Chương 19
Lại vào hắc động

    
hi tia sáng cuối cùng mất hút phía sau lưng, Đường Phong biết rằng họ đã lại lần nữa đi vào hang động tối đen và sâu thăm thẳm đáng sợ này, nên tốc độ rõ ràng chậm lại, Đường Phong nhìn trái nhìn phải, hỏi Hắc Vân: “Nước trong hồ chảy ra từ động này sao?”
Hắc Vân đáp: “Vâng, nhưng không chỉ có hang động này, còn cả nước ngầm trong những khe đá xung quanh, và cả nước trên tuyết sơn tan ra nữa.”
“Chúng ta hiện giờ chắc là an toàn rồi nhỉ?” Lương Viện thấy đằng sau không có truy binh, thở phào nhẹ nhõm.
“Không nên lơ là cảnh giác, đối thủ của chúng ta không hề đơn giản! Mọi người nghĩ xem, lúc ta vào trong động đã cắt đuôi được chúng, sao chúng lại tìm được đến đây?” Hàn Giang vẫn duy trì cảnh giác cao độ.
“Đúng vậy, ở đây chỉ có hai con đường vào trong núi, họ...” trong lòng Đường Phong nghi vấn vẫn trùng trùng.
Không còn ai nói chuyện nữa, không khí trong hang động im lìm chết chóc, chỉ còn lại tiếng nước chảy. Sau hơn mười phút khó nhọc chèo thuyền tiến lên phía trước, Hàn Giang phát hiện nước càng lúc càng nông, thuyền gỗ gần như mắc cạn, anh lại ra sức khua hai mái chèo, mái chèo chạm cả vào đá trứng ngỗng dưới đáy sông.
“Thuyền mắc cạn rồi, chúng ta phải xuống thuyền thôi.” Hàn Giang chưa kịp cất lời, Hắc Vân đã nói trước với mọi người.
Mọi người nhảy xuống thuyền, chỉnh đốn lại hành lý, sau năm phút lội nước tiến lên phía trước, đại sảnh trụ cột khí ngất hùng vĩ lại hiện lên trước mặt mọi người. Đường Phong chỉ vào mấy chục chiếc cột đá trong đại sảnh, nói với Hắc Vân: “Những thứ này chính là kiệt tác của tổ tiên các cô?”
Hắc Vân ngước nhìn trụ cột hùng vĩ, đáp: “Tôi không biết, tôi cũng mới biết về những chuyện của tổ tiên mình, trước đây sư phụ chưa từng nói với chúng tôi, ông chỉ lặp đi lặp lại với chúng tôi rằng: chúng ta không giống họ.”
“Không giống? Tôi thấy chẳng có gì khác cả! Đại Lạt ma vì muốn duy trì dân tộc Đảng Hạng mà làm như thế là không công bằng với các cô, các cô cũng nên có quyền lựa chọn cuộc sống của mình.” Đường Phong nói.
Hắc Vân nghe những lời Đường Phong nói, trầm ngâm im lặng, ngược lại Hàn Giang thì lườm anh một cái: “Người cũng đã chết rồi, cậu còn nói những điều đó để làm gì! Bây giờ chúng ta cần nhanh chóng ra khỏi đây, vượt trước đối thủ của chúng ta tìm thấy Hắc Đầu Thạch Thất, để có được kệ tranh ngọc thứ hai.”
Trong lúc nói chuyện, mọi người đã đến phía trước thác nước, Đường Phong bật đèn pin và vẫn muốn tiếp tục vào trong đại sảnh trụ cột ngó nghiêng, Hắc Vân liền gọi giật anh lại: “Chúng ta không nên làm phiền những linh hồn đã chết đó.”
Giọng Hắc Vân đột nhiên trở nên khàn đặc và uy nghiêm, giống như một nữ vương bất khả xâm phạm vậy.
Mọi người cùng đổ dồn ánh mắt kinh ngạc về phía Hắc Vân, bản thân Hắc Vân cũng cảm thấy giọng mình biến đổi, đầy vẻ kinh ngạc, Đường Phong nói: “Hắc Vân, sao giọng cô ban nãy lại thay đổi thế?”
Hắc Vân hoảng hốt lắc lắc đầu: “Tôi cũng không biết, ban nãy sao lại...” lúc này, giọng Hắc Vân hình như đã trở lại như bình thường.
“Được rồi Hắc Vân, bây giờ chúng ta nên đi đường nào?” Hàn Giang hỏi Hắc Vân.
Hắc Vân chỉ vào thác nước, nói: “Ban nãy tôi đã nói rồi đấy, có hai con đường vào trong núi, một là đường núi, hai là đường hang động này...”
“Lẽ nào chúng ta lại giống như lúc đến phải xuyên qua bao nhiêu là động?” Lương Viện nghĩ tới đây liền cảm thấy sợ hãi khôn cùng.
“Tôi không biết lúc mọi người đến đây đi đường nào, nhưng tôi đưa mọi người đi đường này là đường gần hơn so với đường núi kia, do không muốn quẫy nhiễu linh hồn của tổ tiên chúng tôi, bình thường thì vốn không có ai đi đường này cả!” Nói xong, Hắc Vân dẫn mọi người vòng qua thác nước lớn, đến phía sau thác nước.
 
 
 
