Chương 19

     ai giờ sáng, trời không trăng, tối đen như mực. Nhờ ngọn đèn đường leo lét dọc đường Võ Tánh, tôi chạy hết con đường dài mà tìm không được một chiếc xe lôi nào. Tôi đành liều đập cửa nhà chú “Đức xe lôi” trong hẻm ông Cả Đài, để xin chú đưa má tôi vô nhà thương. Khi chú còn lui cui đi tìm đôi dép, tôi phải chạy bay về nhà, dặn dò chị Thuận nhớ cho hai đưa em ăn đúng giờ để kịp đi học. Sau cùng, tôi viết mấy chữ nhờ một học trò của má trong nom giùm khi mà phải nằm nhà thương. Má tôi đau bụng, nhắm mắt, nằm rên khe khẽ, hai tay ôm chai nước nóng trên bụng, còn chai thuốc cốm trị bao tử cũng nằm lăn lóc trên giường.
Luật lệ nhà thương không cho “con nít” vô phòng khám. Tôi đành đứng chờ bên ngoài, trong bụng nóng như lửa đốt. Đầu tiên tôi giận ba tôi. Bây giờ ba ở đâu? Ba “chống Mỹ cứu nước”, bỏ mặc vợ con sống lay lắt. Trong cơn nguy ngập, tôi ước gì có ba ở cạnh má, ba sẽ biết cách xoa dịu nỗi đau đớn của má. Tôi nhớ hồi năm tuổi, tôi chơi dao rồi bị đứt tay thật sâu, thịt lòi ra, vậy mà tôi không khóc, chỉ vì ba xua thuốc đỏ lên vết thương, băng lại rồi hun lên ngón tay tôi một nụ hun dài. Nhờ nụ hun này, vết thương lành rất nhanh mà lại không có thẹo. Tôi nhớ hoài nụ hun đó. Sao bây giờ ba không ở bên cạnh má, để má khỏi cơn đau ngặt nghèo này?
Tôi đứng ngồi không yên ngoài hành lang, chỉ cách má tôi có một cái cửa, mà sao tôi thấy xa vời vợi như hai miền Nam-Bắc cách nhau con sông Bến Hải. Mỗi lần nghe tiếng má rên, tôi nôn nóng muốn nhào vô, bất chấp cả luật lệ nhà thương, nl tôi phải tự kiềm chế, không thôi người ta ghét lấy qua bịnh nhân. Tôi phải đợi một hồi rất lâu; cửa phòng mở lớn, hai cô y tá đẩy một cái giường sát, má tôi nằm trên. Vừa thấy họ, tôi hoảng hốt tưởng má tôi đã “làm sao”. Những khi định thần nhìn kỹ thấy tấm mền trắng chỉ đắp tới ngực, chớ không che kín mặt. Lúc đó tôi mới hoàn hồn. Vội chạy theo má, nắm lấy tay bà, gọi khẽ:
- Má, con nè, mà! Mà có nghe tiếng con không?
Má tôi chỉ đáp lại bằng một tiếng rên khẽ. Hai cô y tá đưa má vào một phòng khác, rồi chuyển má sang một chiếc giường nhỏ hơn, không có bánh xe. Trước khi bỏ đi, một người chỉ cái nút bấm trên tưởng, nói:
- Chỉ nhấn nút này chừng nào má đau dữ dội thôi nhen.
Tôi tự hỏi: “Con trận đau nào dữ dội như trận đau hồi khuya nữa”.
Tôi vái trời cho tôi khỏi phải dùng tới cái nút này. Họ đi đến, rồi đẩy cái giường cũ ra khỏi phòng.
Má tôi nằm thiêm thiếp, nhưng tay chân động đây không yên, miệng nói mê sảng không thành tiếng. Tôi nắm tay má, rồi nói:
- Má, má còn đau lắm không?
Má vừa rên rỉ vừa nói:
- Má sợ quá, con ơi.
Giây phút đó, tôi tưởng như cái cột trụ cuối cùng của nhà tôi trở thành một đống gạch vụn. Từ ngày bà tôi ra đi, chị em chúng tôi hoàn toàn trông cậy vào má. Má là người can đảm, chẳng bao giờ than thở, chẳng sợ bất cứ ai, vừa làm cha vừa làm mẹ, nuôi con thơ, cho ăn học nên người. Bấy giờ má nắm nhà thương, đau đớn đâu vì cơn bịnh, và lo sợ cho mạng của chính mình.
