Chương 6
Trí thức và dân chủ tại Việt Nam trong thế kỷ XX
Từ Phan Châu Trinh, Hoàng Đạo đến Nhân Văn Giai Phẩm

     hững bài viết chủ yếu in trên NVGP gồm hai loại: Loạt bài chính luận trực tiếp định hướng tư tưởng của các nhà trí thức và loạt bài sáng tác dấn thân nói lên khát vọng tự do của các văn nghệ sĩ. Hai thể loại này đan cài và bổ sung cho nhau, tạo nên làn sóng đấu tranh toàn diện cho tự do dân chủ và tự do tư tưởng. Trí thức trong vị trí dẫn đường, được xếp vào loại A. Văn nghệ sĩ, ít "nguy hiểm" hơn, được xếp vào loại B135.
Vì trí thức và dân chủ là hai trục chính trong cuộc đấu tranh: trí thức dẫn đường và dân chủ là mục đích, cho nên trước khi phân tích nội dung tranh đấu của phong trào NVGP, ta cần tìm hiểu mối tương quan giữa trí thức và dân chủ ở Việt Nam trước và trong thời kỳ NVGP. Nguyễn Mạnh Tường là nhà trí thức duy nhất trong thời kỳ NVGP, đã để lại những trang viết mà ngày nay ta có thể dựa vào như những tư liệu chính trị, xã hội, phản ảnh vai trò của người trí thức trong giai đoạn đấu tranh cho tự do dân chủ những năm 50 ở miền Bắc và hiểu được tại sao chế độ cộng sản lại "căm thù" trí thức và loại trừ trí thức.
● Phan Châu Trinh và dân trị chủ nghiã
Khái niệm tự do dân chủ phát xuất từ Tây phương. Nhưng tự do dân chủ không xa lạ gì với người Việt, bởi, nói như Hoàng Đạo: "Khái niệm tự do dân chủ đã theo chiến hạm Pháp nhập vào nước ta từ cuối thế kỷ XIX". Đối với những nhà cách mạng Tây học đầu thế kỷ XX đã dùng tiếng Pháp để chống Pháp trên báo ở Pháp và ở Việt Nam, như Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh... tự do dân chủ là điều kiện hiển nhiên và tất yếu của con người, thu nhận trực tiếp qua giáo dục học đường.
Nhưng đối với những nhà nho, tự do dân chủ, phải đi vòng qua tân thư, là những sách mà trí thức Trung Hoa như Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu... đã dịch Montesquieu, J.J. Rousseau... ra chữ Hán. Phan Châu Trinh, một trong những nhà nho chủ trương phong trào Duy Tân, đã tiên phong bàn về dân chủ. Sau 14 năm ở Pháp về, cuối năm 1925, ông diễn thuyết tại Hội Thanh Niên Sài Gòn, đề tài Quân trị chủ nghiã và dân trị chủ nghiã, luận văn cơ bản phân biệt quân chủ và dân chủ, cho một dân tộc chưa thoát vòng nô lệ.
Việt Nam đầu thế kỷ XX, trình độ dân trí còn kém, Phan Châu Trinh chỉ cắt nghiã ngắn gọn: dân trị là cứ bảy năm người dân bàu lại ông Giám Quốc (Tổng Thống) một lần, còn quân chủ, vua là cha truyền con nối. Dân trị có nghị viện do dân bàu lên, giữ quyền lập pháp. Quyền hành pháp giao cho quan tòa, thuộc ngành tư pháp, ở trong chính quyền nhưng có vị trí độc lập. Và ông kết luận: "Nói tóm lại, dân trị tức là pháp trị. Quyền hạn và bổn phận của mỗi người trong nước, bất kỳ người làm việc nhà nước hay là người thường, đều có pháp luật chỉ định rõ ràng, không khác gì là đã có đường gạch sẵn, cứ trong đường ấy mà đi, tự do muốn bước tới bao nhiêu cũng được, không ai ngăn trở cả. Chỉ trừ khi nào xâm lấn đến quyền hạn của người khác thì không được mà thôi"136.
Sự giáo dục dân chủ cho một quần chúng sống dưới thời phong kiến và nô lệ, được Phan Châu Trinh đề ra từ năm 1925. Hơn mười năm sau, Hoàng Đạo, nhà văn kiêm luật gia, tiếp tục việc giáo dục quyền công dân, quyền làm người trên báo Ngày Nay, sử dụng quyền tự do dân chủ để tranh đấu với người Pháp và hướng dẫn dân tộc.
● Hoàng Đạo và dân chủ
Hoàng Đạo Nguyễn Tường Long, em Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, là một trong những người lãnh đạo Quốc Dân Đảng và là nhà văn Việt Nam đầu tiên sử dụng quyền tự do dân chủ một cách có hệ thống để chống lại thực dân Pháp và giáo dục dân tộc về nhân quyền.
Sau này, Nguyễn Mạnh Tường xác định: những người xuất thân trường Luật của Pháp là những người chống Pháp một cách mãnh liệt và có hiệu quả. Điều này thực không sai nếu ta điểm qua những nhà cách mạng: Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh qua bút hiệu chung Nguyễn Ái Quốc, họ đã viết những bài báo tiếng Pháp, thập niên 1920 ở Paris, rồi đến Nguyễn Tường Long, Nguyễn Mạnh Tường sau này, đều là những người đã học luật.
Hoàng Đạo đỗ vào trường Luật Đông Dương Hà Nội, năm 1924 và tốt nghiệp năm 1927. Từ 1933, trên Phong Hoá, dưới bút hiệu Tứ Ly, ông đã viết những bài châm biếm đả kích toàn bộ hệ thống quan lại của chính quyền thuộc địa và bài trừ hủ tục trong xã hội Việt Nam. Trên báo Ngày Nay, từ 1937 đến 1939, ông hoàn tất những hồ sơ lớn về Vấn đề thuộc địa, Vấn đề cần lao, Công dân giáo dục, nội dung phê phán chính quyền thực dân, chỉ trích sự vi phạm nhân quyền trong chính sách đánh chiếm thuộc địa của người da trắng, chỉ trích sự vi phạm luật lao động trong chính sách mộ phu và cổ động việc giáo dục công dân về dân quyền và nhân quyền. Loạt bài này căn bản dựa trên tự do dân chủ, quyền làm người, luật lao động, quyền công dân, thoát thai từ tinh thần cách mạng 1789 của Pháp.