 
Đường Phong đứng phía sau thác nước, thác nước phát ra những âm thanh ầm ầm, đập thình thình vào màng nhĩ anh. Anh nhìn màn nước trước mặt, bỗng nhiên có cảm giác dường như đang cách biệt với một thế giới khác. Lúc đến, vòng qua thác nước, họ đã đi vào tịnh thổ của người Đảng Hạng cuối cùng. Hiện giờ, họ lại quay lại phía sau thác nước, sắp rời khỏi đây...
Đúng lúc Đường Phong đang suy nghĩ miên man thì Hắc Vân cúi người xuống, mò thấy một cột đá trông rất bình thường, chỉ thấy Hắc Vân ra sức di chuyển cột đá đó, rồi điều thần kỳ đã xảy ra - một tiếng “ầm ầm” vang lên, phía sau màn nước, một cánh cổng đá mở ra, một cửa động tối đen sâu hun hút hiện lên trước mắt mọi người.
Ai nấy đều vô cùng kinh ngạc, Lương Viện ngạc nhiên đến nỗi đứng ngây ra một chỗ, thẫn thờ lẩm bẩm: “Thật không ngờ ở đây lại có một cánh cổng đá, xem ra chúng ta không cần phải chui vào hang động nữa rồi.”
Hàn Giang đưa đèn pin của mình cho Hắc Vân. Hắc Vân cầm đèn pin đi vào trong cửa động nhỏ hẹp trước. Đây là một đường hầm trong núi. Đường Phong cầm đèn pin soi lên vách động, nói: “Trên vách động rõ ràng có vết tích con người gọt giũa, xem ra lại là một kiệt tác của người Đảng Hạng nữa rồi.”
Hàn Giang nghe thấy Đường Phong nói vậy, khẽ hắng một tiếng, nhủ thầm trong bụng: cái gã thư sinh này lại thế rồi, đến lúc này mà cũng không quên nghiên cứu khảo chứng, còn điều mà anh quan tâm hiện giờ là: “Đường hầm này dài bao nhiêu mét?”
Hắc Vân trả lời: “Không dài, nhưng cũng không ngắn, các anh đi theo thôi thì sẽ biết.”
Mọi người đi sau Hắc Vân, luồn lách mới đi được, đường hầm này lúc rộng lúc hẹp, dưới chân cũng lúc cao lúc thấp mấp mô, không có ngã rẽ, rất thông gió, điều này cho thấy đầu bên kia nhất định là có một cửa hang lớn. Nhưng, mọi người đi được khoảng nửa tiếng mà vẫn chưa tới cửa động bên kia, ngược lại trước mắt còn xuất hiện một ngã rẽ. Hắc Vân không chút do dự đi vào ngã rẽ đó, đồng thời nói với mọi người phía sau: “Mọi người bám sát theo tôi, chúng ta sắp ra đến nơi rồi.”
Đi vào ngã rẽ, Đường Phong cảm nhận rất rõ đường dưới chân đang hướng lên trên, đường hầm cũng càng lúc càng rộng ra. Lại thêm một ngã rẽ, Hắc Vân lại dẫn mọi người đi vào trong đó, ngã rẽ này rõ ràng nhỏ hẹp hơn đường hầm ban nãy, có đoạn đường mọi người còn phải khom lưng đi qua. Trong đường hầm này, không khí lưu thông rất kém, mọi người đều hổn hển, cảm thấy rất khó thở. Đường Phong nghi ngờ hỏi Hắc Vân: “Không phải chứ, con đường nhỏ ban nãy càng đi càng rộng, không khí lưu thông cũng tốt, sao đường này càng đi càng hẹp vậy, không khí cũng rất tệ!”
Hắc Vân đáp: “Không sai, ngã rẽ ban nãy là để dụ những người lạ đi nhầm vào đây, anh có biết ngã rẽ đó dẫn tới đâu không?”
Đường Phong lắc lắc đầu, Hắc Vân rất bình tĩnh giải thích: “Ngã rẽ đó, nếu như cứ đi thẳng xuống thì sẽ là tổ dơi hút máu.”
Trong đầu Đường Phong, Hàn Giang, Lương Viện và Makarov lập tức hiện lên cảnh tượng lúc họ tới đã gặp hàng nghìn hàng vạn con dơi. Đường Phong kinh ngạc hỏi: “Cô nói những con dơi đó là dơi hút máu?”
“Đúng vậy, chúng chính là ma quỷ của hang động này, sống thành bầy đàn, hàng nghìn hàng vạn con, nên là những ai vào nhầm hang động thì hầu hết đều khó mà thoát được sự công kích của chúng.”
Nghe Hắc Vân nói vậy, mọi người lúc này mới rùng mình. Hoảng loạn, kiệt sức, cộng thêm khó thở, bước chân của mọi người đều trở nên chậm chạp hơn, nhưng cửa động mà Hắc Vân nói vẫn chưa thấy xuất hiện. Ngược lại Hắc Vân vẫn đi phăm phăm, càng đi càng nhanh, mọi người chỉ biết tự cố gắng lấy lại tinh thần, bám sát theo sau Hắc Vân.
Đường hầm càng đi càng nhỏ hẹp, Đường Phong cảm thấy khó thở, anh ra sức kéo Lương Viện yếu đuối để tránh cho cô khỏi tụt lại phía sau. Anh cảm thấy nghẹt thở, đúng vậy, cảm giác nghẹt thở! Anh cảm thấy mình sắp... Anh quay đầu lại nhìn Lương Viện, mặt Lương Viện do thiếu oxy nên đã trắng bệch. Đúng lúc này, một cơn gió mát ập tới mang theo không khí tươi mới xộc thẳng vào hang động...
 
 
 
 
“Cửa động! Là cửa động!” Đường Phong vui mừng khôn xiết, một cửa hang bị cây khô và cỏ dại che lấp hiện ra trước mắt mọi người. Tất cả mọi người đều vội vã lao ra khỏi đường hầm, nằm bò lên những cành thông mềm mại và rêu xanh, tham lam hít thở không khí tươi mới.
Bầu trời bên ngoài đã ngập tràn sao sáng, Đường Phong nằm trên những cành thông mềm mại cùng rêu xanh, nhìn ngắm những ngôi sao chốc chốc lại hiện lên qua những khe hở của tán thông. Anh muốn nằm như vậy, nằm mãi như vậy, nhưng bộ não đã hồi phục đủ oxy lại nói với anh rằng: không được! Đây là đâu? Có nguy hiểm gì không? Đường Phong ngồi phắt dậy, bắt đầu quan sát cảnh vật xung quanh, bốn bề đều là rừng sâu tối đen bạt ngàn, từng rặng thông không biết đã sinh trưởng bao nhiêu năm ở đây, che kín bầu trời, thân cây to lớn, nhỏ nhất cũng phải ba bốn người ôm. Đêm qua tuyết rơi nhưng ở đây không để lại mấy vết tích. Lẽ nào đây chính là đường thoát ra ngoài mà Hắc Vân nói, tại sao ở đây không có tuyết?
Hắc Vân nhận ra sự nghi hoặc trong lòng Đường Phong, giải thích: “Hiện giờ chúng ta đã vượt qua một ngọn núi lớn phía bờ bên kia hồ nước, nhìn ở đây thì thấy đêm qua không có tuyết rơi.”
“Nhưng trong rừng nguyên sơ thế này lấy đâu ra đường ra ngoài?” Đường Phong hỏi.
“Các anh không phải lo lắng, có đường, chỉ có điều bây giờ trời tối, chúng ta không thấy được thôi, tôi thấy mọi người đều mệt rồi, hay là nghỉ ngơi chút đã, sáng sớm mai chúng ta sẽ lại xuất phát.”
Lương Viện yếu ớt cũng đang có ý đó, cơ thể của Makarov cũng không còn đủ sức để ông gồng lên đi tiếp, còn Đường Phong và Hàn Giang lại có chút bất an. Đường Phong cảnh giác nhìn xung quanh, không thể không lo lắng, nói: “Tôi thấy ở đây vẫn chưa an toàn, ngộ nhỡ...”
“Không phải lo, bọn người đó chắc chắn không thể tìm được đến đây đâu! Ở đây chắc là an toàn!” Câu trả lời của Hắc Vân rốt cuộc đã thuyết phục được Đường Phong và Hàn Giang, tuy trong lòng họ vẫn chưa thực sự yên tâm.
Hắc Vân lại tiếp tục giải thích: “Bây giờ bên ngoài rất lạnh, nhưng chúng ta không thể nhóm lửa, bởi vậy chỉ có thể chọn chỗ này, mọi người đều vào trong động ngủ, nhất định phải nghỉ ngơi cho tốt, sớm ngày mai sau khi xuất phát thì sẽ không còn cơ hội ngủ nữa đâu.”
Mọi người nghe Hắc Vân nói có lý, vậy là, năm người lại vào trong động, nằm co ro trong cửa hang, cuốn chặt quần áo vào để ngủ.
Hàn Giang trước khi ngủ kiểm tra lại súng của mình, trận đấu súng ban chiều đã làm hao tốn hết cả bảy viên đạn mà anh có. Súng của Makarov cũng hết đạn, chỉ có súng của Đường Phong là vẫn còn lại bốn viên đạn, nên anh lấy súng của Đường Phong, đặt bên cạnh mình. Đường Phong không ý kiến gì cả, bởi anh biết rõ, trong thời khắc nguy hiểm thế này, bốn viên đạn còn lại này nằm trong tay Hàn Giang là hợp lý nhất.
Liên tục leo trèo khiến tất cả mọi người đều cảm thấy mệt mỏi, nhưng Hàn Giang vẫn gắng gượng nói với Đường Phong: “Năm người chúng ta không thể ngủ hết, ngộ nhỡ gặp nguy hiểm, chúng ta mà bị chúng tìm thấy thì sẽ không biết kết cục ra sao. Đường Phong, hai chúng ta lần lượt phụ trách cảnh giới, ai canh chừng thì súng đặt chỗ người ấy, nửa đêm trước, cậu, nửa đêm sau, tôi! Có ý kiến gì không?”
“Không!” Đường Phong gật gật đầu.
“Được! Vậy thì sắp xếp vậy nhé…” Hàn Giang vẫn chưa nói xong, Makarov liền nói xen vào: “Tại sao không có tôi? Hàn! Lẽ nào cậu vẫn chưa tin tưởng tôi sao?”
Hàn Giang nhìn Makarov, thẳng thắn không chút e dè: “Sức khỏe của ông... ổn không?”
“Sức khỏe của tôi không bằng các cậu, nhưng xin hãy tin vào kinh nghiệm và năng lực của tôi, nếu như ba chúng ta lần lượt đảm nhiệm cảnh giới thì mỗi người đều có thể ngủ thêm một lúc, ngày mai sẽ không còn cơ hội ngủ nữa! Nếu như cậu không yên tâm về sức khỏe của tôi, có thể để tôi canh nửa đêm trước, tôi nghĩ lúc đó bọn áo đen chắc vẫn chưa thể phát hiện ra chúng ta đâu!” Tính cố chấp của Makarov lại trỗi dậy.
Hàn Giang ngẫm nghĩ, thấy Makarov nói cũng có lý, nên đã phân công lại: “Vậy được, nửa đêm trước do Lão Mã đảm nhiệm cảnh giới, nửa đêm sau thì là Đường Phong, tôi thì trực khúc giữa, mọi người không ý kiến gì chứ?”
Mọi người cùng nhìn nhau, không ai nói thêm gì nữa. “Vậy được, cứ thế mà làm nhé!” Nói xong, Hàn Giang đưa khẩu súng ngắn 92 chỉ còn lại bốn viên đạn cho Makarov.
 
