Dịch giả: Hương Châu
Chương 2

     hế nhưng chỉ đến khi thôi học về nhà, các cô gái mới cảm nhận được toàn bộ sức nặng của bàn tay già cỗi, tê dại của bà nội trên cuộc đời mình. Bấy giờ Lucille gần hai mươi mốt tuổi, còn Yvette lên mười chín. Cả hai đã theo học một trường nữ sinh tốt, đã qua năm cuối cấp ở Lausanna [1] và cũng như bao cô gái bình thường khác, đã trở thành những tạo vật ở độ thanh xuân, dong dỏng cao với gương mặt tươi tắn và nhạy cảm, mái tóc dài ngang vai cùng cung cách nam nhi trời ơi đất hỡi.  
“Papplewick tẻ đến chết đi được.” Yvette than vãn, khi hai chị em đang đứng trên mạn thuyền ngắm nhìn vách đá xám xịt Dover từ từ tiến lại, “Chẳng có lấy một người đàn ông nào quanh đây. Tại sao ba không có ông bạn dễ thương nào cả? Chú Fred thì thật không chấp nhận được!”
“Ôi, em không biết được điều gì sẽ đến đâu.” Lucille bình tĩnh hơn, đáp.
“Biết rõ quá đi chứ.” Yvette nói. “Chủ nhật đi dự xướng ca, mà em chúa ghét hợp ca. Giọng bọn con trai nghe rõ đáng yêu khi không có phụ nữ. Rồi Trường học Chủ nhật và những buổi hội họp giao tế kiểu Bạn hữu Thanh nữ, với những linh hồn đáng kính già nua hè nhau thăm hỏi bà nội! Chả có lấy một chàng trẻ trai đàng hoàng trong vòng bán kính một dặm.”
“Chà, chị không rõ!” Lucille đáp. “Vẫn còn nhà Framley. Và em cũng biết Gerry Somercotes mến mộ em mà.”
“Ôi nhưng em ghét đám người mến mộ em!” Yvette kêu, hỉnh chiếc mũi thính nhạy của mình lên. “Họ làm em phát chán. Cứ bám theo nhằng nhẵng như đỉa ấy.”
“Ờ vậy thì em muốn gì đây, nếu em không chịu người ta mến mộ mình? Chị thấy hoàn toàn tốt khi được mến mộ. Mình biết mình sẽ chẳng đời nào cưới họ, thì sao lại không để họ tiếp tục yêu thích mình, nếu điều đó làm họ vui.”
“Ối nhưng em muốn lấy chồng mà.” Yvette kêu lên.
“Ừm thì trong trường hợp đó, cứ để họ tiếp tục theo đuổi em cho đến khi em tìm thấy người mình có thể lấy làm chồng.”
“Em không thể làm thế. Chả có gì khiến em ngao ngán hơn là một gã trồng cây si. Họ làm em chán ốm! Thấy gớm thế nào ấy.”
“Ồ, khi họ tấn công chị thì chị cũng thấy thế. Nhưng một khi họ giữ khoảng cách, chị nghĩ họ khá dễ thương.”
“Chắc em sẽ sung sướng khi yêu ai đó thật mãnh liệt.”
“Ờ, dám lắm! Chắc chị thì không đâu! Chị sẽ ghét lắm. Không chừng em cũng vậy nếu điều đó thật sự xảy ra. Nói gì thì nói, chúng ta nên yên phận một tí trước khi thật sự biết rõ mình muốn gì.”
“Nhưng lẽ nào chị không ghét quay lại Papplewick?” Yvette kêu và lại hỉnh chiếc mũi thanh thanh, nhạy cảm lên.
“Không, không nhất thiết. Chị cho là chúng mình sẽ hơi buồn chán ở đó. Ước gì ba mua xe hơi nhỉ? Có lẽ mình sẽ phải lôi mấy cái xe đạp cũ ra. Em có muốn lên đồng hoang Tansy chơi không?”
“Ồ em thích lắm! Mặc dù đạp lên những ngọn đồi dốc đó kể cũng căng đấy.”