Với người Pháp yêu chuộng tự do dân chủ, Hoàng Đạo gửi tới họ những khát vọng của dân Việt: "Người Nam chỉ ao ước một điều: là được những sự tự do của nền dân chủ và được dần dà coi ngó, đảm đang lấy việc công trong nước của họ. Ngày nào dân Annam có quyền, trong sự tự do, tự kén chọn lấy những người cầm quyền cai trị họ, ngày ấy nguyện vọng của người Nam đã đạt được nhiều rồi vậy137".
Kết tội chính sách thuộc địa dãời.
● Bộ Chính Trị gặp ba người chủ chốt khuyên nên bỏ ý định ra báo
Hoàng Cầm kể trên RFI: "Trước khi ra báo thì các anh em đã rậm rịch nói với nhau rồi, cho nên tin tức đều đến tai lãnh đạo cả. Thì lãnh đạo, tức là Bộ Chính Trị, đã bố trí cho  ông Võ Nguyên Giáp mời Nguyễn Hữu Đang lên nói chuyện, mời riêng đấy. Còn ông Lê Đức Thọ, lúc bấy giờ cũng là Bộ Chính Trị, thì mời Lê Đạt và ông Lê Liêm lúc bấy giờ là Tổng Cục Phó Tổng Cục Chính Trị (về sau này ông ấy mới chuyển sang làm Thứ trưởng Bộ Giáo Dục), thì mời tôi. Như vậy là ba ông ủy viên bộ chính trị gặp những người chủ chốt của Nhân Văn, và nếu mà ba ông ấy thuyết phục được ba người đó đừng ra báo, thì thôi, coi như là yên ổn cả, không có chuyện gì. Ông Lê Liêm gặp tôi đến ba buổi tối trong nhà khách của quân đội, ông Giáp thì gặp anh Đang, ông Lê Đức Thọ gặp anh Lê Đạt, tất nhiên là để nói đến chuyện ra tờ báo, thì họ cũng lấy tình đồng chí, tình bạn bè, khuyên bảo, chứ không phải để ra lệnh gì. Ông Lê Liêm gặp tôi rất khiêm tốn, nói hết những cái Đảng có thể có những sai lầm này, sai lầm khác v.v... trong việc lãnh đạo văn nghệ. Tự ông ấy nói ra để cho mình hiểu và yên tâm là Đảng cũng biết đấy, để Đảng sửa dần, để cho mình muốn nói cái gì về Đảng trên tờ báo của mình thì mình rút đi, rút lui cái ý kiến trên báo ấy đi. Mục đích của những cuộc gặp đó là như thế. Khổ một nỗi là lúc bấy giờ những "thắc mắc" của anh em văn nghệ nó ồn ã lắm. Mà nó nhiều cái sâu sắc lắm, cho nên anh Đang anh ấy kiên quyết là không, cứ phải ra báo, phải ra báo thì mới nói được. Anh Đang kiên quyết ra báo. Tôi thì ra cũng được mà không ra cũng được. Thế là trong nội bộ của mấy anh em hoạt động nhất trong báo Nhân Văn là Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt và tôi cùng thống nhất với nhau là cứ ra. Thế là ra được Nhân Văn số 197".
● Mời Phan Khôi làm chủ nhiệm Trần Duy làm thư ký toà soạn
Việc mời Phan Khôi do Nguyễn Hữu Đang nghĩ ra. Lê Đạt kể: "Ðang bảo: Hay là mời cụ Phan Khôi? Mà cụ Phan Khôi cũng lại không thân gì với Ðang lắm. Thế là anh Hoàng Cầm được cử đến mời cụ Phan Khôi. Phan Khôi khẳng khái nhận lời ngay"98.
Việc mời Trần Duy có hai ý kiến khác nhau, Trần Duy, nói trên RFI:
"Tôi không biết Trần Dần, tôi cũng không biết Hoàng Cầm. Mãi sau buổi họp ở 51 Trần Hưng Đạo, đưa bài Nhất định thắng của Trần Dần -hôm đó là cuộc hội rất lớn- kết tội bài đó99. Tôi với ông Phan Khôi ngồi gần nhau (...) Người ta quy rằng Trần Dần như thế là ngã về địch, bị gián điệp (...). Ông Phan Khôi nói với tôi: Quy cho người ta là gián điệp, là chính trị, nhanh quá, rất nguy hiểm (...). Vì thế tôi không quen biết những người này nhưng vì ông Phan Khôi, tôi đứng trên quan điểm của ông Phan Khôi, tôi rất ủng hộ ông Trần Dần mà tôi không biết ông Trần Dần là ai cả. Tôi cũng không biết ông Hoàng Cầm. Tôi biết anh Lê Đạt vì tôi cùng về báo Văn Nghệ (...) Do ông Phan Khôi tôi biết nhóm Lê Đạt và Trần Dần100".
Cũng về việc này, Hoàng Cầm viết trong bài "thú nhận", như sau:
"Chỉ có việc Nguyễn Hữu Đang mời tôi làm thư ký toà soạn là tôi không nhận, lý do chỉ vì sợ trách nhiệm, muốn đùn trách nhiệm cho người khác. Tôi đã đùn cho Trần Duy trong một buổi tình cờ gặp Trần Duy ở nhà Minh Đức. Tôi gọi nó lên gác nhà tên Đang, giới thiệu nó với tên Đang. Trần Duy nhận lời ngay101".
● Ai quyết định nội dung bài vở báo Nhân Văn?
Trong bài "thú nhận", Lê Đạt viết: "Tôi tham gia Nhân Văn với ý thức là người lãnh đạo lý luận của tờ báo vì tôi cho tôi vững vàng hơn Nguyễn Hữu Đang. Ban biên tập lúc đó gồm bốn người: Nguyễn Hữu Đang, Trần Duy, Hoàng Cầm và tôi102".
Vậy trong bốn người: Nguyễn Hữu Đang, Trần Duy, Hoàng Cầm và Lê Đạt, ai quyết định nội dung tờ báo?
Trần Duy trả lời trên RFI:
"Tất cả bài vở là do Đang và Đạt quyết định và bài vở tập hợp vào tôi, khi thiếu bài hoặc mise mà không có thì bảo tôi làm cái remplissage lấp lỗ trống hoặc thu dọn bài này, bài nọ, trang mấy, trang mấy có tranh, thì bảo tôi làm. Sự thật ra quyết định bài vở phần lớn là Đang, quyết định nội dung bài là Đạt. Còn thầy cò thầy kiện là ông Văn Cao. Ông Trần Dần, ông Hoàng Cầm là đứng sau lưng. Người chủ động và trực tiếp với tôi là Lê Đạt, người chủ động bài vở là ông Nguyễn Hữu Đang. Tất nhiên là tôi không quyết định được bài vở rồi, nhưng có bài nào cần thiết thì Lê Đạt bảo: Ông viết đi, vấn đề này ông viết được, ông viết hộ tôi, ví dụ như tự do sáng tác hay là gì đó thì ông cứ viết, ông lại hơi có cái giọng humour thì ông làm cho tôi... không phải chuyện cười, những chuyện thời sự ông đi góp nhặt các nơi. Thì tôi phụ trách mục đó và tôi đề TD, là Trần Duy đó. Sau khi mise những bài chính rồi thì tôi là người lấp remplissage phần còn lại của tờ báo. Sự thực ra người ta không bao giờ hỏi ông Phan Khôi về một cái gì cả103".