 
 
 
Rừng rậm tối đen tĩnh mịch yên ắng, trong cửa hang, Hắc Vân, Lương Viện đã ngủ say, Đường Phong và Hàn Giang hình như cũng đã ngủ. Makarov tắt đèn pin, bởi vì pin cũng sắp hết, nên bắt buộc phải tiết kiệm. Tia sáng cuối cùng đã biến mất, bốn bề tối đen như mực, yên ắng chết chóc. Đột nhiên, tiếng sói hú đã lâu lắm rồi chưa nghe thấy lại vọng lại, hơn nữa lần này lại ở trong rừng rậm gần đây. Tiếng sói hú đó thảm thiết nhường vậy, đáng sợ nhường vậy, từ xa tới gần, khiến người ta dựng cả tóc gáy.
Makarov ngồi trong bóng tối cảnh giác nắm chặt khẩu súng trong tay, chỉ có như vậy, sự lo lắng bất an trong lòng ông mới có thể cảm thấy chút an ủi. Đây là bản tính của quân nhân, trên chiến trường tàn khốc, một thân mình ở chốn tử địa, một thân một mình tác chiến, không có hỗ trợ, không có phương hướng, không có chiến hữu, không có chi viện, chỉ có mình mình; trong thời khắc này, toàn thế giới đều đã không đáng để tin cậy, chỉ có khẩu súng trong tay mới là bằng hữu đáng tin cậy nhất của người chiến sỹ.
Tiếng sói hú đáng sợ từng hồi từng hồi vọng lại, Makarov nhìn chăm chú về phía rừng rậm tối đen ngoài cửa động, đột nhiên, một giọng nói quen thuộc cất lên bên cạnh ông: “Ở đây lạnh quá, xem ra đêm nay cháu không ngủ được rồi!”
Là giọng của Đường Phong, Makarov quay lại nhìn, Đường Phong dụi dụi mắt, từ trong cửa động bò ra. Makarov cũng ra ngoài theo: “Sao không ngủ được?”
Đường Phong gật gật đầu, nói: “Thà chúng ta nói chuyện còn hơn, nhân tiện thỉnh giáo bác một số chuyện.”
“Thỉnh giáo tôi? Chuyện gì?” Makarov ngạc nhiên.
“Bác có thể kể cho cháu nghe, bác đã gia nhập vào KGB thế nào không? Hôm trước ở bên hồ Thất Sắc Cẩm Hải, cháu nghe thấy hình như bác kể rằng mình gia nhập KGB là do có liên quan rất lớn tới kệ tranh ngọc, có phải vậy không ạ?” Đường Phong hỏi Makarov.
Makarov chầm chậm tựa vào một thân cây thông, thở dài một tiếng, nói: “Đúng vậy, chính là kệ tranh ngọc này đã thay đổi số phận của tôi. Tôi vốn dĩ phục vụ tại trại trinh sát tập đoàn thứ 39 khu quân sự Baikal, quân hàm chỉ là một chuẩn úy, sỹ quan quèn, còn chưa tới sĩ quan. Tôi đóng quân tại một địa phương giáp biên giới Trung - Liên. Một lần, cấp trên nói muốn tuyển ba sĩ quan có năng lực, có khả năng dã ngoại sinh tồn tốt để thi hành một nhiệm vụ đặc biệt. Lúc đó tôi trẻ trung, dồi dào sinh lực, thích ra ngoài bay nhảy nên đã ghi tên tham gia tuyển chọn. Cuối cùng tôi và hai chiến hữu khác đã được chọn tham gia nhiệm vụ đặc biệt lần đó.”
“Nhiệm vụ đặc biệt? Chính là đội thám hiểm khoa học liên hợp Trung - Liên?” Không biết từ lúc nào, Hàn Giang cũng đi ra khỏi hang núi, xuất hiện phía sau lưng Makarov.
Makarov nhìn nhìn Hàn Giang, nói: “Đúng vậy, chính trong nhiệm vụ lần đó, tôi đã nhìn thấy bức ảnh của kệ tranh ngọc này. Cũng chính vì nhiệm vụ lần đó, cuộc đời của tôi đã thay đổi hoàn toàn và đã gia nhập vào KGB.” Vừa nói đến đây, tư duy của Makarov bất giác quay trở lại chuyến thám hiểm đáng sợ nửa thế kỷ trước...
Được cứu từ biên giới Trung - Mông, Makarov nằm trong viện nửa tháng, sự đau đớn trên cơ thể tuy đã bình phục, nhưng ác mộng đáng sợ vẫn luôn luôn đeo bám anh. Vừa mới tỉnh lại, Makarov phát hiện ra mình bỗng dưng mất đi tự do, trước cửa phòng bệnh tất cả đều đổi thành lính đặc biệt của KGB. Những chiến hữu và thủ trưởng tươi cười thường đến thăm nom anh không còn thấy đâu nữa, xung quanh không có lấy một người nói chuyện với anh. Anh không hiểu tại sao lại thành ra như vậy, bản thân mình rốt cuộc đã làm gì sai? Makarov, chàng thanh niên năm đó mới ngoài 20 tuổi tưởng như sắp bị bệnh trầm cảm đến nơi.
Sau một tuần bị giày vò, Makarov được đưa tới Mátxcơva, anh ngồi trên một chiếc xe con cao cấp Zil, hai bên là sĩ quan KGB mặc áo khoác đen, mặt nghiêm nghị. Zil chở họ xuyên qua phố lớn ngõ nhỏ của Mátxcơva, Makarov trong lòng thấp thỏm bất an, anh cảm giác bản thân mình lúc này giống như một phạm nhân. Lần này muốn đưa tôi đến đâu đây? Nhà giam? Tòa án quân sự? Tôi đã phạm tội gì? Tại sao lại đối xử với tôi như vậy! Tôi chỉ thực hiện mệnh lệnh của cấp trên thôi mà, sao lại thành thế này?
Dần dần, một tòa nhà màu vàng xuất hiện trong tầm mắt của Makarov. Đây là đâu? Makarov quay đầu lại nhìn biển đề tên đường, phía trước là quảng trường Lubyanka. Á! Số 11 khủng khiếp của quảng trường Lubyanka, tổng bộ của KGB! Tim Makarov đập càng lúc càng nhanh, trán lấm tấm mồ hôi, anh nhớ tới Beria, nhớ tới “vụ đại thảm sát” vào những năm thập niên 30, rất nhiều người vô tội đã bị đưa vào đây và đã vĩnh viễn mất tích trên thế gian này, trong đó cũng có cả bản thân Beria. Bức tượng của Dzerzhinsky trước quảng trường Lubyanka càng lúc càng gần, càng lúc càng rõ nét, cao to, uy nghiêm, không nể tình ai, đây chính là Dzerzhinsky, đây chính là KGB! Makarov đột nhiên phát hiện ra, trên khóe miệng sĩ quan KGB bên cạnh bất giác lộ ra nụ cười khó mà đoán biết, điệu cười nhạt đó khiến anh nổi da gà.
Zil đi vào Lubyanka từ cửa sau, đỗ lại trong sân. Điều khiến Makarov ngạc nhiên là bản thân anh không lập tức bị áp giải xuống xe, mà chỉ thấy sĩ quan ngồi trên ghế lái phụ xuống xe rồi đi rất nhanh về phía tòa nhà. Makarov nhìn theo bóng dáng của viên sĩ quan, không biết số phận đang chờ đợi mình sẽ thế nào.
 