Con thuyền đã tiến lại gần vách đá. Ðó là một ngày hè ảm đạm. Hai thiếu nữ vận áo choàng với cổ áo bằng lông lật lên, mũ đội đầu bảnh chọe phủ xuống quá mang tai. Cao lớn, mảnh dẻ, tươi tắn, ngây thơ, nhưng tự tin, quá đỗi tự tin, dáng dấp nữ sinh kiêu ngạo của hai cô toát ra khí chất người Anh thực thụ. Dẫu phong thái tự do nhường ấy, thực tế là họ bị trói buộc giữa trăm mối tơ vò bên trong chính họ. Dẫu vẻ ngoài hiếu động và cá tính nhường ấy, sự thật là họ tầm thường và khép kín trong bốn bức tường bên trong chính họ. Họ như những con thuyền buồm phơi phới, dạn dĩ, vừa buông mình từ cầu cảng ra biển đời mênh mông. Còn thực tế, họ là những sinh mệnh non nớt và đáng thương không người lèo lái, trôi dạt từ bến bờ xiềng xích này sang bến bờ xiềng xích khác.
Một luồng khí lạnh lẽo xộc vào tim họ khi họ tiến vào bên trong tòa mục sở. Ngôi nhà trông xấu xí, có phần nhớp nhúa, với không khí ẩm ướt kiểu trung lưu, một vẻ tiện nghi đang trên đà thoái hóa không còn chất tiện nghi mà đã trở nên ngột ngạt, bẩn thỉu. Ngôi nhà đá thô cứng đem lại cho hai cô gái ấn tượng không sạch sẽ, mà họ chẳng thể giải thích vì sao. Những vật dụng nội thất xoàng xĩnh có vẻ gì dơ dáy, không tươi mới chút nào. Ngay cả thực phẩm trong các bữa ăn cũng mang vẻ tồi tàn, ảm đạm khủng khiếp, khó chịu làm sao đối với một thanh niên vừa từ ngoại quốc trở về. Bò quay và bắp cải nhũn, cừu đông lạnh và khoai tây nghiền, dưa chua, và món bánh pudding không cứu vãn nổi.
Bà nội, người vốn rất mê “một chút thịt heo”, dùng phần ăn đặc biệt, nước xốt thịt bò, bánh lương khô hoặc ít bánh sữa trứng mặn. Cô Cissie mặt tái không ăn tí gì. Cô ngồi xuống bàn, lấy vào đĩa vẻn vẹn một miếng khoai tây luộc. Cô không bao giờ ăn thịt. Thế là cô ngồi đó với vẻ gò ép thê lương, trong khi bữa ăn cứ tiếp tục, và bà nội lẹ làng liếm láp phần ăn của mình - nếu may mắn không đánh vãi tí gì lên chiếc bụng trương phình của bà. Bản thân món ăn không hề khoái khẩu: làm sao ngay chính cô Cissie cũng ghét những thức ăn ấy, ghét việc phải ăn chúng, mà chẳng bao giờ giữ được một nữ phục vụ quá ba tháng trời? Vừa ăn vừa lợm giọng, Lucille can đảm chịu đựng, trong khi chiếc mũi tinh tế của Yvette bộc lộ sự ghê tởm. Duy chỉ ngài mục sư tóc bạc lấy khăn ăn chùi hàng ria mép đã điểm hoa râm, cất tiếng bông đùa. Suốt ngày ngồi trong phòng làm việc mà chẳng bao giờ rèn luyện thân thể, bản thân ông cũng ngày một nặng nề và trì trệ. Nhưng ông vẫn luôn luôn bật ra được những câu đùa châm biếm nho nhỏ, nơi bàn ăn đó, dưới sự chở che của Trưởng Mẫu.
Với những triền đồi dốc đứng và thung lũng hẹp sâu thăm thẳm, vùng thôn dã trông tối tăm và ảm đạm, nhưng đồng thời cũng có thế mạnh nhất định của nó. Cách đó hai mươi dặm là khu công nghiệp hắc ám của miền Bắc. Tuy vậy làng Papplewick có phần cô lẻ, gần như lạc lõng, và cuộc sống bên trong nó thì lạnh lẽo khắc nghiệt. Vạn vật ở đây là đá tảng, khô cứng đến mức thi vị, một sự khô cứng vô chừng.