Vẫn theo lời Trần Duy, Lê Đạt và Nguyễn Hữu Đang thường hay cãi nhau. Vậy sự bất đồng ý kiến đó là gì? Có phải về mục tiêu đấu tranh, hay là điều gì khác?
Lê Đạt viết trong bài "thú nhận":
"Về mục tiêu đấu tranh của Nhân Văn: Một mặt, lật đổ bộ phận lãnh đạo mà tôi cho là bè phái (đồng chí Tố Hữu, Hoài Thanh, Nguyễn Đình Thi), một mặt nữa đấu tranh với Trung ương về tự do dân chủ, tôi tán thành nhưng vẫn muốn đấu tranh bằng hình thức văn nghệ. Lúc đó tôi có khuyên Hoàng Cầm nên đẩy mạnh mặt văn nghệ của tờ báo còn phần đấu tranh cho tự do dân chủ thì làm một phần nhẹ thôi". "Xét cho cùng lúc đầu tôi với Nguyễn Hữu Đang chỉ khác nhau về chiến thuật. Tuy không tham gia biên tập nhưng khi in số 1 thỉnh thoảng tôi cũng có đến104".
- Nhân Văn số 1, ra ngày 20/9/56, gồm các bài chính: Bài thơ Nhân câu chuyện mấy người tự tử của Lê Đạt, bài Tiến tới xét lại một vụ án văn học: Con người Trần Dần của Hoàng Cầm, bức tranh Nguyễn Sáng vẽ Trần Dần với vết s man của Anh, Tây Ban Nha, Hoàng Đạo cho người Pháp biết rằng chính sách thuộc địa của họ là bất hợp pháp và nếu họ không thay đổi chính sách cai trị thì người Việt sẽ nổi lên chống lại.
Loạt bài Vấn đề thuộc địa, tổng hợp những lý luận chặt chẽ, kiến thức uyên bác, tầm nhìn rộng về thế giới bên ngoài, về lịch sử chinh phục thuộc địa, về sự tiến hoá của luật pháp.
Trong bức thư ngỏ gửi cựu toàn quyền Varenne, về chỉ dụ báo chí 4/10/1927, Hoàng Đạo viết: "Tôi không cần phải nhắc lại rằng đạo chỉ dụ ấy đã bắt các báo chí ở đây 138 phải xin phép mới được xuất bản và phép cho xuất bản chính phủ muốn thu về lúc nào cũng được. Tôi không cần phải nói đến tệ hại của chế độ ấy, tôi đã nói nhiều rồi (...)
Muốn rửa sạch cái tiếng không hay đã đem tên ông đặt vào cái chỉ dụ 1927, ông chỉ còn có một phương pháp, là đem hết tài lực của ông mà xin hủy bỏ cái chế độ không hợp với trình độ của dân tộc Việt Nam ấy đi, để chúng tôi được hưởng một chút tự do, một chút quyền lợi về chính trị mà ông bảo phải đi đôi với công việc giáo hoá139".
Hoàng Đạo không chỉ đòi tự do dân chủ cho người Việt, mà ông đòi hỏi tự do, dân chủ, nhân quyền cho toàn bộ những dân tộc bị trị trên thế giới. Khi đối đầu với Pháp, ông luôn giữ thái độ bình đẳng của người đòi hỏi người, của một dân tộc đòi hỏi một dân tộc khác. Ông khẩn thiết yêu cầu nước Pháp, một nước tự nhận là quê hương, là nguồn cội của Nhân Quyền, hãy áp dụng cái Nhân Quyền ấy ở Việt Nam.
Loạt bài Vấn đề cần lao, phản đối tình trạng người lao động bị bóc lột ở Việt Nam nói riêng và người bóc lột người ở thời đại kỹ nghệ phát triển nói chung, Hoàng Đạo viết:
"Người ta đem phủ một lượt tro lên sự đốn mạt người bóc lột người. Người ta đem những danh hiệu mới, như tờ cam đoan, tờ giao kèo, lao công cưỡng bách, để che đậy sự thực140".
Ông phân tích và đứng trên bình diện luật pháp để phê phán những bất cập, phạm pháp trong các chế độ: Lao công cưỡng bách (mộ phu đi rừng cao-su), luật xã hội, luật lao động, vấn đề thanh tra và nghiệp đoàn...
Loạt bài Công dân giáo dục nhắm vào sự giáo dục dân chủ, giải thích cho người Việt hiểu quyền lợi và trách nhiệm của người công dân trong một nước dân chủ, khác với bổn phận một thần dân dưới thời phong kiến: Muốn được tự do, dân chủ, người dân trước hết phải tự ý thức được cái giá phải trả cho tự do, dân chủ, tức là phải ý thức được sự trưởng thành, độc lập của mình, phải hiểu quyền công dân trách nhiệm của người công dân.
Hoàng Đạo viết: "Ý tưởng công dân là một ý tưởng mới. Cùng với những ý tưởng khác, có sức mạnh vô cùng, ý tưởng tự do bình đẳng, nhân đạo, công lý, ý tưởng công dân vì một tình cờ trong lịch sử đã theo chiến hạm Pháp nhập vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ trước141".
Trong loạt bài này, Hoàng Đạo giải thích rõ ràng các khái niệm mấu chốt: hiến pháp, nhân quyền, tự do, ý nghiã cuộc cách mệnh Pháp, tự do cá nhân, tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do lập hội, tự do chính trị.
Tóm lại, khái niệm tự do dân chủ đã truyền vào Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX, với đoàn quân viễn chinh Pháp, và được mở rộng, dưới thời Pháp thuộc, qua ngả học đường, phát sinh một lớp trí thức tân học, đấu tranh cho dân chủ bằng ngòi bút, và một lớp văn nghệ sĩ mới, sáng tác tự do, xây dựng nền văn học quốc ngữ.