 
 
 
Chẳng bao lâu sau, vị sĩ quan đó quay lại xe, lệnh cho lái xe: “Điện Kremlin Mátxcơva.” Tài xế rất ngạc nhiên trước mệnh lệnh của sĩ quan, hỏi lại: “Điện Kremlin Mátxcơva?”
“Đúng vậy, điện Kremlin Mátxcơva, số 1 không ở tổng bộ, ông nói rồi, ông muốn gặp gỡ khách mời của chúng ta luôn và ngay.” Nói xong, viên sĩ quan quay lại nhìn Makarov một cái.
Zil đi ra khỏi Lubyanka, lao tới điện Kremlin Mátxcơva cách đó không xa. Makarov không ngờ hóa ra mình lại lượn một vòng trong lòng KGB rồi lại ra ngoài nhanh như vậy, nhưng anh vẫn không hết tuyệt vọng vì khả năng được sống, bởi nơi tiếp theo mà anh sắp phải tới càng khiến tim anh đập còn nhanh hơn - điện Kremlin Mátxcơva. Anh chưa từng nghĩ rằng, một ngày nào đó bản thân mình lại có thể vào đây. Số 1 là ai? Tại sao ông ta lại nóng vội gặp mình đến như vậy?
Vác theo một bụng nghi ngờ, Makarov và những người đi cùng sau khi đi qua rất nhiều cửa kiểm soát đã đến một đại sảnh vàng ngọc huy hoàng, sau này Makarov mới biết rằng, đại sảnh này chính là đại sảnh George nổi tiếng, là nơi thường cử hành những hoạt động quốc gia quan trọng, Trong đại sảnh vừa đủ 1000 mét vuông, chỉ có Makarov và ba sĩ quan KGB kia. Ba sĩ quan ngồi trên ghế, lưng thẳng tắp, bất động, lặng lẽ chờ đợi nhân vật lớn xuất hiện. Makarov lại tò mò nhìn xung quanh đại sảnh. Trên trần đại sảnh là chín chùm đèn pha lê khổng lồ khiến Makarov không khỏi thán phục. Trên bốn bức tường quanh đại sảnh, ánh vàng rực rỡ, có khắc rất nhiều chữ, Makarov tỉ mẩn quan sát, hình như là họ tên của một số người, anh tò mò hỏi sĩ quan trưởng: “Trên tường khắc tên những ai vậy?”
Sĩ quan liếc Makarov một cái, đáp: “Họ tên trên tường đại sảnh George là họ tên của những tướng sỹ đã hy sinh khi chiến đấu chống đại quân Napoleon xâm lược Nga năm 1812...”
Sĩ quan vẫn chưa nói xong, một bên cổng đại sảnh George đã mở ra, ba sĩ quan di chuyển đôi chân đứng thẳng dậy, Makarov hiểu rằng: nhân vật lớn xuất hiện rồi.
Makarov cũng đứng dậy, “nhân vật lớn” đang tiến đến trước mặt xem ra chỉ ngoài 40 tuổi, dáng người gày gò, nhưng lại toát lên vẻ nhanh nhẹn. Hình tượng của “nhân vật lớn” này thật khác xa so với một nhân vật lớn bụng phệ, cao tuổi mà Makarov tưởng tượng trong đầu.
Makarov cảm thấy “nhân vật lớn” trước mặt có chút quen quen, có thể anh đã từng nhìn thấy trên báo, hoặc là trên tranh chân dung, nhưng không thể nhớ ra được là ai.
Trong quân đội, Makarov không phải là người quan tâm đến lãnh đạo, hay là người quan tâm đến chiều hướng phát triển của Mátxcơva, anh chỉ muốn làm tốt việc của mình, sống tốt với mẹ, không phụ công hy sinh của cha trong chiến tranh vệ quốc.
“Nhân vật lớn” bước tới trước mặt mọi người, giống như thần thánh không thể xâm phạm, làm Makarov cảm thấy áp lực chưa từng thấy từ trước tới nay. “Xin chào, đồng chí Makarov, tôi là Shelepin.” Lời nói của nhân vật lớn bình tĩnh mà hòa nhã gần gũi.
Shelepin! Một người giỏi giang, có quyền thế nhất Liên Xô, năm 24 tuổi ông đã bước chân vào chính đàn, 40 tuổi trở thành người nắm quyền của KGB. Ông còn là ủy viên bộ chính trị, tổng bí thư trung ương Đảng. Bất luận là trong thời đại Stalin hay là thời đại của Khrushchev, ông cũng vẫn luôn thăng tiến nhẹ nhàng trong từng lần giao chiến quyền lực, và cho đến nay Shelepin vẫn duy trì được kỷ lục toàn thắng, nên mọi người tự tặng cho ông một biệt danh: “Nhân vật thủ đoạn cứng rắn Shurik”, cũng rất nhiều người tin rằng ông sẽ là lãnh đạo cao nhất trong tương lai. Một nhân vật như vậy, mà lại nóng lòng muốn gặp mình?
Makarov có chút bối rối không biết nên làm gì, anh kính cẩn thực hiện một nghi thức quân đội không được chuẩn xác lắm, nói: “Ivan Petrovich Makarov, chuẩn úy trại trinh sát tập đoàn thứ 39 khu quân sự Baikal.”
Shelepin phẩy phẩy tay: “Không cần phải như vậy, tôi không phải là cấp trên của anh,” ngừng một lúc, Shelepin lại nói: “Anh đi theo tôi.” Nói xong, Shelepin bỏ lại mấy sĩ quan KGB đứng đó, dẫn Makarov đi ra khỏi đại sảnh George vàng ngọc huy hoàng.
 