Ðúng như những gì hai cô gái đã lường trước: các cô quay lại đội hợp xướng, góp sức vào công việc trong giáo phận. Nhưng Yvette nhất mực chống đối lại Trường học Chủ nhật, Dải băng Hy vọng, Bạn hữu Thanh nữ - chính xác là tất cả những màn hội họp do các bà cô già và các ông lớn tuổi ngốc nghếch, ngoan cố lập ra. Nàng hết sức né tránh bổn phận con chiên, và bỏ ra khỏi nhà bất cứ khi nào có dịp. Nhà Framley, một gia đình đông đúc, vui tươi, bừa bãi sống trên khu Grange, là chốn nương thân dự phòng của nàng. Và nếu có ai đó rủ nàng đi ăn, hay thậm chí một người đàn bà trong những gia đình công nhân mời nàng ghé lại uống trà, nàng sẽ nhận lời tức khắc. Thực tế là điều đó còn làm nàng xúc động. Nàng thích trò chuyện với những người lao động tay chân, những cái đầu cứng rắn mà cao thượng ấy. Nhưng hẳn nhiên họ thuộc về một thế giới khác.
Nhiều tháng trôi qua. Gerry Somercotes vẫn đeo đuổi Yvette. Ngoài ra còn có vài cậu con trai của các nông dân, chủ cối xay nữa. Yvette đáng lẽ đã có một thời gian tuyệt vời. Nàng thường xuyên ra ngoài dự tiệc và khiêu vũ. Bạn bè đến đón nàng trong những chiếc xe hơi, đưa nàng lên thành phố, tới những vũ hội chiều chiều tổ chức trong khách sạn chính, hay tại Cung Vũ Ðạo tráng lệ mới xây, còn được gọi là Pally.
Thế mà nàng vẫn mang đó dáng vẻ một con thú bị thôi miên. Nàng chưa bao giờ thực sự thoải mái vui tươi. Sâu thẳm bên trong nàng vẫn day dứt một nỗi bức bối không chịu đựng nổi, một cảm giác mà nàng nghĩ mình không nên có, nàng ghét nó và chính vì thế lại làm cho nó thêm tồi tệ. Nàng không sao hiểu được nó phát xuất từ đâu.
Lúc ở nhà, nàng thực sự gắt gỏng, vô lễ thái quá với cô Cissie. Và thực tế là tính khí tệ hại của nàng đã trở thành một trong những trò cười của gia đình.
Lucille, bao giờ cũng thực tế hơn, tìm được công việc trong thành phố, làm thư ký riêng cho một quý ông cần người thông thạo tiếng Pháp và biết tốc ký. Nàng đi đi về về hằng ngày trên cùng một chuyến tàu với chú Fred. Nhưng nàng không bao giờ đồng hành với chú, mà dù nắng hay mưa, vẫn một mình đạp xe ra ga, trong khi ông chú thì đi bộ.
Cả hai chị em đều xác định rằng điều họ muốn là một cuộc sống giao tế thật sự tươi vui. Và họ thù ghét dữ dội việc tòa mục sở không đáp ứng được những cuộc gặp gỡ bạn bè của họ. Tầng lầu dưới chỉ có bốn phòng: nhà bếp, nơi ở của hai cô phục vụ bất mãn; phòng ăn âm u; phòng làm việc của ngài mục sư; và gian phòng khách - hay phòng vẽ - rộng lớn, “mộc mạc”, buồn thảm. Lò sưởi trong phòng ăn chạy bằng gas. Chỉ có ngọn lửa nơi phòng khách là nóng ấm và liên tục cháy đều. Bởi vì, dĩ nhiên, đây là nơi bà nội ngự trị.
Trong gian phòng này cả gia đình thường họp mặt. Tối nào cũng vậy, cứ sau bữa ăn là chú Fred và ngài mục sư lại chơi ô chữ với bà.