Hoàng Đạo là ngòi bút duy nhất trong thập niên 1930- 1940, không những đã đấu tranh cho dân chủ, đòi độc lập với Pháp mà còn giáo dục dân tộc Việt Nam về dân chủ một cách sâu sắc và toàn diện.
● Nhân Văn Giai Phẩm và dân chủ
Sau 1954, Nguyễn Hữu Đang đặt trọng tâm tranh đấu tự do dân chủ trên báo Nhân Văn. Trong ba số đầu, ông phỏng vấn ba nhà trí thức danh tiếng, không thuộc nhóm Nhân Văn: Nguyễn Mạnh Tường, Đào Duy Anh và Đặng Văn Ngữ về vấn đề mở rộng tự do dân chủ, với hai câu hỏi:
1- Theo ý ông, lúc này giới trí thức nói chung và giới văn nghệ nói riêng, cần phải làm những gì để góp phần thực hiện mở rộng tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do nghiên cứu và sáng tác?
2- Theo ý ông và trên cơ sở nhu cầu phát triển của ngành ông thì chúng ta cần phải đem ra thảo luận rộng rãi những vấn đề gì?
Trả lời hai câu hỏi này, Nguyễn Mạnh Tường đưa ra hai nguyên do thiếu dân chủ: Đảng viên và cán bộ thiếu tinh thần dân chủ và quần chúng chưa thấm nhuần tinh thần dân chủ. Sở dĩ như thế là vì trong kháng chiến, mọi cố gắng phải dồn vào chiến tranh, "quần chúng nghĩ rằng chưa phải lúc đòi hỏi các tự do dân chủ". Nhưng khi hòa bình rồi, thì vấn đề đòi hỏi tự do dân chủ phải là tất yếu. Riêng ngành đại học cần hai nguyên tắc dân chủ: "Tác phong của cấp lãnh đạo phải thật sự dân chủ" "việc lựa chọn cán bộ phải dựa vào tiêu chuẩn chuyên môn là chính".
Đặng Văn Ngữ trả lời: "Dưới một chế độ độc tài không ai dám chỉ trích chính phủ thì còn đâu mà thấy khuyết điểm về tự do dân chủ?" Và ông xác định nhiệm vụ của người trí thức: "Trong việc xây dựng tư tưởng tự do và dân chủ, nhiệm vụ chính phải là của trí thức". Nhưng ông cũng nhận thấy sự "thiếu tự do tư tưởng, thiếu dũng cảm" của người trí thức: "Trí thức ở một cương vị thuận lợi và có đủ nhận thức để nhận thấy lãnh đạo có sai lầm, và thực tế là trí thức của ta đã nhận thấy từ lâu một số sai lầm của lãnh đạo. Nhưng trí thức của ta đã thiếu tự do tư tưởng, thiếu dũng cảm nên không dám phê bình xây dựng". Đặng Văn Ngữ kết luận: "Để phát triển bất kỳ một ngành nào, vấn đề cần phải đưa ra thảo luận là vấn đề tự do dân chủ".
Đào Duy Anh trả lời: Những kẻ thù của tự do, người ta đều biết cả. Đó là những tệ nạn quan liêu, mệnh lệnh, độc đoán, bè phái, những bệnh giáo điều, công thức, sùng bái cá nhân, ngang nhiên trong công tác lãnh đạo văn nghệ và học thuật và cả giới trí thức nữa. Muốn thực hiện tự do dân chủ, thì "giới trí thức là những người thiết tha nhất đối với các thứ tự do ấy chỉ có một cách là đấu tranh. Đấu tranh trong công tác chuyên môn, đấu tranh trong hoạt động xã hội. Đấu tranh bằng hoạt động phê bình, phản phê bình, tự phê bình."
Sự đấu tranh của trí thức không thể là đấu tranh chung chung mà phải có mục đích thực tiễn ở mỗi ngành. Đào Duy Anh viết: "Không ai ngăn cấm anh tự do nghiên cứu, sáng tác, nhưng nếu anh không có phương tiện nghiên cứu sáng tác thì thực tế anh chẳng có quyền đâu. Không ai ngăn cấm anh tự do ngôn luận, nhưng nếu anh không có phương tiện để in sách báo thì thực tế anh cũng chẳng có quyền đâu". Nói cụ thể, ví dụ như trong ngành xuất bản, thì phải tranh đấu "cho tư nhân xuất bản dễ dàng, giúp đỡ việc phát hành, cho phương tiện thuận tiện để sáng tác và nghiên cứu, săn sóc sự xuất bản rộng rãi các tác phẩm văn nghệ và đặc biệt chú ý xuất bản những tác phẩm nghiên cứu khoa học." Trong đại học phải tranh đấu để đại học trở thành "một trung tâm nghiên cứu khoa học cao độ" nghiã là phải đặt tiêu chuẩn chuyên môn lên trên tiêu chuẩn chính trị trong việc lựa chọn chuyên viên.
Trên Giai Phẩm Mùa Thu, tập III, ra ngày 30/10/56, trong bài Muốn phát triển học thuật, Đào Duy Anh nêu hai căn bệnh nặng nhất trong học thuật là bệnh giáo điều và sùng bái cá nhân: "Ở nước ta thì bệnh giáo điều và sùng bái cá nhân lại còn trầm trọng hơn, khiến người ta, vô luận bàn về vấn đề gì, cũng đều phải bắt đầu dẫn những đề án của Mác- Ăng-ghen và Lê-nin, hoặc những ý kiến của Sta-lin hay các lãnh tụ khác, để, hoặc phát triển thêm những ý kiến ấy, hoặc gò bó tài liệu, xoay sở thế nào để gán vào khuôn khổ của những công thức rút ra tự những ý kiến ấy (...) Bệnh giáo điều và sùng bái cá nhân lại dẫn thẳng đến cái tệ tư tưởng độc tôn: hễ thấy ai có ý kiến gì vượt ra ngoài những công thức cũ, những khuôn khổ sẵn có thì người ta chụp ngay cho những cái mũ dễ sợ, như cái danh hiệu cải biến chủ nghĩa chẳng hạn, những mũ như thế rất dễ bịt mồm bịt miệng người ta.
Tư tưởng không tự do thì không thể tự do thảo luận được. Mặc dầu không ai cấm tranh luận - các nhà lãnh đạo vẫn thường nói nên mở rộng tranh luận nhưng trong thực tế thì sự thảo luận đã bị thủ tiêu từ gốc rồi. Nghiên cứu hay nghị luận một vấn đề gì, nhiều người chỉ nơm nớp sợ không khéo thì chệch ra ngoài đường lối tư tưởng chính thống độc tôn. Đối với những người ấy, công tác học thuật trở thành trò xiếc leo dây. Con đường học thuật phải là con đường cái thênh thang mọi người tự do đi lại, chứ không phải sợi dây căng của người làm xiếc. Phải trừ bỏ những bệnh giáo điều và sùng bái cá nhân để trả lại tự do cho học thuật".