 
 
 
Đi qua hành lang, đến một văn phòng, Shelepin ra hiệu cho Makarov ngồi xuống. Đợi tới khi hai người yên vị, Shelepin mở lời trước: “Đừng trách người của chúng tôi, đó đều là để bảo vệ anh, cũng là để bảo mật. Sức khỏe anh ổn chưa?”
“Cơ bản đã hồi phục rồi.”
Shelepin gật đầu: “Có lẽ anh vẫn chưa biết, hành động Hắc Thành lần này là do tôi dốc sức chỉ đạo, bởi vậy tôi cố ý mời anh đến Mátxcơva, muốn anh kể cho tôi nghe toàn bộ quá trình hành động, đặc biệt là tình hình lúc cuối cùng xảy ra sự cố.”
“Tại sao đích thân ông lại nói chuyện với tôi?” Makarov không sao hiểu nổi.
“Bởi vì tôi không muốn có thêm nhiều người biết về hành động lần này, sau đây mời anh hãy kể cho tôi nghe.”
“Quá trình? Thật ra tôi chỉ là một quân nhân. Tôi và hai chiến hữu của tôi được cấp trên chọn lựa, nhiệm vụ chỉ là đi bảo vệ an toàn cho đội thám hiểm khoa học, những giáo sư chuyên gia của đội thám hiểm khoa học trên đường đi phát hiện ra những gì? Nghiên cứu những gì? Tôi thật sự không rõ, thậm chí đến cả mục đích của lần hành động này tôi cũng không biết.”
“Vậy thì chắc anh cũng phải từng nghe thấy họ nói chuyện những gì chứ?”
Makarov lắc lắc đầu: “Kể cả tôi có nghe được các chuyên gia nói chuyện đi chăng nữa thì cũng không hiểu. Thứ nhất tôi vốn không hiểu những thứ thuộc chuyên ngành của các ông ấy, thứ hai tôi không hiểu tiếng Trung, mặc dù trước khi đi tôi cũng có học qua chút tiếng Trung, nhưng chỉ là những từ ngữ thông dụng đơn giản, thế nên...”
“Anh đúng thật là một người thật thà, chỉ biết đến nhiệm vụ của mình.” Shelepin bó tay, nở ra một nụ cười.
“Đúng vậy, trong quân đội tôi đã được giáo dục là phải phục tùng mệnh lệnh, hoàn thành nhiệm vụ của mình, còn những việc không liên quan đến mình thì không được tùy tiện hỏi han.”
“Vậy trên đường đi, ngoài hôm cuối cùng xảy ra chuyện đáng sợ, thì trước đó có gì khác thường không?”
“Trước đó…” Makarov chìm đắm trong hồi ức: “Những hôm trước đó cơ bản đều khá bình thường, nhưng…” Makarov định nói nhưng lại im lặng.
“Nhưng gì?”
“Nhưng bản thân tôi cảm thấy, chỉ là cảm giác của cá nhân tôi mà thôi, kể từ khi chúng tôi xuất phát, hình như có một đôi mắt lúc nào cũng chằm chằm nhìn chúng tôi.”
“Một đôi mắt! Vậy anh không phát hiện được gì sao?”
“Tôi đã từng cùng một chiến hữu mai phục phía sau đội thám hiểm khoa học, cũng đã từng tuần tra suốt đêm gần doanh trại, nhưng tôi không phát hiện được gì cả.”
“Ngoài điều đó ra thì có còn tình hình gì khả nghi không?”
“Còn nữa, vào cái đêm trước hôm xảy ra chuyện, tối hôm đó chúng tôi dựng trại trong một khu rừng hồ dương. Do ban sáng rất mệt, nên tối hôm đó tôi ngủ rất sớm, đảm nhiệm an toàn cho doanh trại đêm đó là ba sĩ quan Trung Quốc. Ngủ đến nửa đêm, tôi bỗng nhiên bị những âm thanh kỳ lạ làm tỉnh giấc, âm thanh đó lúc ban đầu vốn không to, tôi chạy ra khỏi lều thì không thấy sĩ quan người Trung Quốc trực ban đâu cả, mà lại nhìn thấy Katya, chính là tiến sỹ nghiên cứu lịch sử của trường Đại học Leningrad, chúng tôi đều gọi ông là Katya, ông và hai đồng chí Trung Quốc đang tranh luận gì đó dưới một cây hồ dương cách doanh trại khá xa…”
“Họ đã nói gì?” Shelepin truy hỏi.
“Họ tranh luận bằng tiếng Trung. Katya hình như nói với hai đồng chí Trung Quốc đó một câu ‘Không! Tôi không cần’ - tôi chỉ nghe hiểu được mỗi câu đó, còn những thứ khác tôi nghe nhưng không hiểu.”
“Thế sau đó thì sao?”
“Sau đó, Katya nhìn thấy tôi đến nên đã quay lại lều, hai đồng chí Trung Quốc cũng về lều ngủ, tôi không yên tâm cho sự an toàn của doanh trại, nên đã đi vòng quanh doanh trại, kết quả, tôi vẫn không phát hiện ra ba sỹ quan Trung Quốc phải trực ban đâu cả, còn âm thanh kỳ lạ đó lại càng lúc càng to.”
“Đó là âm thanh gì?”
“Tôi không thể đoán ra được, tóm lại là vô cùng đặc biệt, giống như tiếng gầm rú của dã thú, lại giống như tiếng người la hét, tiếng ngựa hí vọng lại từ nơi xa. Ngày hôm sau, tôi đã hỏi Katya, Katya đã nói rằng ông cũng nghe thấy âm thanh đó, nhưng ông nói, đó chỉ là tiếng gió thổi qua đồi cát và rừng hồ dương. Tôi sợ đi xa sẽ lạc đường nên quay lại doanh trại, tiếp tục ngủ. Nếu như trước đây, khi tôi không tìm thấy mấy vị sĩ quan Trung Quốc đó thì nhất định sẽ lo lắng cho sự an toàn của doanh trại, ngủ cũng không ngon, nhưng hôm đó kỳ lạ ở chỗ, đêm đó sau khi trở về lều tôi lại ngủ rất ngon, ngủ một mạch tới sáng hôm sau.”
 