Má tôi nói, giọng khàn khàn yếu ớt:
- Con đánh dây thép cho chị Kim, chị Cương, Hải Vân hay má đau.
Hai chị của tôi mới sang được căn phố trân lầu lâu rạp hát Kim Châu. Bác Phạm Ngọc Thảo là đồng chí cũ của ba tôi, nên đã nhiệt tình giúp đã cho hai chị được nhận vào làm cho Ngân hàng quốc gia Việt Nam. Việt Cộng đã vỡ mộng về tôi, nên sau đó họ nhằm Hải Vân. Đã nhiều lần các cán bộ Việt Cộng nửa khuyên, nửa ép họ Hải Vân vô bưng đi học. “Để có một đứa con nối dõi anh Quang”, họ nói như vậy. Nhưng má tôi phản ứng ngược lại. Sau đó, má cho Hải Vân lên Sài gòn ở với hai chị Kim, Cương.
Tôi quỳ xuống đất, kề miệng, nói nhỏ bên tai má tôi:
- Má phải mạnh. Lát nữa con vô sở, xin lãnh lương sớm hơn để thuốc thang cho má.
Mắt nhắm nghiền, má đưa tay sờ soạng kiếm tay tôi, nắm chặt:
- Con phải coi sóc tiệm may, đừng để mấy chị học trò phải gánh vác hết, tội nghiệp người ta.
- Má đừng lo cái tiệm, con biết coi trong coi ngoài; con săn sóc mấy đứa nhỏ nữa, má yên làm.
Lúc đó, tôi sẵn sàng hứa bất cứ cái gì cho má tôi yên lòng. Nhưng má tôi có đòi hỏi gì nhiều đâu.
Rồi cơn đau trở lại. Người má tôi cong lại, hai đầu gối co lên ngực. Nhưng má tôi cắn môi chịu đựng, không rên rỉ. Tôi nút chuông nhiều lần; chừng năm phút sau, một cô y tá nhanh nhẹn nước vô. Có bắt mạch, rồi chích cho má tôi một mũi thuốc. Trước khi ra khỏi phòng, cô khuyên tôi đừng quá lo; sáng bác sĩ sẽ vô coi bịnh cho má.
Chỉ mấy phút sau, má tôi ngủ thiếp đi, hơi thở điều hoà. Tôi đoán người ta vừa chích thuốc giảm đau cho má. Tôi thở ra nhẹ nhõm, ngồi dựa lung vô vách tường cạnh chân giường. Tôi nhớ lại những lời dặn dò của ông ngoại lúc ông còn sống: “Các cháu phải nghe lời má, phải săn sóc má thay ông”. Chị em chúng tôi nhiều lần hứa với ông là chúng tôi sẽ vâng lời. Nhưng giờ tôi muốn nói lại với ông: “Ngoại ơi, bây giờ chỉ có ông trời mới giúp được nổi má cháu thôi!
Ngày xưa mỗi lần đi công tác xa, ba tôi dặn anh Khôi, chị Kim, chị Cương phải “săn sóc má cho tới ngày ba đi công tác về”. Bấy giờ, chỉ có mình tôi với má, tôi biết làm sao đây?
Hừng sáng hôm sau, dưới đường Bã Đậu, tiếng xe cộ qua lại tấp nập, ồn ào; tiếng người vùng lên cũng không đánh thức má tôi dậy được. Đến giờ làm việc, tôi phải xuống văn phòng làm tờ nhập viện cho má. Trước khi rồi khỏi phòng, tôi đưa cái tay lên mũi má nghe ngóng. Tôi mừng khi thấy má thở đều. Tôi an tâm ra đi. Tôi không tới văn phòng bịnh viện ngay, đến bà bạn học cũ của má tôi, hiện đang làm y tá ở đây. Trong khi đau ốm phải vào nhà thương, mà có bạn làm y tá, còn hay hơn có bạn làm tổng thống. Tôi đi thẳng tới nơi làm việc của cô Tám Quan, y tá trưởng. Khi biết má tôi mới nhập viện đêm qua, có hứa lo hết mọi việc cho má tôi.