Trên Giai Phẩm Mùa Thu, tập I, ra ngày 30/8/56, bài Phê bình lãnh đạo văn nghệ đi tiên phong như ngọn đuốc dẫn đường, Phan Khôi "hỏi tội" lãnh đạo. Ngoài ra, còn có truyện ngắn Tiếng sáo tiền kiếp của Trần Duy, một trong những truyện ngắn hay nhất thời NVGP, nói lên sự bất lực của chính sách tẩy não: không ai có thể tịch thu quá khứ con người. Bức thư gửi một người bạn cũ của Trần Lê Văn mô tả một chân dung bồi bút. Bài thơ Tỉnh giấc chiêm bao của Nguyễn Bính thuật lại sự thức tỉnh của một nghệ sĩ sau 9 năm theo cách mạng.
Trên Nhân Văn số 1 ra ngày 30/9/56, Nhân câu chuyện mấy người tự tử của Lê Đạt là một bài xã luận bằng thơ đả phá chế độ công an trị. Bài Con người Trần Dần của Hoàng Cầm kể lại bi kịch của một nhà thơ trẻ, chỉ in có một bài thơ trên báo với nội dung yêu nước, mà bị bắt đi trong một bối cảnh tăm tối, không biết bị giam giữ ở đâu, có thể bị thủ tiêu; đó là một bản cáo trạng thống thiết về tình trạng bắt bớ giam người trái phép, vô luật pháp. Tranh Nguyễn Sáng khắc lại hậu quả của sự khủng bố trên con người Trần Dần.
Giai Phẩm Mùa Thu, tập II, ra cùng ngày với Nhân Văn số 1, có các bài: Bệnh sùng bái cá nhân trong giới lãnh đạo văn nghệ của Trương Tửu, Ông Bình Vôi của Phan Khôi, Những người khổng lồ của Trần Duy, Thơ cái chổi - Chống tham ô lãng phí của Phùng Quán, Cũng những thằng nịnh hót của Hữu Loan, Em bé lên sáu tuổi của Hoàng Cầm, Cuốn sổ tay của Lê Đại Thanh,... Đây là số báo mạnh mẽ nhất từ trước đến giờ về mặt chống đối chế độ.
Trên Nhân Văn số 3 ra ngày 15/10/1956, Trần Đức Thảo trong bài Nỗ lực phát triển dân chủ, nhấn mạnh đến sự tự do của người trí thức: "Người trí thức hoạt động văn hoá, cần tự do như khí trời để thở. Có tự do mới đẩy mạnh được sáng tác văn nghệ, nghiên cứu khoa học, cải tiến kỹ thuật. Phát triển tự do là nhu cầu thiết thân đồng thời cũng là nhiệm vụ số 1 của người trí thức cũng như của toàn dân".
Trên Nhân Văn số 4, ra ngày 5/11/1956, Nguyễn Hữu Đang viết bài Cần phải chính quy hơn nữa, đặt vần đề xây dựng một nhà nước pháp trị. Phùng Cung trong Con ngựa già của chúa Trịnh dùng hình ảnh con ngựa già để chỉ những văn nghệ sĩ phục vụ đảng cũng giống như con ngựa của nhà Chúa, quen thói tôi đòi, vinh thân phì gia, mất hết mọi khả năng sáng tạo. Văn Cao trong Những ngày báo hiệu mùa xuân, lại một lần nữa chỉ bọn nịnh thần mà mắng.
Nhân Văn số 5, ra ngày 20/11/1956, trong bài Hiến pháp Việt Nam 1946 và Hiến pháp Trung Hoa bảo đảm tự do dân chủ thế nào? Nguyễn Hữu Đang nhắc lại điều 10 của Hiến pháp 1946: Công dân Việt Nam có quyền Tự do ngôn luận - Tự do xuất bản - Tự do tổ chức hội họp - Tự do cư trú, đi lại trong nước và ngoài nước và điều 11: Tư pháp chưa quyết định thì không được bắt bớ và giam cầm người công dân Việt Nam. Nhà ở và thư từ của công dân Việt Nam không ai được xâm phạm một cách trái pháp luật. Trong Bài học Ba-Lan và Hun-ga-ri ký tên Người Quan Sát, Lê Đạt cảnh báo: Nếu muốn tránh một biến cố như biến độnay gắt hơn: Thế nào, đồng chí Văn Cao cũng ủng hộ Nhân Văn à? - Thế mày có trả lời gì không? Tao bảo: Vâng, tôi ủng hộ họ vì tôi nghĩ họ tốt. Còn Nguyễn Huy Tưởng thì bị ông ấy xát xà phòng: Anh Tưởng, anh là đảng viên mà anh để cho chúng nó chửi Đảng như thế mà anh ngồi yên được à? Nguyễn Huy Tưởng chỉ ngồi yên, bình tĩnh, nét mặt không thay đổi, không trả lời gì cả".116
Lời khai của Lê Đạt, Trần Dần và lời thuật của Hoàng Cầm chứng tỏ, nhóm NVGP và một số văn nghệ sĩ, đối diện với Trường Chinh, trong tọa đàm tháng 10/56, có vẻ không sợ hãi gì cả. Trường Chinh để họ thoải mái chống đối, chỉ lặng lẽ ghi. Ông ra lệnh không được tường thuật vụ tọa đàm, nhưng Nhân Văn làm ngược lại, viết hai bài rất mạnh trên số 4 về tọa đàm. Hai bài này đánh dấu không khí căng thẳng giữa lãnh tụ và các văn nghệ sĩ tự do và ngôn ngữ mạnh bạo trên tờ Nhân Văn. Bài Sự thật về vụ xúc phạm thi sĩ Nguyễn Bính và báo Trăm Hoa, ký tên Người Quan Sát, mở đầu như sau:
"Bước đầu để thực hiện quyết định của Hội nghị lần thứ 10 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Tăng cường bảo đảm quyền tự do của nhân dân và trừng trị kịp thời, đúng mức những hành động vi phạm pháp luật. Chúng tôi đề nghị có những biện pháp thích đáng trừng trị Nguyễn Văn Tố tức Thiết Vũ trong việc hành hung chủ nhiệm báo Trăm hoa. Sở báo chí Trung ương phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về việc này".