 
 
 
“Vậy sáng hôm sau, anh có nhìn thấy ba sĩ quan Trung Quốc đó không?” Shelepin hỏi.
Makarov chau mày, lắc lắc đầu: “Không, sáng hôm sau tỉnh dậy, những người khác đều ở đó, chỉ thiếu đúng ba sĩ quan Trung Quốc; nhưng một chuyện kỳ lạ hơn đã xảy ra: sáng sớm ngủ dậy, mọi người phát hiện hai chiếc thùng to dùng để chứa nước lại cùng lúc bị thủng, đợi đến khi chúng tôi phát hiện ra thì nước trong thùng đã cạn. Cả đoàn khảo sát đều không có nước dùng, trong sa mạc Badain Jaran khô nóng, hết nước đồng nghĩa với chết chóc, nên không khí bi quan tức tốc lan tỏa khắp đội khảo sát khoa học. Đội khảo sát hủy bỏ hành trình đã định hôm đó, phái đi năm người, vừa để tìm nguồn nước vừa để tìm ba sĩ quan Trung Quốc mất tích. Để ngăn chặn xảy ra sự cố, tất cả những đội viên ra ngoài tìm kiếm đều được phát súng trường và đạn, tôi còn hướng dẫn cho mấy nhà khoa học cách sử dụng AK - 47. Mọi người cùng hẹn nhau, bất luận là có tìm được hay không thì trước khi mặt trời lặn tất cả đều phải quay trở lại doanh trại.”
“Hôm đó anh ở lại trong doanh trại? Sau đó nhóm năm người kia có quay lại không?”
“Đúng vậy, sáng hôm đó, tôi luôn ở trong doanh trại, phụ trách nhiệm vụ cảnh vệ cho doanh trại, nhưng không phát hiện ra điều gì bất thường. Lúc hoàng hôn xuống, năm người đi tìm kiếm đều đã trở về đúng giờ, nhưng khiến mọi người thất vọng ở chỗ, nhóm năm người đó vừa không tìm thấy ba sĩ quan Trung Quốc mất tích, cũng lại không mang được nước về. Có một nhà địa chất Trung Quốc cứ kêu toáng lên là không hiểu ra làm sao, rồi ông ấy nói rằng mình cũng đã từng đến đây, nhớ rõ ràng là gần đây có nguồn nước, thậm chí còn không chỉ có mỗi một chỗ, nhưng sao lại không tìm thấy. Mọi người đều cảm thấy tuyệt vọng, nhưng cũng chẳng còn cách nào khác, đành phải ai về lều người nấy ngủ, chuẩn bị ngày mai tiếp tục đi tìm kiếm. Tôi chủ động đảm nhận nhiệm vụ cảnh giới cho doanh trại, còn một đồng chí Trung Quốc khác cũng yêu cầu được trực cùng tôi.”
“Một đồng chí Trung Quốc? Anh có quen anh ta không?”
“Anh ấy là người Trung Quốc mà tôi thân thiết nhất, tôi nhớ là anh ấy họ Lương, là phiên dịch tiếng Nga của đội thám hiểm khoa học. Anh ấy nói tiếng Nga rất trôi chảy, nên những lúc nhàn rỗi tôi thường trò chuyện cùng anh ấy. Tôi cảm thấy anh ấy đối xử rất tốt với mọi người, bởi vậy, rất bằng lòng trực cùng anh ấy.”
“Tối hôm đó đội thám hiểm khoa học đã xảy ra chuyện?” Shelepin hạ giọng nói.
Makarov trầm ngâm hồi lâu, anh nhớ lại từng cảnh tượng đáng sợ hôm đó: “Đúng vậy, chính cái đêm khủng khiếp đó, đêm hôm đó, khoảng hơn 10 giờ - giờ địa phương, tôi và Lương đang nói chuyện, đột nhiên, chúng tôi lại nghe thấy những âm thanh kỳ lạ giống như đã nghe thấy đêm hôm trước. Hơn nữa, những âm thanh lần này càng lúc càng to, cũng cách chúng tôi mỗi lúc một gần. Tất cả mọi người trong đội khảo sát đều bị âm thanh này làm cho giật mình tỉnh giấc, mọi người đều ra khỏi lều, đi thẳng về phía âm thanh đó phát ra. Đến giờ tôi vẫn còn nhớ như in đôi mắt của họ, đó là những đôi mắt tràn ngập sự hoảng loạn, thật là đáng sợ! Tôi cố gắng hết sức để duy trì sự bình tĩnh. Tôi giương khẩu AK - 47 của mình lên, gọi hai chiến hữu cùng mình đến nơi mà âm thanh đó vọng lại, nhưng họ đã sợ hãi đến nỗi rúm ró cả người, chỉ đứng nguyên một chỗ, bất động. Trong lúc chán nản, tôi đành phải một mình mạo hiểm; lúc này, Lương cũng đồng ý đi cùng tôi, vậy là, hai chúng tôi cầm súng, lao về phía âm thanh đó phát ra.”
“Hai anh đã phát hiện ra điều gì vậy?”
“Hai chúng tôi chạy đi rất xa, khoảng bốn năm cây số, nhưng không phát hiện thấy gì cả, mà càng kỳ lạ ở chỗ âm thanh quái dị đó cũng không nghe thấy nữa. Lương nói: ‘Không biết chừng đó chỉ là tiếng gió chứ chẳng phải là gì cả’. Tôi cũng không biết rút cuộc là thế nào, đành phải cùng Lương quay lại doanh trại. Nhưng đến khi hai chúng tôi về tới nơi thì đã xảy ra sự việc còn khủng khiếp hơn nữa!”
 
 
 