Tôi an tâm chạy ra bưu điện gởi điện tín cho hai chị tôi. Từ khi các chị xa gia đình, tôi gởi điện tín hai lần, hai lần đều báo hung tin hết. Lần thứ nhứt, ông ngoại tôi qua đời. Lần thứ hai bà tôi ốn nặng, sắp mất. Lần này là lần thứ ba, báo tin má tôi nằm bệnh viện. Chắc chắn sẽ làm hai chị lo lắm. Tôi viết: “Má đau nặng, tụi em cần hai chị về gấp”
Chị Kim, chị Cương và Hải Vân về tới Cần Thơ chiều hôm sau. Hai chị và em của tôi đâu có biết họ là vị cứu tinh của tôi trong những ngày đó. Mấy tháng trước, một người quen của má tôi bị xuất huyết trong bao tử, tưởng là không có gì quan trọng, ai dè mấy tháng sau bà chết. Khi má tôi bị đau bao tử, cái chết của bà ám ảnh tôi hoài, suốt ngày đêm, nhưng tôi không dám cho ai biết, sợ bị quở là nghĩ bậy. Trong khi đó, Hoà Bình cứ đòi nó và Minh Tâm vô thăm má, nhưng tôi sợ hai đứa còn nhỏ quá, thấy má đau lại vô tình nói những lời xui xẻo. Nhưng tôi không cho vô, hai đứa lại càng nghi ngờ má đã chết rồi. Đã làm chị, tôi phải bình tĩnh và can đảm để làm gương cho lũ em, nhưng tôi cũng lúng túng, yếu mềm như con mèo ướt. Trong hai ngày vừa qua, mỗi lần thấy hai đứa nhỏ khóc, tôi lại bí mật đi chỗ khác để giấu nước mắt. Mỗi lần hai đứa nhỏ hỏi: “Má chết phải không không chị?”, tôi nghẹn ngào không biết trả lời ra sao. Mà chính những câu hỏi đó cũng thỉnh thoảng hiện ra trong óc tôi. Hoà Bình khóc hoài, rồi không chịu đi học.
Khi hai chị tôi về, mọi việc được thu xếp tạm ổn định. Hoà Bình buông tôi ra mà đeo theo chị Kim, vì chị là thần tượng của nó thuở nhỏ. Chị Cương kiên nhẫn, dịu dàng với Minh Tâm, nó vui lên mà tạm quên má. Tối hôm đó, hai chị ở nhà em, tôi vô nhà thương mướn cái ghế bộ để ngủ cạnh má. Vì tôi không có kinh nghiệm gì về việc nuôi người bịnh, cách làm của bác sĩ và y tá trong nhà thương. Có Tám Quan cho biết má tôi có sạn ở một. Họ cho má tôi uống thuốc giảm đau bao tử, và đã lấy máu để thử nghiệm. Bao giờ có kết quả mới biết chắc bịnh gì. Có Tám Quan kề tai tôi nói nhỏ:
- Yên tâm. Cô có đây, người ta săn sóc má con chu đáo lắm. Má con có bể gì, khi ba con về ông bắt thường cô thì cô chết!
Đêm thứ tư trong nhà thương, má tôi ngủ yên nhứt, không còn nghe tiếng rên rỉ nữa. Còn tôi thì cũng mệt quá nên ngủ như chết. Đến nửa đêm mà tôi kéo áo đánh thức tôi dậy, rồi vừa cười vừa nói:
- Đức Mẹ nói mà sẽ hết bịnh con ơi. Đức Mẹ để tay lên bụng má, rồi chỗ đau biến mất.
Má tôi chỉ tay lên tường, nơi có treo hình Đức Mẹ Maria, mấy hôm này tôi không để ý. Tôi ngái ngủ, nói:
- Con mong chiêm bao của má thành thiột.
Má tôi có giọng tin tưởng, đáp:
- Thiệt con ạ. Không phải chiêm bao đâu.
Sáng hôm sau, tôi không đi mà chạy xuống cầu thang, nhảy lên xe lôi, về nhà báo tin lành cho gia đình biết, đặc biệt là hai chị Kim. chị Cương, vì từ lâu hai chị đặt hết lòng tin vào Đức mẹ Maria. Khi tôi kể xong, hai chị liền quỳ xuống, làm dấu thánh và đọc kinh Kinh Mừng.
Bác sĩ nói rằng má tôi hết bịnh là một sự “mầu nhiệm”, chính ông cũng không hiểu tại sao. Má tôi phải nằm thên hai ngày nữa mới được về nhà. Trước khi rời phòng, má tôi bước tới vách tường để tay lên hình Đức Mẹ, rồi nói:
- Cảm ơn Đức Mẹ.
Hai chị tôi đồng tình nhìn nhau.