Và Người Quan Sát tường thuật vụ việc như sau:
"Theo lời ông Nguyễn Bính chính thức báo cáo trong hai buổi tọa đàm của đại diện Trung ương Đảng Lao động, thì trước khi báo Trăm Hoa mới ra số 1117, Nguyễn Văn Tố tức Thiết Vũ, cán bộ của Sở báo chí, đến đưa cho ông 2 bài đả kích báo Nhân Văn, rồi yêu cầu đăng và đồng thời cũng mập mờ lấy danh nghiã cơ quan hứa hẹn cấp giấy rẻ cho báo Trăm Hoa thừa hai "ram"118 để in, không hết sẽ bán theo giá thị trường (rất cao) mà tiêu dùng. Ông Nguyễn Bính không từ chối ngay việc mua đó, nhưng cũng không đăng hai bài báo kia, lấy cớ là không hay. Sau đó báo Trăm Hoa xin cấp giấy cho số 2, thì bị Sở (...) Trung ương Đảng trong buổi tọa đàm ngày 20/10119.
Thế là chiều hôm thứ hai 21/10, Nguyễn Văn Tố đến trụ sở báo Trăm Hoa, vẫn lấy danh nghĩa Sở Báo Chí, mà chất vấn ông Bính về chuyện báo cáo hôm qua rồi dùng những lời thô bỉ, thậm tệ mà lăng mạ ông, lại toan hành hung ông nữa. Ông Bính phải chạy ra ngoài cửa hô hoán lên, hàng phố kéo đến, người qua đường dừng bước, thành một đám đông. Sau đó ông Bính nhờ người đi báo công an, các bạn đồng nghiệp, Hội Văn Nghệ và Sở Báo Chí. Thế rồi có cuộc thương lượng giữa ông Trần Minh Tước, giám đốc sở Báo chí và ông Bính. Kết quả chúng ta đã biết: Nguyễn Văn Tố viết một bức thư xin lỗi đăng trên báo Trăm Hoa số 2 và đến tự kiểm thảo trong một buổi họp nhân dân khu phố. Đến đây câu chuyện xoay chiều. Vì những lý do bí ẩn nào chúng tôi không rõ. Chúng tôi chỉ biết bức thư xin lỗi và cuộc kiểm thảo kia đưa ra những sự việc khác hẳn những sự việc mà ông Bính đã chính thức báo cáo trong hai buổi tọa đàm ngày 21/10 và tối 23/10".
Bài báo kết luận: "Người ta biết rằng chủ nhiệm báo Trăm Hoa vì đi dự tọa đàm với đại diện Trung ương Đảng, có báo cáo chuyện mua chuộc và trả thù bỉ ổi nên trở về bị lăng mạ và suýt bị hành hung. Việc đó có một ý nghiã xúc phạm gián tiếp đến cuộc tọa đàm không còn ra thể thống gì nữa.
Người ta lại biết rằng gần đây các giới văn nghệ sĩ và trí thức thắc mắc rất nhiều về vấn đề bảo vệ nhân phẩm của văn nghệ sĩ, trí thức và quyền tự do dân chủ, giữa lúc này mà ngay sát cạnh Trung ương Đảng và Chính phủ, một cán bộ của Sở Báo Chí ngang nhiên láo xược, hung hãn đối với một văn nghệ sĩ lại là chủ nhiệm kiêm chủ bút một tờ báo, thì hãy hỏi y muốn chứng minh điều gì có lợi cho chính sách, cho chế độ?"
Tuy không nêu tên Trường Chinh, nhưng tác giả trực tiếp buộc tội "Trung Ương" dung túng sự "láo xược, hung hãn" của một cán bộ thừa hành; và ông đòi hỏi giới "thẩm quyền" phải có một "biện pháp cụ thể" không được "dung túng bọn sâu mọt", phải ngăn ngừa những "hành động côn đồ, manh động" không để "xẩy ra giữa thủ đô, chứ đừng nói gì đến tự do dân chủ vội". Lập luận này xác định người viết là Nguyễn Hữu Đang.
Bài Hoan nghênh trung ương Đảng lắng nghe cán bộ và quần chúng của Lê Đạt mạnh mẽ trong một chiều hướng khác, ông viết: "Ngày 20/10/56, đã bắt đầu cuộc tọa đàm giữa đại diện Ban chấp hành trung ương Đảng Lao Động và (...) đủ các ngành (...) điện ảnh. Ban (...) Nhân Văn đã đề cử ba đại biểu đến tham dự.
Từ mấy tháng nay cuộc đấu tranh sôi nổi và công khai của anh em văn nghệ sĩ chống những tệ lậu của bè phái lãnh đạo đòi thực sự mở rộng tự do dân chủ đã bị một số người hiểu lầm.
Họ gán ghép cho anh em những chiếc mũ không tốt: bất mãn, địa vị, thậm chí phản động. Cuộc tọa đàm này là một trả lời thích đáng cho những hạng người đó.
Nó chứng tỏ rằng cuộc đấu tranh của anh em căn bản là đúng, rằng anh em không phải là một nhóm người bất mãn đê tiện, mà là những người tha thiết vì dân vì Đảng muốn đóng góp phần xây dựng của mình".
Bài báo kết luận: "Cuộc tọa đàm mới bắt đầu và còn tiếp tục nhưng chúng ta có đầy đủ cơ sở để đấu tranh và tin tưởng".
Lập luận của Lê Đạt rất khôn khéo: Chúng tôi đấu tranh đòi dân chủ, nhưng không chống Đảng. Buổi tọa đàm này "chứng tỏ bản chất của chế độ thực sự là dân chủ", mới chỉ là bước đầu, chúng tôi sẽ tiếp tục những bước kế tiếp.
Tóm lại, khi Phan Khôi đi vắng, Phạm Văn Đồng gọi Trần Duy, lúc đó thay quyền chủ nhiệm, lên gặp riêng, là có ý gì? Nếu Phan Khôi không đi Trung Quốc, liệu Phạm Văn
Đồng có "dám gọi" Phan Khôi lên gặp riêng không?
Việc Trường Chinh tổ chức tọa đàm và Phạm Văn Đồng gặp div style='height:10px;'>
Bao giờ bình yên xem một tranh tĩnh vật
Bao giờ
Bao giờ chúng nó đi tất cả
Chúng nó là ai? Nhà thơ trả lời: "Chúng là: Những con người không phải của chúng ta
Vẫn ngày ngày ngang nhiên sống
Chúng nó còn ở lại
Trong những áo dài đen nham hiểm
Bẻ cổ bẻ chân đeo tội ác cho người".