“Nào, Trưởng Mẫu, mẹ sẵn sàng chưa? N ô trống ô trống ô trống ô trống W: một viên chức người Xiêm.”
“Hở? Hở? M ô trống ô trống ô trống ô trống W hở?”
Bà nội bị lãng tai.
“Không, mẹ à. Không phải M! N ô trống ô trống ô trống ô trống W: một viên chức người Xiêm.”
“N ô trống ô trống ô trống ô trống W: một viên chức người Chiêm[link=#_ftn2][2][/link].”  
“XIÊM.”
“Ớ?
“XIÊM! XIÊM!”
“Một viên chức người Xiêm. Xem nào, có thể là gì nhỉ?” Bà cụ nói một cách thâm thúy, đôi bàn tay gấp lại trên chiếc bụng tròn. Hai người con trai của bà tiếp tục đưa ra gợi ý, và bà đáp lại “À! À!” Ngài mục sư giải ô chữ lanh lẹ đến không ngờ. Còn Fred chỉ có chút ít vốn từ vựng chuyên môn.
“Ðây hẳn là một quả khó nhằn[link=#_ftn3][3][/link].” Bà cụ bảo, khi cả ba cùng bí thế.  
Trong khi đó Lucille ngồi một góc với hai tay bịt tai, giả vờ đọc sách, còn Yvette hoặc cáu kỉnh vẽ vời, hoặc to tiếng ngâm nga những giai điệu cáu bẳn, hòa thêm vào bản nhạc gia đình. Cô Cissie liên tục nhón lấy một thanh kẹo chocolate, cho quai hàm hoạt động không ngơi nghỉ. Cô là người sống bằng chocolate đúng nghĩa. Cô ngồi cách đó khá xa, bỏ một thanh kẹo nữa vào miệng, và lại liếc nhìn vào tờ tạp chí giáo dân. Rồi cô ngẩng đầu lên và nhận thấy đã đến giờ pha Horlicks[link=#_ftn4][4][/link] cho bà nội.  
Khi cô đi rồi, Yvette cáu tiết mở cửa sổ ra. Gian phòng này chẳng bao giờ thoáng đãng, nàng hình dung nó bốc mùi của bà nội. Và bà nội, người vốn nghễnh ngãng, lại bất thần thính như một con sóc khi không cần phải thính.
“Cháu vừa mở cửa sổ hả, Yvette? Ta nghĩ cháu nên nhớ là có những người lớn hơn cháu trong phòng này đấy.” Bà nói.
“Phòng ngột ngạt quá! Không thể chịu nổi! Chẳng trách cả nhà mình lúc nào cũng cảm lạnh.”
“Bà chắc là phòng đủ rộng, và đủ lửa cháy.” Bà già khe khẽ nhún vai. “Một cơn gió lùa đủ để giết chết tất cả chúng ta.”
“Chả phải gió lùa gì đâu.” Yvette hét lên. “Chỉ một luồng không khí trong lành thôi.”
Bà già lại nhún vai, và đáp: “Thật vậy!”
Ngài mục sư im lặng tiến tới bên cửa sổ và quả quyết khép nó lại. Ông không nhìn con gái. Ông ghét ngăn trở nàng. Nhưng nàng phải biết điều chứ!
Trò chơi ô chữ, công trình do đích thân quỷ Satan tạo ra, tiếp diễn cho đến khi bà nội dùng xong món Horlicks và lên giường nghỉ ngơi. Thế là lại đến nghi lễ Chúc ngủ ngon! Mọi người cùng đứng dậy. Hai thiếu nữ đến gần cho bà cụ mù lòa hôn, ngài mục sư chìa tay ra cho cụ, và cô Cissie theo sau với một ngọn nến.
Nhưng bấy giờ đã là chín giờ, mà bà nội thì ngày một già yếu, lẽ ra phải đi nghỉ sớm hơn. Vậy mà vào giường rồi, bà cụ vẫn không ngủ được, cho đến khi cô Cissie vào.