 
“Khi tôi và Lương quay lại doanh trại, hai chúng tôi kinh ngạc phát hiện: trong doanh trại trống trơn không một bóng người!”
“Cái gì? Không... không thể như thế được!” Shelepin cũng trợn tròn mắt lên.
“Đúng vậy, trong doanh trại không có một bóng người, nhưng lạc đà, và cả các trang thiết bị mà đội khảo sát mang theo, thậm chí hầu hết đồ dùng cá nhân của mọi người cũng vẫn còn, chỉ có một số ít đồ đạc cá nhân của mọi người là có dấu hiệu bị xáo trộn vội vã, tất cả mọi thứ đều giống như mọi người vừa mới bỏ đi. Âm thanh khủng khiếp ban nãy vọng tới doanh trại cũng biến mất. Đúng lúc tôi và Lương vô cùng hoảng hốt, không biết phải làm thế nào thì âm thanh đó lại vang lên, mỗi lúc một to, càng lúc càng gần. Tôi không thể hiểu được cảm giác của mình lúc đó, cũng không thể nói rõ âm thanh khủng khiếp đó, chỉ thấy cuồng phong ào tới, hất tung những đồi cát khổng lồ, thậm chí còn nhổ cả rễ của những cây hồ dương lên. Tôi và Lương nằm ra đất, bò lên phía trước, sống chết cố thoát ra khỏi doanh trại, quay đầu lại nhìn, một luồng khói đen cuộn theo cát vàng xộc thẳng vào doanh trại, rồi lại lao vào chúng tôi. Và âm thanh đó cũng càng lúc càng khủng khiếp, giống như... giống như có vô số người đang kêu khóc...”
“Đó là gì? Bão cát ư?”
“Không! Là ma quỷ, ma quỷ đáng sợ! Lương giương súng lên, bắn về phía đám khói đen đó, tôi cũng bắn về phía đám khói đen đó, nhưng chúng tôi bắn hết số đạn trong băng đạn cũng không giải quyết được việc gì. Chúng tôi tuyệt vọng đến cùng cực. Trong đầu óc tôi lúc đấy chỉ có một ý nghĩ, đó là chạy!”
“Vậy là, anh men theo biên giới phía đông chạy mấy chục cây số, cho tới tận khi ngất xỉu.”
“Cái gì? Tôi đã chạy mấy chục cây số! Không! Lúc đó tôi cơ bản không biết phương hướng, cũng không biết chạy bao lâu, chỉ là bản năng sinh tồn đã khiến tôi cứ thế chạy, không ngờ, tôi... hóa ra đã chạy mấy chục cây số.”
“Đúng vậy, khi chúng tôi tìm thấy anh, bác sỹ đều cho rằng anh không thể cứu được nữa, nhưng anh vẫn kiên cường sống và tỉnh lại.”
“Xin hãy nói cho tôi biết: Katya, Lương, chiến hữu của tôi, và cả những người trong đội thám hiểm khoa học hiện giờ thế nào rồi?” Makarov nóng lòng đứng hẳn dậy.
Shelepin tiếc nuối ngửa hai tay lên: “Rất không may, theo như tình hình mà hiện nay chúng tôi nắm bắt được, đội thám hiểm khoa học - trừ anh và Lương ra thì những người khác đều mất tích rồi, chắc là họ đều đã gặp nạn, chúng ta đã mất đi rất nhiều đồng chí ưu tú, bao gồm cả chiến hữu của anh…”
“Không!... Sao lại như vậy được, ma quỷ đáng sợ đó, ma quỷ đã nuốt chửng hết mọi thứ!” Makarov thất thần hét lên. Tiếng hét của anh đã kinh động cả cảnh vệ ngoài cửa, hai cảnh vệ xông vào văn phòng, nhìn anh bằng ánh mắt kỳ lạ. Shelepin hất hất tay về phía cảnh vệ, cảnh vệ lui ra khỏi văn phòng.
Đợi Makarov bình tĩnh trở lại, Shelepin ôn tồn nói: “Tiếp theo chúng ta sẽ nói chuyện về anh nhé, tiền đồ và số phận của anh.”
“Tiền đồ và số phận của tôi?”
“Ừm! Ivan Petrovich Makarov, chắc anh đã biết rồi đấy, rất nhiều người bên ngoài trách cứ KGB chúng tôi, tôi không muốn hoàn toàn phủ nhận, bởi vì quả thực có rất nhiều là sự thật. Với cá nhân tôi, tôi không muốn quyết định tiền đồ và số phận của một người nào đấy, nhưng, anh, rất không may, vì lần hành động Hắc Thành này, nên tôi không thể không quyết định tiền đồ và số phận của anh. Mong anh đừng trách tôi, đây đều là vì quốc gia. Đương nhiên, anh không phải là hoàn toàn không có quyền lựa chọn, tôi sẽ chỉ ra cho anh hai con đường để anh lựa chọn.” Ánh mắt Shelepin lóe lên tia nhìn ớn lạnh, dồn người ta vào chân tường.
“Hai con đường? Không! Tôi chỉ muốn quay lại quân đội trước đây mà thôi.”
Shelepin lắc lắc đầu: “Quay lại quân đội trước đây, điều này không thực tế, anh bây giờ chỉ có hai lựa chọn. Một, chúng tôi phải hạn chế sự tự do cá nhân của anh, ví dụ như sẽ đưa anh vào nhà tù hoặc một bệnh viện nào đó.”
“Tại sao? Tôi đã phạm tội gì?” Makarov tuyệt vọng kêu lên, anh dường như lại cảm nhận được sự tuyệt vọng vào cái đêm khủng khiếp đó. Anh nhìn vào mắt Shelepin, rồi nghe Shelepin tiếp tục nói: “Anh không cần phải căng thẳng vậy đâu, nghe xong điều tiếp theo, rồi hãy lựa chọn. Hai, anh gia nhập vào tổ chức của chúng tôi.”
“Cái gì? Gia nhập KGB!” Makarov từ trước đến nay chưa từng nghĩ rằng một ngày nào đó mình lại trở thành thành viên của KGB, sự lựa chọn thứ nhất là mất đi tự do, gia nhập KGB thì sẽ có tự do không? Anh không biết, đầu óc anh chìm trong mớ hỗn loạn.
 
 
 
 
“Lẽ nào không có sự lựa chọn thứ ba sao?” Makarov trầm ngâm hồi lâu rồi hỏi.
Shelepin lắc lắc đầu, đáp: “Đây không phải là quyết định của cá nhân tôi, mà là của Ủy ban An ninh Quốc gia họp thảo luận, tập thể thông qua.” Vẻ mặt Makarov vô cùng kinh ngạc. Shelepin lại nói tiếp: “Nhưng, bản thân tôi rất hy vọng anh có thể gia nhập vào tổ chức của chúng tôi.”
“Tại sao?”
Shelepin lật một bộ hồ sơ dày cộm trên bàn làm việc: “Chúng tôi đã tìm hiểu rất kĩ tình hình của anh, tôi cho rằng anh hoàn toàn có được những tố chất của một đặc công xuất sắc, đã từng phục vụ trong bộ đội trinh sát, bản lĩnh tốt, phản ứng nhanh nhạy, dũng cảm, có tinh thần trách nhiệm, tính cảnh giác cao độ. Càng quan trọng hơn ở chỗ, anh thành thật, đáng tin cậy, phục tùng mệnh lệnh, những việc không nên hỏi sẽ không hỏi, những chuyện không nên nói sẽ không nói, điều này rất tốt! Dĩ nhiên, đây chỉ là quan điểm của cá nhân tôi về anh, nhiều người lại không nghĩ như vậy...” Shelepin nói tới đây thì dừng lại.
Makarov không hiểu nên hỏi: “Những người đó nghĩ thế nào về tôi?”
Shelepin nhìn Makarov hồi lâu, đứng dậy bước tới bên cửa sổ, nhìn mái vòm hình củ hành tây trên nhà thờ lớn Vasily, đáp: “Trong ủy ban an ninh quốc gia, có một số người nghi ngờ: vì sao anh lại có thể may mắn sống sót như vậy. Họ cho rằng tai nạn của đội thám hiểm khoa học là do bị thế lực thù địch nước ngoài hãm hại, nếu không thì tại sao một đội thám hiểm khoa học lớn mạnh như vậy lại bị mất tích một cách bí ẩn và bặt vô âm tín như thế! Còn anh, đồng chí Makarov, đã trở thành đối tượng mà họ nghi ngờ.”
“Nghi ngờ tôi? Nghi ngờ tôi cái gì?” Makarov cố gắng hết sức khống chế cảm xúc của mình.
“Đừng kích động, Ivan Petrovich Makarov, tôi không bao giờ tin sự nghi ngờ đó của họ, tuy tôi vẫn chưa biết được nguyên nhân thất bại của lần hành động này, nhưng tôi tuyệt đối không nghi ngờ sự trung thành của anh với quốc gia.”
Bên ngoài cửa sổ, trời đã chuyển màu, dưới ánh hoàng hôn ngập tràn, mái vòm hình củ hành tây của nhà thờ lớn Vasily tỏa ra những tia sáng kỳ dị lấp lánh. Shelepin quay người lại, nói tiếp: “Anh có một tuần để suy nghĩ. Tuần này, anh viết ra hết toàn bộ quá trình hành động đội thám hiểm ở Hắc Thành mà mình đã tham gia, viết càng cụ thể càng tốt. Sau khi viết xong thì nộp cho tôi, đồng thời nói cho tôi biết sự chọn lựa cuối cùng của anh. Nhưng, tôi nghĩ tôi đã biết được đáp án rồi. Không còn sớm nữa, tôi vẫn còn rất nhiều công vụ phải giải quyết, anh ngồi xe của tôi về quảng trường Lubyanka nhé.”
Trong màn đêm, Makarov ngồi xe của Shelepin, lại lần nữa tiến vào trong tổng bộ KGB số 11 quảng trường Lubyanka. Kể từ đó trở đi, tất cả cuộc sống của anh đều liên quan tới nơi này.
Makarov hồi tưởng đến đây, cảm giác giống như mình đang chui vào một hang động tối đen, càng đi càng sâu, càng đi càng tối, làm thế nào cũng không tìm được lối ra. Ông cũng mệt rồi, trước mắt ông mọi vật dần dần trở nên mờ ảo, ông khe khẽ tựa vào cây, ngủ thiếp đi.
Đường Phong và Hàn Giang nghe xong hồi ức của Makarov, trong lòng bỗng rộng mở thênh thang, tất cả nguồn gốc đầu đuôi câu chuyện đã gần như rõ ràng rồi. Những gì mà Makarov nói, vừa vặn có thể đối chứng với bảy bức thư tuyệt mật của KGB mà họ nắm trong tay.
 