"Chúng nó", bọn áo thụng, len lỏi khắp nơi, từ trong tủ sách gia đình đến điếu thuốc trên môi đứa bé mười lăm, quẩn trong bước chân người con gái. "Chúng nó" nấp trong mọi lứa tuổi, mọi từng lớp xã hội, "chúng nó" trà trộn vào đời sống hàng ngày, làm ô uế không gian, lũng đoạn thời gian. Sách cũ, sách mới đem bán cân giấy lộn, đến cả những bài thơ mới nhất của Anh. Những kẻ "khôn ngoan" thì ngậm miệng "mắt không bao giờ nhìn thẳng".
Nhưng Anh, người nghệ sĩ tự do, Anh có nghe thấy không?
Bọn chúng đã "đốt nghìn kinh chưa thắp sáng cuộc đời".
Còn Anh, anh phải bước vào cuộc đấu tranh mới: mở tung các cửa bể, và anh phải tung ra những con người thật của chúng ta, để thay thế "chúng nó", những con người giả.
Thơ Văn Cao là nộ khí trầm lặng của một nghệ sĩ bị giam hãm tư tưởng, của một kẻ sĩ can trường hạch tội gian thần. Giọng nhẹ nhàng nhưng tha thiết kêu gọi mọi người đứng lên đấu tranh cho tự do tư tưởng. Văn Cao là một nghệ sĩ và cũng là một kẻ sĩ.
Nhưng lạ lùng là cả triều đình và bọn nịnh thần không ai dám động đến Văn Cao. Chẳng lẽ họ không hiểu? Kể cả những người lắm chữ như Hoài Thanh, Nguyễn Đình Thi?
Dĩ nhiên là họ hiểu. Nhưng bởi Văn Cao là một tài năng lớn, trên tất cả "chúng nó". Văn Cao là tác giả quốc ca. Chính bài quốc ca đã đỡ đòn cho Văn Cao trong toàn bộ hành trình Nhân Văn Giai Phẩm.
Thơ Lê Đạt
Lê Đạt là nhà thơ trẻ chưa có tên tuổi gì khi chủ trương Giai Phẩm Mùa Xuân, nhưng đường lối tranh đấu của Lê Đạt đã rõ ràng qua hai bài: Làm thơ Mới.
Bài Làm thơ nói lên tâm trạng và hoài bão của một nhà thơ trẻ, trước tình thế đất nước:
Đêm khuya
Bóng đầu anh
Hằn lên trang sách nhỏ
Như bóng hàng cây
quặn gió
Lắng xuống mặt đường
Giông bão mênh mông
Anh nhìn Tổ quốc
Đất nước đêm nay trĩu đầu ngòi bút
Hàng vạn vần thơ mang nặng tình người
Anh nghe tiếng đất trời
Xao động lùm cây ngọn cỏ
Như hiệu thính viên
Đêm không ngủ
Ghi những lời cuộc sống
điện về
Những tiếng nặng nề
Những tiếng cục cằn uất ức
Những tiếng căm thù chua xót
Những tiếng yêu thương
Lê Đạt tự coi mình như một hiệu thính viên lắng nghe tất cả những tiếng đau thương do người đồng loại điện về và thầm kín nói lên tham vọng "Anh nghe tiếng đất trời" như
một lãnh tụ. Năm 1956, với những câu thơ như:
Ghi những lời cuộc sống
điện về,
hoặc:
Óc anh là một công trường,
mỗi dòng thơ là một cây số mới,
hoặc:
Một tiếng súng tương lai
nổ vào đầu dĩ vãng
Lê Đạt là người đầu tiên làm thơ hiện đại ở miền Bắc, đã thực sự đưa ra cách suy nghĩ, cách tạo hình và kiến trúc tư tưởng rất mới. Trước đó có Nguyễn Đình Thi với bài Đất nước, nhưng ý thơ Nguyễn Đình Thi còn nằm trong không gian lãng mạn.
Lê Đạt còn là người đầu tiên đặt vấn đề nhà văn dấn thân - écrivain engagé: nhà văn không thể làm ngơ trước những khó khăn của dân tộc, của con người và của cuộc sống. Sự dấn thân này là tự thân Lê Đạt, không do ảnh hưởng của JP Sartre, vì năm 1956, ông chưa đọc Sartre và cả sau này ông cũng không mấy chú ý đến tư tưởng của Sartre.
Tóm lại, Lê Đạt là người có hoài bão chính trị cho dân tộc ngay từ những bước thơ đầu, khác hẳn với Trần Dần là nhà thơ "nổi loạn" chống lại mọi áp bức bó buộc bản thân, nhưng không có mục đích tranh đấu chính trị cho quốc gia dân tộc. Lê Đạt xác định một lần nữa, bản chất và nhiệm vụ của một nhà thơ dấn thân, phải đi vào cuộc sống, phải tìm cách thay đổi xã hội, xây dựng lại con người:
Người làm thơ nắng mưa thiêu đốt
ăn nằm với cuộc đời
Thai nghén đất trời
sinh ra sự sống (...)
Như người thợ
chui xuống lòng hầm mỏ
Moi than moi lửa
đốt sáng cuộc đời
Anh muốn Đảng gọi anh đến nơi
hội ý về cuộc sống
Điều động anh vào
bộ Tâm Hồn quần chúng
Giúp Trung Ương
xây dựng
những con người
Từng từng giọt mồ hôi
đẫm bản đồ chính sách
Anh mở lối giữa cuộc đời ngóc ngách
Óc anh là một công trường
Mỗi dòng thơ là một cây số mới
Trên con đường đi tới
xã hội
ngày mai
Một tiếng súng tương lai
nổ vào đầu dĩ vãng
Anh vác bút đi theo Đảng
xông lên hàng đầu
Năm 1956, khi chủ trương Giai Phẩm Mùa Xuân, Lê Đạt vẫn còn làm việc ở Tuyên Huấn, cạnh những cột trụ Trường Chinh, Tố Hữu. Lê Đạt chưa thể tách rời khỏi Đảng. Đoạn kết bài Làm thơ có những câu tỏ ý ông vẫn tin tưởng vào Đảng, một Đảng sẽ lành mạnh hơn, biết đặt văn nghệ sĩ vào những vị trí xứng đáng để họ có thể nhả tơ xây dựng lại đời sống con người. Đó là chiến lược của chính trị gia Lê Đạt, hay niềm tin của nhà thơ Lê Đạt? Khó biết.