“Con thấy đấy.” Bà nội nói. “Ta chưa bao giờ ngủ một mình. Suốt năm mươi bốn năm liền ta đã quen ngủ trong vòng tay của cha con. Ông ấy đi rồi, ta cố sức ngủ một mình. Nhưng hễ mắt ta nhắm lại để ngủ, trái tim ta lại muốn nhảy thót ra ngoài, và ta cứ nằm đó, trống ngực đập thình thình. Ồ, con muốn nghĩ sao cũng được, nhưng đó là một trải nghiệm đáng sợ, sau bốn mươi năm hôn nhân hoàn mỹ! Ta có thể cầu trời cho ta được chết trước, nhưng cha con, ừm, ta cho là ông ấy sẽ không chịu đựng nổi điều đó.”
Thế là cô Cissie ngủ với bà nội. Và cô ghét việc đó. Cô nói cô không sao ngủ nổi. Mỗi ngày cô một thêm xanh xao, đồ ăn trong nhà thêm tồi tệ, và cuối cùng cô phải đi giải phẫu.
Nhưng Trưởng Mẫu vẫn phơi phới lên hơn bao giờ hết, nhất là lúc ban trưa. Vào những bữa ăn giữa ngày, bà ngự trong chiếc ghế bành, bụng phình lên; gương mặt hồng hào lắc lư mang một vẻ uy nghi đáng sợ, chảy dài xuống bên dưới vầng trán cao, đôi mắt xanh chú mục vào hư không. Mái tóc bạc của bà ngày một lưa thưa, có phần thiếu chỉnh tề. Ngài mục sư vui tính vẫn bông đùa cho bà nghe, trong khi bà làm bộ chê trách. Tuy thế, bà hoàn toàn hài lòng khi được ngồi đó trong sự phì nộn cố hữu, xì hơi từ ruột ra sau mỗi bữa ăn, và dùng tay ấn vào bầu ngực mình trong lúc người ‘nở căng’ vì ứ đầy thỏa mãn.
Ðiều hai chị em phiền nhất chính là, bất cứ lúc nào họ đưa bạn bè mình về nhà, bà nội cũng có mặt ở đó, như một biểu tượng xác thịt già nua tôn nghiêm, thu hết sự chú ý về mình. Chỉ có một gian phòng duy nhất cho mọi người. Và bà già ngồi đó, với dì Cissie cay cú canh gác một bên. Ai cũng phải trình diện bà nội trước: bà sẵn sàng tỏ ra thân ái, bà thích bầu bạn. Bà cần phải biết ai là ai, họ đến từ đâu, và mọi ngóc ngách của đời họ. Và một khi đã quen thân rồi, bà sẽ nắm được cuộc đối thoại.
Với hai chị em, chẳng có gì đáng quạu hơn thế. “Cụ Saywell thật tuyệt vời, phải không! Gần chín mươi rồi mà còn hào hứng với cuộc đời biết bao!”
“Bà ấy quả là hứng thú với chuyện thiên hạ, nếu ta gọi đó là cuộc đời,” Yvette đáp.
Nói xong nàng liền thấy có lỗi. Nói gì thì nói, chẳng tuyệt vời sao khi đã gần chín mươi mà vẫn còn minh mẫn nhường ấy! Vả lại bà nội có làm hại gì ai đâu. Ðúng hơn là bà gây trở ngại. Mà ghét ai đó chỉ vì họ già nua và gây trở ngại thì không hay tí nào.
Yvette lập tức hối hận và tỏ ra dễ thương. Bà nội bắt đầu hồi tưởng lại cái thời bà còn là một thiếu nữ ở thị trấn bé nhỏ Buckinghamshire. Bà cứ thế nói miên man, nghe vô cùng thú vị. Trông bà quả tuyệt vời.
Chiều hôm đó Lottie, Ella và Bob Framley đến nhà, cùng với Leo Wetherell.
“Ôi, mời vào!” Họ cùng nhau quây quần trong phòng khách, nơi bà nội đang ngồi bên đống lửa với chiếc mũ bịt đầu màu trắng.
