chiến sĩ già chưa từng bao giờ nói một lời nhẹ nhàng với một ai dưới quyền mình, trả lời cậu bé giọng đầy thương yêu và dịu dàng: “Tôi chỉ là một đại úy, còn cậu, cậu là một anh hùng!” Rồi ông đại úy dang rộng tay, ôm chầm lấy cậu bé đánh trống, siết chặt cậu vào lòng và hôn cậu ba lần.
TÌNH YÊU NƯỚC
(Thư của bô)
“Truyện Cậu bé đánh trống người Xacđênha đã làm cho con cảm động sâu sắc, thế thì sáng hôm nay chắc là con phải làm dễ dàng bài văn đầu đề: “Tại sao cậu yêu đất nước' của cậu?”
“Tại sao tôi yêu đất nước của tôi?” Câu hỏi ấy chẳng đã gợi lên ngay trong ý nghĩ của con vô số câu trả lời hay sao? Tôi yêu đất nước của tôi là vì mẹ tôi sinh ra ở đó; vì dòng máu chảy trong huyết quản của tôi là hoàn toàn thuộc về đất nươc tôi; vì dưới mảnh đất thiêng liêng ấy đã chôn những người mà mẹ tôi thương xót và cha tôi tôn kính; vì thành phố mà tôi đã sinh ra, cái tiếng mà tôi nói, những quyển sách dạy tôi học; vì em trai tôi, em gái tôi, bạn bè tôi và cả dân tộc vĩ đại mà tôi đang sống trong đó, thiên nhiên tươi đẹp bao quanh tôi; tóm lại, tất cả những gì tôi thấy, tất cả những gì tôi yêu mến, tôi kính phục, tất cả đều là những bộ phận hợp thành đất nước tôi. Ôi! Giờ thì con chưa thể hiểu hết tình yêu nước ấy được. Sau này, khi khôn lớn, con sẽ cảm thấy rõ hơn; sau một cuộc đi xa trở về, một buổi sáng nọ, tựa vào bao lơn của con tàu, con trông thấy ở chân trời những dãy núi xanh biếc của đất nước con; bấy giờ con sẽ không tài nào cầm nổi những giọt lệ cảm kích và một tiếng kêu vui mừng. Con sẽ cảm thấy tình yêu nước, khi ở nơi xa lạ, giữa đámđông người dửng dưng với con, con chợt nghe tâm hồn con đẩy con lại phía một người công nhân không quen biết, khi đi qua đã nói một vài tiếng bằng ngôn ngữ của con. Con sẽ cảm thấy qua cơn phẫn nộ đau đớn làm con đỏ mặt tía tai, khi con nghe một người nước ngoài thóa mạđất nước của con. Con sẽ cảm thấy lòng yêu nước mãnh l1ệt hơn, và tự hào hơn, khi sự đe dọa của một nước thù địch làm nổi lên một cơn bão lửa trên tổ quốc, và con thấy khắp nơi những thanh niên giương cao vũ khí, những người cha ôm hôn con và nói: “Dũng cảm lên”, và những bà mẹ vui vẻ tiễn đưa quân đội lên đường với lời chúc: “Hãy chiến thắng!”. Con sẽ cảm thấy lòng yêu nước như một niềm vui thiêng liêng nếu con được hạnh phúc trông thấy những trung đoàn trở về thành'phố, quân số tiêu hao, quân sĩ kiệt lực, nhưng khóe mắt chói lọi vẻ rực rỡ của chiến thắng; con sẽ cảm thấy lòng yêu nước khi trông thấy lá cờ ba màu lỗ chỗ vết đạn; theo sau là một đoàn dài những dũng sĩ ngẩng cao đầu quấn băng, cánh tay buộc chéo vì thương tật; họđi giữa một rừng người nhiệt liệt tung hoa như mưa vào họ, gửi đến họ nào lời cầu chúc, nào những cái hôn. Enricô ạ, lúc đó con sẽ hiểu thế nào là tình yêu nước. Đó là một tình cảm vĩ đại và thiêng liêng đến mức như thế này, con ạ. Giá một ngày nào đó, bố thấy con từ một trận chiến đấu vì Tổ quốc mà trở về, bình yên vô sự, nhưng lại biết rằng con, dòng máu và là đứa con thân yêu của bố, để bảo toàn tính mạng, đã trốn tránh nguy hiểm thì bố của con, ngày nay mỗi lần con đi học về bốđón con vôi một tiếng reo vui, lúc ấy bố sẽđón con với một tiếng nấc đau đớn; bố sẽ không còn có thể yêu con được nữa, và bố sẽ chết với nhát dao găm ấy đâm vào tim.
Bố của con”