Tố Hữu nhìn thấy những "nguy cơ" trong bài thơ thứ nhì của Lê Đạt, bài Mới, như một lời tố cáo, mạnh mẽ và quyết liệt của lớp đảng viên trẻ, muốn đổi mới văn học, muốn "đập cánh bay lên", muốn chống lại "bao nhiêu gồng xiềng tập quán / cột lấy bước chân", muốn chống lại những thành phần kỳ cựu đã sống quá lâu, trở thành những ông
bình vôi, khép kín trong công thức, bị xỏ dây vào mũi:
Tôi mới hai mươi lăm tuổi
Chung quanh tôi bao cuộc đời mệt mỏi
Thất bại cúi đầu
Công thức xỏ giây vào mũi
Những kiếp người sống lâu trăm tuổi
Ỳ như một chiếc bình vôi
Càng sống càng tồi
Càng sống càng bé lại
Tôi đã sống rất nhiều ngày thảm bại
Khôn ngoan không dám làm người
Bao nhiêu lần tôi không thực là tôi
Lê Đạt nhìn quanh: một xã hội "công thức giả tạo", với những ông bình vôi hủ lậu kéo dài cuộc sống và nhìn lại chính mình, còn trẻ, nhưng đã tự đánh mất mình, vì "khôn ngoan", nên không dám làm người! Cuối cùng nhà thơ mạnh dạn đứng lên hô hào đổi mới toàn diện thi ca, xã hội và con người:
Mới Mới!
Luôn luôn Mới
Bay cho cao Bay cho xa
Trên những vết già nua cũ kỹ
Trên lề đường han rỉ
Vượt ngày hôm nay
Vượt ngày mai, ngày kia,
Vượt mãi
Tố Hữu khó chịu nhất những câu thơ này, có thể coi là bản tuyên ngôn, là lời kêu gọi của Lê Đạt cho một đường hướng sáng tác mới vượt trên lối mòn cũ của các bậc đàn anh Xuân Diệu, Tố Hữu. Thấy sự nghiệp thi ca cách mạng của mình có thể bị chao đảo, sẵn quyền uy trong tay, Tố Hữu đã thẳng tay triệt hạ mầm mống nổi loạn đòi thay đổi cục diện văn nghệ, đòi "chôn đàn anh" của nhà thơ trẻ.
Phục xuống mà sáng tác
Theo Hoàng Cầm, sau khi Giai Phẩm Mùa Xuân bị phê phán, Trần Dần Tử Phác được về rồi, chúng tôi vẫn họp nhau ở phòng trà Phúc Châu: Văn Cao, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Trần Dần, Tử Phác, Đặng Đình Hưng. Một hôm, bàn nhau: mình mới ra được Giai Phẩm Mùa Xuân, chỉ mới hoe hoe lên gọi là đổi mới một chút, mà nó đã đánh như vậy, liệu mình có chịu được không? Đéo thằng nào chịu được chuyện phê phán như thế, tức là chính quyền nó không cho mình ra một tờ báo nào hết. Thế thì Văn Cao mới nói một câu có thể ghi vào văn học sử: Nhưng quyền sáng tác là ở mình, vậy mình phải phục xuống mà sáng tác. Những chữ ấy chính là của Văn Cao: Phải phục xuống mà sáng tác.
Sau này khi phê phán Nhân Văn, họ cứ vin vào câu ấy mà đánh: Cái âm mưu của bọn NVGP nó kiên trì lắm: nằm phục xuống, tức là chúng nó nằm im, giấu mình một chỗ, để mà sáng tác chống Đảng. Họ phê phán Nhân Văn ghê gớm hơn phê phán Giai Phẩm nhiều, các ông văn nghệ sĩ chính cống như Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Hoài Thanh, Nguyễn Đình Thi... rồi những nhân vật như Lê Đình Kỵ, Vũ Tú Nam, Hà Minh Đức, Phan Cự Đệ... nhất là Vũ Đức Phúc, lúc bấy giờ đã ở Viện Văn Học rồi, nhân vật này nó đánh Nhân Văn ghê gớm nhất. Bọn phê bình chỉ đánh theo khẩu hiệu, còn bọn văn nghệ sĩ nó đánh mới ác, đánh sâu sắc chứ không như bọn phê bình đâu, nó đánh ác mà trúng: Đại khái nó bảo bọn NVGP chúng nó không yêu gì Đảng cả, chúng nói yêu Đảng chỉ là nói giáo đầu, nói để đỡ đòn, chứ sự thực thì chúng chẳng yêu gì Đảng cả. Mà nó đánh như vậy là đánh trúng, đánh vào tâm mình, sự thực thì cũng không sai đâu.
Cho nên Văn Cao nói: Phục xuống mà sáng tác, thì tất cả chúng tôi đều tán thành, nó không cho mình ra báo thì mình phục xuống mà sáng tác: Trần Dần bắt đầu viết Cổng Tỉnh, Lê Đạt bắt đầu viết những bài thơ về quê hương, tôi viết trường ca Tiếng hát quan họ... Vậy, ngay từ năm 1956, sau Giai Phẩm Mùa Xuân, chúng tôi đã "phục xuống mà sáng tác" như lời Văn Cao56.
Giai Phẩm Mùa Xuân là tác phẩm đầu tiên ở miền Bắc chủ trương đổi mới thi ca, tự do sáng tác, với những khuynh hướng khác nhau: tuyên truyền theo đường lối cách mạng của Hoàng Cầm, Sĩ Ngọc, Phùng Quán; nói lên tình hình nghèo khổ thất nghiệp ở Bắc và tố cáo tội ác Mỹ Diệm trong Nam của Trần Dần; đòi tự do tư tưởng và chửi bọn nịnh thần của Văn Cao; xây dựng một xã hội mới, một nền thơ mới của Lê Đạt.
Bài thơ quyết liệt nhất là của Văn Cao. Nhưng không ai dám đánh Văn Cao. Chế Lan Viên khai ngòi đánh Trần Dần, nhưng không dám đụng đến Văn Cao. Tất cả mũi dùi đổ vào Trần Dần, Lê Đạt, hai nhà thơ trẻ chưa nổi tiếng. Chính vì vụ đánh Trần Dần và Lê Đạt mà trí thức nhập cuộc. Lúc đầu trí thức chưa tham gia, nhưng việc đánh hội đồng Trần Dần, Lê Đạt khiến Phan Khôi trở lại vai "ngự sử văn đàn" với bài Phê bình lãnh đạo văn nghệ.
Bài tham luận của Nguyễn Hữu Đang đọc trước lớp học 18 ngày và bài Phê bình lãnh đạo văn nghệ của Phan Khôi là hai yếu tố chủ chốt, đã thuyết phục Trương Tửu và những trí thức khác tham gia, tạo nên một phong trào rộng lớn: Phong trào Nhân Văn Giai Phẩm.