“Thưa nội, đây là anh Wetherell.”
“Anh gì-cơ? Xin lỗi nhé, ta hơi điếc!”
Bà nội chìa tay ra cho anh chàng đang lúng túng, lặng lẽ hướng mắt vào anh dù bà chẳng thấy gì.
“Anh không phải người thuộc giáo phận này?” Bà hỏi.
“Dinnington!” anh chàng nói to.
“Ngày mai chúng cháu định lên đỉnh Bonsall dã ngoại bằng xe hơi của Leo. Xe vừa đủ chỗ cho cả đám ngồi chen chúc.” Ella nói lí nhí.
“Cháu bảo đỉnh Bonsall hả?” Bà nội hỏi.
“Vâng!”
Yên lặng hoàn toàn.
“Cháu bảo các cháu sẽ đi xe hơi?”
“Vâng! Xe của anh Wetherell.”
“Ta mong là cậu ấy lái xe giỏi. Ðường đi hiểm trở lắm đấy."
“Anh ấy lái xe giỏi lắm.”
“Không giỏi lắm hả.”
“Giỏi ạ! Rất giỏi.”
“Nếu các cháu đến đỉnh Bonsall, chắc ta sẽ chuyển lời nhắn đến cho phu nhân Louth.”
Hễ có người ở bên là bà nội lại kéo phu nhân Louth đáng thương này vào câu chuyện.
“Ôi, tụi cháu sẽ không đi ngang đường đó đâu.” Yvette kêu lên.
“Ðường nào?” Bà nội bảo. “Các cháu nhất định phải đi qua Heanor.”
Cả bọn nhấp nhỏm trên ghế như những con vịt nhồi - như lời Bob tả.
Cô Cissie bước vào, tiếp đó là cô phục vụ với khay trà. Có cả một suất bánh ngọt đặt mua muôn thuở. Rồi lại thêm một đĩa bánh nho nhỏ mới làm. Hẳn là cô Cissie đã đặt hàng cho tiệm bánh.
“Trà đây thưa Trưởng Mẫu!”
Bà già nắm chặt lấy tay vịn ghế bành. Mọi người cùng nhỏm người đứng lên, trong lúc bà chậm chạp vươn dậy một cách khó nhọc, tựa vào cánh tay cô Cissie, tiến tới chỗ của bà bên bàn ăn.
Tiệc trà đang diễn ra thì Lucille từ thị trấn trở về sau một ngày làm việc. Nàng mệt mỏi rõ rệt với hai quầng thâm dưới mắt. Nhìn thấy đám đông khách khứa, nàng liền kêu thốt lên.
Khi tiếng ồn ào đã ngớt, và sự khó xử bắt đầu trở lại, bà nội nói:
“Cháu chưa từng kể ta nghe về cậu Wetherell, phải không Lucille?”
“Cháu không nhớ ạ.” Lucille đáp.
“Chắc chắn là chưa. Ta nghe cái tên này lạ lắm.”
Yvette lơ đãng chộp lấy một chiếc bánh nữa từ cái đĩa đã gần sạch bách. Cung cách vô tâm của nàng khiến cô Cissie điên tiết, và một cơn ghen ghét bùng lên trong lòng cô. Cô nhấc đĩa bánh của mình lên, trên đó có chiếc bánh cô đã tự lấy cho mình, đưa cho Yvette và nói bằng giọng lịch sự mà chua cay:
“Sao không lấy của cô này?”
“Ồ cám ơn cô!” Yvette đáp với vẻ tức giận mơ hồ. Rồi cũng bằng điệu bộ vô tâm đó, nàng tự nhiên lấy nốt phần bánh của cô Cissie, lại còn nói thêm: “Nếu quả thực cô không muốn ăn.”
Giờ thì nàng đã có hai chiếc bánh trong đĩa mình. Lucille lúi cúi pha trà, mặt trắng bệch như tờ giấy. Cô Cissie ngồi đó, xanh mét vì cam chịu lẫn thù hằn. Sự khó xử đã đến mức cực độ.
