Chương 4
MƯA NGẬP TỔ TRÚ

    
úc đó, độ mười một giờ, Đíchsơn thấy mệt và buồn ngủ. Nhưng chú cẩn thận nằm ngay cạnh cửa tổ mối để có thể biết ngay những bất trắc xảy ra từ bên ngoài mà kịp thời đối phó. Thế rồi Đíchsơn thiếp đi. Không biết giấc ngủ đó dài được bao lâu. Chợt nghe vai mình thấm lạnh, chú choàng dậy, thấy nước đang tràn vào cửa tổ. Nước ùa vào nhanh quá, chỉ trong vài giây đã lên tới tầng của Tôm và Ecquyn đang nằm. Đíchsơn đánh thức hai người dậy và cho biết nước đang tràn vào. Già Tôm thắp đèn soi. Mực nước lên cao tới một thước rưỡi rồi đứng. Bà Uynxton nằm ở tầng trên nghe thấy dọn dẹp lục đục liền hỏi Đíchsơn.
- Gì thế, con?
Đíchsơn đáp:
- Không có gì cả ạ. Nền tổ bị nước chảy vào một ít. Mưa to nên nước sông gần đây tràn qua bờ vào cánh đồng.
Ecquyn nói:
- Như vậy càng hay, vì ta biết rõ gần đây có sông con!
Đíchsơn nói:
- Phải đấy, sông sẽ đưa chúng ta ra bờ biển.
Đíchsơn bảo mấy người da đen xếp khí giới và thực phẩm lên điểm cao.
Già Tôm hỏi:
- Nước do cửa rò vào đây à?
Đíchsơn đáp:
- Phải. Vì thế không khí trong lò không có lối thay đổi nữa.
- Vậy ta mở một lỗ ở thành trên mực nước cho thoáng hơn?
- Có thể được… nhưng nếu trong lò mực nước là hai thước thì ở ngoài mực nước có thể cao hơn, khoảng hai thước rưỡi, ba thước, không biết chừng.
- Sao gì biết được?
- Tôi đoán rằng khi tràn vào lò, nước đã dồn ép không khí lên phía đỉnh lò một ít, bây giờ không khí đó chắn không cho nước lên cao hơn nữa. Nay nếu ta chọc thủng một lỗ, không khí bị nén trong này sẽ phì ra, như vậy nước trong lò sẽ lên cao bằng mực nước bên ngoài, hoặc nước lại dồn ép chỗ không khí còn lại cho đến mức mà không khí bên trong đủ sức cản lại. Chúng ta ở trong lò này chẳng khác gì những người thợ lặn ngồi trong “chuông lặn” của họ.
Bên ngoài mưa gió, sấm sét vẫn còn ì ầm không dứt. Già Tôm nhìn mực nước trong lò và nói:
- Hình như nước cứ lên dần dần.
- Phải. Mặc dù không khí trong này không thoát ra được, khối nước bên ngoài quá lớn có thể ép thêm không khí mà lấn dần lên. Bây giờ điều cần nhất là ta phải biết nước bên ngoài có bao phủ cả cái tổ mối này hay không. Ta có thể chọc một cái lỗ ở đỉnh lò là biết ngay. Nhưng việc làm đó rất nguy hiểm vì nếu nước đã trùm cả cái tổ mối này thì nó sẽ chảy vào đầy lò, chúng ta sẽ chết đuối hết> Dù sao, ta cũng có thể dò từng đoạn một…
Già Tôm nói:
- Chúng ta hãy làm luôn xem thế nào?
Lúc này tình hình thật nguy ngập: nước cứ từ từ lên, không lẽ chịu bó tay? Hơn nữa mọi người đã thấy mệt vì trong tổ quá nhiều thán khí. Đíchsơn liền dùng cái que sắt nhọn vẫn để lau nòng súng, khoan một lỗ nhỏ ở thành lò. Không khí xì ra ngoài, đồng thời mực nước bên trong lên tới lỗ khoan thì đứng. Như vậy lỗ khoan thấp quá, thấp hơn mức nước bên ngoài, Đíchsơn liền lấy đất sét vít luôn lỗ khoan lại. Khoảng trống trong lò lại bị giảm đi hơn hai mươi phân. Mọi người khó thở vì dưỡng khí bắt đầu thiếu. Ngọn đèn đỏ và kém sáng hẳn. Đíchsơn lại khoan lỗ thứ hai co hơn một chút, không khí trong lò lại phì ra như tiếng sáo, tức thì nước đùn lên hơn ba mươi phân nữa. Lỗ khoan thứ hai chưa gặp khoảng bên ngoài. Đíchsơn nói:
- Toàn bộ lò này ở cả dưới nước rồi chăng?
- Muốn biết rõ hãy khoan lỗ thứ ba ngay chỗ đỉnh lò.
Nhưng cả đoàn sẽ bị ngạt, sẽ chết hết nếu lần thí nghiệm cuối cùng này không đem lại kết quả mong muốn. Bao nhiêu không khí còn lại bên trong sẽ bị phụt hết lên lớp nước trên và lớp nước bên dưới sẽ chiếm đầy lò. Trong khi đó, đèn tắt vì thiếu dưỡng khí, trong lò tối đen như mực. Đíchsơn liền trèo lên vai Ecquyn đang đứng bấm vào một tầng lò và chỉ có cái đầu nhô lên khỏi mực nước.
Đ&iacmệt quá vẫn không chợp mắt được, tôi  nghĩ lan man nhiều điều. Chợt tôi nghe như có tiếng sột soạt trong bụi cỏ cao. Ác thú chăng? Chúng cả gan dám vào trại à? Tôi lắng nghe mà không thấy gì. Nhưng rõ ràng có tiếng sột soạt lướt trong bụi lau. Tôi không có súng, nhưng tôi quyết chống cự lại.