 
 
 
Makarov choàng tỉnh dậy, đã sáng sớm rồi. Ngủ trong lúc thi hành nhiệm vụ, đây là một sai sót không thể tha thứ, là sự sỉ nhục của một lão đặc công! Makarov bất giác nóng bừng mặt, ông hỏi Hàn Giang: “Đêm hôm qua có phải tôi đã ngủ quên không?”
Hàn Giang chưa kịp trả lời Đường Phong đã đáp: “Có gì đâu, dù sao bác cũng cao tuổi rồi.”
“Không! Không! Đây là sai lầm không thể tha thứ.” Makarov vô cùng phiền muộn.
Hàn Giang lườm Đường Phong một cái, sau đó an ủi Makarov: “Thực ra, chẳng sao cả đâu, tôi cũng có lúc mắc sai lầm như vậy!”
“Hàn, cậu không cần phải an ủi tôi nữa, tôi biết tôi mắc sai lầm, nhưng tôi bảo đảm sau này sẽ không mắc lỗi như vậy nữa!” Tính ngang ngạnh của Makarov lại trỗi dậy.
Hàn Giang bó tay lắc đầu, không nói thêm gì nữa. Lúc này, Lương Viện và Hắc Vân cũng đã tỉnh dậy. Hàn Giang nhìn cửa động âm u, rồi lại nhìn khu rừng rậm nguyên sơ bạt ngàn xung quanh, anh biết rằng không thể ở đây lâu, truy binh có thể xuất hiện bất cứ lúc nào, những giây phút nghỉ ngơi hôm qua quả là điều xa xỉ hiếm có.
Năm người đều im lặng, người nào người nấy thu dọn hành lý, không cần phải nhiều lời, mỗi người đều hiểu rõ hoàn cảnh của họ hiện tại và cũng hiểu bước tiếp theo họ sẽ phải làm gì.
Khi nắng sớm xuyên qua những ngọn cây rậm rạp, rọi vào rừng rậm nguyên sơ, mọi người bắt đầu xuất phát. Cả một ngày, ngoài đường núi, vẫn là đường núi, đến lúc hoàng hôn, mọi người rút cuộc cũng đã nhìn thấy một thảo nguyên thênh thang, đây là thảo nguyên giữa mạng lưới sông ngòi dày đặc. Hắc Vân nêu ý kiến nghỉ qua đêm ở ven rừng, hôm sau sẽ tiếp tục lên đường.
Hàn Giang hỏi Hắc Vân: “Đi qua thảo nguyên này mất bao nhiêu thời gian?”
Hắc Vân ngẫm nghĩ một lúc, đáp: “Ít nhất cũng phải nửa ngày.”
“Đường này cô có quen không? Ý tôi là, buổi tối cô có thể dẫn chúng tôi đi đường đêm không?” Hàn Giang lại hỏi.
Hắc Vân giật mình, nhưng lập tức trả lời: “Có thể đi đường đêm, nhưng phải có đèn pin, và tốc độ sẽ rất chậm.”
Hàn Giang kiểm tra qua đèn pin, vẫn còn hai cục pin dự trữ, ít nhất cũng có thể đảm bảo cho một chiếc đèn pin dùng cả đêm. Hàn Giang phân tích hoàn cảnh, quyết định phản đối ý kiến qua đêm tại đây của Hắc Vân, yêu cầu mọi người đi đường đêm, để sáng sớm hôm sau sẽ ra khỏi thảo nguyên này.
Đường Phong cho rằng Hàn Giang như vậy là rất điên rồ, anh kiên quyết không đồng ý. Makarov lại đứng về phía Hàn Giang nên Đường Phong bất lực nói toáng lên: “Điên hết rồi sao!”
Trước khi trời tối, mọi người lại lên đường. Trước lúc khởi hành, Hắc Vân đã đặc biệt dặn dò: “Mọi người nhất định phải cẩn thận, thảo nguyên này có rất nhiều đầm lầy, mọi người phải luôn luôn bám sát theo tôi, để đề phòng có người rơi xuống đầm lầy. Chúng ta phải nắm tay nhau tiến lên phía trước.”
Mọi người chầm chậm đi trong đêm tối, không biết do công lao của Hắc Vân, hay là vì được thần may mắn phù hộ mà họ không hề gặp đầm lầy đáng sợ. Khi mặt trời vượt lên đường chân trời phía đông, họ đã nhìn thấy một dòng sông. Mọi người đang đói khát cùng lao tới bờ sông, quỳ trên bờ, cúi người xuống, tham lam uống lấy uống để nước sông trong vắt. Mọi người uống no nước rồi, tất cả đều nằm bò ra ven bờ sông, chỉ có Đường Phong vẫn quỳ cạnh dòng sông, thẫn thờ nhìn ra xa, đột nhiên, Đường Phong giơ hai tay lên rồi hét vang: “Hoàng Hà! Đây là Hoàng Hà vĩ đại.”
“Hoàng Hà?” Những người khác đều giật mình nhìn Đường Phong.
“Đúng vậy, nếu như phán đoán của tôi chuẩn xác, đây chính là Hoàng Hà, nó là dòng sông mẹ của dân tộc Hán, và cũng là dòng sông mẹ của người Đảng Hạng, là dòng sông mẹ của rất nhiều dân tộc trong lịch sử Trung Quốc, chúng ta đã ra ngoài rồi!” Đường Phong phấn khởi hét lên.
“Cũng có nghĩa là, chúng ta đi men theo sông Hoàng Hà thì sẽ đến huyện thị.” Hàn Giang vẫn giữ được bình tĩnh, điều mà anh nghĩ tới lúc này là - phương hướng.
“Đúng vậy, anh xem!” Ngón tay Đường Phong chỉ ra xa: “Chín khúc Hoàng Hà ở đây là bởi vì tuyết sơn A Ni Mã Khanh quặt một đường cong lớn, đây chính là khúc đầu của Hoàng Hà mà chúng ta thường nói. Ở đây đã từng là con đường bắt buộc mà người Đảng Hạng di chuyển tới phương bắc phải thông qua, chúng ta chỉ cần đi về phía bắc là sẽ có thể đến huyện Mã Khúc.”
“Đi về phía bắc? Giống như người Đảng Hạng trong lịch sử, đây chính là con đường di cư của người Đảng Hạng?” Lương Viện tuy không hiểu lắm những gì Đường Phong nói, nhưng hình như cũng nhìn nhận ra một số điều.
Hắc Vân gật gật đầu, cuối cùng cũng đồng ý với phương hướng mà Đường Phong chỉ. Năm người lại lên đường, lần này họ đi chưa được bao lâu thì đã nhìn thấy một con đường quốc lộ, ven đường có một tấm biển to, mũi tên chỉ về phía bắc, trên mũi tên viết hai chữ Hán - Mã Khúc.