 Bà nội, người vẫn kềnh càng ngự trị ở đó, không hay biết gì, thản nhiên cất tiếng giữa vòng người lốn nhốn:
“Nếu cháu cũng đi xe tới đỉnh Bonsall ngày mai, Lucille, ta mong cháu chuyển lời ta đến phu nhân Louth.”
“Ồ!” Lucille phóng một ánh nhìn kỳ lạ về phía bà cụ mù lòa. Phu nhân Louth là người đứng đầu gia tộc vua Charles, luôn luôn được bà nội đem ra mua vui cho khách khứa. “Ðược ạ!”
“Tuần bà ấy đã gửi người đánh xe mang đến cho ta một quyển trò chơi ô chữ, thật là tử tế.”
“Nhưng bà đã cám ơn bà ấy lúc đó rồi mà.” Yvette kêu lên.
“Ta muốn gửi bà ấy một lá thư.”
“Có thể gửi qua bưu điện mà.” Lucille kêu.
“Ồ không! Ta muốn cháu mang nó đi. Lần trước khi phu nhân Louth gọi đến…”
Các cô cậu thanh niên ngồi im thin thít như một bầy cá con chờ mồi nơi mép nước, trong khi bà nội tiếp tục thao thao về phu nhân Louth. Cô Cissie thì vẫn đang bất lực, gần như bất tỉnh, trong cơn thịnh nộ xoay quanh cái bánh, hai chị em biết thế. Chưa biết chừng bà cô tội nghiệp đang cầu nguyện.
Ơn phước là cuối cùng đám bạn cũng ra về. Tuy vậy cả hai chị em đều đã mệt phờ. Và chính khi đó, Yvette ngoảnh lại và bất giác nhận ra nơi bà nội già nua, đầy vẻ từ mẫu của mình, một ý chí quyền hành sắt đá, không chút khoan nhượng. Bà ngồi đó bình thản, người phùng lên trong chiếc ghế bành, gương mặt già đỏ đắn, chảy xệ, lấm tấm đồi mồi, có phần mụ mị mà cứng rắn, tựa hồ chiếc mặt nạ che giấu một sự tàn nhẫn, chai đá đằng sau. Ðó là sức ì bất biến của quyền lực kinh khiếp nơi bà. Trong một phút ngắn ngủi, bà đã hé cái miệng già nua của mình ra, khai thác mọi thông tin về Leo Wetherell. Bấy giờ bà ngơi nghỉ trong tuổi già. Nhưng trong cái phút hé miệng ấy, tâm trí bà bừng tỉnh và cùng với lòng tham sống vô độ, nỗi thèm muốn cuộc sống của mọi người, bà bắt đầu sục sạo từng chân tơ kẽ tóc. Bà giống như một con cóc già mà Yvette từng thích thú quan sát, khi nó bất ngờ nhảy lên ngồi trên gờ tổ ong, ngay trước khe cửa hẹp nơi đám ong ló đầu ra, và chỉ với một cú táp chớp nhoáng của chiếc quai hàm tổ bố, đã đớp lấy từng con ong một sẵn sàng phóng vào không trung, nuốt gọn hết con này đến con khác, tựa hồ nó nuốt trọn được cả chiếc tổ ấy vào trong cơ thể phùng phình, nhăn nheo, già chát của mình. Cứ thế mỗi dạo lũ ong bay ra ngoài không trung vào tiết xuân, nó lại nuốt lấy chúng, hằng năm, hằng năm, từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Nhưng rồi bác làm vườn, được Yvette gọi tới, đã nổi xung và đập chết con vật bằng một tảng đá.
“Với lũ sâu bọ thì mi được việc đấy.” bác vừa cầm hòn đá bước lại vừa bảo. “Nhưng chớ có hòng mà tống hết tổ ong vào cái ruột của mi.

  1- Một thành phố ở Thụy Sĩ.
2- Nguyên văn: Chinese. Người dịch sửa lại cho phù hợp văn cảnh.
3-  Nguyên văn: A hard nut to crack.
4- Một loại sữa bột lúa mạch