 “Trời không có trăng, tôi nhìn sâu vào trong bóng tối. Có hai con mắt lóe ra sau hàng cây chỉ thảo. mắt chó sói hay mắt heo? Nó biến mất… Rồi lại hiện ra… Chợt có tiếng cỏ rào rào: một con vật nhảy vọt vào chỗ tôi. Tôi chực kêu lên. May sao tôi lại thôi. Tôi không tin mắt tôi nữa. Kìa, con Đinhgô! Nó đến được đây à? Nó đi bằng cách nào? Làm sao mà nó có thể tìm được tôi? Có lẽ đó là do bản năng. Bản năng có đủ để chứng minh lòng trung thành phi thường của nó không? Nó liếm tay tôi. Thực là quí hóa. Nó là bạn độc nhất của tôi trong lúc này! Thế là bọn chúng chưa thù tiêu được nó à? Tôi vuốt ve nó, nó hiểu. Nó chực sủa lên… Tôi vội bịt lấy miệng nó, sợ lộ chuyện. Nhưng mà sao nó cứ cọ cổ nó vào tay tôi? Nó muốn bảo tôi “Tìm đi”? Tôi tìm và thấy một vật gì buộc vào cổ nó. Đó là một ống sậy cột chặt vào vòng cổ nó vẫn có hai mẫu tự S-V mà tôi chưa tìm ra lý do. Tôi liền gỡ ống sậy và bẻ ra, trong có một mẩu giấy. nhưng mẩu giấy này, tôi không sao đọc được. Phải đợi đến sáng… Tôi muốn giữ Đinhgô, nhưng con vật có nghĩa kia vừa liếm tay tôi vừa muốn tháo lui. Tôi hiểu nhiệm vụ của nó đã hoàn thành. Thoắt một cái, nó biến mất trong đám cỏ rậm. Chắc hẳn nó lại trở về với người đã sai nó đem giấy cho tôi. Mảnh giấy đó tôi vẫn chưa đọc được. Nóng ruột quá! Ai đã viết giấy cho tôi? Bà Uynxton hay Ecquyn? Làm sao con Đinhgô lại gặp được một trong hai người ấy?
“Trời lâu sáng quá! Nhưng rồi cũng phải sáng. Trời sáng rõ ngay vì ngày ở miền xích đạo hình như không có bình minh. Tôi lừa lúc bọn nó không chú ý đến bèn mở giấy ra đọc> Đó là thư của Ecquyn, viết bằng bút chì:
Bà Uynxton và Giắc đã được đưa đi bằng cáng. Ali và Nego đi cùng Binđác. Họ đi trước đoàn tù nhân ba bốn bộ đường. Tôi không bao cho bà Uynxton được. Tôi đã tìm được Địnhgô, nó bị thương nhưng đã khỏi. cậu Đíchsơn ơi, vững lòng hy vọng! Tôi luôn luôn nghĩ đến cậu và mọi người. Tôi trốn đi mong giúp ích cho mọi người. ECQUYN”.
“A, bà Uynxton và em Giắc còn sống! Bà và bé Giắc không phải chịu gian khổ ở dọc đường như chúng tôi. Cái cáng ở đây tức là một thứ giường làm bằng cỏ khô treo vào một cái đòn, trên phủ vải, do hai người phu khiêng đi. Bà và Giắc được nằm trong đó không phải lội bùn. Ali và Nego định làm gì bà, Giắc và Binđác? Hay chúng đưa bà đi Cadôngđê? Được rồi! Thế nào ta cũng được gặp bà. Trong những cái khổ, tin này quả là một tin hay.
“Từ 11 đến 15 tháng năm – Đoàn người tiếp tục đi. Tù nhân ngày càng lê bước khó nhọc. Phần đông để lại những vết máu theo bước đi. Tính tra còn mười ngày nữa mới tới Cadôngđê. Từ đây đến đó sẽ còn bao nhiêu người thoát khỏi sự đau khổ? Nhưng tôi, tôi phải đến nơi, tôi sẽ đến.
“Đoàn người đi bỏ lại những xác chết rải rác trên đường.
“Từ 16 đến 24 tháng năm – Tôi đã kiệt lực lắm rồi. Nhưng tôi không có quyền chán nản, yếu mềm. Tuần mưa đã dứt. Người ta tổ chức những “độ đường cứng rắn”, nghĩa là không nghỉ trưa và phải đi rảo bước, mặc dầu đường lên dốc khá cao, xuyên qua những bụi cỏ “nát si” lá sắc quật rách mặt, hạt nhọn bắn vào người là nhức thịt da. May sao giày tôi còn tốt nên đỡ rách chân.
Hôm nay hơn hai mươi người ốm yếu không thể đi được nữa. Những tên cai lấy búa đập cho mỗi người một nhát. Tên chỉ huy Ả Rập trông thấy thế cũng không nói gì. Tội nghiệp cho u già Năng cũng bị chugn số phận với hai mươi người kia. Tôi oán hận không sao đắp cho u già một nắm đất! Đó là người thứ nhất trong số những người sống sót của thuyền Hải âu đã chết.
“Đêm nào tôi cũng ngóng Đinhgô. Nó không trở lại nữa. Hay nó gặp nạn? Ecquyn bị rủi ro? Không! Không! Tôi không tin điều đó. Sở dĩ nó không trở lại đây có lẽ vì Ecquyn không có tin gì mới để báo cho tôi. Hơn nữa, chắc Ecquyn cũng phải thận trọng và coi chừng.